Ẩn ý Truyện Tây Du

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 1 * Con đường hàng phục Tâm ma .

Mở đầu Tây Du Ký, tác giả Ngô Thừa Ân viết: “Dục trị tạo hóa hội nguyên công, tu khán Tây Du thích ách truyện”, ý nói rằng: Muốn biết công của tạo hóa ra sao, muốn hiểu được ý nghĩa của đời người thế nào, vậy cần phải hiểu Tây Du Ký.

Bề mặt là câu chuyện trừ yêu diệt quái, nhưng thật ra nội hàm chân chính của Tây Du Ký là con đường hàng phục ma tính của một người tu hành. Thông qua câu chuyện thần thoại sang Tây Thiên thỉnh kinh, tác giả đã dẫn dắt chúng ta cách khắc phục nội tâm trên con đường nhân sinh, hàng phục tâm ma, cuối cùng lấy được Chân Kinh, thành tựu đời người.



(Bài sưu tầm Từ: )
https://miro.medium.com/max/700/1*Xosci0s1lz91E1_bKsgMtA.png

* Giải mã truyện Tây Du (Lê Anh Dũng) rằng:

Văn dĩ tải Đạo. Truyện Tây du mượn chuyện thỉnh kinh, đấu phép, bắt yêu để chở chuyên đạo lý giải thoát của thánh hiền, tiên phật. Nói ngay như vậy là để lập tức xác định rằng siêu vượt lên cốt truyện đầy những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn, truyện Tây du vốn hàm chứa nhiều ý nghĩa thâm thúy về đạo pháp.

Với một căn bản về Phật học và Lão học, nhất là Thiền học, khi đã gẫm suy, xét kỹ truyện Tây du, người đọc sẽ có dịp khám phá ra mật ngữ hình nhi thượng (esoteric) được che giấu tài tình, nằm ẩn khuất khéo léo sau những chương hồi gay cấn, tưởng chừng như chỉ nhằm thỏa mãn thị hiếu giải trí của đại chúng mà thôi.

Thật vậy, với người đọc truyện Tây du giữa hai hàng chữ, kỳ thư này sẽ dẫn dắt đi vào huyền nghĩa ẩn áo của đạo học phương Đông. Nói cách khác, Tây du ký của Ngô Thừa Ân cần được một lần khơi mở, để thử khám phá.

Thoạt đầu, căn cứ theo bộ tiểu thuyết mười tập của các dịch giả Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh (Nxb Văn học Hà Nội, in từ năm 1982 đến năm 1988), Giải mã truyện Tây du hình thành và được đăng dần trên tập san Văn hóa & Đời sống từ tháng 9-1991 đến tháng 4-1992, tổng cộng gồm chín bài:

1. Đường Tăng! Anh là ai?
2. Trăng sao cửa động đá đầu non
3. Ngọn gió trong lò
4. Núi cao chi mấy núi ơi!
5. Vạn năm chờ quả chín
6. Bốn biển không yên cơn lửa trẻ
7. Sáu bảy mười ba
8. Nẻo về bên ấy
9. Nỗi lòng giấy trắng


Khi Giải mã truyện Tây du xuất bản lần thứ Nhất (1993, 144 tr.), trong Phụ lục, sách được bổ sung ba bài:

1. Tâm lập
2. Hư thực đôi điều
3. Trường xuân Chân nhân Tây du ký


Không kể các bài điểm sách được in lại trong Dư âm Giải mã truyện Tây du, đến bản in lần thứ Nhì (Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 1995, 228 tr.), sách có thêm hai phụ lục khác:

1. Tây du ký có bài Lão tôn Phật không?
2. Nói chuyện Trư Bát giới


Trong bản in lần thứ Ba này, ngoài một ít sửa chữa nhỏ, nội dung sách còn tiếp tục được bổ sung như sau:

– Bài Nỗi lòng giấy trắng bổ sung lời giải huyền nghĩa vì sao ở chùa Lôi âm, khi đòi Đường tăng dâng lễ vật hai vị tôn giả A nan và Ca diếp lại bảo: “Tay trắng trao kinh truyền đời người sau đến chết đói mất.”

– Phần Phụ lục bổ sung thêm hai bài:

1. Đường tăng thỉnh kinh: Hư cấu và lịch sử.
2. Hầu vương trong Tây du ký được hư cấu như thế nào?


Người viết mong rằng những phần mới hiệu đính và tăng bổ trong bản in kỳ này sẽ có thể mang đến cho những người hâm mộ truyện Tây du niềm vui được thưởng thức và khám phá một danh tác bất hủ đời Minh, đã trải qua hơn bốn trăm năm tuổi.

Trân trọng,

Phú Nhuận, 18 tháng 4 năm 2000
LÊ ANH DŨNG

Kính các Bạn. với bài viết này VQ sưu tầm kiến giải của các nhà văn ở Thế gian.- mục đích để giới thiệu các án văn hay (có liên quan đến PG tư tưởng) hầu giúp các Bạn thư giản khi tầm đến Học thuật PG.

Mến.
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 2* Ngũ vị nhất thể

Bạn đọc theo dõi loạt bài Giải mã Tây du ký đều biết, hành trình đi thỉnh kinh của Đường Tăng và bốn đồ đệ (tính cả Bạch Long Mã) thực ra chỉ là quá trình tu luyện của một người: “ngũ vị nhất thể”. Trong đó, Đường Tăng là thân thể, cũng là chủ nguyên thần của người tu luyện, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho cái tâm, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Người xưa thường nói “tâm viên ý mã” (tâm vượn ý ngựa) là như thế. Đường Tăng thu phục được Ngộ Không, Bạch Long Mã, Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” – đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành, kiên định tu luyện. Nên hồi cuối cùng của tác phẩm “Về thẳng phương đông, Năm Thánh thành Phật” mới có thơ rằng:

“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.


Như vậy, việc Đường Tăng khi lâm nạn nhớ đến các đồ đệ của mình, một tầng hàm nghĩa chính là người tu luyện trong ma nạn có thể thanh tỉnh, giữ chính niệm nhắc nhở bản thân mình là người tu luyện, giữ vững tâm tính, một lòng một dạ kiên định ý chí tu luyện. Chỉ có như thế thì mới có thể không bị giả tướng thế gian mê hoặc, mới nhận được sự bảo hộ gia trì của Thần Phật.

Kỳ thực, sự kiện Đường Tăng sa vào tay yêu quái là biểu hiện tại không gian khác của một người tu luyện do buông thả bản thân mà xa rời chính đạo. Tu luyện yêu cầu thời thời khắc khắc giữ gìn tâm tính, diệt trừ mọi ý niệm không phù hợp với Pháp. Tây du ký có thơ rằng:

Tu thiền nhất định tốn công phu,
Ý mã tâm viên thảy diệt trừ.
Buộc chặt giữ bền sinh ngũ sắc,
Lỏng lơi dừng lại rớt tam đồ.

“Tam đồ”
bị rớt, thì cần triệu hồi, ấy là con đường để quay về chính đạo vậy.

(Sưu tầm)

* Ẩn ý Ngũ Vị Nhất Thể.

Trong Tây Du Ký, năm vị gồm bốn thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, thật ra chỉ là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn ý tứ đó, trong đó bốn câu mở đầu là:

“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.


Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người.

Thực ra, tác giả đã nói rõ điều này trong những chương hồi đầu tiên của tác phẩm. Tôn Ngộ Không khi tầm sư học đạo trở thành đệ tử của Bồ Đề Tổ Sư trên núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Ở đây, Tà Nguyệt Tam Tinh (trăng khuyết và ba vì sao) chính là chữ “Tâm” (心). “Tà Nguyệt” chẳng phải chính là một nét móc đó sao? Ba ngôi sao chẳng phải chính là chỉ ba nét chấm đó sao? Vậy nên, Tôn Ngộ Không là thể hiện cho chữ Tâm của người tu hành.

Người Trung Hoa có câu: “Tâm viên ý mã” (tâm con vượn, ý con ngựa), nghĩa là tâm trí con người ta thường xáo động và dễ mất kiểm soát. Cũng bởi vì tâm người luôn bay nhảy tự do như vậy, nên tư tưởng con người có thể qua lại giữa thiên đường và địa ngục, có thể dao động giữa thiện và ác. Vì vậy, về sau này Quan Âm Bồ Tát đã phải tặng cho Đường Tăng chiếc vòng kim cô và bài “Khẩn cô nhi chú” để khắc chế cái tâm này.

Trong Kinh Lăng Nghiêm còn viết rằng: “Tâm có 72 tướng”, tương ứng với 72 phép biến hóa của Ngộ Không. Cái tâm của người đời rất giỏi biến hóa, chỉ trong chốc lát có thể biến ra các loại tâm thái khác nhau.

Luyện tâm có thể khiến lòng người sáng sủa, trí huệ sáng suốt, vậy nên lò Bát Quái không thể thiêu chết mà trái lại còn khiến Tôn Ngộ Không luyện thành hỏa nhãn kim tinh. Mắt của Ngộ Không sáng tỏ là tượng trưng cho trí huệ sáng rực như vàng kim.

Bên cạnh đó, chiếc gậy Như Ý và Cân Đẩu Vân của Ngộ Không cũng ẩn chứa những hàm nghĩa sâu sắc.

Gậy Như Ý nặng 1 vạn 3 nghìn 5 trăm cân, giống với những điều được viết trong Hoàng Đế Bát Thập Nhất Nan Kinh: “Cả ngày lẫn đêm, con người ta thở 1 vạn 3 nghìn 5 trăm nhịp”. Vậy nên, gậy Như Ý là tượng trưng cho khí.

Trên đời này, thứ gì có thể “trên thì lên đến 33 tầng trời, dưới thì xuống tới 18 tầng địa ngục; lớn thì có thể thông thấu khắp trời, nhỏ thì như cái kim thêu”? Chính là khí độ của con người.

Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không lộn nhào một cái là đi được 10 vạn 8 nghìn dặm, nhưng lại không thể nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Phật Như Lai. Đó là nói, con người dẫu làm gì thì cũng không thể thoát khỏi bàn tay của Phật Tổ.

Cân Đẩu Vân của Ngộ Không có thể bay 10 vạn 8 nghìn dặm, vừa khéo lại là khoảng cách từ đông thổ Đại Đường đến Linh Sơn, điều này có ngụ ý gì? Đó chính là: Linh Sơn dù có xa hơn nữa thì cũng chỉ một niệm của tâm là có thể đến nơi. Thiện ác chỉ cách nhau một niệm, một niệm có thể thành Phật, nhưng một niệm cũng có thể biến thành tà ma.

Tôn Ngộ Không bị giam dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm, tượng trưng cho cái tâm lên trời xuống đất của con người bị Kim — Mộc — Thủy — Hỏa — Thổ trong thế giới trần tục đè chặt.

Núi Ngũ Hành cũng tượng trưng cho “tham (tham lam), sân (giận dữ), si (ngu si), mạn (ngạo mạn), nghi (hoài nghi)trong Phật học. Phật Tổ nói rằng, 5 chữ ấy đã khái quát mọi tâm niệm thân hành của con người. Dù Ngộ Không có thần thông quảng đại đến đâu, vẫn không nhảy ra khỏi 5 chữ này. Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, cũng chính là bị ngũ độc này vây khốn.

Về sau, khi thầy trò Đường Tăng đến Hoả Diệm Sơn, núi Ngũ Hành đã trở thành Lưỡng Giới Sơn (ngọn núi giữa hai ranh giới). Đi qua ngọn núi này, cái tâm từng xáo động không yên đó cuối cùng cũng có thể nhảy ra khỏi Tam Giới.

Bạch Long Mã là ý chí lực. Ý chí của con người giống như ngựa hoang, chỉ khi xác định được mục tiêu tiến tới, mới có thể chuyên tâm chuyên ý mà lấy được Chân Kinh.

Ngộ Không thu phục Tiểu Bạch Long, cũng chính là cái Tâm đã thu phục được Ý, đạt đến tâm ý hợp nhất. Chỉ cần tâm ý hợp nhất, chí hướng kiên định thì không có Tây Thiên nào là không đến được.

Về sau, Ngộ Không và Đường Tăng lại thu phục được Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” — đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành.

Tóm lại, thầy trò Đường Tăng diệt trừ yêu quái trên suốt chặng đường sang Tây Thiên, thật ra chính là người tu hành đang trừ bỏ ma tính trên con đường nhân thế, do đó lấy kinh cũng chính là một quá trình dưỡng tính tu tâm. Linh Sơn thật sự, chính là ở trong tâm người.

(Sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 3 * Linh Sơn là ở trong tâm người.

Trong hồi thứ 19, khi thầy trò Đường Tăng vừa mới bước trên con đường lấy kinh, Ô Sào thiền sư đã truyền thụ cho Đường Tăng một bộ “Đa Tâm Kinh”. Nhưng Đường Tăng vẫn không hiểu ý, cuối cùng mãi đến hồi 85, Ngộ Không phải nhắc nhở Đường Tăng rằng:

“Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp,
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.”


Tạm dịch

Phật ở Linh Sơn khỏi phải cầu,
Linh Sơn trước mắt lại tìm đâu!
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp,
Tu ở Linh Sơn đạo rất mầu.


Bởi cần phải tu tâm để trừ dứt ma tính thì mới có thể đánh thức chính mình, mới có thể lĩnh ngộ được Phật Pháp. Do đó, đến lúc này Đường Tăng đã đáp lại rằng: “Đồ đệ ạ, ta há không biết sao? Nếu theo bốn câu ấy, dù thiên kinh vạn quyển cũng chỉ là tu tâm”.

(Sưu tầm)

5. Khắc phục ma tính của tự thân mới có thể thấy được Linh Sơn

Cuối cùng, Tôn Ngộ Không (Tâm) được phong làm Đấu Chiến Thắng Phật — cho dù chúng ta bắt tay vào việc gì, chỉ cần có thể ước thúc nội tâm của tự thân thì mới đạt được thành công.

Đường Tăng (Thân thể) được phong là Chiên Đàn Công Đức Phật — làm người cần phải thân tâm hợp nhất, mới có thể lấy được Chân Kinh.

Trư Bát Giới (Tình cảm dục vọng) được phong làm Tịnh Đàn Sứ Giả — dục vọng không trừ bỏ được, vậy nên cuối cùng chỉ được phong làm sứ giả.

Sa hòa thượng (Bản tính) được phong làm Kim Thân La Hán — cũng là nói, bản tính trân quý giống như vàng ròng vậy.

Bạch Long mã (Ý chí) được phong làm Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp — cần phải thời thời khắc khắc bảo vệ ý niệm của mình, vậy nên được phong làm Hộ pháp.

Sau cùng Phật Tổ cho nhóm thầy trò kinh không chữ, chính là vì kinh không chữ mới là Chân Kinh.

“Kinh” trong vô tự kinh, là ý chỉ những việc đã trải qua. Những việc trải qua trên suốt chặng đường này mới là “Kinh” chân chính, vượt xa những văn tự nơi thế gian con người. Một người, sau khi trải qua hết thảy mọi việc nơi thế gian, mới có thể giữ được chân tâm, dù chưa đến Tây Thiên thì trong lòng sớm đã thành Phật rồi.

Nội hàm của Tây Du Ký vô cùng uyên thâm. Cùng là một người nhưng đọc vào những lúc khác nhau thì thể hội cũng khác nhau. Ví như khi đọc vào thời niên thiếu và khi đọc vào thời trai trẻ đều có những thể hội hoàn toàn khác nhau. Hơn 20 năm sau đọc lại, lại có thể hội mới.

Một bộ thiên thư bác đại tinh thâm như thế, cả đời người dẫu dày công nghiên cứu cũng khó có thể hiểu cho tỏ tường. Vậy nên, có cả trăm ngàn người lần giở Tây Du Ký, thì những người thật sự đọc hiểu lại chẳng có mấy ai…

Theo BANNEDBOOK

(Sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Quá trình sang Tây Thiên chính là quá trình trừ bỏ ma tính

Đoạn 4 + Trừ Lục Tặc- diệt Thất Tình. sáu bảy mười ba.



Tôn Ngộ Không vừa mới phò trợ Đường Tăng đã đánh chết 6 cường đạo. Trong nguyên tác, tên của 6 cường đạo này lần lượt là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) — đây chính là lục căn.

Tôn Ngộ Không đánh chết lục căn, cho thấy lục căn phải thanh tịnh thì mới có thể lên đường lấy Chân Kinh.

Trong suốt hành trình sang Tây Thiên, trước khi Ngộ Không đi xin cơm chay thường vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất, đây chính là giới hạn mà Tâm đặt cho con người, nhưng thân thể của con người (Đường Tăng) lại thường hay bị dục vọng (Trư Bát Giới) dẫn dụ mà xa rời giới hạn ấy.

Vậy là bốn thầy trò dễ dàng rời khỏi giới hạn mà Ngộ Không đặt ra, và khi bước ra khỏi giới hạn ấy họ liền gặp phải các loại yêu ma.

Ngộ Không mở đường dẫn dắt bốn thầy trò tiến về phía trước, trên đường lại không ngừng diệt trừ yêu quái, ý nói rằng Tâm đang hàng phục ma tính.

Mỗi một yêu quái trên đường sang Tây Thiên đều có ngụ ý sâu xa. Hết thảy yêu quái đều là một ẩn dụ, thảy đều là huyễn hóa của ma tính. Mỗi một yêu quái là đại biểu cho Danh — Lợi — Tình nơi thế gian đang trói buộc con người, hết thảy đều xuất phát từ ma tính của bản thân một người.

Ví dụ, Hắc Hùng Tinh xuất hiện trong hồi thứ 16 là do sân niệm của Ngộ Không xui khiến. Hắc Hùng Tinh nổi lửa thiêu hủy thiền viện Quan Âm, cũng chính là ma tính đang trở ngại người tu đắc chính quả.

Ngưu Ma Vương cũng là do ma tính của Ngộ Không biến hóa. Ban đầu, Ngưu Ma Vương cùng Tôn Ngộ Không kết bái huynh đệ, lực lượng ngang nhau, vậy nên phát hỏa cũng chính là bản thân đang so tài với chính mình.

Hồng Hài Nhi và Hỏa Diệm Sơn đều là ngọn lửa trong tâm. Nguyên nhân Hỏa Diệm Sơn hình thành là do năm xưa khi Tôn Ngộ Không chui ra từ lò Bát Quái, vì để trút cơn giận mà đá một miếng gạch chịu lửa xuống trần. Vì cái tâm không chế ước ngọn lửa của bản thân, nên cuối cùng lại đốt cháy chính mình.

Hồng Hài Nhi tượng trưng cho ngọn lửa thù hận. Hồng Hài Nhi phóng Tam Muội Chân Hỏa thiêu cháy Ngộ Không là ngụ ý rằng, một người luôn sống trong thù hận, thì cuối cùng sẽ chỉ làm tổn thương cái tâm của mình.

Hoàng Phong quái biết thổi Tam Muội Thần Phong, đây là đại biểu cho phong khí của xã hội, phong khí xã hội có thể khiến trái tim con người (Ngộ Không) mê mờ lạc mất phương hướng.

Ba hình tượng biến hoá của Bạch Cốt Tinh lần lượt đại biểu cho Tình — Ái — Dục của một người. Ngộ Không đã đánh chết toàn bộ chúng, nói rõ rằng trên đường đời chúng ta nhất định phải khống chế vững tình, ái, dục của bản thân, chớ để nó trở thành chướng ngại tiến bước của chúng ta.

Ngoài ra, Bạch Cốt Tinh (bộ xương trắng thành tinh) cũng tượng trưng cho thân xác phàm của con người. Thân thể có thể khơi dậy bản năng dục vọng, vậy nên Trư Bát Giới bắt đầu ly gián, khiến con người thất lạc mất nội tâm của mình, vì vậy Đường Tăng đã đuổi Ngộ Không đi.

(sưu tầm)

Sáu bảy mười ba

Trên con đường sang phương Tây thỉnh kinh, thầy trò Đường tăng không chỉ đụng độ yêu tinh ma quái mà còn có khi chạm trán cùng giặc cỏ cướp đường. Mào đầu Hồi thứ 14,Tây du nói:

Viên tâm qui chính,
Lục tặc vô tung.

Nghĩa là:

Lòng vượn theo đường chính,
Sáu giặc mất tăm hơi.

[TDK II 1982: 69]

Qua đến Hồi thứ 72, lại dẫn chuyện rằng:

Bàn ty động thất tinh mê bổn,
Trạc cấu tuyền Bát giới vong hình.

Nghĩa là:

Động Bàn ty bảy tinh mê gốc,
Suối Trạc cấu Bát giới quên hình.

[TDK VIII 1988: 29]

Hai hồi ấy nhắc đến lục tặc và thất tinh. Lục tặc là sáu tên cướp. Thất tinh là bảy đứa yêu tinh. Sáu bảy mười ba. Tuy rằng chuyện trước cách chuyện sau đến những năm mươi tám hồi dài, nhưng trước với sau vẫn chỉ là một chuyện. Ngô Thừa Ân muốn nói tới thập tam ma (mười ba con ma), tức là bè lũ sáu giặc cướp bảy yêu tinh cùng cấu kết với nhau để phá hoại tấm lòng thanh tịnh của con người, làm con người mê mờ đi vào đường quấy, xa lìa chơn lý, xa chánh đạo.

Sáu tên cướp

Tây du kể rằng sau khi nghỉ đêm tại nhà một cụ già họ Trần, Tam tạng và Tề thiên lên đường đi thỉnh kinh. “Thầy trò đi được lúc lâu, bỗng ven đường nghe soạt một tiếng, thấy sáu người xông ra, đứa nào cũng giáo dài, kiếm ngắn, dao sắc, cung cứng, quát vang...”[TDK II 1982: 81]

Tề thiên hỏi lai lịch, bọn cướp tự giới thiệu: “Nhà ngươi không biết, bọn ta nói cho mà nghe: Chúng ta, một người gọi là mắt thấy mừng, một người gọi là tai nghe giận, một người gọi là mũi ngửi thích, một người gọi là lưỡi nếm nghĩ, một người gọi là ý thấy muốn, một người gọi là thân vốn lo.” [TDK II 1982: 82]

Biết chúng là ăn cướp, Tề thiên đòi chia của, thế thì: “Sáu tên cướp nghe nói, thằng mừng thì mừng, thằng giận thì giận, thằng thích thì thích, thằng nghĩ thì nghĩ, thằng muốn thì muốn, thằng lo thì lo, cả lũ xông lên hò hét loạn xị...” [TDK II 1982: 82]

Như vậy sơ yếu lý lịch của lũ cướp đường trắng trợn này đã rõ. Chúng vốn là sáu căn (lục căn) của mỗi người, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý).

Bản lý lịch trích ngang của chúng còn cho thấy tuy năng khiếu sở trường hay “tay nghề chuyên môn” của từng tên rất khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một căn bản chung: đối cảnh sinh lòng.

Sáu căn hàng ngày hàng giờ tiếp cận với ngoại cảnh thì sinh lòng biến đổi theo cảnh. Biến theo cảnh hoài thì tâm điên đảo, giống như nước trong bị vẩn bụi dơ bẩn.

Có sáu thứ bụi trần (lục trần) từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người (lục ngoại nhập) thông qua lục căn, và tương ứng với lục căn là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

1. Nhãn – Sắc: mắt thấy màu sắc, hình dạng vừa lòng thì tham, trái ý thì chê. Mắt gặp sắc tướng sinh ra kiến (thấy).

2. Nhĩ – Thinh: tai nghe âm thanh ngọt ngào thì chê, âm thanh chói tai thì ghét. Tai gặp âm thanh sinh ra văn (nghe).

3. Tỷ – Hương: mũi ngửi mùi thơm tho thì thích thú, hít phải hơi hôi hám thì chẳng ưa. Mũi gặp hương sinh ra khứu (ngửi).

4. Thiệt – Vị: lưỡi nếm vị ngon béo thì khoái, nhấp phải đắng cay thì ớn. Lưỡi gặp vị sinh ra vị (nếm).

5. Thân – Xúc: Thân xác thịt da cọ xát với da thịt hay lụa là êm ái thì mê, chạm phải sần sùi nhám nhúa thì chán. Thân xác do chung đụng mà sinh ra giác (cảm giác).

6. Ý – Pháp: ý gặp tư tưởng (pháp) thì sinh ra phân biệt, chê khen, ưa ghét, tính toán... Ý gặp pháp sinh ra tri (hiểu biết).

Giải thích căn do, duyên cớ của lục tặc, Cao đài cũng cho rằng: “... hễ có lục dục thì có lục trần, mà có lục trần thì mới sanh lục tặc.” [Đại thừa chơn giáo 1950: 356]

Theo Phật, lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho tâm con người đối đãi thị phi theo kiểu nhị nguyên (tương đối). Muốn đạt đạo, tức là thủ đắc được chân lý nhất nguyên (tuyệt đối), thì phải biết đối trị với lục dục là sáu điều ham muốn của con người mà lục thức đã gieo rắc lên mảnh tâm điền của mỗi người.

Thiền Phật, Lão và Cao đài quan niệm sở dĩ sáu tên ăn cướp xông vô nhà được là vì nhà vắng chủ. Hành giả biết làm chủ bản tâm, củng cố địa vị chủ nhà (chủ nhân ông) thì làm sao có nạn lục trần đột nhập để sinh ra lục tặc. Chính vì thế, khi giáp mặt lũ cướp, lập tức Tôn hành giả khẳng định liền vai trò chủ nhân ông của mình: “Ồ, các ngươi là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người xuất gia này là chủ của các ngươi sao mà lại dám chận đường?” [TDK II 1982: 82]
(Trích Giải mã truyện Tây Du- Lê anh Dũng)
Sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 5. * Yêu quái là tượng trưng cho các loại mê hoặc của thế gian

Kim Giác và Ngân Giác


Kim Giác và Ngân Giác vốn là 2 đồng tử coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, trốn xuống trần rồi trở thành yêu quái tại núi Bình Đỉnh, động Liên Hoa. Khi thầy trò Đường Tăng đi ngang qua đây, Kim Giác và Ngân Giác đã dùng sợi dây thừng trói chặt Tôn Ngộ Không, sau lại dùng Tử Kim hồ lô nhốt lấy Tôn Ngộ Không.

Ở đây, từ tên gọi có thể thấy Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương là tượng trưng cho sức mê hoặc của kim tiền, bởi kim tiền có thể trói chặt, phong bế tâm con người, khó mà thoát ra được.

Hoàng Mi Quái

Hoàng Mi Lão Quái giả dạng Phật Tổ ở chùa Tiểu Lôi Âm, đã dùng não bạt vàng nhốt chặt Tôn Ngộ Không. Pháp bảo não bạt vàng này cũng tượng trưng cho tiền bạc, bởi tiền bạc có thể vây hãm cái tâm người ta.

Yêu tinh nhện, rết, và bọ cạp

Bảy con nhện tinh đại biểu cho thất tình lục dục của con người. Thất tình lục dục cũng giống như tấm lưới do nhện giăng lên, có thể trói chặt con người.

Người đời bởi tư niệm sinh tình, bị tơ tình vây khốn. Trên thân của yêu tinh rết có nghìn con mắt, đó chính là tượng trưng cho các loại dục vọng vật chất mà mắt người thấy được.

Bọ cạp tinh đại biểu cho mỹ sắc, mỹ sắc sẽ dẫn dụ người ta giống như con bọ cạp, vậy nên thầy trò Đường Tăng đều không địch nổi nó.

Lục nhĩ mỹ hầu

Mỹ hầu vương thật giả, một Tôn Ngộ Không chân tâm hướng Phật đã đánh bại được một Ngộ Không giả không thật lòng hướng Phật. Đây là hai loại ý chí, hai loại tư tưởng của bản thân trong một người đang tranh đấu với nhau. Đã sinh ta “hai lòng” thì cần phải trừ bỏ hai lòng này; chỉ cần trừ bỏ hai lòng, một lòng một ý, mới có thể đạt được thành công. Vậy nên Tôn Ngộ Không giả bị đánh chết, thầy trò mới có thể tiếp tục lên đường.

Trong sách cũng nói, một nạn này là do ma tính của bốn thầy trò sinh ra: Cái tâm ngông cuồng của Tôn Ngộ Không, cái tâm mê muội không phân thật giả của Đường Tăng, cái tâm đố kỵ của Trư Bát Giới, Sa Tăng, cái tâm ngờ vực lẫn nhau giữa mấy huynh đệ thầy trò…

Quốc trượng nước Tỳ Khưu

Trong hồi thứ 79, Quốc trượng của nước Tỳ Khưu vốn là yêu tinh biến thành. Vì để luyện thuốc trường sinh, yêu tinh đã bắt giữ một nghìn đứa trẻ để mổ bụng lấy tim, sau lại đòi lấy tim của Đường Tăng. Tôn Ngộ Không đã nhanh trí biến thành hình tượng của sư phụ, rồi lên điện diện kiến quốc trượng. Trong sách viết rằng:

“Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem, thấy toàn là những quả tim đỏ, tim trắng, tim vàng, tim tham lam, tim danh lợi, tim đố kỵ, tim mưu mẹo, tim hiếu thắng, tim hãnh tiến, tim khinh mạn, tim sát hại, tim độc ác, tim sợ sệt, tim tà vọng, tim vô danh, tim mờ ám… toàn là các loại tim xấu xa, chẳng thấy có một quả tim đen nào”.

Tôn Ngộ Không biến thành Đường Tăng giả là ví rằng Đường Tăng và Ngộ Không lúc này đã hợp hai thành một; y mổ cái bụng của mình, rơi ra một đống trái tim, cũng tượng trưng cho “đa tâm”.

Chúng ta thường nói “trong lòng hươu chạy”, người có “hai lòng” sẽ sinh ra tai họa, huống hồ là nhiều tâm như vậy. Chỉ khi thu phục yêu tinh này thì trong lòng mới không có hươu chạy loạn xạ nữa, “đa tâm” đã trở thành “nhất tâm”, một lòng một ý mới có thể thành công.

Cửu Linh Nguyên Thánh

Ba huynh đệ Ngộ Không thích làm thầy thiên hạ, ở Ngọc Hoa châu đã thu nhận ba vị hoàng tử của quốc vương làm đồ đệ, dạy cho họ võ công. Thích làm thầy thiên hạ, không khiêm tốn, bởi vậy đã chiêu mời sư tử tinh, vốn là cháu nuôi của Cửu Linh Nguyên Thánh.

Cửu Linh Nguyên Thánh là một con sư tử 9 đầu, vốn là thú nuôi của Thái Ất Thiên Tôn ở cung Diệu Nham. Đây là một trong những yêu quái lợi hại nhất trên đường sang Tây Thiên, có thể dễ dàng bắt được Tôn Ngộ Không.

Sư tử 9 đầu tượng trưng cho “cửu tư” (9 điều suy nghĩ). Khổng Tử nói: “Bậc quân tử có chín điều suy nghĩ”. Một người nếu như làm được “chín điều suy nghĩ” chính là có thể trở thành bậc Thánh, “cửu tư thành Thánh”, vậy nên mới có tên gọi là Cửu Linh Nguyên Thánh.

(sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 6 * Đường Tăng 3 lần cự tuyệt yêu quái.

Ai cũng biết Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, ít người nhớ Đường Tăng ba lần cự tuyệt yêu quái.
Bản tính sáng, đạo ắt thông.
Trở mình giải thoát khỏi vòng lưới giăng.
Luyện biến hóa khó vô chừng,
Đạo trường sinh ấy phải chăng dễ dàng?


Trong Tây du ký*, một trong những câu chuyện để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người hâm mộ có lẽ là “Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh”. Thuở trẻ xem Tây du ký, đến tập này không khỏi sa nước mắt, thương Ngộ Không mà oán trách Đường Tăng “có mắt như mù”, rõ ràng là yêu ma lại cứ khăng khăng là người tốt. Nhiều năm sau, đọc nguyên tác, mới vỡ lẽ ra nhiều điều, đặc biệt là về tâm cảnh của Đường Tăng. Mọi người đều nhớ chuyện Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, ba lần bị sư phụ đuổi, nhẫn nhục hết lòng, nhưng bạn còn nhớ chăng, Tam Tạng cũng ba lần cự tuyệt yêu quái?

Tây du ký kể rằng sau khi Tôn Ngộ Không mời được Bồ Tát hồi sinh cây nhân sâm, Hành Giả cùng Trấn Nguyên Đại Tiên kết nghĩa anh em. Tiệc tùng suốt mấy ngày vui vẻ, cuối cùng cũng đành chia tay, mấy thầy trò thay da đổi thịt, phấn chấn tinh thần, càng quyết chí sang Tây Thiên bái Phật. Đi được chẳng mấy chốc thì gặp một ngọn núi cao. Đường Tăng đói bụng, sai Hành Giả đi tìm chút gì lót dạ. Hồi thứ 27 “Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng/ Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương” có viết:

“Lại nói chuyện người ta thường có câu: “Non cao lắm quái, núi hiểm nhiều ma”, đúng như vậy. Núi này có một con yêu tinh. Khi Hành Giả ra đi, làm kinh động con yêu quái. Trên tầng mây, đạp luồng gió âm, hắn nhìn thấy Đường Tăng đang ngồi dưới đất, xiết bao mừng rỡ nói:

– May quá! May quá! Mấy năm nay mọi người thường nói về lão hòa thượng nhà Đường bên phương Đông đi lấy kinh “Đại Thặng”. Lão vốn là Kim Thiền Tử hóa thân, tu hành mười đời, ăn được một miếng thịt của lão sẽ sống lâu mãi mãi. Hôm nay lão đến đây rồi!

Yêu tinh định xông tới bắt sống luôn, nhưng thấy bên cạnh Tam Tạng có hai đại tướng đứng bảo vệ, bèn không dám vội vã. Hai viên đại tướng ấy là ai? Đó là Bát Giới và Sa Tăng. Bát Giới và Sa Tăng tuy chẳng có võ nghệ cao cường gì, nhưng Bát Giới là Thiên Bồng nguyên soái, Sa Tăng là Quyển Liêm đại tướng. Uy vũ của họ cũng chưa biết thế nào, nên yêu tinh cũng không dám đường đột, bèn nói:

– Ta tạm trêu họ tí chút xem sao?

Nói đoạn, dừng vệt gió âm nhảy xuống, nấp trong hốc núi, lắc mình một cái, biến thành một cô gái xinh đẹp tuyệt vời, mày ngài mắt phượng, răng trắng môi hồng, tay trái cầm một chiếc liễn xanh, tay phải cầm một chiếc bình lục, từ hướng Tây đi về phía Đường Tăng:


Thánh tăng dừng ngựa sườn non.
Bỗng đâu cô gái nõn nường tới bên
Búp tay trắng muốt ngó sen.
Quần là mỏng dính như in cặp đùi.
Mặt hoa lúng liếng môi cười,
Liễu in khói biếc – nét ngài mỏng manh.
Ngó nghiêng đôi mắt đưa tình,
Xem ra đang bước tới gần Đường Tăng.


Tam Tạng trông thấy gọi:

– Bát Giới, Sa Tăng ơi, Ngộ Không vừa nói chỗ này đồng không mông quạnh, không có người ở, thế mà, các con xem, chẳng phải là người đang đi tới gì kia?

Bát Giới nói:

– Sư phụ và Sa Tăng cứ ngồi đây, để lão Trư đi xem xem.

Nói xong chú ngốc vứt đinh ba, sửa lại áo xống, bước khệnh khạng ra vẻ phong thái nhà nho, tới đón cô gái. Thật là: xa trông thì chẳng thấy gì, đến gần mới biết cực kỳ xinh tươi. Cô gái:

Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Áo the hở ngực đẫy đà cặp lê.
Liễu xanh xanh biếc hàng mi,
Mắt phượng chơm chớp khác gì sao băng.
Dung nhan đầy đặn khuôn trăng.
Thiên nhiên phú bẩm cao thanh dáng người.
Nhẹ như én lượn bầu trời.
Tiếng oanh thỏ thẻ lòng người ngẩn ngơ.
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Lung linh thược dược như đưa xuân tình.


Bát Giới thấy cô gái xinh đẹp tuyệt trần, lòng dục trỗi dậy, không chịu nổi, nhưng cố giữ không dám nói bậy bạ, cất tiếng:

– Chào cô. Cô đi đâu đấy? Tay cầm vật gì vậy?

Rõ ràng là một con yêu tinh, nhưng Bát Giới không nhận ra. Cô gái đáp lại liến thoắng:

– Thưa trưởng lão, cái liễn xanh này đựng cơm gạo tám, còn chiếc bình lục này đựng bánh bao. Em mang tới đây chẳng có ý gì khác, ngoài việc phát nguyện dâng cơm chay cho trưởng lão.

Bát Giới nghe vậy, trong lòng hí hửng, vội vàng quay người, chạy một mạch như lợn phải gió, trở về báo với Tam Tạng:

– Sư phụ ơi, đúng là “ở hiền gặp lành”, sư phụ đói, bảo sư huynh đi tìm cơm chay, con khỉ ấy không biết đi hái đào, hay nghịch ngợm ở đâu rồi, hốc đào cho lắm vào, rồi có khi còn cãi nhau với người ta, hay là lại ngã cây nữa ấy chứ. Sư phụ xem kia, chẳng phải là người mang cơm chay đến đó sao?

Đường Tăng không tin, nói:

– Đồ bị thịt ngốc nghếch! Từ lúc chúng ta đi tới giờ, chưa gặp được một người tốt nào, làm gì có người mang cơm chay lại dâng?

Bát Giới nói:

– Thưa sư phụ, chẳng phải đang đến gì kia?

Tam Tạng vừa nhìn thấy, vội vàng đứng dậy, chắp tay trước ngực chào:

– Kính chào bà. Nhà bà ở đâu? Gia đình ra sao? Có muốn cầu mong gì mà đến dâng cơm chay vậy?

Rõ ràng là một con yêu tinh, mà Tam Tạng cũng không nhận ra. Yêu tinh thấy Đường Tăng hỏi lai lịch, bèn rắp tâm dối trá, múa mép khua môi rằng:

– Thưa sư phụ, ngọn núi này gọi là Bạch Hổ lĩnh, hổ báo, rắn rết cũng phải sợ. Nhà tôi ở mé chính tây. Cha mẹ tôi hãy còn sống, thường đọc kinh làm thiện, hay thết đãi cơm chay các hòa thượng xa gần, song hiềm một nỗi không có con, cầu cúng mãi mới được mình tôi là gái. Các cụ muốn tìm nơi môn đệ gả chồng cho tôi, nhưng e già cả không nơi nương tựa, đành phải gả chồng và cho ở rể, để phụng dưỡng tuổi già.

Tam Tạng nghe vậy, nói:

– Bà nói sai rồi. Thánh nhân có câu: “Cha mẹ còn sống, không được đi chơi xa. Nếu có đi phải cho cha mẹ biết nơi chốn”. Các cụ đang còn, lại kén rể cho bà. Nếu bà có muốn cầu xin gì thì bảo nam giới đi cũng được, tại sao lại đi một mình trong núi, chẳng có người đi theo, vậy là không giữ tròn đạo đức của nữ giới đâu.

Cô gái cười thỏ thẻ, nói khéo:

– Thưa sư phụ, chồng tôi đưa mấy người làm công đi cuốc ruộng ở thung lũng phía bắc. Tôi nấu cơm trưa, mang đi cho họ. Nhưng mùa màng bận rộn, chẳng sai được ai, cha mẹ thì già, nên phải tự mang đi, bất ngờ gặp ba ngài từ phương xa tới, nghĩ tới cha mẹ hay làm việc thiện, nên mới dâng cơm chay, nếu mấy ngài không hiềm nghi thì xin nhận tấm lòng thành.

Tam Tạng nói:

– Xin cảm ơn! Xin cảm ơn! Một người đồ đệ của tôi đi tìm quả cũng sắp về rồi, tôi chẳng dám ăn đâu. Nếu chúng tôi ăn, chồng bà biết sẽ mắng bà, thì đó chẳng phải là tội của bần tăng này hay sao?

Cô gái thấy Đường Tăng không chịu ăn, lại càng tươi cười mời mọc:

– Sư phụ ạ, cha mẹ tôi dâng cơm chay thì kể làm gì. Chồng tôi cũng thực là một người tốt, suốt đời chỉ biết sửa đường bắc cầu, kính già thương trẻ, nếu biết là dâng cơm chay mời các nhà sư, thì tình cảm vợ chồng chúng tôi càng khăng khít gắn bó hơn đấy.

Nhưng Tam Tạng vẫn không chịu ăn. Chú ngốc đứng bên cạnh khó chịu, dẩu mồm lầu bầu oán trách:

– Thiên hạ có vô số nhà sư, chẳng ai gàn như cụ hòa thượng nhà mình, cơm đã sẵn sàng ba phần rồi mà chẳng chịu ăn, cứ đợi con khỉ về chia làm bốn phần mới ăn hẳn?

Rồi chẳng phân trần gì nữa, thò ngay mõm vào liễn định chén liền”.

Tính ra, trước lúc Ngộ Không trở về, Đường Tăng đã ba lần cự tuyệt cô gái. Tuy Tam Tạng không có mắt thần nhìn rõ yêu ma, nhưng ông có giới hạnh làm bùa hộ mệnh. Vì là bậc chân tu đức hạnh nên Đường Tăng không bị sắc dục làm động niệm, mới có thể nhìn ra sự trái lẽ trong lời của cô gái, thậm chí còn bảo cô ta “không giữ tròn đạo đức của nữ giới”. Chứ cứ như Bát Giới, tuy cũng xuất thân là Thần Tiên, có đủ phép thần thông, nhưng ham ăn háo sắc nên suýt nữa cũng bị yêu tinh xơi tái rồi. Bạch Cốt Tinh sau khi bị Hành Giả nện một gậy, thoát xác thì căm tức nói: “…chỉ cần cúi xuống ngửi một cái, là ta sẽ quắp lấy, biến thành mồi của ta rồi”. Như vậy, chẳng phải chính giới hạnh đã bảo vệ Đường Tăng thoát khỏi nguy hiểm hay sao?

Cũng theo lời Tôn Ngộ Không, thì “Lão Tôn trước kia, khi còn là yêu ma động Thủy Liêm, lúc nào muốn ăn thịt người đều làm cách như thế này: hoặc biến thành vàng bạc, nhà cửa, hoặc biến thành gái đẹp say người. Kẻ nào ngu si say đắm phải lòng con, là bị con lừa mang về động. Lúc ấy, thì tùy ý con, hoặc nấu hoặc kho, ăn không hết, con phơi khô để dành phòng lúc mưa dầm”. Cũng hàm ý rằng, chỉ những ai ham hố tiền tài hay sắc đẹp, đánh mất đạo đức, thì yêu ma mới có thể làm hại. Con người là tinh hoa của trời đất, là anh linh của vạn vật, con người có thể tu thành Phật, thành Tiên, nên yêu quái không được phép tùy tiện ăn thịt người, trừ khi bản thân người đó có vấn đề về đức hạnh.

Thật vậy, trong hồi thứ 13 “Sa hang cọp Kim Tinh cứu thoát/ Núi Song Soa Bá Khâm mời sư”, Đường Tăng sau khi rời khỏi Tràng An thì bị yêu tinh hổ bắt về động toan làm thịt, may được Thái Bạch Kim Tinh giáng trần, hóa thành một cụ già tới giải thoát cho. Đường Tăng cảm tạ, nói “Không ngờ tôi duyên may phận lớn, được cụ tới cứu giúp”, còn cụ già lại đáp rằng “Nhờ bản tính nhà ngươi huyền minh, cho nên chúng không ăn thịt nổi”. Câu nói này của Thái Bạch Kim Tinh giúp chúng ta hiểu ra một đạo lý: Thì ra trên đường đi thỉnh kinh, Đường Tăng bao lần sa vào miệng cọp mà không chết, bao yêu quái muốn ăn thịt mà không ăn thịt nổi, bề mặt thì vì có đồ đệ tài phép, mà gốc rễ là vì bản tính huyền minh của chính ông. “Bản tính huyền minh” ấy phải chăng chính là tính bản thiện, cái tâm trong sáng, từ bi thuở ban sơ có trong mỗi con người? Phật tính ấy hễ còn thì con người còn được Trời cao bảo hộ, còn có cơ hội phản bổn quy chân.

Trong đoàn đi thỉnh kinh, Đường Tăng là đại diện cho những người tu luyện mà mọi công năng xuất ra đều bị khoá lại, không nhìn được không gian khác, cũng tức là “tu trong mê”. Vì tu trong mê nên chỉ có thể dựa vào Pháp lý để phân biệt chính – tà, dựa vào tín tâm kiên định để nhận được sự hộ trì của Thần Phật. Người tu trong mê là rất khó, sẽ có lúc va vấp, ví như Đường Tăng bị Bạch Cốt Tinh lừa, đuổi mất Ngộ Không đi, nên đoạn sau mới gặp nạn to ở nước Bảo Tượng. Tuy vậy, nhờ lòng thành hướng Phật trước sau không đổi, cuối cùng ông đều có thể biến nguy thành an, tu thành chính quả.

Có bài thơ rằng:

Vọng tưởng chẳng cần cưỡng diệt,
Chân như hà tất tìm cầu.
Trước tu tư tinh bản nguyên,
Mê ngộ nào chia sau trước.
Giác ngộ: phút giây thành chính quả,
Mê lầm: vạn kiếp vẫn trầm luân.
Nếu như ý nghĩ hợp bản chân,
Vô số tội kia đà diệt hết.

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(Sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 7 * Thượng đế phong chức Bật Mã Ôn, dụng ý thâm sâu Hầu vương chẳng tỏ tường

Mâm ngọc lưu ly, bày đầy ắp thuốc tiên thái ất
Bình quý mã não, cầm chen nhau cây cảnh san hô
Của lạ thiên cung đủ cả
Thế gian muôn thuở đừng mơ!
Cửa ngọc nhà vàng chen phủ tía
Hoa thơm cỏ lạ thoảng hương đưa
Ngọc Thỏ lướt qua phiên triệu hội
Kim Ô soi bóng trước thềm vua
Hầu vương có phúc lên thượng giới
Trần gian giũ sạch bụi không mờ.


Ấy là đoạn thơ nói về việc Tôn Ngộ Không được Thượng đế chiêu an, Thái Bạch Kim Tinh dẫn lên trời nhậm chức Bật Mã Ôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, biết mình phải làm quan chăn ngựa, Ngộ Không đã nghiến răng căm tức, đạp đổ công án, vút về động Thuỷ Liêm. Thuở trẻ, đọc cố sự Tôn Ngộ Không chăn ngựa trên thiên đình, tôi không khỏi bất bình thay cho Mỹ hầu vương, tự hỏi vì sao các vị Thần Tiên nỡ lòng “lừa” một vị khách ngây thơ như thế! Ngày nay đọc lại, bất chợt ngộ ra sự từ bi của Thần Phật, mới biết Ngộ Không đã bỏ lỡ cơ hội quý ngàn vàng!

Sau khi bị Bồ Đề Tổ Sư đuổi khỏi sư môn, Tôn Ngộ Không trở về núi Hoa Quả, tiêu diệt Hỗn Thế ma vương, “ăn chặn” gậy Như Ý dưới Long cung, “ngày ngày đi mây về gió, ngao du bốn biển, chơi khắp nghìn non, trổ tài võ nghệ thần thông, tìm tòi, kết giao với anh hùng hào kiệt”. Sau đó lại làm náo động điện Sâm La, xóa hết tên tuổi loài khỉ vượn trong sổ sinh tử, phá hoại luân hồi. Đông Hải Long vương và Địa Tạng vương Bồ tát dâng sớ lên Thượng đế, xin phái thiên binh đi hàng phục Ngộ Không. Thái Bạch Kim Tinh quỳ tâu Thượng đế mở lòng từ bi, xuống một đạo thánh chỉ chiêu an, trao cho Tôn Ngộ Không một chức quan nhỏ nào đó để ràng buộc ở cõi trời. Ngọc đế thuận lời, nên Ngộ Không mới được thăng thiên, nhậm chức quan Bật Mã.


Tây du ký*, hồi thứ tư “Quan phong Bật mã lòng đâu thỏa/ Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên” có viết:

“Thượng đế sai Mộc Đức tinh quân đưa Ngộ Không về Ngự mã giám nhận việc.

Lúc ấy, Hầu vương thích chí lắm, cùng Mộc Đức tinh quân đi ngay. Xong việc, Mộc Đức tinh quân về cung. Ở trại Ngộ Không tập trung cả Giám thừa, Giám phó, Điển bạ, Lực sĩ các quan viên to nhỏ trong trại hỏi han công việc, thấy trại này chỉ có khoảng nghìn con ngựa. Toàn là:

Xích thố, truy phong, toàn giống quý
Ngày phi vạn dặm dễ như chơi
Băng mây lướt gió, thần hăng hái
Giòn giã vó tung dậy đất trời


Hầu vương kiểm tra sổ sách đếm đủ số ngựa trong trại. Điển bạ coi việc rơm cỏ đầy đủ; lực sĩ giữ việc tắm rửa, đun nấu ăn uống cho ngựa; Giám thừa, Giám phó đôn đốc công việc; Bật mã ngày đêm không ngủ, trông nom ngựa trại. Ban ngày còn chơi đùa được, ban đêm chăm chỉ giữ gìn. Ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng. Bầy ngựa thấy Bật mã ôn là cúp tai dúm vó, nhưng ngược lại, chúng được nuôi dưỡng béo tốt. Thấm thoắt đã hơn nửa tháng. Một hôm rỗi việc, giám quan trong trại bày tiệc rượu, một là để đón tiếp, hai là để chúc mừng Bật mã ôn.


Đang lúc ăn uống vui vẻ, Hầu vương bỗng đặt chén xuống hỏi:

– Bật mã ôn thuộc hàm quan nào?

Mọi người thưa:

– Chỉ có tên quan suông như vậy thôi.

Hầu vương lại hỏi:

– Chức quan này thuộc phẩm hàm nào?

Mọi người đáp:

– Chẳng thuộc phẩm hàm nào cả.

Hầu vương nói:

– Không có phẩm hàm thì là to nhất rồi!

Mọi người thưa:

– Không to đâu, không to đâu, mà là “chưa liệt vào hàng quan”.

Hầu vương hỏi:

– Thế nào gọi là “chưa liệt vào hàng quan”?

Mọi người thưa:

– Nghĩa là hạng bét nhất. Chức quan ấy thấp nhất, bé nhất, chỉ có việc trông ngựa thôi. Tựa như ngài đây, sau khi nhận chức, chăm chỉ cần cù, nuôi ngựa béo tốt, thì người ta chỉ buông một lời khen “tốt”. Còn như để ngựa hơi gầy, thì bị khiển trách ngay. Nhất là để ngựa bị thương tích, thì còn phải chuộc tiền, bị phạt.

Hầu vương nghe xong, bất giác trong đầu bốc hỏa, nghiến răng căm tức nói:

– Thật là khinh rẻ lão Tôn quá lắm! Lão Tôn này ở động núi Hoa Quả, xưng vua xưng chúa, cớ sao đánh lừa ta đến đây nuôi ngựa? Nuôi ngựa là công việc của hạng vô danh tiểu tốt, ti tiện nhỏ nhen, mà lại dám đem đãi ta sao? Không thèm làm nữa! Không thèm làm nữa! Ta đi đây!

Đoạn, Ngộ Không hừ một tiếng, đạp đổ công án, rút bảo bối trong tai ra, múa tít, nó bỗng to bằng cái bát, uyển chuyển, nhịp nhàng, ra khỏi Ngự mã giám, thẳng đến cửa Nam Thiên. Thiên binh biết Hầu vương có tên trong sổ tiên, là Bật mã ôn, không dám ngăn cản, để mặc Hầu vương ra khỏi cửa trời”.

Trong câu chuyện này, thoạt nhìn thấy công việc của Tôn Ngộ Không thật thấp hèn, vất vả: “Bật mã ngày đêm không ngủ, trông nom ngựa trại. Ban ngày còn chơi đùa được, ban đêm chăm chỉ giữ gìn. Ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng”. Chẳng những vất vả cả ngày lẫn đêm, mà còn chẳng được tính công ban thưởng, hơi tí là bị khiển trách ngay. Một Mỹ hầu vương tung hoành ngang dọc, xưng vua xưng chúa chốn trần gian chịu làm sao thấu! Vậy nên, hừ một tiếng đạp đổ công án, lại quay về làm yêu quái như xưa.

Người xưa thường nói: “Tâm viên ý mã” (tâm vượn ý ngựa), bởi vì cái tâm con người nhảy nhót lăng xăng như khỉ, ý niệm cuồng vọng như con ngựa bất kham. Một đời ngược xuôi vì danh lợi, tháng năm tất tả bởi chữ tình. Trong Tây du ký, Tôn Ngộ Không là hình tượng hoá cái tâm của người tu luyện, vì thế mà Đường Tăng bước đầu tiên trên hành trình thỉnh kinh là thu phục Ngộ Không và Bạch Long Mã. Thượng đế phong cho Tôn Ngộ Không chức Bật Mã Ôn, chính là để tâm hàng phục ý, dùng tâm ước thúc từng ý niệm của bản thân mình. Tây du ký có nhiều bài thơ nhắc đến điều này, ví như:

Ý ngựa buông tuồng đừng thả sổng,
Lòng hầu ngỗ ngược phải dày công
Tính tình đã định muôn duyên hợp,
Rực rỡ trăng tròn lúc đổ lòng.


hay như:

Linh đài chẳng vật gọi là thanh,
Tịch mịch an nhiên niệm chẳng sinh.
Khỉ ngựa giữ gìn đừng thả lỏng,
Tinh thần cẩn thận chớ chênh vênh.


Vậy nên có thể nói, Thượng đế cho Mỹ hầu vương làm chức quan chăn ngựa chính là từ bi an bài cơ hội tu luyện cho Tôn Ngộ Không. Từ khi Ngộ Không khởi niệm kiêu căng hiển thị, bị Tổ Sư Bồ Đề đuổi khỏi sư môn, Mỹ hầu vương đã càng ngày càng ngông cuồng phóng túng, tâm tính trượt dài chẳng hơn gì một yêu tinh. Thượng Thiên từ bi, nhận ra căn cơ của Hầu vương nên thiết lập một hoàn cảnh tu luyện để Ngộ Không quay trở về bản tính chân thiện. Tiếc là Ngộ Không lúc này chẳng ngộ ra, coi công việc khổ sở thấp kém là sự vũ nhục đối với mình, nên bỏ lỡ cơ duyên vạn năm chẳng gặp.

Kỳ thực, Thần Phật nhìn sự việc là phản đảo so với con người. Hoàn cảnh khổ sở, địa vị thấp hèn đối với con người là việc xấu, nhưng Thần Phật lại coi đó là cơ hội tốt giúp người tu luyện nhanh chóng tiêu nghiệp, đề cao tâm tính, khai công khai ngộ. Ví như Ngũ tổ Thiền tông là Hoằng Nhẫn, khi mới gặp Lục tổ Huệ Năng thì đã nhận ra ngay căn cơ của ông, nhưng lại giao cho Huệ Năng công việc chẻ củi vo gạo trong nhà bếp, vất vả tối ngày chứ chẳng được nhàn nhã nghe kinh. Sau này, Huệ Năng là người duy nhất được Ngũ tổ trao truyền tâm pháp, trở thành Lục tổ Thiền tông. Công việc chăn ngựa của Tôn Ngộ Không so với chẻ củi vo gạo của Huệ Năng ít ra vẫn còn có quan chức, thế mà Mỹ hầu vương ngang tàng kiêu ngạo đã không chịu nổi rồi.

Khi Tôn Ngộ Không trở về núi Hoa Quả, lũ khỉ biết chuyện liền nói: “Về hơn chứ! Về hơn chứ! Đại vương làm vua ở nơi phúc địa động núi này, được tôn trọng sung sướng biết chừng nào, tội gì phải làm anh nuôi ngựa cho ai”. Thì đúng là như thế, nên lũ khỉ muôn đời chỉ làm khỉ thôi, mà chẳng thành chính quả. Càng sung sướng, càng được nâng niu trọng vọng thì càng khó đề cao, đây là cái lý mà nhiều người khó lòng hiểu được.

Hình ảnh Tôn Ngộ Không căm giận “hừ một tiếng, đạp đổ công án” là một ẩn dụ sâu sắc. “Công án” nguyên nghĩa là văn thư, thể lệ, các bản kiện tụng đã quyết định xong trong quan phủ. Nhưng trong Phật gia, công án còn là một phương pháp tu tập thiền định. Nó có thể là một đoạn kinh, một câu chuyện tu hành, một cuộc đàm thoại… không thể được giải đáp bằng lý luận thông thường. Ở đây, Tôn Ngộ Không đạp đổ công án là ẩn dụ sinh động cho việc Hầu vương buông bỏ tu luyện, không giác ngộ được dụng ý của Thần. Dùng nhận thức của con người mà đo lường Thần Phật thì vĩnh viễn không đắc được Đạo chân thật.

Thế là, Tôn Ngộ Không đã một lần bỏ lỡ cơ hội tu luyện Trời cho, chấp mê bất ngộ nên trượt dài trong cuộc đời yêu quái. May mắn thay, Thần Phật là từ bi hồng đại, chẳng những giam Ngộ Không 500 năm dưới núi Ngũ Hành để tiêu trừ nghiệp chướng, mà còn tiếp tục an bài cho Ngộ Không phò tá Đường Tăng để tu luyện bản tâm. Ngẫm lại trong cuộc đời chúng ta, đã bao lần được Thượng Thiên an bài cơ hội tu tâm mà cứng đầu chối bỏ? Chỉ muốn thoải mái tự do, không ngộ ra thì tiếp tục chịu khổ, vĩnh viễn chìm đắm trong luân hồi. Còn Ngộ Không, trải qua trùng trùng ma nạn trên đường thỉnh kinh, đến trước núi Bình Đính thì đã hiểu ra, nói với Đường Tăng rằng:

Trong tâm quét sạch bẩn,
Bên tai rửa bụi trần.
Không nhận điều đau khổ,
Khó làm bậc thượng nhân.

Ảnh: Phim Tây Du Ký 1986

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 8 * Tôn Ngộ Không chân chính quy y không phải từ lúc bái Đường Tăng làm sư phụ, mà là sau khi ngắm một bức tranh

Khai tâm cốt một chữ thành.
Lẽ huyền giác ngộ, tử sinh rõ đường.

Sau khi Đường Tăng gỡ lá bùa trấn yểm trên núi Ngũ Hành Sơn, Tôn Ngộ Không được giải thoát, bái Đường Tăng làm sư phụ, nguyện ý phò tá người sang Tây Trúc thỉnh kinh. Giữa đường gặp sáu tên cướp, Tôn Ngộ Không dùng gậy Như Ý đập chết cả sáu, khiến Đường Tăng kinh hãi, trách móc Ngộ Không tàn ác không có đức hiếu sinh. “Ngộ Không vốn xưa nay vẫn không chịu nổi mắng nhiếc, thấy Tam Tạng lải nhải mãi, không nén được bực tức”, bèn cưỡi mây bay vù về phương Đông, bỏ Đường Tăng lại một mình.
Tây du ký*, hồi thứ 14 viết:

“Lại nói Ngộ Không bỏ sư phụ ra đi, dùng phép cân đẩu vân đến thẳng Đông Dương đại hải, từ trên mây phóng xuống, rẽ nước đến ngay Thủy Tinh cung. Long vương sợ hãi vội ra nghênh tiếp, mời vào trong cùng ngồi. Chào xong, Long vương hỏi:
– Mới đây, nghe tin Đại thánh hết hạn, chưa kịp đến mừng, tưởng ngài đã sửa sang lại núi tiên, trở về động cũ rồi.
Ngộ Không đáp:
– Ta cũng muốn như thế, nhưng lại phải làm hòa thượng.
Long vương hỏi:

– Sao, làm hòa thượng à?
Hành Giả đáp:
– Đức Bồ tát ở Nam Hải khuyên ta làm điều thiện, tu hành chính quả, theo Đường Tăng bên phương Đông sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, vào hàng sa môn, gọi là Hành Giả.
Long vương nói:
– Việc ấy hay lắm, hay lắm! Có thế mới cải tà quy chính, khai mở lòng lành được. Thế sao ngài không đi sang phương Tây mà lại quay về phương Đông?

Hành Giả cười, nói:
– Là vì Đường Tăng không biết tính ta, có mấy thằng giặc cỏ chặn đường bị ta giết chết, mà Đường Tăng cứ càu nhàu mãi, nói ta như vậy là sai. Ngài bảo lão Tôn này chịu làm sao được? Thế là ta bỏ ông ấy, định trở về núi cũ. Nhân tiện qua đây ta ghé thăm ngài, xin một chén trà uống.
Long vương nói:
– Quý hóa quá! Quý hóa quá!
Lập tức con rồng, cháu rồng bưng trà hương ra mời Đại thánh. Uống trà xong, Hành Giả quay đầu ngắm nghía bức tranh “Cầu Dĩ dâng giày” treo phía sau bèn hỏi:

– Bức tranh vẽ gì nhỉ?
Long vương thưa:
– Đại thánh sinh đời trước, việc này thuộc đời sau, ngài không biết. Bức tranh này gọi là “Ba lần dâng giày ở Cầu Dĩ”.
Hành Giả hỏi:
– “Ba lần dâng giày” là thế nào?
Long vương thưa:
– Vị tiên này là Hoàng Thạch Công. Còn người kia là Trương Lương nhà Hán. Thạch Công ngồi trên Cầu Dĩ, bỗng bị rơi giày xuống chân cầu, bèn gọi Trương Lương nhặt hộ. Trương Lương nhanh nhẹn đi nhặt mang lên, quỳ dâng trước mặt. Ba lần như vậy, Trương Lương không chút tỏ ra lười biếng kiêu căng. Thạch Công quý mến Trương Lương cần cù lễ độ, nên đến đêm trao cho Trương Lương một cuốn thiên thư, và bảo giúp cho nhà Hán. Về sau, quả nhiên Trương Lương mưu tính trong màn trướng mà quyết đoán được sự thắng bại ở nơi nghìn dặm. Sau khi thái bình rồi, ông ta từ quan vào núi, theo Xích Tùng Tử học được đạo tiên. Đại thánh ạ, ngài không theo Đường Tăng, không chịu khó nhọc, không nghe dạy bảo, cuối cùng vẫn chỉ là một con yêu quái mà thôi, thành chính quả sao được!
120502041144100551.jpg
Tranh vẽ Trương Lương nhặt giày cho Hoàng Thạch Công (ảnh: Epochtimes).
Ngộ Không nghe nói, ngẫm nghĩ hồi lâu, chẳng nói năng gì. Long vương nói:
– Đại thánh nên xét kỹ, đừng thích phóng khoáng mà để lỡ các công việc về sau nữa.
Ngộ Không nói:
– Thôi ngài đừng nói nữa, ta đi hộ vệ Đường Tăng đây.
Long vương mừng lắm, nói:
– Nếu như thế tôi cũng không dám giữ Đại thánh lâu. Mong ngài mở lòng từ bi ngay cho, đừng để sư phụ đợi lâu.
Hành Giả thấy Long vương giục giã đi ngay, bèn vội đứng dậy, ra khỏi đáy bể, từ biệt Long vương, cưỡi mây bay đi”.
Cố sự này vô cùng đặc biệt. Nó đánh dấu khởi đầu thực sự của hành trình tu luyện của Ngộ Không, từ lúc này Hành Giả mới chân chính thực lòng muốn tu thành chính quả. Vì sao lại nói như vậy? Trước đây, khi Ngộ Không nhận lời với Quán Thế Âm Bồ Tát phò tá người đi lấy kinh, đó chỉ là quyết định có phần miễn cưỡng, cốt để thoát cái nạn núi đè mà thôi. Khi Bồ Tát hứa rằng người đi lấy kinh sẽ cứu Ngộ Không, “Đại thánh đáp liến thoắng: – Vâng ạ! Vâng ạ!” (Trích Tây du ký, hồi thứ tám). Sự “liến thoắng” này cho thấy lời nói chưa hề trải qua quá trình suy ngẫm cẩn thận. Chính vì thế, mới lần đầu bị Đường Tăng mắng, Ngộ Không đã tức không chịu được, bay thẳng về Đông rồi. Lúc Long vương hỏi về chuyện quay về Hoa Quả sơn, Hành Giả mới nói lộ ra cái ‘tim đen’ của mình: “Ta cũng muốn như thế, nhưng lại phải làm hòa thượng”.
Vậy nên, cố sự “Ngộ Không ngắm tranh” mới có ý nghĩa đặc biệt đến thế. Nếu không có đoạn đường này, Ngộ Không sẽ không thể liều mình xông pha bảo hộ Đường Tăng trên đường đi lấy kinh, cả hai thầy trò đều không thể tu thành chính quả. Trong câu chuyện này, công lớn thuộc về Long vương, ông đã thuận theo cá tính của Đại Thánh mà lựa lời khuyên nhủ.
Bước đầu, Long vương hết lời khen ngợi việc làm hòa thượng: “Việc ấy hay lắm, hay lắm! Có thế mới cải tà quy chính, khai mở lòng lành được”, cốt để Ngộ Không thấy tu hành là điều quý, bỏ dở giữa chừng có phần đáng tiếc chăng. Tiếp theo, Long vương giải nghĩa tường tận bức tranh “Ba lần dâng giày ở cầu Dĩ”, nhấn mạnh vào cái tâm cung kính nhu thuận của Trương Lương đã giúp ông công thành viên mãn như thế nào. Khi Đại Thánh đã nghe lọt tai câu chuyện ấy, Long vương mới thuận đà khuyên nhủ: “Đại thánh ạ, ngài không theo Đường Tăng, không chịu khó nhọc, không nghe dạy bảo, cuối cùng vẫn chỉ là một con yêu quái mà thôi, thành chính quả sao được!”. Ngộ Không lúc này trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng chỉ thêm một lời của Long vương đã quyết định trở về phò tá Đường Tăng.
Có một chi tiết nhỏ đáng chú ý. Trong cuộc trò chuyện với Long vương, Ngộ Không phân trần: “Là vì Đường Tăng không biết tính ta, có mấy thằng giặc cỏ chặn đường bị ta giết chết, mà Đường Tăng cứ càu nhàu mãi”. Cái “tính” ấy là gì đây? Còn nhớ ở hồi thứ nhất, khi ra mắt Tổ sư Bồ Đề, Ngộ Không đã nói: “Con không có tính. Người ta mắng con, con cũng không giận: đánh con, con cũng không tức, chỉ lạy họ mà thôi, cả đời con không có tính”. Đem ra so sánh, mới biết cái “tính” này đâu phải bản chất tiên thiên ban đầu của Ngộ Không? Đó chỉ là thói hung hãn, kiêu căng, bướng bỉnh nảy sinh khi Ngộ Không sa đọa chốn hồng trần. Nên mới có thơ rằng:
Năm nao trứng đã nở thành người,
Lập chí tu hành cũng đến nơi.
Muôn kiếp rong chơi nơi thắng cảnh,
Một giây biến đổi đã tong đời.
Dối trên lừa dưới lòng ngông bạo,
Nhục thánh trộm đơn loạn lẽ trời.
Quen thói làm càn nay quả báo.
Biết ngày nào thoát, hỡi trời ơi!

Toàn bộ quá trình đi Thiên Trúc, dọc đường trừ yêu diệt quái, gian nan vô vàn, chính là để giúp Ngộ Không tu bỏ đi cái “tính” do hậu thiên sinh ra, tìm về sinh mệnh thuần khiết nguyên sơ của chính mình.
Con người chúng ta sống trên đời thường tự cho rằng tính cách mình là thế này thế kia, nào là tự do phóng khoáng, nào là nhút nhát tự ti, nào là nóng nảy bộp chộp… Tất cả những biểu hiện đó, thực ra không phải là bản chất nguyên sơ của chúng ta, mà chỉ là thói quen dưỡng thành trong quá trình tiếp xúc với xã hội trần tục, nhưng chúng ta nhầm lẫn cứ tưởng nó là mình. Chỉ khi nào ta minh bạch nó không phải là ta, thì ta mới có thể quyết tâm trừ bỏ nó, tìm lại chân ngã tiên thiên.
Quay trở lại việc Ngộ Không chín chắn suy nghĩ, thực lòng muốn sửa tính tu tâm, quay về hộ vệ Đường Tăng. Ngay khi gặp lại sư phụ, Ngộ Không đã bị “lừa” đội chiếc vòng kim cô lên đầu. Mỗi khi Đường Tăng niệm “Khẩn cô nhi chú”, còn có tên là “Định tâm chân ngôn”, thì chiếc vòng sẽ siết chặt khiến Ngộ Không đau đớn quằn quại. Tôn Ngộ Không là con khỉ đá trời sinh, tượng trưng cho cái tâm lăng xăng nhảy nhót của con người, nên chiếc vòng kim cô có một hàm nghĩa là người tu luyện khắc chế tâm, định tâm, ước thúc bản thân hành xử theo Đạo. Tuy nhiên, trong cố sự này, nó còn có một tầng hàm nghĩa khác.
Trước đó, Ngộ Không trên miệng nói đi tu, nhưng trong tâm vẫn bướng bỉnh như cũ, nên Phật và Bồ Tát không thực sự quản. Còn bây giờ, Ngộ Không trải qua quá trình suy nghĩ, không phải bị ép buộc, chỉ vì không muốn làm yêu quái nữa, nên chân chính nguyện ý tu hành. Bát Giới và Sa Tăng chẳng phải cũng vậy sao? Chiếc vòng kim cô ngụ ý sự quản thúc, chăm nom của đấng giác ngộ; vậy nên sau này Ngộ Không đến Linh Sơn, tu thành rồi thì chiếc vòng tự dưng biến mất.
Vậy mới biết, tu hành không phải dựa vào hình thức, tụng kinh niệm Phật chưa chắc đã là thật, “chiếc áo chẳng làm nên thầy tu”. Biểu hiện bên ngoài chỉ là để người khác xem, còn Thần Phật lại chỉ nhìn cái tâm bên trong của con người là chân hay giả. Chỉ khi một người chân chính thực tu, sẵn sàng chịu khổ, nhẫn nhục cầu thị, thì mới tính là đệ tử Phật môn. Cái chân tâm này là trân quý nhất, là ánh sáng dẫn đường giúp người tu luyện vượt qua mọi trở ngại khó khăn, đến bến bờ giác ngộ. Thơ rằng:
Một niệm nảy sinh đấy vạn ma,
Tu trì vất vả khó khăn là.
Đã đành tắm gội không vương bụi.
Vẫn phải dày công khổ luyện mà.
Quét sạch vạn duyên về cõi tịch,
Diệt phăng nghìn quái chẳng buông tha.
Rồi đây thoát khỏi vòng vây hãm,
Viên mãn bay lên cõi Đại La.

*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Đoạn 9 * Tôn Ngộ Không bị giam 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn, ẩn ý thâm sâu đằng sau là gì?


Tôn Ngộ Không bị giam 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn, ẩn ý thâm sâu đằng sau là gì?

Ảnh chụp màn hình phim Tây Du ký 1986.

Nếu như Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tuyệt thế kỳ thư vĩ đại nhất trong “Tứ đại danh tác”, thì bộ phim cùng tên của đạo diễn Dương Khiết cũng xứng đáng được tôn vinh là tác phẩm bất hủ nhất của điện ảnh Trung Hoa.
Làm nên thành công ấy phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các nhạc khúc trong phim. Và trong những nhạc khúc bất hủ ấy, có một bài hát, mà dẫu chỉ xuất hiện trong một phân cảnh nhỏ của phim, nhưng lại khiến lòng người mãi bồi hồi da diết. Đó chính là bài hát kể lại tâm sự của Tôn Ngộ Không suốt 500 năm bị đè dưới Ngũ Hành Sơn. Không hào tráng như ca khúc mở đầu “Đường chúng ta đi”, không tươi vui ngộ nghĩnh như “Ngộ Không trộm đào”, lại không ngọt ngào trong sáng như “Tình nhi nữ”, vậy mà “500 năm bãi bể nương dâu” cứ vương vấn mãi trong lòng người xem.
Có một điều đặc biệt là, dù được biểu diễn bằng giọng nam hay giọng nữ, có ca từ hay giai điệu không lời, trên nền của nhạc cụ hiện đại hay dân gian, và cho dù người nghe có hiểu ý nghĩa của bài hát hay không, thì tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được một điều gì đó rất da diết, rất mênh mang, một cảm xúc nào đó thật khó diễn tả bằng câu chữ, tựa như lời nhắn nhủ chạm tới tận sâu thẳm sinh mệnh con người.

Vì sao lại như vậy?
Nếu chỉ tìm trên bề mặt câu chữ, khó có thể tìm ra ý vị sâu xa mà bài hát muốn nhắn gửi tới người đọc. Đó là bởi bài hát ấy gắn liền với cuộc đời của Tôn Ngộ Không, từ khi thác sinh từ tảng đá, trở thành Tề Thiên Đại Thánh tung hoành ngang dọc giữa đất trời, sau phạm tội đại náo Thiên Cung mà bị đè dưới chân núi Ngũ Hành, nhớ về quá khứ huy hoàng tiêu diêu tự tại để rồi xót xa cho hiện tại đã an bài… Bởi lấy cảm hứng từ nguyên tác Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, mà một cách tự nhiên, “500 năm bãi bể nương dâu” cũng mang trong nó cái phần hồn, phần thần mà Ngô Thừa Ân muốn gửi gắm.
Bởi vậy, hãy cùng trở về với nguyên tác Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân trước khi nghe lại bài hát, bạn sẽ khám phá ra những ý vị thâm sâu đằng sau giai điệu ấy.
Tôn Ngộ Không sinh ra từ tảng đá, hấp thụ linh khí của đất trời
Mở đầu Tây Du Ký kể về thời thiên địa còn hỗn độn, đất trời còn mờ mịt chưa phân. Rồi Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng trị thế, Ngũ Đế định ra nhân luân. Đây là nói về việc nhân loại đã khởi đầu như thế nào.
Tiếp đó là sự ra đời kỳ lạ của Tôn Ngộ Không. Ngộ Không sinh ra từ tảng đá trên ngọn Hoa Quả Sơn – ngọn núi này vô cùng đặc biệt, được miêu tả là “mạch tổ của mười châu, là tay long của ba đảo bỏ lại, tự mở giữa trong đục mà đứng lên, phân rõ mờ mịt mà tạo thành, thật là một dãy núi quý, đẹp”.
Còn nói về tảng đá, đây cũng không phải đá bình thường, mà là “đá tiên” mang tinh khí của tạo hoá: cao 3 trượng 6 thước 5 tấc, hợp với vòng giời 365 độ; vây tròn 2 trượng 4 thước, hợp với lịch chính 24 khí, trên có 9 khiếu 8 lỗ tương ứng với 9 cung 8 quẻ. Tả rằng:

“Có lẽ từ khi sinh ra, tấm đá cảm thụ linh hoa của trời đất, của mặt trời, mặt trăng nên mới linh thông được. Trong tấm đá lại có một tiên thai. Một hôm tấm đá nứt ra, sinh một trứng đá, to bằng quả cầu lớn, gặp gió hoá ra con khỉ đá, đủ mặt, mũi, chân, tay. Con khỉ đá liền học cào, học chạy, vái lạy bốn phương, hai mắt có hào quang sáng rực lên tận trời, làm kinh động đến Ngọc Hoàng Thượng Đế”.[1]
Như vậy, Tôn Ngộ Không là được Thiên Địa hoá dục mà thành, sinh ra đã mang sẵn tinh hoa của đất trời, tuyệt nhiên không phải là con khỉ tầm thường nơi trần thế. Điều này cũng phù hợp với cách nhìn nhận của Đạo gia về sinh mệnh con người:
Đạo gia giảng rằng con người là do Thần tạo ra, bản mệnh chân chính của con người thuộc về nơi thượng giới.
Vậy vì sao con người lại có mặt trên Trái Đất này? Ấy là bởi qua tháng năm dài đằng đẵng, các sinh mệnh không còn giữ được bản tính thuần khiết như thuở ban đầu nên mới rơi rớt xuống đến đây. Đó cũng là điều mà các tôn giáo và các nền văn hoá cổ xưa đều nhìn nhận. Thánh Kinh chép rằng, Thiên Chúa Giê-hô-va tạo ra người đàn ông đặt tên là Adam, sau lại tạo ra người đàn bà đặt tên là Eva. Còn trong huyền sử Hy Lạp, hai anh em thần Prometheus và Epimetheus đã phỏng theo hình dáng của các vị thần mà tạo ra loài người. Tại phương Đông, sau khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, thần Nữ Oa đã du ngoạn khắp đó đây giữa trời và đất. Và khi bay lượn dọc theo sông Hoàng Hà, Nữ Oa cúi đầu thấy bóng dáng xinh đẹp của mình mà bất giác vui mừng. Bà quyết định dùng bùn đất dưới sông nặn một người theo hình dạng của thần.
Đại náo Thiên Cung, Đại Thánh bị giam dưới Ngũ Hành
Ngộ Không có xuất thân cao quý như vậy nên căn cơ cũng rất phi phàm. Bởi vậy mà Ngộ Không là người duy nhất trong chúng đệ tử được Bồ Đề Tổ Sư bí mật trao truyền cho tiên đạo.

Ở đây cũng cần nói thêm rằng, Đạo gia khác với Phật gia ở chỗ: Phật gia chú trọng tu “Thiện”, nên giảng phổ độ chúng sinh. Nhưng Đạo gia thì không như vậy, Đạo gia giảng “Chân”, chú trọng thanh tu độc tu, vì vậy mà sư phụ dù có thu nhận bao nhiêu đồ đệ thì trong đó chỉ có một đệ tử được chân truyền.
Trong truyện cũng viết, vào đêm khi truyền đạo pháp cho Ngộ Không, Tổ Sư Bồ Đề đã ngâm bài kệ rằng:
“Chữ Đạo rất diệu huyền,
Tu đâu phải chuyện bỡn
Gặp người tốt mới truyền
Nếu không thành nói uổng
Miệng mỏi lưỡi khô phiền!”

Vì biết Ngộ Không là trời đất sinh ra, là người căn cơ phi phàm, nên Bồ Đề Tổ Sư mới bí mật truyền cho phép trường sinh màu nhiệm, sau lại dạy cho 72 phép thần thông biến hoá.

Kể từ sau khi tu học nơi Bồ Đề Tổ Sư, Ngộ Không đã có thể đi mây về gió, chứng đắc tiên quả, không chỉ chấn nhiếp các quỷ thần khắp bốn bể nghìn non mà còn kinh động tới thần tiên trên thượng giới.

Thế nhưng, khi càng trở nên thần thông quảng đại, càng được chúng thần kính nể, thì Ngộ Không lại càng trở nên kiêu ngạo hống hách: chê Bật Mã Ôn là chức quan quèn nên tự dựng cờ xưng vương “Tề Thiên Đại Thánh”, ở trên Thiên Đình mà náo loạn thiên cung, trộm đào tiên, uống ngự tửu, lấy cắp tiên đan, giao đấu với Na Tra, đại chiến Nhị Lang Thần, sau cùng lại giở thói ngông cuồng trước mặt Phật Tổ và đòi Ngọc Hoàng Đại Đế phải nhường ngôi cho mình.
Nếu so sánh với Ngộ Không thuở mới tầm sư học đạo thì quả là khác xa. Lúc ấy, đứng trước mặt Tổ Sư Bồ Đề, Ngộ Không từng giới thiệu rằng: “Con không có tính gì cả. Người ta chửi con, con cũng không giận. Người ta đánh con, con cũng không thù, chỉ lễ phép với người ta mà thôi.” Vậy mà giờ đây, khi đứng trước Phật Tổ thì Ngộ Không lại ngang nhiên tuyên bố rằng:
“Luyện được trường sinh nhiều phép thuật
Học tài biến hoá rộng vô biên
Chỉ hiềm hạ giới còn eo hẹp
Lập chí lên trời chiếm Cửu Thiên
Bảo Điện lẽ đâu Trời ở mãi
Nhân gian vua chúa vẫn chia truyền
Ngươi tài làm chủ, nhường ta chứ?
Thế mới anh hùng dám đứng lên.”

Ở đây, có thể thấy rằng kiếp nạn 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn không chỉ là báo ứng cho tội danh ‘đại náo Thiên Cung’, mà nguyên nhân sâu xa hơn, chính là do tâm tính Ngộ Không đã rơi rớt xuống phía dưới, không giữ được bản tính thuần thiện lúc ban đầu.
Đạo gia giảng rằng, sinh mệnh chân chính của con người là được sinh ra trên thiên giới. Nhưng hễ tâm tính biến đổi không còn tốt nữa, cũng tức là tạo nghiệp, cá nhân ấy sẽ mang nặng tâm phàm mà rơi rớt xuống phía dưới.(??? )
Không chỉ riêng Tôn Ngộ Không mà từ lai lịch của các nhân vật trong Tây Du Ký chúng ta cũng có thể thấy điều đó: Đường Tăng vốn là Kim Thiền Tử, là đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đày xuống hạ giới, rốt cuộc phải tu luyện lại từ đầu. Còn Trư Bát Giới thì trêu ghẹo Hằng Nga, Sa Ngộ Tĩnh lỡ tay làm vỡ chén lưu ly, Tiểu Bạch Long phóng hoả đốt viên minh châu – đó đều là tội nghiệp khiến họ bị tước bỏ thần vị, và phải mang thân phàm mà tu luyện mới có thể quay trở về.
Vậy nói đến đây, ta có thể hiểu được ẩn ý của cái tên “Ngũ Hành Sơn”. Đạo gia giảng về âm dương ngũ hành, coi Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là 5 yếu tố cấu thành nên vạn vật. Nhưng “ngũ hành” dẫu sao vẫn chỉ là vật chất của tam giới chứ không phải nơi thượng giới. Bởi vậy, Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành cũng chính là bị chôn vùi nơi trần thế, bị khống chế trong cái thân xác phàm mà không thể tự tại, tiêu dao…
Tu luyện là để quay trở về
“500 năm bãi bể nương dâu
Tảng đá cứng đã phủ xanh rêu,
phủ xanh rêu…
Chỉ một trái tim người chưa chết
Nhìn lại quá khứ tiêu diêu tự tại,
tiêu diêu tự tại…”

Người ta nói, con người đến nơi trần thế là phải chịu kiếp luân hồi. Luân hồi nghĩa là đời này là người, nhưng đời sau có thể là thực vật, động vật, thậm chí là vật vô giác vô tri. Cũng giống như biển xanh qua tháng năm đằng đẵng mà biến thành ruộng cạn, dẫu kiếp này là anh hùng hào kiệt, là bậc công tử vương tôn, thì ai còn biết rằng kiếp sau có được mang thân người hay không? Vậy mới nói, đời người là bể khổ, hạnh phúc dẫu có cũng chỉ là niềm vui thoáng qua, huy hoàng cả một đời cũng chỉ như ánh đèn loé lên trong phút chốc.
Đời người là bể khổ, khổ nhưng cũng là mê. Con người sống trong mê nên mới chìm đắm trong danh lợi vật chất mà quên mất bản nguyện của mình là phải quay trở về.
Đạo gia giảng rằng, con người đến thế gian không phải vì để làm người, mà là để phản bổn quy chân, quay trở về Thiên giới.
Ở đây không phải chúng ta đang nói điều huyền hoặc, cũng không phải nói chuyện hoang đường, mà là đứng từ góc độ Phật gia và Đạo gia để hiểu về tác phẩm của người tu hành. Ta biết rằng, Ngô Thừa Ân là bậc đại sĩ am hiểu cả Phật và Đạo. Ông viết Tây Du Ký không phải để kể những chuyện thần tiên quỷ quái mua vui cho người đời, mà là thông qua câu chuyện thỉnh kinh của Đường Tam Tạng mà gửi vào đó cả thiên cơ rộng lớn.
Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để trở về? Đó chính là tu luyện! Vì tu luyện, mà qua mỗi lần văn minh xuất hiện lại có Đại Giác Giả hạ thế độ nhân. Những bậc giác giả như Giê-su, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni, đã khai sáng cho nhân loại một con đường tu luyện. Nhưng tu luyện không phải là vứt bỏ hết thảy mọi vật chất, không phải là chối bỏ người thân, cũng không phải là chui vào hang động trong núi, cách xa khỏi nơi xã hội con người — âu đó chỉ là phương pháp của một vài pháp môn trong quá khứ, chứ không phải là bản chất của tu hành. Mà bản chất của tu hành thực sự, chính là buông bỏ tâm phàm, cuối cùng đạt tới cảnh giới của bậc trí giả.
Giống như trong hồi 85, khi Ngộ Không nói với Đường Tăng rằng: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.” (Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu, Linh Sơn trước mắt lại tìm đâu! Ai ai cũng có Linh Sơn tháp, tu ở Linh Sơn đạo rất mầu), Đường Tăng đã trả lời: “Đồ đệ ạ, ta há không biết sao? Nếu theo bốn câu ấy, dù thiên kinh vạn quyển cũng chỉ là tu tâm.”
Tu luyện là thần thánh, tu luyện là thiêng liêng, vậy mà người đời hễ nghe đến “tu luyện” lại lắc đầu coi như điều u mê ngu muội. ‘Thân người khó được, Phật Pháp khó tìm’ [2], nếu bỏ lỡ cơ duyên vạn cổ này thì sẽ là điều ân hận nhất của sinh mệnh. Bởi vậy, khổ thơ cuối cùng của bài hát kết thúc bằng một câu hỏi, giống như lời nhắc nhở cho mỗi chúng ta:
“Đã phí hoài năm tháng,
Mang theo bao hoài bão.
Vì sao mà, vì sao mà,
Ta lại chịu sự an bài này?”

Chú thích:
[1] Ngoài lời bài hát, các trích dẫn trong bài viết lấy từ bản dịch Tây Du Ký của dịch giả Thuỵ Đình, NXB Văn Học (2015)
[2] Trong nguyên tác là: “Nhân thân nan đắc, Trung thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” nghĩa là: Thân người khó được, Trung thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!

Huyền cơ ẩn sau những nhân vật được lựa chọn trong Tây Du Ký
(sưu tầm)
 
Last edited:

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao yêu quái cũng có thể ‘phù hộ’ cho con người?

“Lục Tổ Đàn Kinh” viết: “Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm”, nghĩa là: Bậc Thánh nhân cầu tâm chứ chẳng cầu Phật, còn kẻ ngu muội chỉ cầu Phật mà chẳng cầu tâm…

Đứng đầu Tứ đại danh tác, Tây du ký* viết về hành trình thỉnh chân kinh của thầy trò Đường Tăng, qua đó tái hiện sinh động cảnh giới mỹ diệu của chư Thần, Phật từ bi quảng đại, đối lập với thế giới âm ám của những loài quỷ quái yêu ma, đan xen cùng những hỉ nộ ai lạc nơi thế gian con người. Có thể nói, ai đọc hiểu Tây du ký, người ấy thực sự có thể nhìn thấu những ảo vọng và huyễn hoặc cõi hồng trần, giác ngộ rất nhiều đạo lý. Trong cuốn tiểu thuyết dài 100 hồi này, nhiều lần các đấng Giác Giả đã triển hiện Thần tích, cứu độ sinh linh trong biển khổ, ví như cố sự Quán Âm Bồ Tát hiện thân xách làn cá, thu phục yêu quái sông Thông Thiên. Tuy nhiên, một điều lạ lùng là không ít lần, yêu quái cũng “phù hộ” cho con người mưa thuận gió hoà, an cư lạc nghiệp. Vì sao chúng lại “tốt bụng” như thế?
Chuyện kể rằng, khi thầy trò Đường Tăng đi qua Xa Trì quốc, gặp sông Thông Thiên nghẽn lối nên đành nghỉ trọ một đêm ở nhà họ Trần, nhân đây mới được nghe kể về một vị “đại vương” phù hộ dân chúng. Hồi
47: “Thánh tăng đêm vướng sông Thông Thiên, Hành Giả thương tình cứu con trẻ” có viết:

“Cụ già hỏi:
– Các ngài đến bờ sông có nhìn thấy cái gì không?
Hành Giả thưa:
– Chỉ thấy một tấm bia, trên có ba chữ “sông Thông Thiên”, dưới có mười chữ “rộng hơn tám trăm dặm, từ xưa ít người qua”. Ngoài ra không thấy vật gì khác.
Cụ già nói:

– Đi quá lên phía trên một ít, cách tấm bia chừng một dặm có ngôi miếu “Linh Cảm đại vương”, ngài không thấy sao?
Hành Giả nói:
– Không thấy, xin cụ nói rõ thế nào là Linh Cảm?
Hai cụ già đều sa nước mắt, nói:
– Các ngài ơi đại vương ấy:

Cảm ứng một phương xây miếu vũ,
Uy linh nghìn dặm giúp dân tình.
Quanh năm đồng ruộng rơi mưa ngọt.
Suốt tháng thôn cư rợp ráng vàng.

Hành Giả nói:
– Mưa ngọt, ráng vàng thì tốt quá, tại sao các cụ lại còn buồn rầu phiền não?
Cụ già giậm chân vỗ ngực, hừ một tiếng, nói:
– Các ngài ơi!

Tuy đội ơn sâu thành oán nặng,
Từ tâm mà lại hóa vô nhân.
Trẻ con nộp mạng ngài ăn thịt,
Chẳng phải chiêu chương chính trực thần!

Hành Giả nói:
– Đòi ăn thịt trẻ con trai gái à?
Cụ già nói:
– Thưa vâng.
Hành Giả hỏi:
– Chắc lần này đến lượt nhà cụ?
Cụ già nói:
– Năm nay đến lượt nhà tôi. Nơi chúng tôi đây có khoảng trăm gia đình cư trú, thuộc sự cai quản của huyện Nguyên Hội, nước Xa Trì, tên gọi Trần gia trang. Vị đại vương này một năm một lần tế, phải dâng cho ngài ấy một đứa bé trai, một đứa bé gái, cả lợn, dê, rượu, ngài ấy xơi một bữa no, rồi phù hộ cho chúng tôi mưa thuận gió hòa. Nếu không tế như thế, thì gieo tai giáng họa ngay”.
“Linh Cảm đại vương” kia hoá ra là một con cá thành tinh, tác oai tác quái ở sông Thông Thiên này.

Câu chuyện yêu quái ăn thịt trẻ con rồi mới phù hộ, thoạt nghe thì rùng rợn, nhưng để nói một sự thật chung: các loại tà ma cũng có thể “giúp đỡ” con người, nhưng giúp đỡ là có điều kiện và giá cả. Đôi khi, cái giá ấy có thể đắt bằng chính sinh mệnh con người.
Trong Tây du ký, nhiều lần ta bắt gặp yêu quái cũng mang đến những điều “tốt đẹp” trong con mắt của loài người. Ví như ba con hổ, hươu, dê thành tinh tại Xa Trì quốc có tài gọi gió hô mưa, luyện đá thành vàng, được quốc vương trọng vọng kết làm thân thích. Hay như ba yêu quái tê giác giả trang đức Phật ở phủ Kim Bình, hàng năm vẫn thụ hưởng dầu đèn, ban mưa hoà gió thuận. Trước khi Tôn Ngộ Không tới, không ai nhận ra chúng là đạo sĩ yêu tinh hay Phật Đà giả mạo.
Phải chăng, ngày nay cũng tồn tại nhiều yêu tinh như thế mà con người chưa nhận ra? Nhiều người làm lễ tiêu tai giải hạn, cầu phúc cầu tài, cúng “Phật”, hầu “Thánh”… chi phí lên đến hàng chục hàng trăm triệu đồng, kết quả cũng thấy linh ứng. Mọi người đều biết, Thần Phật là những bậc giác ngộ, cứu khổ cứu nạn chỉ xuất phát từ lòng từ bi, không mong cầu báo đáp điều gì. Nếu Thần Phật cũng nhận tiền rồi đáp ứng, chẳng hoá ra không hơn gì kẻ tham ô nhận hối lộ hay sao? Thế thì, mấy vị “Thánh”, “Phật” nhận lễ vật rồi phù hộ cho phát tài, sinh con trai… kia có phải là Phật thật hay không, có lẽ mọi người đều có lời giải đáp.
Vậy vì sao yêu tinh cũng có thể “phù hộ” cho con người? Là vì trong vũ trụ này tồn tại hai thế lực Thiện và Ác, yêu ma mang năng lượng đen tối cũng có thể triển hiện một số “phép màu” nhất định. Tuy nhiên, vì bản tính của chúng là tà ác, chúng giúp đỡ con người là “tiền trao cháo múc”, hoặc muốn trao đổi lấy những tinh hoa trong thân thể con người. Một số người “cầu được ước thấy” thì cảm thấy rất tốt, cho rằng dù tôi đang cầu yêu quái cũng chẳng sao, hiện tại sung sướng, nổi danh phát tài là được rồi. Nhưng họ đâu biết, chính mình đang tiêu hao phúc đức của bản thân, tội nghiệp càng ngày càng nhiều, tương lai đến lúc tội nghiệp quá sâu dày thì sẽ đi đến huỷ diệt.
Thật vậy, quốc vương nước Xa Trì cầu được ba “đạo sĩ” biết hoán vũ hô phong thì vui vẻ vô cùng, tới lúc chúng bị Tôn Ngộ Không vạch trần chân tướng thì mới đau lòng tỉnh ngộ. Tôn Hành Giả nói: “Vì khí số của bệ hạ còn vượng, nên chúng chưa dám ra tay đấy thôi. Nếu quá hai năm nữa, khí số bệ hạ suy bại, chúng hãm hại tính mạng bệ hạ ngay, lúc ấy một dải giang san của bệ hạ sẽ lọt vào tay chúng”.
Một số người có thể thắc mắc, Thần Phật từ bi tại sao không trực tiếp giúp đỡ con người, tiêu tai giải nạn, chữa lành bệnh tật, thế thì chẳng phải sẽ không còn cơ hội cho lũ yêu tinh lừa gạt nhân loại hay sao? Thực ra, Thần Phật hoàn toàn có thể làm được điều đó, chỉ cần con người có một tấm lòng thành sám hối, hồi tâm hướng thiện mà thôi. Bởi vì Thiện lương chính là bản nguyên của sinh mệnh, cũng là sự bảo hộ an toàn nhất cho mỗi người. Kinh điển Đạo gia “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên” có viết:
“Người thiện lương thì ai ai cũng kính trọng. Trời giúp đỡ họ. Phúc lộc đi theo bên họ. Mọi tà quái tránh xa họ, Thần linh hộ vệ. Mọi việc họ làm đều thành công. Họ có thể hy vọng trở thành Thần Tiên…”
Giới tu luyện xưa nay đều nói thế gian con người là biển khổ, con người bị dục vọng chi phối, trong mê mờ mà làm nhiều việc ác, nên mới phải chịu khổ chịu nạn để hoàn trả tội nghiệp này. Thoải mái hành ác, rồi lại không phải chịu bất kỳ báo ứng nào, ấy là đi ngược lại với Pháp lý vũ trụ. Muốn khỏi bệnh, hết nạn, thì chỉ có thành kính hướng về Thần Phật, sám hối tất cả lỗi lầm đã gây ra, nguyện tu sửa bản thân hồi tâm hướng thiện. Tấm lòng thành này như vàng kim loé sáng, Thần Phật mười phương đều nhìn thấy, nên có thể giúp đỡ con người vô điều kiện.
Ở hồi 85: “Hành Giả đố kỵ lừa Bát Giới, Ma vương bày mẹo bắt Đường Tăng” cũng đoạn nhắc đến “tấm lòng thành” này như sau:
“Tam Tạng nói:
Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu,
Linh Sơn tại tâm có xa nào.
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp.
Chân tháp tu hành tốt biết bao!

– Đồ đệ ơi, ta há không biết? Nếu cứ y theo bốn câu thơ ấy thì muôn kinh nghìn điển cũng chẳng bằng tu tâm à?
Hành Giả nói:
– Đúng rồi. Tâm lắng có mình riêng chiếu, tâm còn vạn cảnh đều trong, sơ suất lỡ lầm thành biếng nhác, nghìn đời muôn kiếp chẳng thành công, chỉ cần một tấm lòng thành, Lôi Âm ở ngay trước mặt…”.
Thần Phật độ nhân không nói điều kiện và giá cả, chỉ duy nhất cần một tấm lòng thành đó thôi. Người xưa nói: “Trên đầu ba thước có Thần linh”, dù đôi mắt thịt của người thường không nhìn thấy, nhưng Thần Phật thực sự có rất nhiều, ở khắp xung quanh ta. Không cần bạn phải đi khắp đình chùa miếu mạo, trời nam đất bắc, sắm hậu lễ, cầu danh sư; chỉ cần bạn thực sự có lòng thành sám hối, hướng thiện tu tâm, thì Thần Phật có thể giúp bạn vượt qua kiếp nạn.
Quả vậy, Tây du ký có thơ rằng:
“Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu
Đời người, bọt nước khác gì đâu.
Sớm còn thắm đỏ đôi gò má
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.
Giấc điệp tàn rồi, đời ảo cả
Cuốc kêu da diết hãy quay đầu.
Xưa nay làm phúc đều tăng thọ
Ở thiện trời thương,
lọ phải cầu”.
Ảnh minh họa: Phim Tây Du Ký 1986
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(Sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* 6 bí mật của Tây Du Ký ít người hiểu thấu: Tôn Ngộ Không rốt cuộc là ai?

Tôn Ngộ Không là một nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết trường thiên Tây Du Ký, một trong tứ đại danh tác cổ điển của Trung Hoa. Có người nói Tây Du Ký là tiểu thuyết thần thoại, tiểu thuyết thần ma. Kỳ thực, đó là mượn câu chuyện thỉnh kinh để nói về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn, đắc Đạo.

1. Tôn Ngộ Không và tâm viên

Tôn Ngộ Không là ai? Trong sách nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không là “tâm viên” (lòng vượn). Trong hồi thứ 7, “Đại Thánh trốn khỏi lò Bát Quái, dưới Ngũ Hành Sơn định tâm viên” có một bài tụng rằng: “Khỉ đây đạo thể hợp tâm người, tuy khỉ nhưng lòng nghĩ đến nơi”.

Hồi thứ 58, trong một tình tiết liên quan đến Mỹ Hầu vương thật giả, Như Lai nói hai con khỉ này là “hai lòng”. Hai vị Hầu vương cùng nhau lên trời xuống đất, cuối cùng đánh đến trước tòa Bảo Tọa của Như Lai Phật Tổ. Như Lai lúc ấy đang giảng Pháp, trông thấy hai vị Hầu vương, bèn tức thời rời khỏi bảo tọa, nói với mọi người rằng: “Các ngươi đều là một lòng cả, hãy xem hai lòng kia đang ganh đua tranh đấu với nhau mà đến này”. Tiêu đề trong hồi này cũng đã chỉ rõ: “Hai tâm làm loạn càn khôn rộng, một thể khó tu thành tịch diệt”.

Một người nếu ôm giữ quá nhiều nhân tâm, nhưng bản thân chỉ có một thân thể thì tu như thế nào đây? Đương nhiên Càn Khôn đều sẽ bị xáo trộn cả.

Trong phần kể về việc Ngộ Không chế thuốc trị bệnh cho quốc vương nước Chu Tử, có tiêu đề là “Hành Giả nửa đêm điều thuốc tễ; quân vương trên tiệc kể yêu ma”.

Vậy thì, Ngộ Không là lòng vượn của ai đây? Thật ra, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã – năm vị này hợp lại chính là một người. Trong hồi thứ 32, trong sách nói họ là “một lòng đồng thể, cùng đến Tây phương”.

Nói như vậy, có thể rất nhiều người cảm thấy khó lý giải: Tâm của Đường Tăng sao lại biến thành một sinh mệnh khác được? Thật ra, giới tu luyện xưa nay luôn giảng rằng bên trong thân thể có rất nhiều các chủng các loại sinh mệnh khác nhau, giống như trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói: “Ba hồn bảy vía đều là bạn”; trong Đạo gia cũng có câu rằng thân người tự có “ba thây ma”.

Thật ra, Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã – năm vị này hợp lại chính là một người. (Ảnh: Youtube)

2. Ngũ vị nhất thể

Trong sách, tác giả gọi Đường Tăng là bản tính, thiền tính, cũng là chủ nhân của cái thân thể này, vậy nên ông là thai phàm mắt thịt. Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng. Bạch Long Mã là ý chí, cũng chính là “ý mã” được viết trong sách.

Mộc Mẫu là chỉ Bát Giới, Mộc trong ngũ hành. Kim Công vẫn là chỉ Ngộ Không, đối ứng giữa Mẫu (cái) và Công (đực) cũng chính là âm và dương. Bởi vì Hỏa có thể khắc Kim, gọi là “Kim chi công”, vậy nên Kim Công cũng chỉ Hỏa. Bởi vì Thủy có thể sinh Mộc, vậy nên Mộc Mẫu cũng bao gồm Thủy trong đó. Từ trên thuộc tính của âm dương mà nói, Mộc và Thủy cùng thuộc âm, Kim và Hỏa lại đều cùng thuộc về dương.

Âm dương giao hòa, đều cần Thổ tương trợ, Thổ tức là chỉ Sa hòa thượng, lại được gọi là Hoàng Bà. Toàn bộ tác phẩm Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới tranh tranh đấu đấu, đố kỵ với nhau, không ngừng xích mích mâu thuẫn, đó chính là quá trình âm dương xung khắc trong tu luyện, trong khi Sa hòa thượng đóng vai trò là người hòa giải. Mãi cho đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến hài hòa nhất trí với nhau.

Trong sách nhiều lần ám thị năm thầy trò là sinh mệnh trong cùng một thân thể. Đến cuối cùng, khi “Năm thánh thành Phật” có một bài thơ nói càng rõ ràng hơn, bốn câu mở đầu trong đó là:

“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành luận sắc không về tịch,
Trăm quái hư danh chẳng luận bàn”.

“Một thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa bốn tướng” là thuật ngữ trong giới tu luyện. Đạo gia xem thận, tim, gan, phổi lần lượt đại biểu cho Huyền Vũ, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ; trong ngũ hành lại ứng với Thủy, Hỏa, Mộc, Kim. Tương sinh trong ngũ hành, Mộc có thể sinh Hỏa, Kim có thể sinh Thủy. Trong Tính Mệnh Khuê Chỉ giảng, Long – Mộc sinh Hỏa, cùng thuộc về tim; Hổ – Kim sinh Thủy, cùng thuộc về thân.

Bốn thầy trò, mỗi người chính là một phần của một thân thể hợp nhất, chỉ có đồng lòng tu tâm hướng Phật mới đắc được chân kinh. (Ảnh: Youtube)
Tâm không động thì nguyên khí ngưng tụ, thân không động thì nguyên tinh tụ hội. Tinh khí ngưng tụ, tức là chỉ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hòa quyện vào trong Thổ. “Tứ tượng hòa hợp” tức chỉ điều này. Trong hồi 1 của Tây Du Ký có câu thơ rằng:

“Ba dương hòa, nở muôn loài
Đá tiên chứa đựng đất trời tinh hoa
Hầu tinh từ trứng hóa ra
Họ tên đổi khác thật là khéo thay

Trong tàng ẩn tướng có hay?
Vẻ ngoài cũng chẳng thua ai hình hài
Nhân gian kiếp kiếp trò đời
Xưng vua, xưng chúa một thời dọc ngang”.

Từ đây mà nói, trong tâm mỗi chúng ta đều có sẵn một Mỹ Hầu vương, chỉ là nó “Khi thiện thành Phật, thành tiên; Khi ác lông thú với sừng mọc ngay”, cũng là xem mỗi người làm sao điều khiển nó mà thôi.

3. Con đường lấy kinh chính là quá trình tu tâm

Tu thành chính quả, kỳ thật cũng là một quá trình tu tâm. Ngô Thừa Ân ngay trong hồi mục đầu tiên đã trực tiếp chỉ rõ quan điểm này: “Gốc thiêng ấp ủ nguồn rộng chảy; Tâm tính tu trì Đạo lớn sinh”. Phật gia có một cách nói, gọi là “Phật tại tâm trung”, “tâm tức là Phật”. Không phải nói là trong tâm có ông Phật nào cả, mà là nói cần phải hướng nội mà tu, nhắm thẳng vào cái tâm của bản thân mình mà tu, vậy mới có thể tu luyện thành Phật được.

Dù cho Mỹ Hầu vương đã trải qua bao nhiêu quá trình, kinh qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng chính là vì để ngộ ra được chân Pháp chân Đạo trong tâm của mình.

Tôn Ngộ Không bản tính ngang tàng, tựa như trông mỗi con người chúng ta đều có một tính khí tương tự. (Ảnh: Youtube)
4. Chân Pháp chân Đạo ngay ở trong tâm

Khi vân du tầm sư học Đạo, Ngộ Không tìm được Bồ Đề Tổ Sư ở đâu đây? Trong sách viết là ở núi Phương Thốn, Linh Đài, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Câu này nói đến là chữ “tâm” (心), người thời xưa thường nói “tâm” thành “Linh đài”, còn điều mà “phương thốn” chỉ đến cũng là cái tâm của người ta. “Tà nguyệt tam tinh động” thì càng rõ ràng hơn, “tam tinh” (ba ngôi sao) chính là ba dấu chấm của chữ “tâm”, còn “tà nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là một nét bút bên dưới. Mỹ Hầu vương trải qua biết bao muôn vàn khó khăn gian khổ, cuối cùng đã tìm được Chân Pháp chỉ đạo tu luyện chính là ở ngay trong tâm.

Cũng giống như việc tụng kinh, niệm Phật mà Bồ Đề Tổ Sư nói, chẳng qua chỉ là “trồng cột trong vách”, còn như tham thiền, đả tọa thì như “hòn đất trong lò”. Không có tu trì tâm tính một cách thiết thực vững chắc ngay trong cuộc sống hiện thực này, thì mọi việc thành ra đều uổng công cả.

Tôn Ngộ Không theo Bồ Đề Tổ Sư tu Đạo hơn 20 năm, tu thành Thái Ất tản Tiên. Đây cũng là chỉ người vừa mới bước vào cánh cửa tu luyện, rất nhiều các thứ thần thông thuật loại đều đã xuất lai. Nhưng còn về vấn đề tâm tính và ma luyện vượt quan, phía trước Ngộ Không vẫn còn là cả một chặng đường dài.

Nếu Tôn Ngộ Không chính là tâm, có một câu nói gọi là “lòng vượn khó trói buộc”. Tâm của con người ta hệt như núi sông đảo lộn, tạp niệm trong tâm cùng phát một lúc, nghĩ ngợi đủ thứ. Những lúc không có bản sự thì không có gì để nói, còn một khi đã có bản sự rồi, hãy xem y lên trời xuống đất, được ban danh hiệu “Tề Thiên Đại Thánh” vẫn còn chưa thỏa lòng. Cuối cùng đại náo thiên cung, bị Phật Tổ Như Lai hàng phục, đè dưới núi Ngũ Hành 500 năm.

Cũng may sau khi trải qua 500 năm ấy, cuối cùng Ngộ Không cũng giật mình tỉnh ngộ. Ngộ Không nói với Quan Âm Bồ Tát đến khuyến hóa rằng: “Tôi đã biết lỗi rồi, cúi xin Đấng Đại Từ Bi chỉ cho một con đường, từ nay tình nguyện tu hành”. Từ đó Ngộ Không đi theo Đường Tăng thỉnh kinh, tu tâm phóng hạ chấp trước, vượt qua trùng trùng ma nạn, cuối cùng từ một yêu tiên đã chứng đắc được quả vị Phật Đà.

Tôi đã biết lỗi rồi, cúi xin Đấng Đại Từ Bi chỉ cho một con đường, từ nay tình nguyện tu hành. (Ảnh: Youtue)
5. Định trụ lòng vượn, trừ bỏ mọi can nhiễu bên ngoài

Trong hồi thứ 14, “Lòng vượn quy chính, sáu giặc mất tăm”, thầy trò trên đường gặp phải sáu tên giặc, tên gọi là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) – đây chính là lục căn. Ngộ Không đánh chết chúng, lại bị Đường Tăng trách mắng, Ngộ Không không thể chịu được liền bỏ đi. Sau đó, Bồ Tát đã ban cho Tam Tạng một chiếc vòng kim cô, và một bài Khẩn Cô Nhi Chú, cũng gọi là “Định Tâm Chân Ngôn”, từ đó mới quản được “lòng vượn” này.

Là một con người, chúng ta thông qua thân thể và cảm quan để nhận biết thế giới. Nhưng cùng lúc cảm nhận cũng mang đến sự quấy nhiễu đối với cái tâm, từ đó sản sinh ra thất tình lục dục. Ngộ Không đã thấy được điểm này, bèn ra sức đánh chết chúng, nào biết chăng làm như vậy chỉ có thể trị được cái vỏ bề ngoài chứ không thể giải quyết tận gốc được. Suy cho cùng, đây vẫn là hướng ngoại mà cầu, bởi vậy Đường Tăng không chút cảm kích nào.

Nếu muốn trừ bỏ can nhiễu, vẫn cần phải đặt công phu vào cái tâm. Biện pháp thật sự chính là “định tâm”, bởi vậy Bồ Tát đã truyền thụ “Định Tâm Chân Ngôn” cho Đường Tăng, cũng chính là muốn tu bỏ cái tâm đó. Một khi cái tâm được quy chính rồi, can nhiễu bên ngoài tự nhiên cũng sẽ không khởi tác dụng nữa.

Từ đó sẽ làm được mắt nhìn thấy mà không vui, tai nghe thấy mà không giận, mũi ngửi thấy mà không yêu thích, lưỡi nếm mà không nghĩ tưởng, ý thấy mà không mong cầu, tấm thân cũng không cần phải lo nghĩ. Làm một người tu luyện, điều cần làm trước tiên chính là quản tốt cái tâm của mình. Sau khi cái tâm định trụ lại rồi, lòng vượn sẽ thời thời khắc khắc nhắc nhở Đường Tăng thân phàm mắt thịt phải làm chủ chính mình.

Ví như trong hồi thứ 43, Đường Tăng bởi nghe thấy tiếng nước réo ầm ầm, sợ hãi giật mình kinh sợ, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Chúng ta là những người xuất gia, mắt không nhìn sắc, tai không nghe thanh, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không biết nóng lạnh, ý không còn vọng tưởng. Như vậy mới gọi là từ bỏ sáu giặc. Giờ đây sư phụ đi cầu kinh mà cứ nơm nớp trong lòng sợ yêu quái, không chịu xả thân, lưỡi muốn ăn bữa chay, mũi ngửi mùi thơm ngọt, tai ưa nghe âm thanh, mắt ngắm nhìn sự vật, sáu giặc ầm ầm kéo đến, thì làm sao mà sang phương Tây lễ Phật được?”.

Lúc cảm nhận sự đời cũng mang đến sự quấy nhiễu đối với cái tâm, từ đó sản sinh ra thất tình lục dục. (Ảnh: Youtube)
6. Thu phục ý mã, dứt bỏ cái tâm cuồng vọng

Có câu nói “tâm viên ý mã” (lòng vượn ý ngựa), sau khi lòng vượn quy chính rồi, thì ý ngựa nhất định phải thu hồi dây cương, trong phần thu phục Bạch Long Mã cũng có câu “ý mã thắng cương”. Nhưng thu phục ý mã lại khá tốn công phu, nguyên nhân vì sao? Chỉ là bởi sự kiêu căng ngạo mạn thái quá của Tôn Ngộ Không!

Ngộ Không bản tính là cao ngạo, quả đúng là người đến từ Ngạo Lai quốc. Thiên đình phong cho chức quan “Bật mã ôn” còn chê nhỏ, muốn làm Tề Thiên Đại Thánh; làm được Tề Thiên Đại Thánh rồi, lại cuồng vọng muốn đuổi Ngọc Hoàng đi. Ngộ Không ở trong lòng bàn tay của Phật Tổ nhảy cân đẩu vân, tưởng rằng đã đến được nơi tận cùng của trời đất, đã viết trên đó rằng “Tề Thiên Đại Thánh đã đến đây vui chơi” – cái tâm ngạo mạn có thể thấy được trong những lời này.

Loại ngạo mạn này trên thực chất chính là bởi trong tâm có sự bất kính đối với Thần Phật. Bất cứ pháp môn tu luyện Chính Pháp nào đều giảng như vậy, con người ở thế gian đều không tách khỏi sự bảo hộ trông nom của Thần Phật. Nhưng con người ở trong mê, không biết hết thảy những gì bản thân có được đều là đến từ sự bảo hộ của Thần Phật, trái lại lại cảm thấy bản thân mình rất có bản sự. Con người ta một khi đã có cái tâm ngạo mạn rồi, vốn không chỉ là sự cao ngạo với người nào hay sự tình nào đó thôi đâu, mà là trong mọi ngôn hành đều sẽ thể hiện ra cái tâm ngạo mạn đó.

Trong Tây Du Ký giảng, Đường Tăng nguyên vốn là Kim Thiền Tử, đệ tử thứ hai của Như Lai Phật Tổ, bởi vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đày xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao lại khinh mạn Phật Pháp, đó không phải bởi ông có tâm ngạo mạn rồi mới dẫn đến sự khinh mạn ấy hay sao? Kết quả cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Còn sự cuồng vọng ngang ngược của Tôn Ngộ Không, kết quả cuối cùng là bị đày dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm.

Trong quá trình thu phục ý mã, những trắc trở và khó khăn gặp phải cũng chính là để trừ đi cái tâm tự đại và ngạo mạn của Đường Tăng và Ngộ Không. Nếu không có cái tâm tự đại, vậy thì chính như Quan Âm Bồ Tát đã nói: “Con khỉ kia chỉ chuyên cậy sức khỏe, có chịu khen ai bao giờ đâu. Lần này đi trước còn có người quy thuận nữa đấy. Nếu có ai hỏi, thì phải nhớ trả lời ngay là đi ‘lấy kinh’. Như vậy người ta quy phục liền, có đỡ nhọc sức không?”. Ngộ Không vui vẻ nhận lời, cũng là bởi tự thân đã biết mình sai.

Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Vũ Dương biên dịch


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký: Vì sao yêu quái đẩy vua nước Ô Kê xuống giếng lại là do Phật Tổ sai đến?

Khi Văn Thù Bồ Tát thu phục con yêu quái đã đóng giả chân nhân đẩy vua nước Ô Kê xuống giếng dìm trong ba năm, ngài đã nói rõ ngọn ngành của sự việc tưởng như “oan trái” này.

Chuyện kể rằng,
Tam Tạng ngồi trong thiền đường dưới ánh đèn, tụng hết một lượt quyển kinh Lương Hoàng Thủy Sám và kinh Khổng Tước mãi tới canh ba mới cất vào tay nải. Bên ngoài bỗng một trận gió lớn nổi lên, Tam Tạng lấy vạt áo che lại, trong lòng có phần sợ hãi. Song do quá mệt mỏi Tam Tạng gục đầu xuống án, thiu thiu mơ màng. Đang mơ mơ màng màng, Tam Tạng nghe trong tiếng gió vút qua bên ngoài thiền đường, thì gặp oan hồn của vua nước Ô Kê.

Vua nước Ô Kê kể lại sự tình. Năm năm trước, nước Ô Kê gặp đại hạn, dân chúng chết đói thê thảm mà kho tàng trong nước trống rỗng. Quốc vương tắm gội trai giới, ngày đêm thắp hương cầu mưa, trong vòng ba năm liền, mà trời vẫn đại hạn. Đúng lúc đó gặp được vị chân nhân, vị đó cầu mưa quả nhiên linh ứng. Vua bèn kết nghĩa anh em với chân nhân, cùng ăn cùng ở trong một hai năm. Đến một ngày vua cùng chân nhân đi dạo trong vườn thượng uyển thì bị đạo sĩ đẩy xuống giếng. Kết quả đức vua bị dìm dưới giếng trong ba năm. Đạo sĩ nọ biến thành đức vua rồi thay vào chỗ ngai vàng.

Đường Tăng gọi Hành Giả để giúp đức vua. Ngày hôm sau Hành Giả dùng kế gặp được Thái tử con vua và nói lại sự việc. Thái tử về cung xác nhận với mẹ thì biết rằng vị vua trong triều là giả. Tiếp đến Ngộ Không cùng Bát Giới đến cung điện vớt xác vua ra khỏi giếng rồi đem về chùa nơi Tam Tạng đang ở. Sau đó Ngộ Không xin Thái Thượng Lão Quân một viên “cửu chuyển hoàn hồn linh đơn” mang về cứu sống đức vua.

Ngày hôm sau bốn thầy trò cùng quốc vương vào thành để đổi điệp văn. Họ đến cung điện gặp đức vua giả, trong lòng Ngộ Không quyết tâm trừ yêu quái để giúp vua thật trở lại cai trị nước Ô Kê. Khi vua giả hỏi Ngộ Không về đạo nhân gánh hành lý (vua thật) đi cùng bốn thầy trò, Hành Giả đọc bài thơ sau:

Đạo nhân đây tuổi đã già
Ngu si câm điếc cửa nhà nát tan.
Nơi này vốn chính quê hương
Năm năm trước gặp tai ương lụi tàn.
Trời đại hạn hán héo mòn
Vua quan sĩ thứ lập đàn cầu mưa.
Đèn nhang thành kính sớm trưa
Vậy mà muôn dặm mây mưa thấy nào.

Trăm họ cực khổ lao đao
Núi Chung Nam có anh hào chân nhân
Hô mưa gọi gió thần thông
Rồi sau vua bị hại ngầm thảm thương.
Đẩy thây xuống giếng trong vườn
Cướp ngay ngôi báu trăm quan biết gì.

May ta đến, công quả to
Hồi sinh cải tử thây kia dễ dàng.
Quy y tình nguyện một lòng
Cùng đoàn hòa thượng lên đường sang Tây.
Chân nhân vua giả không sai
Quốc vương chính đạo nhân này đấy thôi.


Thế là vua giả bị phát hiện định chạy trốn ra ngoài thành. Hành Giả đuổi theo quyết bắt được yêu quái. Sau đó hai bên đánh nhau dữ dội, đánh nhau được vài hiệp, yêu ma không chống nổi, vội vàng quay đầu theo đường cũ trốn vào thành, lắc người một cái, biến thành một người giống hệt Đường Tăng. Bát Giới bảo nếu ai niệm được “Khẩn cô nhi chú” là sư phụ thật. Đường Tăng và yêu quái cùng niệm nhưng yêu quái không biết nên ấp úng và bị phát hiện. Bát Giới thấy vậy vung đinh ba bổ xuống. Ma vương tung người nhảy lên tầng mây chạy trốn. Sau đó cả Bát Giới, Sa Tăng và Hành Giả đuổi theo yêu quái.

Ba đồ đệ Đường Tăng đánh nhau một hồi với yêu quái, sau đó Văn Thù Bồ Tát xuất hiện và giải khai tất cả những nút thắt trong câu chuyện quốc vương bị dìm xuống giếng ba năm.

************************

Hồi thứ ba mươi chín Tây Du Ký viết rằng:

…Chà! Lần này ba vị hòa thượng hầm hầm vây chặt một tên yêu quái khốn kiếp. Yêu ma bị Bát Giới, Sa Tăng vung đinh ba, bảo trượng đánh riết hai bên. Hành Giả cười, nói:

– Mình mà xông thẳng vào trước mặt đánh nó, thì nó sợ sẽ chạy mất. Để mình nhảy lên cao, làm cái lối giã gạo kết liễu đời nó!

Hành Giả bèn cưỡi mây lành, bay lên cao tít tầng trời thẳm, định lao xuống hạ thủ. Bỗng ở mé đông bắc, một đám mây ngũ sắc xuất hiện, rồi nghe thấy tiếng nói:

– Tôn Ngộ Không, hãy khoan, chớ đánh vội!

Hành Giả quay người nhìn, hóa ra là Văn Thù Bồ Tát, bèn thu gậy, bước tới vái chào, hỏi:

– Bồ Tát đi đâu vậy?

Văn Thù đáp:

– Ta đến thay nhà ngươi bắt yêu quái.

Hành Giả cảm tạ, nói:

– Phiền ngài quá!

Bồ Tát rút chiếc kính chiếu yêu trong tay áo ra soi rõ nguyên hình yêu quái. Bấy giờ, Hành Giả mới gọi Bát Giới, Sa Tăng lại chào Bồ Tát, rồi cùng nhìn vào trong gương, thấy ma vương cực kỳ hung ác.

Mắt: chén ngọc sáng quắc

Đầu: nồi rang to đùng

Toàn thân xanh như rừng

Bốn móng sương lạnh buốt.

Hai tai thòng xuống mặt

Đuôi chổi dài lê thê

Lông xanh lạnh tái tê

Mắt đỏ lòe tia chớp.

Răng bày như hàng ngọc

Râu mọc tựa giáo dài

Trong gương hiện chẳng sai:

Sư lị vương của Phật.


Hành Giả nói:

– Thưa Bồ Tát, đây là con sư tử xanh ngài vẫn cưỡi, tại sao nó trốn đi rồi thành tinh, mà ngài không thu phục nó về?

Bồ Tát nói:

– Ngộ Không, đâu phải nó trốn đi. Phật sai nó đi đấy.

Hành Giả nói:

– Súc sinh thành tinh, chiếm đoạt ngôi báu mà lại vâng mệnh Đức Phật? Như lão Tôn đây bảo vệ Đường Tăng, chịu gian khổ, cũng lĩnh mấy đạo sắc chắc?

Bồ Tát nói:

– Nhà ngươi không biết. Trước kia vua nước Ô Kê ham làm việc thiện, đãi cơm chay các nhà sư. Phật sai ta xuống độ ông ta về phương Tây, được chứng quả La Hán mình vàng. Nhưng ta không thể cứ để nguyên hình gặp ông ta được, bèn biến thành một nhà sư thường, đến xin ít cơm chay. Ta hỏi vặn cho mấy câu, ông ta không biết ta là người tốt, sai trói ta lại, ngâm ta dưới sông Ngự Thủy ba ngày ba đêm. May nhờ có thần Lục giáp mình vàng cứu ta về phương Tây. Ta tâu chuyện với Như Lai, Như Lai sai quái vật này tới đẩy ông ta xuống giếng, dìm trong ba năm, để báo cái hạn thủy tai ba ngày cho ta. “Một ngụm nước, một miếng cơm đều từ tiền định”. Hôm nay được các ngươi tới đây, lập nên công tích.

Hành Giả nói:

– Ngài tuy báo được mối tư thù “một miếng cơm, một ngụm nước” nào đó, nhưng yêu quái đã hại không biết bao nhiêu người rồi?

Bồ Tát nói:

– Hắn chưa từng hại một người nào. Từ khi hắn đến, suốt ba năm, mưa thuận gió hòa, dân yên nước thịnh, nào có hại ai đâu?

Hành Giả nói:

– Cố nhiên (đương nhiên) như vậy. Nhưng hoàng hậu ba cung đã ăn nằm với hắn, nhơ nhuốc cả thân thể người ta, bại hoại cả luân thường đạo lý, như thế không là hại người à?

Bồ Tát nói:

– Nhơ nhuốc làm sao được! Hắn là con sư tử đã thiến rồi.

***

Hóa ra con yêu quái là do Phật sai đến để giúp quốc vương nước Ô Kê hoàn trả tội lỗi bất kính mà ngài ấy đã gây ra với Văn Thù Bồ Tát. Vua ngâm Văn Thù Bồ Tát trong ba ngày đã phải chịu phạt ba năm dìm trong giếng.

Kim Thiền Tử – đệ tử Phật Như Lai – ngủ gật trong giờ giảng kinh và vô tình đá đổ một hạt gạo nên bị phạt đày xuống trần gian tu 10 kiếp, 9 kiếp qua Lưu Sa Hà bị Sa Tăng ăn thịt, đến kiếp thứ 10 thì khi sinh ra đã mất cha, mẹ thì bị tên lái đò Lưu Hồng chiếm đoạt… Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, khi Phật Tổ đến thu phục lại có ý thách thức, đã bay không ra khỏi lòng bàn tay Như Lai lại còn tè một bãi chỗ ngón tay Đức Phật, rốt cuộc bị nhốt dưới núi Ngũ Hành 500 năm. Do đó, mạo phạm các vị Thần, Phật, Bồ Tát là mang tội rất lớn.

Qua câu chuyện này ta cũng rút ra được ba điều sau.

Thứ nhất, ta biết rằng trong chuyện cổ những bà Tiên ông Bụt thường hóa thân thành những người ăn xin nghèo khổ, còn trong chuyện này thì Văn Thù Bồ Tát hóa thân thành một nhà sư thường… Vậy mục đích của họ là gì? Có thể là để khảo nghiệm chúng ta, xem chúng ta đối đãi với những người hạng dưới ta như thế nào, đồng thời cũng xem chúng ta “ngộ” đến đâu hay chỉ biết làm trên hình thức (như quốc vương nước Ô Kê tuy ham làm việc thiện nhưng lại ra tay độc ác, ngâm nhà sư do Văn Thù Bồ Tát hóa trang ba ngày dưới sông Ngự Thủy). Đồng thời câu chuyện cũng khuyên người ta nên đối xử tốt với người khác, “thương người như thể thương thân”. Bởi vì nếu đối xử với ai cũng tốt, ta sẽ không bao giờ phạm phải tội bất kính.

Thứ hai, dù quốc vương bị phạt ngâm ba năm trong giếng, nhưng trong ba năm đó thời tiết mưa thuận gió hòa, dân yên nước thịnh; thêm vào đó hoàng hậu cung nữ cũng không bị ô uế bởi quốc vương giả vốn chỉ là con sư tử… đã thiến rồi. Ở đây ta thấy Như Lai sắp đặt việc trả nghiệp cho quốc vương nước Ô Kê rất từ bi, chỉ cần trả trong ba năm, khi quay về quốc gia cũng không có xáo trộn gì cả.

Điều cuối cùng có thể học được là tâm thái khi chúng ta đối diện với khổ nạn. Ta gặp trở nạn có thể vì ta nợ hoặc làm hại ai đó trong kiếp trước hoặc kiếp này, do đó phải bồi hoàn. Nhưng những vị Thần Phật có thể đã sắp đặt mọi thứ ổn thỏa cả rồi, vì họ luôn từ bi với con người. Do đó, khi ta hiểu được điều này thì lúc đối diện với những khó chịu, bất công, khổ ải… ta biết rằng mọi thứ xuất hiện đều có nguyên nhân, biết rằng “một ngụm nước, một miếng cơm đều từ tiền định”, từ đó xem nhẹ rồi dần dần vượt qua.

Ghi chú:

Bài viết có sử dụng bản dịch Tây Du Ký của dịch giả Như Sơn, Mai Xuân Hải và Phương Oanh (NXB Văn học Hà Nội 1988).


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao “Tây Du Ký” được coi là thiên cổ đệ nhất kỳ thư?


(lược)
“Tây Du” kỳ thư

* Lược sử Trần Huyền Trang (Đường Tăng).



“Tây Du Ký” được Ngô Thừa Ân viết vào giữa thời kỳ nhà Minh trong thế kỷ 16. Tác phẩm kể về hành trình của bốn thầy trò Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh cầu Phật Pháp.
Đường Tăng là một nhân vật có thật trong lịch sử. Ông họ Trần, tên Y, pháp danh là Huyền Trang, vốn là người ở huyện Câu Thị, Lạc Châu (ngày nay là Yến Sư, tỉnh Hà Nam). Huyền Trang sinh ra vào năm thứ hai niên hiệu Nhân Thọ, thời Tùy Văn Đế (năm 602), lên 11 tuổi thì xuất gia. Từ nhỏ Huyền Trang đã nổi tiếng là thông minh đĩnh ngộ, tư chất siêu phàm, trở thành tăng nhân nổi tiếng khắp kinh thành khi đó.
Vì Phật Pháp lưu truyền tại Trung Thổ thời bấy giờ còn có nhiều chỗ không rõ ràng, nên vào năm thứ 3 niên hiệu Trinh Quán (năm 629), Huyền Trang đã từ kinh đô Trường An nhà Đường sang Tây Thiên thỉnh kinh. Suốt dọc đường ông đã đi qua Tân Cương, Trung Á, trải qua 17 năm ròng rã, trèo đèo lội suối hơn 5 vạn dặm đường. Cho tới năm thứ 19 niên hiệu Trinh Quán (năm 645), ông đã về đến Trường An, mang theo 657 bộ kinh Phật tiếng Phạn. Sau đó ông lại tổ chức phiên dịch kinh sách, dịch ra 75 bộ Kinh, Luận, tổng cộng là 1335 quyển. Huyền Trang đã trở thành nhà Phật học, nhà phiên dịch, nhà lữ hành đầu tiên trong lịch sử có cống hiến đặc biệt trong việc lưu truyền Phật Pháp vào phương Đông.
Từ sau đời nhà Đường, câu chuyện Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh được lưu truyền rộng rãi, dần dần trở thành truyền kỳ nửa thực nửa hư, phong phú ly kỳ. “Tây Du Ký” dựa trên câu chuyện Đường Tăng cầu Pháp, rồi thêm vào đó các tình tiết huyền ảo, mang màu sắc thần tiên. Khi tác phẩm vừa mới ra đời, Đường Tăng, Ngộ Không, Bát Giới, và Sa Tăng đã trở thành những nhân vật nhà nhà đều biết, người người đều hay. Những câu chuyện như “Đại náo thiên cung”, “Ba lần đánh Bạch Cốt Tinh”, “Ba lần mượn quạt Ba Tiêu”, “Tây Lương nữ quốc”, v.v. đã trở thành bộ phận độc đáo hấp dẫn lòng người của văn hóa Trung Hoa.

Duyên khởi lấy kinh
Trong “Tây Du Ký”, cuộc thỉnh Kinh bắt đầu từ một niệm phổ độ chúng sinh của Phật Đà. Đức Phật Như Lai nói: “Ta xem trong bốn đại bộ châu, chúng sinh thiện ác có khác nhau. (…) Duy có người Nam Thiệm Bộ Châu tham dâm gây họa, hay giết hay tranh, chính là nơi đánh nhau cãi cọ, bể ác thị phi”. Sau đó, Đức Phật muốn tìm người có pháp lực sang phương Đông chọn lấy một thiện tín, bảo người ấy chịu đựng gian khổ, vượt qua muôn núi nghìn sông, đến đất Phật cầu lấy chân kinh để lưu truyền sang phương Đông mãi mãi, khuyến hóa chúng sinh. Quan Âm Bồ Tát lĩnh mệnh, quả nhiên đã tìm được thầy trò năm người, trải qua chín chín tám mươi mốt kiếp nạn, cuối cùng đã lấy được chân kinh, năm người đồng thời cũng tu thành chính quả.
Nói đến thầy trò Đường Tăng, mỗi người đều có lai lịch đặc biệt. Đường Tăng vốn là Kim Thiền Tử, là đồ đệ thứ hai của Như Lai Phật Tổ. Vì khinh mạn Phật Pháp mà bị giáng xuống hạ giới, thác sinh thành Đường Huyền Trang.
Tôn Ngộ Không vốn là khỉ đá trong Thủy Liêm động trên núi Hoa Quả Sơn. Bởi nhận thấy sinh mệnh vô thường, Ngộ Không đến Tây Ngưu Hạ Châu tìm học thuật trường sinh, học được 72 phép thần thông biến hóa và thuật cân đẩu vân. Về sau bởi tâm tranh đấu không bỏ, đại náo thiên cung, Ngộ Không bị Như Lai Phật Tổ đè xuống núi Ngũ Hành suốt 500 năm.
Trư Bát Giới nguyên là Thiên Bồng Nguyên Soái trấn giữ Thiên Hà, bởi uống rượu say chọc ghẹo Hằng Nga, bị Ngọc Đế phạt đánh hai trăm chùy, đày xuống phàm trần. Sau cùng chuyển sinh vào bụng heo, trở thành hình dáng xấu xí mũi dài tai rộng.
Sa hòa thượng vốn là Quyển Liêm đại tướng ở điện Linh Tiêu, bởi sơ ý làm vỡ chén ngọc lưu ly mà bị Ngọc Đế đày xuống hạ giới, bị trừng phạt phi kiếm xuyên ngực ở Lưu Sa Hà, chịu đói chịu rét, phải bắt người ăn thịt mà sống qua ngày.
Còn Bạch Long mã vốn là con trai của Tây Hải Long vương Ngao Nhuận, bởi phóng hỏa đốt cháy viên minh châu trong điện nên phụ thân tâu lên thiên đình, tố cáo tội ngỗ nghịch, khiến Ngọc Đế phạt treo thân trên không trung, đánh ba trăm gậy, chuẩn bị nhận án tử hình.
Quan Âm Bồ Tát đến Đông Thổ tìm người đi lấy kinh là vào năm 13 Trinh Quán nhà Đường. Lúc ấy, vua Đường Thái Tông tổ chức đại hội Thủy Lục, thỉnh mời cao tăng đắc đạo tới giảng kinh thuyết pháp – vị cao tăng đó cũng chính là hòa thượng Huyền Trang. Quan Âm Bồ Tát hóa thân thành lão hòa thượng chốc đầu, điểm hóa Huyền Trang đến đất Phật Như Lai ở chùa Đại Lôi Âm, nước Thiên Trúc để thỉnh cầu Phật Pháp. Sau đó, Thái Tông kết nghĩa huynh đệ với Huyền Trang, rồi cử người hộ tống Huyền Trang sang Tây Thiên thỉnh kinh.
Dọc đường, Huyền Trang đã thu nhận Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng làm đồ đệ, còn Tiểu Bạch Long đang chờ xử trảm cũng hóa thành ngựa trắng đưa Đường Tăng lên đường. Thầy trò năm người, đồng tâm hiệp lực, vượt qua muôn vàn khó khăn nguy hiểm, trải qua hết thảy 81 nạn, cuối cùng công đức viên mãn.
Thầy trò năm người, đồng tâm hiệp lực, vượt qua muôn vàn khó khăn nguy hiểm, trải qua hết thảy 81 nạn, cuối cùng công đức viên mãn.

Nét đặc sắc trong Tây Du Ký
1, Cảnh giới
Điều kỳ diệu trong “Tây Du Ký” chính là ở cảnh giới. Khác với việc lấy kinh trong lịch sử, câu chuyện trong “Tây Du Ký” vượt qua Tứ Đại Bộ Châu, thế giới mười phương, không kể là bảo điện Linh Tiêu của Ngọc Hoàng Đại Đế hay là bảo điện Lôi Âm của Phật Như Lai, không kể là Tứ Hải long cung hay là U Minh địa phủ, cũng bất kể là Thông Thiên hà sóng nước cuồn cuộn hay Hỏa Diệm sơn ngọn lửa hừng hừng, hết thảy đều đã trở thành sân khấu biểu diễn của người thỉnh chân kinh.
2, Tình tiết
Điều ly kỳ trong “Tây Du Ký” chính là ở tình tiết.
Thạch hầu vốn là một tảng đá hấp thụ thiên chân địa tú, tinh hoa nhật nguyệt trên Hoa Quả Sơn. Chỉ nói riêng đến xuất thân thì câu chuyện của Ngộ Không đã rất ly kỳ rồi. Nhưng đặc biệt hơn cả, thạch hầu sẵn sàng từ bỏ vinh hoa phú quý ở Hoa Quả Sơn và cuộc sống tự tại tiêu diêu nơi Thủy Liêm động mà quyết chí vân du tầm sư học đạo. Ngộ Không gặp được Sư Tổ Bồ Đề đã học biết 72 phép biến hóa thần thông; sau lại xuống Long Cung của Đông Hải Long Vương lấy được cây định hải thần châm, có thể biến hóa tự do như ý; đến khi đại náo Thiên Cung, bị nhốt trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân lại luyện được hỏa nhãn kim tinh, có thể lên trời xuống đất, hô phong hoán vũ, thật quá ly kỳ.
Nhưng điều ly kỳ hơn là, dù con khỉ ấy có thần thông quảng đại đến đâu, vẫn không nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Như Lai. Mỹ hầu vương có thật có giả, Đường Tăng có thật có giả, Lôi Âm tự có thật có giả, đều đã ly kỳ lắm rồi. Càng ly kỳ hơn nữa, là ngay đến cả kinh Phật ở Tây Thiên Phật thổ cũng có thật có giả. Những màn khác như đấu phép ở Xa Trì quốc, hái trộm nhân sâm ở Ngũ Trang quán, ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, uống nước sông Mẫu Tử rồi mang thai, đàm luận thơ từ ở am Mộc Tiên, thật là kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của con người.
3, Nhân vật
Đặc sắc của tác phẩm nằm ở nhân vật. Thế giới “Tây Du Ký” không chỉ có người phàm nơi nhân thế mà còn có Thần Phật nhiều không đếm xuể; trong đó không chỉ có Như Lai, Bồ Tát, La Hán, Kim Cang của Phật gia, mà còn có Ngọc Đế, Vương Mẫu, Lão Quân, Thiên Vương của Đạo gia; không chỉ có chính Thần, mà còn có các dạng yêu ma quỷ quái, quỷ mị võng lượng.
Trong năm thầy trò, Bạch Long hóa ngựa đã ly kỳ rồi, càng ly kỳ hơn là Sa Tăng ở Lưu Sa Hà ăn thịt người sống qua ngày, một khi quy y Chính Pháp thì lại chịu cực chịu khổ, đạo tâm kiên cường bất phá. Bát Giới tham ăn biếng làm, sắc tâm không bỏ, ở rể Cao Lão trang đã rất thú vị rồi; càng thú vị hơn là huynh trưởng Ngộ Không giỏi hàng yêu bắt quái, với bản lĩnh lên trời xuống đất, trước sau một lòng bảo hộ Đường Tăng thân phàm xác thịt sang Tây Thiên lấy kinh. Chỗ đặc sắc hơn cả, vẫn là Đường Huyền Trang, một khi đã thề sang Tây Thiên thì dẫu chết cũng không hối hận, tuy trên đường đâu đâu cũng đều có yêu ma quỷ quái chờ ăn thịt, nhưng nhờ vào sự giúp đỡ của bốn vị cao đồ và sự bảo hộ của Thần Phật và Bồ Tát các nơi, mỗi nạn Đường Tăng đều gặp dữ hóa lành, chuyển nguy thành an, cuối cùng đến được Đại Lôi Âm, công đức viên mãn.
Mỗi quan mỗi nạn của 4 thầy trò nhờ sự bảo hộ của Thần Phật đều gặp dữ hóa lành, chuyển nguy thành an, cuối cùng đến được Đại Lôi Âm, công đức viên mãn.

Diệu lý huyền cơ
Tục ngữ có câu: “Trong nghề xem lề lối, ngoài nghề xem náo nhiệt”. Với “Tây Du Ký”, điều độc giả yêu thích nhất là những tình tiết biến hoá ly kỳ, những câu nói hài hước dí dỏm, những nhân vật sống động chân phương. Nhưng với những người có hiểu biết nhất định về Phật gia và Đạo gia, thì sẽ không khó phát hiện rằng đây là bộ tiểu thuyết viết về tu luyện, khắp “Tây Du Ký” đâu đâu cũng đầy ắp những diệu lý huyền cơ.
1, Mỗi quan nạn đều là chấp trước cần phải tống khứ trong quá trình tu hành
Sau khi Đường Tăng thu nhận Ngộ Không làm đồ đệ, quan nạn đầu tiên gặp phải chính là lục tặc (sáu kẻ cướp đường), gồm có: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn). Sáu tên giặc này ẩn dụ cho lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) mà Phật gia nói đến. Đánh chết sáu tên giặc này cũng có nghĩa là bài trừ mọi can nhiễu và phiền não mà cảm quan của nhục thân mang đến cho người tu luyện.
81 kiếp nạn, mỗi một nạn đều đối ứng với tâm chấp trước cần phải trừ bỏ. Phá trừ những quan nạn này, không phải là tiêu diệt số yêu ma quỷ quái hữu hình kia, mà là tu bỏ ma chướng trong tâm người tu luyện. Vậy nên, trong số 81 nạn, có nạn thì nhắm vào tâm sợ hãi của Đường Tăng, có nạn thì nhắm vào tâm tranh đấu của Ngộ Không, có nạn lại nhắm vào tâm tham lam lười biếng và háo sắc của Bát Giới.
Trong hồi thứ 50, khi Ngộ Không ra ngoài xin cơm chay, Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng đến một gian nhà cũ và nhìn thấy trên bàn có những chiếc áo chẽn bằng gấm. Lúc này tiết trời đang lạnh, Bát Giới và Sa Tăng không chịu nổi cám dỗ, bèn mặc thử cho ấm tấm lưng. Không ngờ vừa mới khoác áo lên người, ngay lập tức bị hai chiếc áo trói chặt lại. Ngộ Không đã phải nhiều phen lao đao vất vả, cuối cùng mới được Thái Thượng Lão Quân ra tay hàng phục Kim Đâu Đại Vương, cũng chính là con trâu xanh của Ngài.
Hồi thứ 56, sau khi đánh chết nhóm sơn tặc Ngộ Không đã bị Đường Tăng niệm Khẩn cô nhi chú rồi đuổi đi. Ngộ Không lúc này đã khởi tâm oán hận, bởi vậy Ngộ Không giả đã thừa cơ đến bên Đường Tăng, “giơ gậy sắt lên, nhằm lưng sư trưởng siết mạnh một cái”. Đường Tăng ngã lăn ra đất rồi ngất lịm. Sa Tăng tìm đến Hoa Quả Sơn đòi lại hành lý thì nhìn thấy Ngộ Không ngồi trên bệ đá, khăng khăng tự mình sang Tây Thiên bái Phật cầu Kinh. Sa Tăng đến Nam Hải tìm gặp Quan Âm Bồ Tát, lại thấy một Ngộ Không khác cũng đang chờ ở đó. Sa Tăng liền cùng Ngộ Không về đến Hoa Quả Sơn, quả nhiên nhìn thấy một “Hành Giả” ngồi trên bệ cao, uống rượu vui vẻ. Hai Ngộ Không giống y hệt nhau, thật thật giả giả, lôi lôi kéo kéo, đánh từ Hoa Quả Sơn đến Nam Hải, từ Nam Hải lại đánh đến Thiên Đình, ngay cả kính chiếu yêu của Thác Tháp Lý Thiên Vương cũng không phân biệt được ai thật ai giả. Cuối cùng chỉ có Như Lai Phật Tổ mới nhận ra được Ngộ Không giả là Lục Nhĩ Mỹ Hầu.
Ngộ Không bị Đường Tăng trách mắng, tâm sân hận dấy khởi, Lục Nhĩ Mỹ Hầu vừa khéo lại là thể hiện của ma tính từ tâm sân hận của Ngộ Không. Ảnh dẫn theo pinterest.com
Từ góc độ tu luyện, Lục Nhĩ Mỹ Hầu rốt cuộc là ai? Điều này vốn không khó lý giải. Ngộ Không bị Đường Tăng trách mắng, tâm sân hận dấy khởi, Lục Nhĩ Mỹ Hầu vừa khéo lại là thể hiện của ma tính từ tâm sân hận của Ngộ Không. Tiêu đề của hồi thứ 58 là “Hai lòng xáo lộn cả càn khôn, một thể khó tu thành tịch diệt”, và câu “thần quy tâm xả thiền mới định” ở cuối hồi 58 chỉ ra rằng, Ngộ Không giả chính là ma tính của Ngộ Không thật huyễn hóa mà thành. Khi có thể “thần quy tâm xả”, thì Ngộ Không giả cũng tự nhiên bị diệt trừ.
Trước khi bốn thầy trò đến Tây Thiên, họ phải vượt qua nạn “chùa Tiểu Lôi Âm giả”. Hồi thứ 65, người lấy kinh đến một ngọn núi cao, trên núi có một bảo điện, thật là “bình chắn lâu đài cao chót vót, chầy rền chuông khánh tiếng ngân vang”. Mặc dù Ngộ Không nhận thấy nơi này lành ít dữ nhiều, nhưng Đường Tăng, Bát Giới, và Sa Tăng vẫn nhất quyết tiến vào trong điện bái lạy, cuối cùng rơi vào tay yêu quái. Cuối cùng vẫn là Phật Di Lặc ra tay, thu phục Hoàng My lão quái, giúp bốn thầy trò hóa giải nạn này. Từ góc độ tu luyện mà xét, có thể lý giải rằng các pháp môn tu luyện xưa nay thật có giả có, mãi cho đến thời khắc cuối cùng đều luôn có khảo nghiệm với người tu luyện. Nếu như vào nhầm oai môn tà đạo, tất nhiên không có cách nào tu thành chính quả.
Hồi thứ 98 trong “Tây Du Ký”, thầy trò Đường Tăng trải qua muôn vàn cực khổ, cuối cùng mới đến được chùa Đại Lôi Âm ở Tây Thiên, hai vị Tôn giả A Nan, Ca Diếp phụng mệnh Phật Như Lai dẫn thầy trò đến bảo các lấy kinh. Hai vị Tôn giả xin lễ vật không thành, bèn trao cho họ kinh Phật không có chữ. Hành giả đến cáo trạng với Như Lai, không ngờ Phật Tổ nói rằng:
“Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Việc hai người vòi lễ các ngươi ta đã biết rồi. Có điều kinh cũng không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được. Trước kia các Tỳ Kheo thánh tăng xuống núi cũng đem kinh này tụng hết một lượt cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ, giúp cho nhà ấy người sống yên ổn, kẻ chết siêu thoát, thế mà chỉ lấy có ba đấu ba bơ vàng cốm của họ mang về thôi. Ta còn bảo họ bán kinh rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà tiêu. Nhà ngươi tay không đến cầu, nên họ mới trao cho những quyển trắng tinh. Quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay. Các ngươi là chúng sinh ở cõi Đông u mê ngu tối, lẽ ra chỉ nên trao cho những thứ đó thôi”.
Hai tôn giả lại dẫn bốn thầy trò đến dưới lầu ngọc gác báu, nhưng vẫn đòi Đường Tăng phải đưa tiền lễ vật. Tam Tạng không có gì dâng lên, đành phải bảo Sa Tăng lấy bát tộ vàng tía dâng lên. A Nan “hổ thẹn, mặt mũi nhăn nhúm, nhưng tay vẫn giữ chặt lấy cái bát tộ”.
Tình tiết này, trước nay đều bị người đời xem là ngòi bút trào phúng của Ngô Thừa Ân — ngay đến cả Thế giới Tây Thiên Cực Lạc cũng có chuyện tham ô nhận hối lộ. Thật ra, người tu luyện với mọi tâm chấp trước đều phải dứt bỏ mới có thể công thành viên mãn. Tham luyến của Đường Tăng với cái bát tộ vàng, đó đã là có tâm tham tài ái vật, lại có nhân tình với vua Đại Đường trong đó, mà những thứ này vừa khéo lại là tâm mà người tu luyện phải trừ bỏ. Nếu như không thể trừ bỏ những tâm này, thì tâm hữu lậu, không thể nói đến chuyện công đức viên mãn được.
Thật ra tham luyến của Đường Tăng với cái bát tộ vàng, đó đã là có tâm tham tài ái vật là tâm mà người tu luyện phải trừ bỏ.

2, Mọi quan nạn đều là an bài khéo léo của Thần Phật
Mỗi một quan mỗi một nạn trên đường lấy kinh mà thầy trò Đường Tăng gặp phải, đều là an bài khéo léo của Như Lai Phật Tổ và Quan Âm Bồ Tát. Hoàng Phong quái là con chuột lông vàng đắc đạo dưới chân núi Linh Sơn của Linh Cát Bồ Tát. Hoàng Bào quái là Khuê Mộc Lang – một trong số nhị thập bát tú. Kim Giác Đại Vương, Ngân Giác Đại Vương là hai đồng tử Kim Ngân của Thái Thượng Lão Quân. Linh Cảm Đại Vương là con cá vàng được nuôi trong ao sen của Quan Âm Bồ Tát. Độc Giác Đại Vương là vật cưỡi của Thái Thượng Lão Quân. Hoàng Mi Lão Quái là đồng tử lông mày vàng gõ chuông khánh của Phật Di Lặc. Thanh Mao Sư Tử quái, Hoàng Nha Lão Tượng quái là vật cưỡi của hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền; Đại Bàng tinh là cậu của Phật Như Lai. Quan Âm Bồ Tát lợi dụng quan hệ nhân duyên giữa các sinh mệnh, vừa kết thúc nợ nghiệp giữa các sinh mệnh, lại giúp đỡ thầy trò Đường Tăng tu tâm trừ nghiệp, tu luyện viên mãn.
Mỗi một quan mỗi một nạn trên đường lấy kinh mà thầy trò Đường Tăng gặp phải, đều là an bài khéo léo của Như Lai Phật Tổ và Quan Âm Bồ Tát.
“Tây Du Ký” xây dựng trên văn hóa tu luyện bác đại tinh thâm trong văn hóa truyền thống Trung Quốc. Những tình tiết, nhân vật, đối thoại, thơ từ trong sách, toàn bộ đều có hàm ý thâm sâu, chứ không phải là những phóng túng nghệ thuật đơn thuần. Bởi vậy, “Tây Du Ký” xứng đáng là báu vật trong kho tàng văn học kim cổ đông tây, mãi mãi tỏa sáng đến ngàn đời.
Theo Secretchina
Thiện Sinh biên dịch

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Quán Thế Âm Bồ Tát thu phục Trư Bát Giới, ẩn ý thâm sâu là gì?


Quán Thế Âm Bồ Tát thu phục Trư Bát Giới, ẩn ý thâm sâu là gì?


“Một ý nghĩ nảy sinh,
Cả đất trời đều biết.
Thiện ác mà không báo,
Thành ra thiên vị sao?”
Tây Du Ký*
kể rằng, Quán Thế Âm Bồ Tát vâng mệnh Phật Tổ sang phương Đông tìm người đi lấy kinh, “phải đi trên mặt đường, không được đi tít trên tầng mây. Mắt cần phải để ý sông núi, ghi nhớ kỹ càng đường sá xa xôi thế nào mà ân cần dặn dò lại” cho người ấy. Trên đường, Bồ Tát lần lượt thu phục được Sa Ngộ Tĩnh, Trư Ngộ Năng và Tôn Ngộ Không. Sa Tăng và Ngộ Không có ngộ tính tốt, Bồ Tát nói đôi ba lời là nguyện ý tu hành ngay, riêng Bát Giới thì còn vặn vẹo lý lẽ, Bồ Tát phải dụng tâm thuyết phục mới thành. Cố sự Bồ Tát khuyến thiện Bát Giới có ẩn ý sâu xa, xin được cùng quý vị độc giả khám phá, chiêm nghiệm phần nào.
Tây Du Ký, hồi thứ tám viết rằng:

“Bồ tát từ biệt yêu quái xong, cùng Mộc Soa tiếp tục lên đường sang phương Đông. Đi được ít lâu, lại gặp một trái núi cao. Đỉnh núi ác khí phủ mù mịt, không sao trèo lên được. Hai người đang định cưỡi mây vượt qua, thì bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên, một con yêu quái xông ra, hình thù rất hung dữ. Chỉ thấy:
Bèo cám bê bết quanh mồm,
Tai như chiếc quạt, mắt tròn vàng hoe.
Răng nanh nhọn hoắt gớm ghê!
Mõm dài há ngoác đỏ khè đến kinh.
Mũ kim khôi ánh lung linh,
Áo giáp lấp lánh, quanh mình thắt dây.
Đinh ba chín mũi cầm tay,
Bên vai lủng lẳng một cây cung dài.
Oai như Thái tuế trên trời,
Hiên ngang dữ tợn thần, người dám đương?

Yêu quái xông ngay tới, bất kể hay dở, phóng ngọn đinh ba đâm luôn Bồ tát. Mộc Soa gạt ngay ngọn đinh ba ra, quát lớn:
– Yêu quái khốn kiếp, chớ có vô lễ! Hãy nhìn cây gậy đây!
Yêu quái quát lại:

– Hòa thượng muốn chết phỏng? Hãy nhìn ngọn đinh ba đây!
Hai bên xông xáo đánh nhau, tranh giành phần thắng ở ngay dưới chân núi. Trận đánh rất quyết liệt:
Yêu ma dũng mãnh, Huệ Ngạn tài năng.
Gậy sắt nhằm đầu bổ, Đinh ba nhè mặt đâm.
Gió cuộn bụi tung trời đất tối, Cát bay đá lở quỷ thần kinh.
Đinh ba chín mũi kêu xoang xoảng, Gậy sắt đen sì múa rập rình.
Một người là thiên vương thái tử, Một kẻ là nguyên soái thần linh.
Một người ở Phổ Già làm hộ pháp, Một kẻ xuống động núi làm yêu tinh.
Đánh nhau quyết liệt tranh cao thấp, Thắng bại hai bên khó đoán rành.

Hai người đang mải đánh nhau, Quan Âm đứng trên không trung ném bông hoa sen xuống, tách hai cây đinh ba và bảo trượng ra. Yêu quái thấy vậy, sợ hãi hỏi:
– Nhà ngươi là hòa thượng ở đâu mà dám tới đây giở ngón “Nhỡn tiên hoa” ra dọa ta?

Mộc Soa nói:
– Đồ quái vật người trần mắt thịt kia! Ta là đồ đệ của Bồ tát ở Nam Hải. Bông sen ấy chính do sư phụ ta ném xuống đấy, nhà ngươi không nhận ra sao?
Yêu quái nói:
– Bồ tát ở Nam Hải à? Có phải là đức Quán Thế Âm cứu khổ, cứu nạn phải không?
Mộc Soa nói:

– Không phải ngài thì còn là ai nữa?
Yêu quái nghe xong, vội vàng quẳng cây đinh ba, cúi rạp đầu xuống lạy, nói:
– Thưa lão huynh, Bồ tát đang ở đâu, phiền ngài dẫn tôi đến yết kiến!
Mộc Soa ngẩng đầu chỉ tay, nói:
– Ngài ấy kia kìa!
Yêu quái hướng về phía Bồ tát sụp lạy, nói:
– Kính xin Bồ tát tha tội! Tha tội!
Bồ tát từ trên đám mây hạ xuống, bước tới gần yêu quái hỏi:
– Nhà ngươi là con lợn rừng, lợn dại thành tinh ở đâu mà dám tới đây cản đường ta?
Yêu quái thưa:
– Tôi không phải là lợn rừng, cũng không phải là lợn dại. Tôi vốn là Thiên bồng nguyên soái ở Thiên Hà, do say rượu trêu ghẹo Hằng Nga, nên bị Thượng đế đánh cho hai ngàn roi, đày xuống hạ giới. Linh tính còn đi tìm nơi đầu thai, không ngờ lầm đường, chui lầm vào bụng con lợn nái, nên mới biến thành hình dạng xấu xí thế này. Tôi bực mình cắn chết lợn mẹ và cả đàn lợn con, chiếm ngọn núi này, ăn thịt người qua ngày. Không ngờ hôm nay phạm phải Bồ tát. Mong Bồ tát tha tội cứu vớt cho!
Bồ tát hỏi:
– Núi này gọi là núi gì?
Yêu quái thưa:
– Núi Phúc Lăng ạ. Trong núi có một căn động, gọi là động Vân Sạn. Trước đây, động này do nàng Noãn Nhị Thư cai quản. Nàng thấy tôi có chút võ nghệ, mời làm gia trưởng, cho ở gởi rể luôn. Chưa đầy một năm, nàng chết. Cả cơ ngơi này đều thuộc về tôi. Ngày qua tháng lại, chẳng có cách gì nuôi thân, tôi đành lại ăn thịt người cho qua ngày như cũ. Muôn ngàn lần xin Bồ tát tha tội cho.
Bồ tát nói:
– Người xưa nói: “Muốn có tiền đồ, chớ bỏ lỡ tiền đồ”. Nhà ngươi đã phạm tội ở thiên đình, nay lại không chịu sửa lòng hung ác, gây tội giết người. Đó chẳng phải là hai tội đều đáng trừng phạt cả một thể ư?
Yêu quái nói:
– Tiền đồ với tiền đạc! Cứ theo lời ngài, bảo tôi nuốt gió mà sống ư? Người ta thường có câu: “Theo phép quan thì nhừ đòn, theo phép Phật thì đói mòn” là gì. Thôi thôi! Chi bằng cứ bắt người qua đường, ăn thịt những cô nàng béo nung núc, dù có bị hai tội, ba tội, nghìn tội, vạn tội cũng cóc cần!
Bồ tát nói:
– “Người có lòng thiện, trời cũng theo về”. Nhà ngươi chịu quy y chính quả ắt có chỗ nuôi thân. Đời có năm loài ngũ cốc, đủ để cứu đói, việc gì phải ăn thịt người mà sống?
Yêu quái nghe nói, như chợt tỉnh giấc mộng, nói với Bồ tát:
– Con muốn theo về đường ngay, nhưng hiềm vì đã mắc tội với trời, không kêu van được nữa!
Bồ tát nói:
– Ta vâng lệnh Phật tổ sang phương Đông tìm người đi lấy kinh. Nhà ngươi nên theo người lấy kinh làm đồ đệ sang phương Tây một chuyến, lập công chuộc tội, ắt sẽ thoát khỏi tai nạn.
Yêu quái mừng rỡ rối rít nói:
– Vâng ạ! Vâng ạ!
Bồ tát bèn xoa đầu thụ giới cho yêu quái, lấy đặc điểm thân hình đặt họ là Trư. Và đặt pháp danh là Trư Ngộ Năng. Từ đấy, yêu quái vâng lệnh quy y, ăn chay niệm Phật, đoạn tuyệt ngũ huân, tam yếm, một lòng đợi người đi lấy kinh”.

Trong lần gặp gỡ này, chính Bát Giới là người chủ động xin được yết kiến Bồ Tát, mong ngài cứu vớt khỏi biển khổ bến mê. Hình ảnh “Yêu quái nghe xong, vội vàng quẳng cây đinh ba, cúi rạp đầu xuống lạy” là một ẩn dụ sâu sắc. Có người nói Trư Bát Giới đại diện cho dục vọng, ham muốn của con người, ham sắc, ham ăn, ham ngủ, ham chơi…, đến cái vũ khí của hắn cũng là cái bồ cào, cái vật dùng để gạt mọi thứ về phía mình, càng thể hiện rõ cái sự tham lam của Bát Giới. Bát Giới nghe danh hiệu Bồ Tát thì lập tức quẳng cây đinh ba, phải chăng chính là quăng bỏ những dục vọng của chính mình, một lòng hồi tâm hướng Phật?
Điều này cho thấy tuy phạm tội bị đày xuống trần gian, sống những ngày mịt mù u tối, nhưng Phật tính trong Bát Giới vẫn còn. Giới tu luyện có câu: “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”, cái thiện tâm, thiện tính, thiện niệm trong mỗi người chính là sợi chỉ níu giữ chúng ta với Thần Phật, là cơ sở để chúng ta đắc độ, quay trở về. Trong Tây Du Ký có trăm yêu nghìn quái, nhưng đa số chúng đều chịu kết cục bị tiêu diệt, nào phải Thần Phật chẳng từ bi, chỉ vì chúng chấp mê bất ngộ, mãi muốn làm yêu quái đó thôi. Tình cảnh bấy giờ của Bát Giới vô cùng ê chề, bi đát, chỉ nhờ một thiện nguyện ấy mà đã quay đầu, sau này trở thành Tịnh Đàn Sứ Giả của Như Lai.
Tuy nhiên, mới chỉ nghe Bồ Tát giáo huấn một câu, Bát Giới đã buông lời vô lễ:
“Cứ theo lời ngài, bảo tôi nuốt gió mà sống ư? Người ta thường có câu: “Theo phép quan thì nhừ đòn, theo phép Phật thì đói mòn” là gì. Thôi thôi! Chi bằng cứ bắt người qua đường, ăn thịt những cô nàng béo nung núc, dù có bị hai tội, ba tội, nghìn tội, vạn tội cũng cóc cần!”
Cái tâm nguyện ban đầu ấy đã bị dục vọng mạnh mẽ khuất phục mất rồi. Bát Giới lúc này chỉ quan tâm tới cái gọi là “thực tại” trước mắt, mà chẳng quản tới tiền đồ của sinh mệnh vĩnh hằng. Con người chúng ta, có bao nhiêu người cũng từng được nghe Phật Pháp, hiểu được đạo lý, nhưng rồi trước lợi ích “hiện thực” thì không buông bỏ được, không cam tâm chịu khổ, cuối cùng biết sai vẫn làm, nhắm mắt cho số phận đẩy đưa. Làm một sinh mệnh trôi dạt trong vòng xoáy luân hồi mà nói, nếu như không thể kịp thời tỉnh ngộ, phản bổn quy chân, thì sẽ tạo nghiệp ngày một sâu dày, cuối cùng đi đến huỷ diệt. Đau xót thay!
Một người tu Đạo xưa từng có bài ca thế này:
“Cầu danh tham lợi khắp thế gian
Chẳng như lão nạp Đạo nhân gian
Gà được cho ăn nồi đã sủi
Nhạn đồng không thóc vẫn an nhàn
Phú quý trăm năm đâu giữ nổi
Lẽ Đạo luân hồi vẫn tuần hoàn
Khuyên người sớm kiếm đường tu luyện
Đánh mất thân người vạn kiếp nan”.

Chính là để nói thân người khó đắc, Phật Pháp khó tìm, bây giờ không tu luyện thì còn đợi đến bao giờ nữa? Bát Giới sau khi nghe Bồ Tát khuyên giải thì như tỉnh giấc mộng, muốn cải tà quy chính, may sao Bồ Tát mở lượng hải hà, cho lập công chuộc tội. Nhà Phật có câu: “Quay đầu là bờ”, phải chăng cũng là ý đó? Trư Bát Giới quyết chiến với Huệ Ngạn hành giả, chữ “Ngạn” này nghĩa là bến, bờ, trong Phật gia hàm ý bến bờ giác ngộ, chi tiết này có ẩn ý thật sâu xa.
Bát Giới ban đầu nói “Cứ theo lời ngài, bảo tôi nuốt gió mà sống ư?”, cứ như thể làm người lương thiện thì không có cái ăn vậy. Nhưng về sau nghe lời Bồ Tát dạy bảo, “ăn chay niệm Phật, đoạn tuyệt ngũ huân, tam yếm”, đâu có cần ăn thịt người mà vẫn sống khoẻ đấy thôi? Thế mới biết lời lẽ khi xưa là ngụy biện cho dục vọng quá lớn, chứ nào phải đời sống khốn khó gì. Có lẽ vì thế mà sau này Đường Tăng đặt pháp danh cho Trư Ngộ Năng là “Bát Giới”, nghĩa là “Tám giới cấm”, bao gồm: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói bậy, không uống rượu, không trang điểm, không nằm ngồi giường quá rộng, không ăn thịt, để nhắc nhở Bát Giới phải luôn biết kiềm chế dục vọng của chính mình.
Thế giới hôm nay theo đuổi sự thoả mãn khôn cùng về vật chất, con người trong ấy càng dễ bị dục vọng trói buộc, phải chăng trong mỗi người chúng ta đều có một “Trư Bát Giới” ham ăn, mê ngủ, háo sắc, biếng làm? Câu chuyện Bát Giới tỉnh ngộ phá mê đáng để người đời sau tham chiếu, học hỏi.
Từ nhỏ sinh ra vốn vụng về,
Ưa nhàn lười biếng chẳng làm chi.
Chẳng thích tu tâm cùng dưỡng tính,
Hỗn độn, ngu si sống thỏa thuê.
Bỗng hôm nhàn nhã gặp chân tiên,
Hay dở đường tu, kể chuyện liền.
Khuyên hãy quay đầu, đừng trụy lạc,
Thương sinh thì sẽ chịu oan khiên.
Một sớm lâm chung về địa phủ,
Tám nạn ba đường chẳng lối lên.
Ta nghe đổi ý xin tu luyện,
Quyết chí vâng lời, học đạo tiên.
Ảnh minh họa: Phim “Tây Du Ký” 1986.
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Trước khi đắc quả vị Phật, Tôn Ngộ Không đã tu đến cảnh giới nào ?


Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu
Linh Sơn tại tâm có xa nào.
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp
Chân tháp tu hành tốt biết bao!

Sau hành trình thỉnh kinh gian khổ trùng trùng, thầy trò Đường Tăng cuối cùng cũng tới được Linh Sơn, bái kiến Phật Tổ. Trong bốn đồ đệ của pháp sư Huyền Trang, chỉ một mình Tôn Ngộ Không là chứng đắc quả vị Phật, được Như Lai phong chức Đấu Chiến Thắng Phật. Có người nói đó là vì Ngộ Không dọc đường trừ yêu diệt quái có công lớn nhất, âu cũng là một phương diện. Bên cạnh đó, quả vị đắc được nhất thiết phải tương đương với cảnh giới tâm tính của người tu luyện, tâm tính cao bao nhiêu thì quả vị lớn bấy nhiêu. Bạn đọc yêu mến Tây du ký* đã bao giờ tự hỏi, cảnh giới mà Tôn Ngộ Không tu tới trước ngày viên mãn là như thế nào chăng?
Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ đá trời sinh, hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, bản tính linh thông, căn cơ ngộ tính đều tốt. Lênh đênh biển lớn tìm Đạo, vào thời điểm gặp Bồ Đề Tổ Sư thì Ngộ Không vô cùng thuần phác lương thiện: “Người ta mắng con, con cũng không giận: đánh con, con cũng không tức, chỉ lạy họ mà thôi, cả đời con không có tính”. Vì thế, Ngộ Không được Tổ Sư chân truyền yếu quyết tu Đạo, học được phép trường sinh, lại tinh thông 72 phép biến hoá. Tuy nhiên, chỉ một tâm đắc ý hiển thị trước mặt bạn hữu cũng đủ khiến Ngộ Không bị sư phụ đuổi khỏi sư môn, trở về núi Hoa Quả. Bấy giờ, không còn ai kiềm thúc, tâm kiêu ngạo hung hãn của Ngộ Không càng ngày càng bành trướng, “quan phong Bật Mã còn chê nhỏ, tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên”. Sau cùng, Tề Thiên Đại Thánh đại náo thiên cung, bị Phật Tổ Như Lai dùng thần lực đè dưới núi Ngũ Hành, 500 năm đói ăn viên sắt, khát uống rỉ đồng, chờ đợi người đi lấy kinh.

Có thể nói, Tôn Ngộ Không do trời đất hoá dục mà thành nên bản tính bẩm sinh là vô cùng thuần khiết. Vì không giữ vững tâm tính nên Ngộ Không mới ngày càng sa đọa biến chất, lúc bị Như Lai trừng phạt thì chẳng còn hơn gì một yêu tinh. Hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, phò tá bảo hộ Đường Tăng chính là hành trình tu luyện, phản bổn quy chân của Tôn Ngộ Không. Những ma nạn gặp phải trên đường đi được Thần Phật an bài để Mỹ hầu vương diệt trừ ma tính, bồi đắp Phật tính. Kể từ hồi thứ 14 “Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi”, khi Tôn Ngộ Không gặp được sư phụ Đường Tăng, ta có thể thấy một Tề Thiên Đại Thánh trải qua từng bước từng bước nhẫn nhục mà thuần hoá bản thân. Tới trước ngày bái kiến Như Lai, Tôn Ngộ Không thực sự đã đạt tới một cảnh giới phi phàm, thoát tục.
Nhìn lại hành trình tu luyện của Tôn Ngộ Không, những ngày đầu mới theo Đường Tăng, Hành Giả về cơ bản là không thể nhịn dù là chút oan ức nhỏ. Giết sáu tên cướp bị sư phụ trách mắng, một cân đẩu vân là về chỗ Đông Hải Long Vương. Bị chụp vòng kim cô, đã toan tới Nam Hải “nện” cho Quan Âm một trận. Từ khi đội vòng kim cô, Tôn Ngộ Không mới thực lòng thực dạ bảo hộ Đường Tăng, dọc đường xông pha nguy hiểm, bao phen cứu thầy. Nhưng ma nạn thì nhiều mà sức người có hạn, yêu tinh quỷ quyệt mà Đường Tăng mắt thịt ngây thơ, đã bao lần Tôn Ngộ Không phải nhỏ lệ xót xa cho số kiếp gian truân, hay dằn lòng vì chịu điều oan ức.
Ví như ở hồi 27 “Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng, Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương”, Đường Tăng trúng kế Bạch Cốt Tinh nên cho rằng Ngộ Không quen thói hành hung, giết ba mạng người lương thiện. Một dạ cứu thầy mà bị hiểu lầm nhiếc móc, đuổi như đuổi tà, Ngộ Không chua xót thế nào, ai cũng dễ dàng hiểu được. Lần thứ ba bị sư phụ đuổi, Ngộ Không nói: “Sư phụ mắng oan con rồi. Rõ ràng nó là con yêu tinh, rắp tâm làm hại thầy, con đánh chết nó, giúp thầy trừ họa, mà thầy không nhận ra, lại tin thằng ngốc gièm pha, mấy lần đuổi con. Người ta thường nói: “Sự bất quá tam”, con mà không đi, thành ra hạng hạ lưu không biết xấu hổ. Thôi, con đi đây, đi đây! Đi cũng được thôi, chỉ e sư phụ không có thủ hạ giỏi”. Đó là tâm trạng bất bình uất ức xen lẫn tự ái, đau buồn.
Hay như ở hồi 65 “Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả, Thầy trò đều gặp ách nạn to”, khi chứng kiến sư phụ, các sư đệ và thiên thần bị yêu quái bắt lại, Tôn Ngộ Không đã “nghiến răng căm giận, nước mắt lã chã nhớ thương Đường Tăng, đoạn lại ngửa mặt lên trời, cất tiếng khóc thất thanh ai oán: Sư phụ ơi, sư phụ tạo nghiệp truân chuyên từ đời kiếp nào, mà kiếp này mỗi bước đi đều gặp yêu tinh? Hoạn nạn này khó thoát quá, biết làm thế nào bây giờ?”.
Trong khó khăn kiếp nạn, ở bước đường cùng tưởng như chẳng còn hy vọng, con người khó tránh khỏi ngã lòng như thế. Thậm chí, ở hồi 77 “Yêu ma lừa bản tính, Nhất thể bái chân như”, khi gặp phải địch thủ quá gian manh quỷ quyệt, Tôn Ngộ Không khổ sở đau thương tới nỗi oán trách Phật Tổ: “Việc này là đức Phật Như Lai ở cõi cực lạc, do nhàn rỗi chẳng có việc gì mà làm, mới viết ra bộ kinh Tam Tạng đây mà! Nếu đức Phật có lòng khuyến thiện, thì lẽ ra phải đưa sang phương Đông, lại không lưu truyền muôn thuở sao? Đằng này không chịu đưa sang, lại bắt bọn ta phải đến lấy, có biết đâu phải vất vả gian nan trèo đèo lội suối để rồi tới đây bỏ mạng!”.

Thế rồi mỗi một bước đường đi qua, càng về sau Tôn Ngộ Không càng kiên định, từ bi, mà đỉnh cao có lẽ là ở ma nạn xảy ra ngay trước khi thầy trò tới núi Linh Thứu. Chuyện là đoàn thỉnh kinh đi tới phủ Đồng Đài huyện Địa Linh, được gia đình Khấu viên ngoại cúng dường trọng hậu suốt nửa tháng trời, cụ bà còn nải nỉ thầy trò ở lại thêm để mình được hiến chay thêm nửa tháng nữa cho tăng phần công đức. Tam Tạng sốt ruột cầu kinh nên nhất mực từ chối. Khấu viên ngoại giữ Đường Tăng không nổi đành mở hội từ biệt, đưa tiễn linh đình. Chẳng may, đêm ấy một toán cướp nổi lòng tham, vào nhà họ Khấu giết người cướp của. Cụ bà nghĩ giận thầy trò Đường Tăng không nhận sự cúng dâng cơm chay của mình, rồi do tống tiễn linh đình nên mới nên nông nỗi, bèn sinh lòng oán giận, đệ đơn vu cáo mấy thầy trò là thủ phạm. Rủi thay, thầy trò Đường Tăng trên đường gặp đúng bọn cướp này, Đại Thánh trổ thần uy lấy lại số vàng bạc giúp nhà họ Khấu, còn lũ cướp bỏ chạy tháo thân. Đang trên đường đem số vàng bạc trả lại nhà Khấu viên ngoại thì mấy thầy trò bị quan quân bắt được.
Tây du ký hồi thứ 97 “Vàng mang trả gây thành tai họa, Thánh hiện hồn cứu thoát cao tăng” có viết:
“Vừa dứt lời quan quân đã ập tới trước mặt, dàn thành vòng tròn vây chặt bốn thầy trò, quát:
– Lũ hòa thượng này giỏi nhỉ! Đã ăn cướp của cải nhà người lại còn nghênh ngang ở đây!
Đoạn xông vào lôi Đường Tăng xuống ngựa, lấy thừng trói nghiến lại, sau đó cũng trói luôn cả bọn Hành Giả xỏ vào đòn khiêng, cứ hai người khiêng một, dắt ngựa gánh đồ về thẳng phủ thành. Chỉ thấy:

Đường Tam Tạng, run như cầy sấy, nước mắt nghẹn ngào
Trư Bát Giới, càu nhà càu nhàu, trong lòng oán thán.
Sa Hòa Thượng, buồn như chấu cắn, suy nghĩ miên man.
Còn Tôn Ngộ Không, cười khành khạch, muốn khoe thủ đoạn.

Quan quân xúm vào khiêng đi, chẳng mấy chốc đã về tới phủ thành, giải hết cả lên công đường báo bẩm:
– Bẩm quan lớn, chúng con đã bắt được bọn cướp về đây rồi ạ.
Quan thứ sử ngồi ngay ngắn giữa công đường, ủy lạo quân sĩ, kiểm lại tang vật, cho gọi nhà họ Khấu tới nhận, lại cho giải bọn Tam Tạng vào sảnh đường hỏi tội:
– Bọn hòa thượng này mồm kêu là từ phương Đông xa xôi tới, sang phương Tây bái Phật cầu kinh, hóa ra là một bọn cướp bày đặt ra thế để dò xét đường đi lối lại trong nhà người ta rồi ăn cướp của cải!

Tam Tạng thưa:
– Xin đại nhân cho được nói: Bần tăng thực không phải là cướp, không dám dối trá điều gì. Trong người hiện có tờ điệp văn đại nhân có thể soi xét. Chỉ nhân nhà Khấu viên ngoại hiến trai chúng tôi nửa tháng, tình cảm sâu nặng, dọc đường gặp bọn cướp, chúng tôi lấy lại được số của cải bọn chúng cướp được ở nhà họ Khấu, định quay lại mang trả nhà họ Khấu để báo ơn, không ngờ gặp quân lính vây bắt cho là kẻ cướp. Thực tình chúng tôi không phải là kẻ cướp, muốn xin đại nhân xét kỹ.
Quan thứ sử nói:
– Bọn các ngươi bị quan quân bắt được, lại khéo nói là báo ơn. Nếu đã dọc đường gặp cướp, tại sao không bắt ngay lấy bọn chúng, vừa báo quan báo ơn một thể, tại sao lại trơ khấc chỉ có bốn người bọn các ngươi? Các ngươi xem, Khấu Lương đệ đơn kiện, viết rõ tên các ngươi, các ngươi còn dám chối cãi gì nữa!
Tam Tạng nghe xong, khác nào sấm đánh mang tai, hồn xiêu phách tán, cất tiếng gọi:
– Ngộ Không, sao con không thanh minh đi!
Hành Giả nói:
– Tang vật rõ rành rành, còn thanh minh gì nữa!”.
Thật thú vị! Lần này cũng là làm ơn mắc oán, bị trói bị tù, thế mà Tôn Ngộ Không lại “cười khành khạch”, chẳng mảy may lo lắng, bị hiểu lầm cũng chẳng buồn giải thích thanh minh. Đoạn thơ miêu tả thái độ của bốn thầy trò khi bị quan quân bắt trói là bức tranh đối lập giữa một Đường Tăng sợ hãi, một Bát Giới oán trách, một Sa Tăng lo buồn, với một Ngộ Không vui vẻ. Vì sao Tôn Ngộ Không lại vui nhỉ? Tây du ký, hồi 97 viết:
“Vào khoảng canh tư ba khắc, Hành Giả thấy xung quanh im ắng, mọi người đã ngủ say, bèn nghĩ thầm:
– Sư phụ số phải chịu tai nạn ngồi tù đêm nay. Lão Tôn không mở mồm thanh minh, không thi thố pháp lực, cũng chỉ vì thế. Bây giờ đã là canh tư, tai nạn sắp qua khỏi, ta phải đi chuẩn bị trước, đợi trời sáng, ra khỏi nhà lao”.

Thì ra, đó là vì Tôn Ngộ Không đã nhìn thấu sự an bài của Thần Phật. Phải ngồi tù ở phủ Đồng Đài quả thực chính là ma nạn thứ bảy mươi chín ghi trong cuốn sổ của Bồ Tát (hai nạn còn lại là: thoát thai bến Lăng Vân và bị rùa lật rơi sông Thông Thiên). Con người khi lâm vào khổ nạn thường bị cảm xúc dày vò, nào lo sợ buồn thương, nào giận hờn oán thán. Nhưng trong con mắt của Thần Phật, ma nạn chính là cánh cửa giúp người tu luyện tiến về viên mãn, là cơ hội tốt để người tu luyện tiêu trừ tội nghiệp và ma tính, là hoàn cảnh gây dựng uy đức của đấng giác ngộ tương lai. Tôn Ngộ Không lúc này đây đã không còn là một Tề Thiên Đại Thánh hung hăng chẳng chịu nổi một điều oan ức nhỏ, cũng không còn là một Mỹ hầu vương dễ dàng rơi lệ vì số kiếp gian truân. Đến bước này, Tôn Ngộ Không thực sự đã “ngộ không”, ngộ ra chỉ cần bình thản đối diện với ma nạn, lòng không gợn nhân tâm chấp trước, thì nhất định vượt qua.
Bởi vậy, mới có thơ rằng:
Linh đài chẳng vật gọi là thanh,
Tịch mịch an nhiên niệm chẳng sinh.
Khỉ ngựa giữ gìn đừng thả lỏng,
Tinh thần cẩn thận chớ chênh vênh.
Giặc trừ sáu đứa, Tam thừa ngộ,
Đoạn tuyệt muôn duyên mới hiển linh.
Diệt hết sắc tà lên cõi Phật,
Tây Phương cực lạc chốn thanh bình.
Tây du ký
là cuốn tiểu thuyết trường thiên 100 hồi, kể từ lúc Tôn Ngộ Không sinh ra tới khi tu đắc quả vị Phật. Người đọc say mê từng trang tiểu thuyết, vui buồn thấp thỏm cùng những bước chân gập ghềnh của thầy trò Đường Tăng, khi nhỏ lệ xót xa, lúc cười vang khoái chí. Đôi khi, chúng ta tưởng như mình đang nhập cùng đoàn người tới Thiên Trúc, có độc giả xem xong còn ước sau này cũng được đi thỉnh kinh. Để nói rằng, cuốn tiểu thuyết vĩ đại này có sức hấp dẫn, lôi cuốn phi thường như thế. Vậy mà nhân vật chính Tôn Ngộ Không, tới ma nạn ở phủ Đồng Đài đã nhảy thoát ra khỏi vở diễn kinh thiên động địa Tây du ký, để thanh tỉnh nhận ra: nguy nan trong hiện tại chỉ là một tình tiết được Thần Phật an bài từ trước, bước một bước là qua.
Trên đường đời thăng trầm sóng gió, có mấy ai làm được như Tôn Ngộ Không? Có thể “lấy khổ làm vui”, như một vị khán giả đang dõi theo vở diễn mà bản thân mình là nhân vật chính. Nếu có thể làm được vậy, thì mọi được mất trong cõi người chẳng thể động đến tâm can, mọi thắng thua chốn nhân gian chỉ như mây khói. Người như vậy, có lẽ đã đến rất gần cảnh giới của đấng giác ngộ vậy.
Một người tu luyện Đại Pháp có lời ca rằng:
Hành trình biết bao đời, tìm kiếm trăm nghìn lần.
Người có duyên trở về, Pháp quang xóa mây mù.
Người trí tuệ tâm sáng, trong khổ vẫn thường vui.
Thức tỉnh trong cõi tục, mới biết vẻ đất trời.
Ảnh minh họa: Phim Tây Du Ký 1986
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao mỗi khi lâm nạn Đường Tăng chỉ biết gọi ‘Ngộ Không’?


“Chúa động nói:
– Nhà ngươi không biết. Ăn thịt hắn thì khó gì, chỉ ngại hai tên đồ đệ đến đây làm phiền thì không ổn. Hẵng trói hắn vào cột định phong ở vườn sau, đợi dăm ba ngày, không thấy hai tên kia đến gây sự, lúc ấy, một là người hắn sạch sẽ, hai là tránh được miệng tiếng, mặc chúng ta bung nấu, rán kho, tha hồ tùy ý đánh chén có thú hơn không?
Hổ tiên phong mừng lắm:

– Đại vương mưu kế sâu xa, nói chí lý lắm!
Rồi hắn gọi đàn em:
– Chúng bay đâu, mang nó đi!
Bảy tám tên lâu la đứng cạnh lôi Đường Tăng lại, lôi đi chẳng khác con quạ tha gà con. Đó thật là:
Khốn cùng Tam Tạng mong Hành Giả,
Hoạn nạn Đường Tăng nhớ Ngộ Năng.


Tam Tạng thầm kêu:
– Đồ đệ ơi, không biết các con hàng yêu bắt quái ở đâu, mà để thầy bị ma bắt thế này. Gặp nạn này biết bao giờ mới lại được gặp nhau. Trời ơi, các con mau đến sớm cứu thầy, nếu chậm, mạng thầy e khó toàn mất.
Tam Tạng vừa than thở, vừa nước mắt như mưa”.
(Trích Tây du ký* hồi thứ 20: “Núi Hoàng Phong, Đường Tăng gặp nạn/ Giữa rừng thẳm, Bát Giới lập công”)

Bạn đọc yêu mến Tây du ký hẳn còn nhớ, trên đường đi thỉnh kinh, mỗi lần Đường Tăng gặp nạn sa vào tay yêu quái, ông chẳng thể làm gì, chỉ biết rơi nước mắt gọi tên đồ đệ. Trong phim “Tây du ký” (1986), hai tiếng gọi thất thanh da diết “Ngộ Không…!” của Đường Tam Tạng đã trở thành dấu ấn khó phai trong lòng bao thế hệ khán giả. Thuở trẻ, tôi chỉ thấy Đường Tăng sao mà yếu đuối, “mang tiếng” là sư phụ mà pháp lực chẳng có gì, toàn dựa dẫm vào ba đồ đệ. Đến giờ đọc lại, mới chợt hiểu ra một tầng đạo lý bên trong, thầm cảm phục vị Thánh tăng của Đại Đường.

Ngũ vị nhất thể
Bạn đọc theo dõi loạt bài Giải mã Tây du ký đều biết, hành trình đi thỉnh kinh của Đường Tăng và bốn đồ đệ (tính cả Bạch Long Mã) thực ra chỉ là quá trình tu luyện của một người: “ngũ vị nhất thể”. Trong đó, Đường Tăng là thân thể, cũng là chủ nguyên thần của người tu luyện, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho cái tâm, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Người xưa thường nói “tâm viên ý mã” (tâm vượn ý ngựa) là như thế. Đường Tăng thu phục được Ngộ Không, Bạch Long Mã, Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” – đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành, kiên định tu luyện. Nên hồi cuối cùng của tác phẩm “Về thẳng phương đông, Năm Thánh thành Phật” mới có thơ rằng:
“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.

Như vậy, việc Đường Tăng khi lâm nạn nhớ đến các đồ đệ của mình, một tầng hàm nghĩa chính là người tu luyện trong ma nạn có thể thanh tỉnh, giữ chính niệm nhắc nhở bản thân mình là người tu luyện, giữ vững tâm tính, một lòng một dạ kiên định ý chí tu luyện. Chỉ có như thế thì mới có thể không bị giả tướng thế gian mê hoặc, mới nhận được sự bảo hộ gia trì của Thần Phật.
Kỳ thực, sự kiện Đường Tăng sa vào tay yêu quái là biểu hiện tại không gian khác của một người tu luyện do buông thả bản thân mà xa rời chính đạo. Tu luyện yêu cầu thời thời khắc khắc giữ gìn tâm tính, diệt trừ mọi ý niệm không phù hợp với Pháp. Tây du ký có thơ rằng:
Tu thiền nhất định tốn công phu,
Ý mã tâm viên thảy diệt trừ.
Buộc chặt giữ bền sinh ngũ sắc,
Lỏng lơi dừng lại rớt tam đồ.

“Tam đồ”
bị rớt, thì cần triệu hồi, ấy là con đường để quay về chính đạo vậy.
Pháp danh của ba đồ đệ
Bên cạnh đó, pháp danh của ba đồ đệ của Đường Tăng dường như cũng nói lên nhiều điều. Trong khổ nạn, Đường Tăng nhớ “Ngộ Không”, “Ngộ Năng” và “Ngộ Tĩnh”, phải chăng chính là nói trong khảo nghiệm người tu luyện nhất định cần phải “Ngộ”, chính là dựa vào ngộ tính mà lĩnh hội pháp lý, đề cao tầng thứ tâm tính, dựa vào ngộ mà viên mãn.
Vậy Đường Tăng cần ngộ ra những điều gì? Theo lý giải hạn hẹp của người viết, người tu luyện trong ma nạn đầu tiên cần ngộ ra là phải không chấp trước, buông bỏ mọi chấp trước (Ngộ Không), sau đó là ngộ ra năng lực phi thường sẵn có trong bản thân mình (Ngộ Năng), và cuối cùng là ngộ ra phải giữ tâm tĩnh như nước để soi chiếu vạn cảnh (Ngộ Tĩnh), thế thì sẽ nhìn thấu bản chất của sự vật sự việc, dùng cái tâm thanh tịnh không truy cầu và năng lực phi thường để vượt qua quan ải khảo nghiệm.
“Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu”
Trong số ba đồ đệ thì Tôn Ngộ Không là đại sư huynh, là người có pháp lực cao nhất, cũng là người được Đường Tăng đặt nhiều hy vọng nhất. Ở hồi 75, khi bị ba ma vương cản lại ở thành Sư Đà, Tam Tạng đã chắp tay ngửa mặt lên trời khấn rằng:
Thỉnh cầu các vị thần tiên,
Lục đinh Lục giáp chư thiên mọi đàng.
Phù hộ đồ đệ họ Tôn,
Thần thông quảng đại vô biên phép màu!

Điều đó khiến Hành Giả tinh thần phấn chấn hẳn lên. Tôn Ngộ Không là biểu trưng cho cái tâm của Đường Tam Tạng. Trong hoạn nạn, Đường Tăng không oán Trời trách người, mà biết cầu cái tâm, tìm cái tâm, hướng vào trong tâm mà tu hành, đó chính là yếu chỉ của tu luyện! Người tu luyện không thể mãi hướng ngoại mà cầu, hướng ngoại mà tìm, thế thì sẽ lạc vào ma đạo. Chỉ có hướng nội tu tâm mới có thể nhận ra lỗi lầm chấp trước, mới có thể tịnh hoá bản thân, mới có thể công thành viên mãn.
Cho đến những ngày cuối cùng trên hành trình thỉnh kinh, ta vẫn thấy một Đường Tăng đôi khi còn lo sợ viển vông, mà Hành Giả đã muôn phần chín chắn. Kỳ thực, cái thân thể phàm tục của người tu luyện luôn phản ánh ra cảm xúc của người thường, nhưng cái tâm tu luyện thì đã trưởng thành rồi, phần Thần ấy có thể ước chế phần người. Hồi thứ 85 “Hành Giả đố kỵ lừa Bát Giới/ Ma vương bày mẹo bắt Đường Tăng” có đoạn:
“Ðang lúc vui vẻ, bỗng họ nhìn thấy một tòa núi cao chắn lối. Đường Tăng ghìm ngựa nói:
– Đồ đệ ơi, các con nhìn thế núi trước mặt cao vòi vọi thế kia, vậy phải cẩn thận nhé!
Hành Giả cười nói:
– Sư phụ yên tâm! Yên tâm! Con sẽ bảo vệ sư phụ vô sự!
Tam Tạng nói:
– Chớ nói vô sự! Ta thấy núi ấy sừng sững, hung khí bảng lảng, mây độc chập chờn, bất giác cảm thấy hoảng sợ, toàn thân tê dại, thần trí chẳng an.
Hành Giả cười nói:
– Sư phụ quên bản Đa Tâm Kinh của thiền sư Ô Sào rồi à?
Tam Tạng nói:
– Ta vẫn nhớ chứ.
Hành Giả nói:
– Sư phụ tuy nhớ, nhưng quên mất bốn câu tụng.
Tam Tạng hỏi:
– Bốn câu nào?
Hành Giả thưa:
– Bốn câu:
Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu,
Linh Sơn tại tâm có xa nào.
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp.
Chân tháp tu hành tốt biết bao!

Tam Tạng nói:
– Đồ đệ ơi, ta há không biết? Nếu cứ y theo bốn câu thơ ấy thì muôn kinh nghìn điển cũng chẳng bằng tu tâm à?
Hành Giả nói:
– Đúng rồi. Tâm lắng có mình riêng chiếu, tâm còn vạn cảnh đều trong, sơ suất lỡ lầm thành biếng nhác, nghìn đời muôn kiếp chẳng thành công, chỉ cần một tấm lòng thành, Lôi Âm ở ngay trước mặt. Cứ nhìn sư phụ hốt hốt hoảng hoảng, thần trí bất an, thì đạo lớn còn xa lắm và Lôi Âm cũng xa lắm! Sư phụ chớ nghi ngờ cứ đi theo con.
Tam Tạng nghe nói, tinh thần trở lại bình tĩnh, muôn nỗi lo lắng đều tiêu tan”.

“Muôn kinh nghìn điển cũng chẳng bằng tu tâm”, đây có lẽ là thông điệp xuyên suốt mà Tây du ký muốn nói cùng thiên thu vạn đại. Phật gia giảng “Phật tại tâm trung”, phải hướng vào cái tâm này mà tìm, mà tu, thì mới có thể tu thành. Chớ tưởng khấn bái tứ phương mà tiêu tai giải nạn, chớ mong xây chùa bắc cầu mà tu thành Phật thành Tiên, ấy chỉ là mò trăng đáy nước. Đường Tăng mỗi khi lâm nạn đều nhớ về ba đồ đệ, biết hướng tâm mà tu, kiên định tín niệm tu luyện, quả không hổ danh là bậc “Thần tăng”!
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không từng chẳng lạy Ngọc Hoàng, cớ sao lại lạy hồ ly tinh?


Trời đất rừng cây sắc khói hồng,
Đương triều Phật tử khổ vô cùng.
Đổi ăn một bát cơm thiên hạ,
Rét buốt nghìn kim áo lạnh lùng.
Ý ngựa buông tuồng đừng thả sổng,
Lòng hầu ngỗ ngược phải dày công.
Tính tình đã định muôn duyên hợp,
Rực rỡ trăng tròn lúc đổ lòng.

Những người yêu mến Tây du ký* hẳn còn nhớ cách xưng hô quen thuộc của Tôn Ngộ Không là “lão Tôn đây”. Hỏi trời đất bao nhiêu tuổi, mà Ngộ Không tự nhận mình là “già”? Mỹ hầu vương trước điện Linh Tiêu không thèm lạy Thượng đế, thế mà về sau trên đường thỉnh kinh lại có lần lạy một con hồ ly tinh chín đuôi. Vì sao lại có chuyện ngược đời như vậy?
Tây du ký, hồi thứ tư: “Quan phong Bật mã lòng đâu thỏa/ Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên”, Tôn Ngộ Không được Thượng đế gia ân, Thái Bạch Kim Tinh rước lên cõi trời hưởng quan tước. Viết rằng:

“Thái Bạch kim tinh dẫn Mỹ hầu vương đến ngoài điện Linh Tiêu, không chờ chiếu gọi, vào thẳng trước tòa ngự để lạy Thượng đế. Ngộ Không đứng thẳng ở bên cạnh, không thi lễ, chỉ lắng tai nghe Kim Tinh tâu:
– Thần vâng theo thánh chỉ, dẫn yêu tiên vào.
Thượng đế buông rèm hỏi:
– Đứa nào là yêu tiên?
Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời:

– Chính lão Tôn đây.
Các vị tiên đều cả sợ thất sắc nói:
– Con khỉ dã man kia, tại sao không cúi lạy, lại dám trả lời vô lễ “lão Tôn đây”? Tội thật đáng chết! Đáng chết!
Thượng đế ra lệnh:
– Tôn Ngộ Không là con yêu tiên ở hạ giới, mới được thành thân người, chưa biết lễ nghĩa nay ta tạm tha tội cho.

Các vị tiên giục:
– Mau lạy tạ ơn đi!
Ngộ Không chỉ nhìn lên, “vâng” một tiếng thật to”.
Tôn Ngộ Không cao ngạo là thế, coi trời bằng vung, thế mà trên đường đi thỉnh kinh, có một lần đã phải rơi nước mắt, lạy một con yêu quái.
Tây du ký kể rằng sau khi Ngộ Không giải cứu sư phụ thoát nạn biến thành hổ ở nước Bảo Tượng, mấy thầy trò lại cùng lên đường, đến núi Bình Đính, đụng độ hai con yêu quái tài phép đa mưu là Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương. Ngân Giác biến thành một đạo sĩ bị thương để lợi dụng lòng thương xót của Đường Tam Tạng, bắt Ngộ Không phải cõng mình trên vai, rồi vận thần thông đè cả mấy ngọn núi lên khiến Hành Giả hai vai đau đớn, máu bảy khiếu phun ra. Yêu quái bắt được cả Đường Tăng, Bát Giới và Sa Tăng mang về động.

Hai con yêu quái này không chỉ lắm mưu nhiều kế, mà còn có 5 thứ bảo bối uy lực vô song là hồ lô hồng, bình ngọc mỡ dê, kiếm thất tinh, quạt ba tiêu và sợi dây kim tuyến; khiến Tôn Ngộ Không năm lần bảy lượt phải chui vào động quỷ, ra tử vào sinh để đoạt lấy bảo bối, giải cứu sư phụ và các em.
Ở hồi thứ 34: “Ma vương giỏi mẹo khốn Hầu vương/ Đại Thánh khéo lừa thay bảo bối”, Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương sau khi bị Tôn Ngộ Không lừa lấy mất hai bảo bối là hồ lô và bình ngọc, thì hầm hầm nổi giận. Ngân Giác bèn sai hai tiểu yêu là Ba Sơn Hổ và Ỷ Hải Long đi mời mẫu thân chúng đang ở động Áp Long đến ăn thịt Đường Tăng và nhờ bà ta mang “Sợi dây kim tuyến” đến bắt Tôn Hành Giả. Ngộ Không biến hoá thành một tiểu yêu chạy theo Ba Sơn Hổ và Ỷ Hải Long, nói dối rằng mình được đại vương sai đi theo để “thúc hai anh đi cho nhanh”. Đến trước hang động của mụ yêu quái, Hành Giả vung gậy sắt đánh nát hai con tiểu yêu, “rồi nhổ lông, thổi hơi tiên, hô “biến!”, biến thành Ba Sơn Hổ, còn mình biến thành Ỷ Hải Long, giả cải trang thành hai yêu quái đến thẳng động Áp Long mời mụ già”.
Tây du ký, hồi thứ 34 có viết:
“Đến tầng cửa thứ hai, Hành Giả ngẩng đầu nhìn vào trong, chỉ thấy một bà cụ già ngồi chính giữa nhà. Bạn bảo bà già ấy ăn mặc ra sao? Chỉ thấy:
Tóc bạc trắng, rối tơ vò,
Mắt như chảo chớp thò lò long lanh.
Má xề xệ lắm vết nhăn.
Răng tuy có rụng tinh thần vẫn tươi.
Mặt như hoa cúc sương phơi.
Người gầy như thể thông trời sau mưa.
Đầu chít khăn lụa trắng ghê.
Đôi hoa vàng chóe tai kia rủ thòng.

Tôn Đại Thánh trông thấy không dám tiến vào, chỉ đứng ngoài tầng cửa thứ hai mặt mũi rầu rĩ, sùi sụt khóc thầm. Bạn bảo làm sao mà Hành Giả lại khóc? Có phải sợ mụ không? Mà có sợ cũng không dám khóc, huống hồ định đánh lừa lấy bảo bối của mụ, lại đánh chết hai tiểu yêu, còn khóc nỗi gì? Trước kia, lúc bị nấu trong vạc dầu sôi cửu đỉnh, bị nấu luôn bảy, tám ngày liền, mà Hành Giả cũng chưa hề rơi một giọt nước mắt nào cơ mà. Chính là Hành Giả nghĩ tới Đường Tăng lấy kinh vất vả, nên mới đau lòng rơi lệ, dụi mắt khóc thầm như vậy, lại tự nhủ trong lòng:
– Ta đã trổ tài nghệ, biến thành tiểu yêu, đến mời nữ quái, không có lý gì cứ đứng sừng sững mà nói, nhất định phải dập đầu lạy mụ mới xong. Từ khi ta làm người là một trang hảo hán, chỉ biết lạy có ba người: Đó là lạy Phật tổ ở phương Tây, lạy Quan Âm ở Nam Hải và lạy sư phụ cứu ta ở núi Lưỡng Giới. Ta lạy thầy bốn lạy. Vì thầy mà gan ruột ta tan nát, ăn ở đến hết lòng. Một quyển kinh có giá trị gì mà hôm nay bắt ta phải lạy mụ yêu quái này nhỉ? Mà nếu không lạy, tất sẽ lộ chuyện. Khổ quá! Chỉ tại sư phụ bị khốn, nên ta mới nhục nhã thế này.
Đến nước này thì biết làm thế nào được. Hành Giả đành tiến vào, ngoảnh về phía mụ quỳ xuống, nói:
– Xin cúi đầu chào đức bà”.
Vì cứu sư phụ, vì thỉnh chân kinh, Tôn Ngộ Không cao ngạo thuở nào nay phải dằn lòng, nhẫn nhục quỳ lạy một mụ già yêu quái. Về sau đánh chết, mới biết mụ vốn là một con hồ ly chín đuôi. Khi trước, Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, ba lần bị sư phụ mắng chửi đuổi đi, cũng là một nỗi thống khổ như thế. Có thể nói, nếu như với Đường Tăng, hành trình thỉnh kinh là con đường khiến ông trở nên ngày một lý trí, thanh tỉnh và dũng cảm, thì với Ngộ Không, quá trình xông pha nguy hiểm, trừ yêu diệt quái, hộ vệ một Đường Tăng yếu đuối đã giúp Tề Thiên Đại Thánh ngông ngạo hung hãn thuở nào rèn luyện tâm đại thiện, đại nhẫn, cung kính nhu hoà.
Tôn Ngộ Không chỉ một cân đẩu vân là bay tới Linh Sơn, nhưng lại phải lặn lội vượt núi băng đèo, phò tá Đường Tăng, vì chỉ có như vậy mới có thể thành tựu sinh mệnh chính giác. 81 nạn trên hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng được Phật Tổ và Bồ Tát an bài để giúp năm thầy trò buông bỏ nhân tâm chấp trước, đề cao cảnh giới tâm tính, tìm lại chân ngã thanh tịnh không lấm bụi trần.
Trong 81 nạn thì ma nạn gặp Kim Giác và Ngân Giác đại vương này là tốn giấy mực bậc nhất, từ đầu hồi thứ 32 cho tới hết hồi thứ 35. Thông thường, một ma nạn chỉ kéo dài 1-2 hồi là hết. Trong nạn này, Ngộ Không chẳng những nhọc cái thân xác, mà còn phải khổ cái tâm trí vô cùng. Thế nhưng khổ nhất cũng là quý nhất, sau đại nạn này, Ngộ Không dường như thoát thai hoán cốt, tâm cảnh trở nên chín chắn, vững vàng, thuần khiết. Trong thử thách tiếp theo trên hành trình thỉnh kinh (giải cứu quốc vương nước Ô Kê), Tôn Hành Giả đã đạt tới cảnh giới “chỉ một lòng chuyên nhất, mong tới phương Tây lễ Phật, nên đặt mình là ngủ chẳng có mộng mị gì”.
Quả đúng là:
Xử thế cốt sao lòng nhẫn nhục,
Tu thân nên nhớ nói lời ngay.
Thường nghe chữ nhẫn là sinh ý,
Phải nghĩ cho sâu chớ nói bậy.
Thượng sĩ không tranh còn mãi mãi,
Thánh hiền giữ đức nối tương lai.
Cương cường lại gặp cương cường trị,
Rút cục bao giờ có gặp hay!
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tôn Ngộ Không đại chiến Hỗn Thế ma vương và ẩn dụ chua xót cho đời người


“Tâm viên ý mã hai loài ấy,
Trói chặt ngay vào chớ lỏng lơi.
Muôn nẻo về nguồn theo một lý
Rừng sâu tu luyện học Như Lai”.

Những ai yêu mến Tây Du Ký hẳn còn nhớ, Tôn Ngộ Không sau khi học Đạo với Bồ Đề Tổ Sư, trở về Hoa Quả Sơn thì việc đầu tiên là đánh bại Hỗn Thế ma vương. Thuở xưa đọc đoạn này, không thể nhịn cười vì bộ dạng nhỏ thó, ăn vận quê mùa của Ngộ Không, thế mà đánh bại ma vương giáp mũ sáng trưng, cao to lừng lững gấp mấy lần mình. Giờ đây khi đã bước trên con đường tu luyện, đọc lại cố sự này, người viết chợt hiểu ra một tầng hàm nghĩa sâu sắc hơn. Xin được ghi ra đôi dòng hầu chuyện quý vị độc giả.
Tây Du Ký, hồi thứ 2 có viết:

“Ngộ Không từ trên mây hạ xuống, đến thẳng núi Hoa Quả, đang tìm lối đi, bỗng nghe thấy tiếng hạc kêu vượn hót. Tiếng hạc vang mấy tầng mây biếc, tiếng vượn kêu bi thiết thương tâm. Bèn cất tiếng gọi:
– Các con ơi, ta đã về đây!
Bọn khỉ trong hang đá gốc cây, khóm hoa bụi cỏ, con lớn con bé, nhảy ra hàng ngàn hàng vạn, vây xung quanh Mỹ hầu vương, dập đầu thưa rằng:
– Đại vương nỡ lòng đi lâu, bỏ chúng con ở đây. Chúng con mong đại vương như đói khát mong cơm ăn nước uống. Gần đây chúng con bị một con yêu ma hung ác chiếm động Thủy Liêm. Chúng con liều chết quên sống đánh nhau, bị nó cướp hết đồ đạc, bắt đi nhiều con cháu, khiến chúng con ngày đêm mất ngủ, canh giữ cơ nghiệp. May được đại vương về, nếu một năm nữa đại vương không về, thì đến cả động này cũng thuộc về người khác mất.
Ngộ Không nghe xong, trong lòng tức giận nói:

– Con yêu quái nào mà gớm thế! Các con hãy kể kỹ cho ta nghe, ta sẽ tìm nó báo thù.
Lũ khỉ dập đầu thưa:
– Tâu đại vương, con yêu đó tự xưng là Hỗn Thế ma vương, nhà ở mạn phía Bắc.
Ngộ Không hỏi:
– Từ đây đến chỗ nó ở khoảng độ bao nhiêu đường đất?

Lũ khỉ nói:
– Nó đến theo mây, đi theo mù, như gió như mưa, như sấm như chớp, chúng con không biết đường xa hay gần”.
Lời tâu của lũ khỉ thật đáng chú ý. Ma vương này đến đi bất chợt, khiến người ta không biết nó đến từ đâu, ở xa hay gần. Lại nữa, lúc Ngộ Không tìm đến hang ổ của Hỗn Thế ma vương có quát một câu: “Hỗn Thế ma mãnh nào nhà chúng bay, mấy lần lừa dối ức hiếp con cháu ta, nay ta tìm đến đây để tranh tài cao thấp”.

Vì sao lại là “lừa dối”? Khi nãy, không thấy lũ khỉ nhắc gì đến hai chữ “lừa dối”, mà Ngộ Không lại mắng như thế này?
Đầu tiên, xin hãy quay trở lại bài thơ trong hồi thứ nhất của Tây Du Ký, đoạn Hầu vương đến Nam Thiệm Bộ Châu bắt chước giống người, tìm thầy học Đạo mỏi mòn mà không thấy:
“Đua chen danh lợi dập dồn
Thức khuya dậy sớm chẳng còn tự do
Mong tuấn mã khi cưỡi lừa
Làm quan tể tướng, lại mơ vương hầu.
Mệt nhoài cơm áo tranh nhau
Chẳng lo quỷ sứ bắt chầu Diêm vương
Mải mê vun đắp cháu con
Nào ai tỉnh giấc tìm đường hồi tâm?”


Có câu rằng: “Nhân thế hỗn độn”, ý nói thế gian con người là nơi hỗn loạn, mê hoặc, muốn tìm được một miền đất thanh tịnh thuần khiết thật chẳng dễ dàng gì. Con người sống ở thế gian, việc này chưa qua việc khác đã tới, mỗi ngày đều có vô vàn phiền não. Một người bình thường mà muốn ngồi yên trong vòng ba phút, đầu óc thanh tĩnh không nghĩ ngợi gì dường như là không thể. Không phải là chuyện được mất tài sản thì là chuyện vinh nhục công danh, không phải thân thể tổn thương thì là cháu con phiền nhiễu… những ý niệm này cứ từ đâu ào đến, quả là “như gió như mưa, như sấm như chớp”, không biết từ đâu mà lần. Chúng mang tâm của chúng ta lên trời xuống biển, bay nhảy vất vơ, mãi không an trú được trong miền thanh tịnh. Chúng ta lại thuận theo những vọng niệm này mà vui buồn, yêu ghét, nhầm tưởng chúng là bản ngã chân thật, thậm chí vì chúng mà sẵn sàng vứt bỏ sinh mệnh. Chẳng phải con người đã bị nhân thế hỗn độn và các vọng niệm này “lừa dối” sao?
“Hỗn Thế ma vương” này quả là ghê gớm, nó có thể lừa dối người ta, dẫn dụ người ta quay vòng vòng không còn biết đâu là nhà nữa. Nó “cướp hết đồ đạc, bắt đi nhiều con cháu, khiến chúng con ngày đêm mất ngủ, canh giữ cơ nghiệp”. Như lời lũ khỉ nói, “May được đại vương về, nếu một năm nữa đại vương không về, thì đến cả động này cũng thuộc về người khác mất”. Tôn Ngộ Không phải chăng là hiện thân của chân tâm, bản tính lương thiện, vô dục vô cầu của con người? Bản tính không trở về kịp thì con người sẽ hoàn toàn bị vọng niệm khống chế, hoàn toàn mất đi tự chủ rồi.
Đáng lo thay, đại đa phần người ta đều không nhận ra “Hỗn Thế ma vương”, bôn ba cả cuộc đời vì danh vì lợi, đến khi nhắm mắt xuôi tay mới hiểu chẳng thể mang theo được gì.
“Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu,
Đời người, bọt nước khác gì đâu.
Sớm còn thắm đỏ đôi gò má
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.
Giấc điệp tàn rồi, đời ảo cả
Cuốc kêu da diết hãy quay đầu…”

Tuy nhiên, đối với những ai “tỉnh giấc tìm đường hồi tâm”, thì Hỗn Thế ma vương dẫu tài phép đến đâu cũng không khó diệt trừ. Tây Du Ký, hồi thứ hai có đoạn:
“Ma vương trông thấy, cười nói:
– Nhà ngươi cao không đầy bốn thước, tuổi không quá ba tuần, tay không binh khí, mà dám cuồng điên tìm đến ta so tài sao?
Ngộ Không mắng lại:
– Đồ ma quái khốn kiếp có mắt như mù kia! Nhà ngươi cho ta là nhỏ, muốn to nào có khó gì! Nhà ngươi cho ta là không có binh khí, chỉ hai tay ta vươn ra cũng tới mặt trăng, mặt trời. Nhà ngươi đừng sợ, thử nếm một quyền của lão Tôn đây”.
Cái chân tâm của con người là thần thông quảng đại: có thể biến to thu nhỏ, vươn đến mặt trời mặt trăng. Thật vậy, nếu bạn lập chí muốn tu thành Phật, thành Tiên, thì những danh, lợi, tình ở thế gian nào có đáng kể gì, đều có thể xem nhẹ được hết. Những khổ nạn với người khác là không thể nào chịu đựng, thì bạn có thể mỉm cười bước qua. Những oan khuất với người khác là không thể nào tha thứ, thì bạn có thể khoan dung độ lượng. Người xưa giảng: “Tướng tuỳ tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, một tầng hàm nghĩa có lẽ là như vậy.
Tôn Ngộ Không sau khi tiêu diệt Hỗn Thế ma vương thì xuống Long cung lấy được “Định hải thần châm” là gậy Như Ý. Điều này phải chăng muốn nói, đầu tiên phải dứt sạch vọng niệm, sau đó mới có thể định lại được. Người tu luyện phải buông bỏ các chủng tâm chấp trước, các truy cầu nơi thế gian con người, thì tâm mới có thể an tĩnh, định lực mới tăng trưởng, dần dần khai mở trí huệ, khai công khai ngộ. Đó chính là:
“Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý,
Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần”
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Đường Tăng bái Phật giả ở phủ Kim Bình: Tiên tri cho thời Mạt Pháp?

Mấy năm từ biệt Tràng An,
Trèo non lội suối gian nan bao lần.
Cõi Tây vừa lúc đặt chân,
Phủ Kim Bình, đúng ngày rằm tháng giêng.
Nào hay Phật giả xem đèn,
Chỉ than số phận lẫn liền tai ương.
Đồ đệ ơi, gắng tìm phương,
Thần thông trổ phép thoát đường hiểm nguy.

Đó là bài ca cảm thán của Đường Tăng khi đã lọt vào tay yêu quái tê giác ở động Huyền Anh. Tây du ký, hồi 91, thầy trò Đường Tăng đi qua huyện Mận Thiên, phủ Kim Bình, nước Thiên Trúc thì được các nhà sư trong chùa Từ Vân giữ lại thưởng lãm đêm nguyên tiêu. Khi thầy trò đang xem cầu đèn vàng thì trong đám gió hiện hình ba thân Phật. Đường Tăng vội vàng chạy lên tới giữa cầu, cúi rạp mình xuống lạy, ngờ đâu bị yêu quái cuốn luôn đi mất.
Trong Tây du ký, tôi ấn tượng nhất với hai lần Đường Tăng bị lừa bởi yêu quái giả trang Phật tổ: một lần ở chùa Tiểu Lôi Âm, phải phiền đến đức Đông Lai Phật Tổ (Di Lặc Phật) tới giúp; và lần này ở phủ Kim Bình. Khi đọc lại cố sự này, tôi bất chợt hiểu ra một tầng hàm nghĩa, dẫu biết còn nông cạn nhưng cũng xin mạn phép giao lưu cùng quý độc giả.

Điều đầu tiên đáng nói là, ba yêu quái đã giả trang Phật tổ bao nhiêu năm rồi, mà từ quan đến dân, từ kẻ phàm phu đến bậc tu hành ở phủ Kim Bình đều bị lừa hết. Ngay cả Đường Tăng cũng chẳng phân thật giả mà vội vàng bái lạy, chỉ có Ngộ Không là nhận ra chúng “không phải là người tốt”. Vì sao vậy? Hồi 91 có
thơ rằng:
Kinh có nói: “Thái cực sinh bĩ”,
Trong cái vui có chứa cái buồn.
Thưởng đèn thiền tính buông tuồng,
Mải mê cảnh đẹp đạo thường lìa xa.

Vị Công tào cũng nói với Tôn Hành Giả: “Sư phụ ngài lỏng lơi Thiền tính, ham cuộc vui ở chùa Từ Vân phủ Kim Bình, vậy nên thái cực sinh bĩ, lạc thịnh sinh bi, bị yêu quái bắt mất”. Tác giả đã nói đi nói lại rất rõ ràng, ma nạn này là do Đường Tăng bị cảnh sắc thế gian mê hoặc, lơi lỏng đạo tâm. Đường Tăng và các nhà sư chùa Từ Vân đều nhập vào trong cái vui của đêm hội nguyên tiêu, không khác gì dân chúng phàm trần, nên Phật tính và trí huệ mới bị che lấp, không nhìn ra chân tướng. Tôn Ngộ Không tuy thân ở trong cảnh nhưng tâm lại siêu thoát bên ngoài, vậy nên mới nhận ra yêu quái.
“Đường Tăng nói:
– Đệ tử tôi vốn là người chỉ biết thờ Phật, niệm Phật, lạy Phật mà thôi, nay gặp cảnh đẹp, lại có chư Phật giáng phàm, được tới đó mà lạy các ngài thì tốt biết bao nhiêu!”.
Đoạn này khiến ta liên tưởng tới truyện Phong Thần diễn nghĩa, Trụ Vương xây Lộc đài, vào đêm rằm cũng mong chờ Thần Tiên đến chơi, nhưng cuối cùng lại đón một lũ yêu tinh cùng bầy với Đát Kỷ. Đường Tăng với Trụ Vương thì khác xa, không thể so sánh, nhưng ngẫm ra thì hai câu chuyện này có cùng một ý nghĩa: chính là cái tâm bất tịnh thì không thể nào mời được Thần Phật giáng lâm, chỉ có thể mời yêu ma quỷ quái. Giới tu luyện có câu “Nhân tâm câu đích quỷ thượng môn” cũng là ý này vậy.
Thực ra, Đường Tăng ban đầu không hề có tâm an dật hưởng thụ đó. Ông nói với các nhà sư chùa Từ Vân: “Đệ tử dọc đường vượt qua bao núi bao sông, luôn sợ gặp phải yêu ma quỷ quái, chẳng để ý tới quang âm vùn vụt, không biết bao giờ mới gặp cảnh ‘nguyên tiêu giai tiết’?”. Nhưng vì khó lòng từ chối nên đành miễn cưỡng thuận theo. Các nhà sư vì sao suốt bấy nhiêu năm chẳng nhìn ra yêu quái? Có lẽ là vì họ đã quen “nhàn dưỡng”, vui cái vui trần tục, không phải vân du chịu khổ nữa rồi. Phật Thích Ca Mâu Ni lúc sinh thời đã để lại cho các đệ tử đường lối tu luyện rất tốt, khiến người tu phải vân du giữa người thường, đi xin ăn, chịu đủ thứ khổ bị nhục mạ huỷ báng… nên mới nhanh vứt bỏ tâm chấp trước, tu thành chính quả. Tuy nhiên về sau, nhiều hoà thượng ở trong chùa tiếp nhận đầy đủ vật thực cúng dường, không còn phải chịu cái khổ ấy nữa.
Mạnh Tử từng nói: “Khi trời giao sứ mạng trọng đại cho những người nào, nhất định trước hết phải làm cho ý chí của họ được tôi rèn, làm cho gân cốt họ bị nhọc mệt, làm cho thân xác họ bị đói khát, làm cho họ chịu nỗi khổ sở nghèo túng, làm việc gì cũng không thuận lợi. Như thế là để lay động tâm trí họ, để rèn luyện tính kiên nhẫn, để tăng thêm tài năng mà họ còn thiếu”. Vậy nên với người tu luyện, khổ nạn lại là điều tốt, còn hưởng thụ đủ đầy mới thực là chướng ngại.
Con người hiện đại vì không ngộ ra điều ấy, nên mới cầu xin Phật tổ cho phát tài, tiêu tai, sinh con trai, cuộc sống nhàn hạ… Kỳ thực, Phật chỉ truyền Pháp, chỉ dạy một con đường tu tâm dưỡng tính, thăng hoa sinh mệnh, vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, chứ nào định giá lễ vật rồi quản chuyện giàu nghèo sướng khổ chốn nhân gian? Người dân phủ Kim Bình truyền tai nhau: “Khi nào dầu hết rồi, mọi người nói rằng đó là Phật tổ thu đèn, thì năm ấy mùa màng bội thu. Năm nào dầu vẫn còn thì mất mùa đói kém, mưa gió trái thời, vì vậy mọi người ai cũng muốn dâng dầu”, thế thì đây nào phải Phật tổ, mà là ba con yêu quái.
Trung Quốc ngày nay, sau Đại cách mạng văn hoá thì tinh hoa văn hoá truyền thống, nội hàm chân chính của tu luyện đã bị phá huỷ rồi. Cái còn lại hầu như chỉ là cái vỏ của tôn giáo, bị những kẻ mưu cầu bất chính lợi dụng, là nơi chốn cho yêu ma quỷ quái hoành hành. Ví như “Miếu Bà nội” ở huyện Dịch tỉnh Hà Bắc rất đông khách, trong miếu này có thể tìm được tất cả các “Thần” mà người ta muốn bái. Muốn thăng quan thì ở đây có “Thần quan”; muốn phát tài thì ở đây có “Thần tài” toàn thân dán đầy tiền giấy; muốn học lên thì ở đây có “Thần học” trán hằn nếp nhăn. Nếu như muốn bảo hộ cho bản thân lái xe bình an thì ở đây thậm chí còn có “Thần xe” ôm cái vô-lăng. Nhân viên quản lý của Miếu Bà nội còn khoa trương: “Thiếu Thần Tiên nào thì làm thêm là có”.

Thời xưa, phủ Kim Bình phải đợi đến dịp nguyên tiêu mới có cảnh tượng đèn hoa sáng rực cả góc trời như thế, còn hôm nay, với sự phát triển vũ bão của đời sống vật chất, đêm nào ở thành thị người ta chẳng chứng kiến cảnh đèn điện lu mờ cả ánh trăng? Đình chùa miếu mạo mọc lên khắp nơi, “tiền dầu đèn” ngày càng nặng ký, thế thì có lẽ không chỉ có ba con yêu quái tê giác thích món dầu thơm như phủ Kim Bình xưa kia, mà là có hàng nghìn hàng vạn yêu tinh. Dự ngôn trong tôn giáo nói rằng thời Mạt Pháp, vạn ma sẽ xuất thế, chính là ứng với ngày hôm nay. Giữa loạn thế mà muốn tu thành thì thật khó lắm, khó lắm!
Tuy vậy, chúng ta có lý do để hy vọng rằng Thánh nhân sẽ xuất hiện, như cái cách mà thầy trò Đường Tăng đã ghé chùa Từ Vân, Thiên tướng đã hạ phàm trợ giúp Ngộ Không tiêu diệt yêu tinh, cứu bách tính thoát khỏi cái khổ nộp cống. Người tu trong tôn giáo hay giữa đời thường, nếu giữ được đạo tâm trong sáng, thì biết đâu chân Phật, chân Pháp sẽ xuất hiện?
Tu thiền nhất định tốn công phu,
Ý mã tâm viên thảy diệt trừ.
Buộc chặt giữ bền sinh ngũ sắc,
Lỏng lơi dừng lại rớt tam đồ.
Thần đan tiết lậu do buông thả,
Ngọc tinh khô gầy bởi chẳng tu.
Hỉ nộ ưu tư đều quét sạch,
Giúp thành huyền diệu hợp hư vô.


(Sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Vì sao nói đến thời mạt Pháp, đắc Chính Pháp còn khó hơn lên trời?

“Nếu đúng là như vậy, có được thân người ngày hôm nay quả là kỳ duyên thiên cổ. Nếu ai lại có cơ duyên tu luyện trong Đại Pháp của Ngài, cá nhân ấy quả là quá may mắn”.
Không đắc thân người, không được thọ Pháp
“Tây Du Ký”, hồi 64
“Núi Kinh Cức, Ngộ Năng gắng sức; Am Mộc Tiên, Tam Tạng làm thơ” kể rằng: Sau khi chia tay Vua Tế Trại, thầy trò Đường Tăng tiếp tục lên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh. Tới rằm tháng giêng thì đến núi Kinh Cức. Mấy thầy trò đi đến một miếu hoang, thì có một ông già chống gậy đi trước, theo sau là một con quỷ mặt xanh, nanh bạc, tóc đỏ, mình trần, đội mâm bánh, cùng quỳ xuống trước mặt Tam Tạng. Ông lão tự xưng là Thần Thổ Địa núi này, đoạn dâng mâm bánh phục linh cho đoàn thỉnh kinh.
Tôn Ngộ Không nghi ngờ yêu quái, vừa toan giá thiết bảng thì ông già đã cặp nách Tam Tạng hoá gió bay mất.
Đường Tăng được đưa đến Mộc Tiên Am, ông già ban nãy xưng là Thập Bát Công, thưa rằng trăng thanh gió mát, thỉnh Thánh tăng về cùng làm thơ cho vui.
Còn có thêm 3 vị “tiên nhân” xưng là Cô Trực Công, Lăng Không Tử, và Phất Vân Tẩu cùng ngâm thơ đàm đạo. Họ thỉnh cầu Đường Tăng giảng Phật Pháp cho thoả lòng ao ước bấy lâu. Đường Tăng cảm khái rằng:
“Thân người khó được,
Trung Thổ khó sinh,
Chính Pháp khó gặp,
Được cả ba điều,
May mắn lắm thay”
Họ thỉnh cầu Đường Tăng giảng Phật Pháp cho thoả lòng ao ước bấy lâu (Ảnh: youtube.com)
Đến khuya, Đường Tăng xin cáo từ ra về, thì 4 vị tiên ông giữ lại chơi thêm vài canh nữa. Đoạn có hai nàng thể nữ áo xanh xách cặp lồng đèn vào trước, một nàng tiên nữ theo sau; nàng tiên nữ cầm một nhành hoa bạch, cười chúm chím, thì ra là Hạnh tiên cô. Câu từ qua lại, Hạnh tiên cô ngỏ ý lả lơi trăng gió với Đường Tăng. Đường Tăng nổi giận thì con quỷ mặt xanh nanh bạc hét lớn, Đường Tăng kinh hãi, toan chạy trốn thì bị chúng nắm tay, xô đẩy, khóc la tới sáng.
Vừa đúng lúc Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Ngộ Tĩnh đến giải cứu sư phụ. Tôn Ngộ Không phát hiện ra bè lũ “tiên ông”, “tiên cô kia” là mấy cái cây thành tinh. Thập Bát Công là cây tùng, bởi chữ “thập” với chữ “bát” dính lại thành chữ “mộc”, thêm chữ “công” một bên là chữ “tùng”. Còn Cô Trực Công là cây bách, bởi cây trắc ngay thẳng luôn luôn. Còn Lăng Không Tử là cây cối, “lăng không” nghĩa là lấn mây, vì nó cao lắm. Còn Phất Vân Tẩu nghĩa là ông già quét mây, vì ngọn nó cao quá. Con quỷ sứ là cây chùm bao. Hạnh tiên là cây hạnh, hai con tỉ tấc mặc áo xanh là hai cây huỳnh mai.
Bát Giới nghe rõ nổi xung, vì đi kiếm thầy một đêm khổ lắm. Bát Giới vác đinh ba cuốc cả lũ cây đó, rồi kê mỏ ủi trốc gốc đứt rễ hết thảy; thấy máu chảy ròng ròng!

Không đắc thân người thì không được nghe Pháp, động vật cây cỏ dẫu có tu luyện thành tinh cuối cùng cũng bị Trời diệt. Kiếp này đắc thân người, được nghe Phật Pháp quả là hy hữu lắm!
Kiếp này đắc thân người, mà còn được nghe Phật Pháp thì quả là quá may mắn!
Được nghe Pháp rồi, nhưng không phải ai cũng nghe Pháp nhập tâm, hành trì tinh tấn
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại tịnh xá Kỳ Hoàn, có 500 thiện tín đến xin Ngài giảng pháp. Ðức Thế Tôn không hề phân biệt giai cấp dòng họ sang hèn. Với ai, Ngài cũng giảng dạy bình đẳng như nhau, giống như nước mưa rơi từ không trung xuống thấm nhuần ngàn cây nội cỏ một cách vô tư.
Nhưng dù Ngài ân cần giảng dạy, mấy người kia ngồi nghe Pháp một cách lơ đãng. Ông thì ngủ gục; ông lấy tay gõ hoài trên mặt đất; người cứ lay mãi một nhánh cây; kẻ ngó mông lung trên trời; chỉ có một người chăm chú nghe. Tôn giả A Nan đứng quạt hầu Phật, ngạc nhiên về cử chỉ của năm ông khách nên khi họ vừa ra về, Ngài liền hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, thời pháp của Ngài giảng như sấm rền vang không trung, mà chỉ có một người chăm chú nghe, còn mấy người kia đều lơ đãng hết sức.
– Này A Nan, ông chưa biết rõ về năm người ấy?
– Bạch Thế Tôn, không.
– Người đầu tiên đã làm thân rắn 500 đời, thường khoanh tròn nằm ngủ nên đến kiếp này hắn cũng còn giữ cố tật ấy, chẳng có lời nào của ta lọt vào tai hắn.
– Bạch Thế Tôn. Những kiếp ấy xảy ra liên tiếp hay có xen kẽ?
– Khi thì hắn mang thân người, lúc mang thân trời, khi khác làm rắn. Không thể nào kể được những kiếp luân hồi của hắn. Nhưng có 500 kiếp liên tiếp, hắn làm rắn và thường ngủ li bì.
Người dùng tay gõ gõ trên mặt đất, đã 500 đời làm mối kết tổ trong lòng đất nên kiếp này hắn vẫn còn giữ thói quen ấy.
Người cứ lay động nhánh cây, là 500 đời làm khỉ quen leo trèo nên bây giờ hắn không tài nào ngồi yên một chỗ.
Người hay nhìn mông lung trên trời, đã từng làm chiêm tinh 500 đời, nên bây giờ vẫn còn thói quen.
Người chăm chú nghe lời ta, đã từng đọc tụng kinh Vệ Đà 500 đời nên quen chăm chú cần mật như lúc nghe mật chú.
– Nhưng Bạch Thế Tôn, lời Ngài dạy, con thấy thấm tận xương tủy, mà tại sao họ lại lơ là?
– A Nan, bộ ông tưởng giáo lý của ta dễ nghe lắm sao?
– Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Ngài cho nó khó nghe?
– Ðúng thế.
– Tại sao?
– Này A Nan, những người này trong vòng luân hồi đã trải qua nhiều kiếp chưa từng nghe đến tên Tam Bảo, cho nên bây giờ họ không thể thâm nhập giáo pháp. Ra vào cuộc tử sanh vô tận, họ chỉ quen nghe tiếng nói của súc sanh. Hơn nữa, họ còn tiêu phí gần hết thì giờ trong việc ăn uống, vui chơi, múa hát, và không thể nghe theo lời ta giảng.
Gặp được Phật Pháp đã khó “ngộ càng khó”
“Tây Du Ký” hồi thứ 100
“Kính hồi Đông Thổ, Ngũ thánh thành chân” có đoạn bốn thầy trò Đường Tăng được Phật Như Lai thụ phong. Khi đó Phật Như Lai nói: “Thánh tăng, kiếp trước con nguyên là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi là Kim Thiền Tử. Bởi vì con không nghe giảng Pháp, khinh mạn lời giảng Đạo của ta, cho nên bị đọa chuyển sinh nơi Đông Thổ”.
Kim Thiền Tử bị đọa sang Đông Thổ Đại Đường liền bắt đầu trải qua kiếp nạn. Vừa mới sinh ra đời thì cha đã bị giết, mới vừa đầy tháng mẹ cậu bé đã phải thả cậu lên bè trôi sông, suýt chút nữa thì bị chết đuối. Lớn lên đi tìm họ hàng báo oan chẳng hề dễ dàng, về sau trên con đường phản bổn quy chân đi Tây Trúc thỉnh kinh phải trải qua muôn ngàn sóng gió, trải qua 81 nạn mới trở về lại được Phật quốc.

Vậy mới thấy, ác nghiệp gây ra do tội coi thường Phật Pháp mới to lớn nhường nào. Pháp đắc rồi lại không biết trân quý, để có lại cơ duyên thật khó lắm thay!
Đến thời Mạt Pháp, đắc Chính Pháp còn khó hơn lên trời
Theo Kinh Phật, thời đại chúng ta đang sống là thời Mạt Pháp. Thời nay, để được nghe và tu luyện trong Phật Pháp có lẽ còn khó hơn lên trời.
Kinh Pháp Diệt Tận có viết: “Lúc Phật Pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe Pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bệnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ”.
Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng để lại những lời tiên tri về sự đản sinh của một vị Phật tương lai. Kinh Phật ghi lại: “Long Hoa tam hội nguyện tương phùng, sau năm mươi ức năm, Phật Di Lặc hạ thế, giảng Pháp tam biến, độ hết tất cả chúng sinh hữu duyên”.
Quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” có nhắc tới sự đản sinh của một đức Phật Như Lai hay một đức Chuyển Luân Thánh Vương. Sự đản sinh của Ngài sẽ đi cùng dấu hiệu nơi thế gian là những bông hoa Ưu Đàm Bà La, một loài thiên hoa nhỏ li ti trắng muốt, thân hoa mỏng như sợi tơ, trong suốt, sắc trắng như tuyết, xung quanh tỏa ra vầng sáng nhàn nhạt, có khả năng mọc trên bất kỳ chất liệu nào như đồng, sắt thép, thủy tinh, keo dán, trái cây, thực vật, hoa tươi hàng năm không phai tàn.
Theo Kinh Phật, Đức Chuyển Luân Thánh Vương là ‘Lý tưởng Vương’, trị vì thế giới bằng cách xoay chuyển Pháp Luân để chính lại Pháp dựa trên chính nghĩa thay vì vũ lực. Dù là người của tôn giáo nào – Phật giáo, Cơ Đốc giáo hay các tôn giáo khác – bất cứ ai có thể lấy từ bi để đối đãi với người khác sẽ có cơ hội được gặp Đức Chuyển Luân Thánh Vương.
Từ những năm 90 đến nay, hoa Ưu Đàm Bà La lần lượt khai nở khắp nơi trên thế giới. Phải chăng vị Phật Di Lặc của tương lai, Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã hạ thế độ nhân? Nếu đúng là như vậy, có được thân người ngày hôm nay quả là kỳ duyên thiên cổ. Nếu ai lại có cơ duyên tu luyện trong Đại Pháp của Ngài, cá nhân ấy quả là quá may mắn.
(sưu tầm)
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên