Bổn Phận Và Trách Nhiệm của người Cư Sỹ

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Bổn Phận và Trách Nhiệm của người Cư Sỹ


Picture 074.jpg



Cư sĩ, nói chung là một người có nhân cách, trách nhiệm và bổn phận với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội. Đối với Phật giáo, bất cứ một người nào, không phân biệt hoàn cảnh xuất thân, màu da hay địa vị xã hội, phát nguyện theo Phật, Pháp và Tăng (Tam bảo), giữ năm giới (Ngũ giới), hành 10 điều thiện và tu học tại gia được gọi là Cư sĩ Phật giáo. Nói một cách đơn giản thì Cư sĩ Phật giáo là những Phật tử chuyên tu học tại gia.
Cư sĩ Phật giáo là một trong hai thành phần đệ tử của Đức Phật: Xuất gia và Tại gia. Đệ Tử Xuất gia, giữ 10 giới gọi là Sa Di, giữ 250 giới gọi là Tỳ khưu. Nữ tu sĩ giữ 348 giới gọi là Tỳ Khưu Ni. <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT color=teal size=5 face=
Cả hai hàng đệ tử, xuất gia và tại gia, đều có thể giữ Bồ tát giới, nếu tự nguyện thực hành hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Ngã, Vị Tha, xả thân để cứu chúng sinh. <o:p></o:p>
Hàng xuất gia từ giã thân quyến và thế tục, cắt tóc vào chùa, sống đời sống độc thân, có nhiệm vụ tu học, hoằng dương Chánh Pháp, lãnh đạo tinh thần. <o:p></o:p>
Hàng tại gia có gia đình và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, có nhiệm vụ hộ pháp, cung cấp các nhu cầu, vật thực cho hàng xuất gia. <o:p></o:p>
Mỗi bên đều có địa vị, nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt, không dẫm chân lên nhau mà trái lại phải tương kính và ủng hộ lẫn nhau. Đức Phật thường ví hai hàng đệ tử xuất gia và tại gia như hai cánh của con chim, có đủ cả hai thì mới hoạt động đắc lực được. Ngài nhấn mạnh tinh thần bình đẳng của hai hàng đệ tử, không phải chỉ có hàng xuất gia mới tiến tu và chứng ngộ, mà hàng tại gia cũng có những người đắc đạo như cư sĩ Duy Ma Cật, được tất cả các hàng Bồ tát, Thanh văn đều kính trọng ngợi khen. <o:p></o:p>
Dĩ nhiên hàng xuất gia dễ tu, dễ chứng hơn hàng tại gia vì có đủ điều kiện thuận tiện tu hành, còn hàng tại gia thì còn nhiều chuyện ở đời phải lo như tìm kế sinh nhai, dạy dỗ con cái, bổn phận công dân, thời gian dành cho việc tu hành không bao nhiêu thật khó tu hơn hàng xuất gia nhiều lắm. Do đó đã có câu: “Khó nhất là tu tại gia, khó nhì tu chợ, khó ba tu chùa.” <o:p></o:p>
Bổn phận của cư sĩ sống trong gia đình <o:p></o:p>
Kinh Thiện Sanh hay còn gọi là Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt [1] (Singalovada Suttanta), đã nói lên sự quan tâm sâu sắc của đức Phật đối với cách hành xử của người cư sĩ tu tại gia, trong những mối dây liên hệ với gia đình và thân bằng quyến thuộc, như sau: <o:p></o:p>
Có một chàng thanh niên tên Sigala, vâng theo lời dặn dò của người cha trước khi qua đời, hằng ngày thường quay mặt về sáu Phương là Ðông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới, để lễ lạy. Ðức Phật bảo anh ta rằng theo Phật pháp, sáu Phương có nghĩa khác.<o:p></o:p>
Phật pháp dạy rằng Phương Ðông là cha mẹ, Phương Nam là thầy dạy, Phương Tây là vợ con, Phương Bắc là bạn bè, quyến thuộc, láng giềng, Phương Dưới là người làm công và thợ thuyền, Phương Trên là tu sĩ và đạo sư. Ngài dạy Sigala phải tôn kính sáu Phương này. Ở đây chữ tôn kính có ý nghĩa rất đặc biệt, vì người ta chỉ tôn kính cái gì thiêng liêng, cao quý, đáng kính. Ðạo Phật coi sáu nhóm người này như là những điều thiêng liêng, xứng đáng được tôn kính. <o:p></o:p>
Nhưng làm thế nào để tỏ lòng tôn kính? <o:p></o:p>
Ðức Phật dạy rằng chỉ có thể tỏ lòng tôn kính chân thành bằng cách làm tròn bổn phận đối với họ. Những bổn phận này được đức Phật giảng giải rõ ràng cho Sigala như sau: <o:p></o:p>
Thứ nhất: Cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Cha mẹ là Trời. Theo tư tưởng Ấn Độ, từ ngữ “Trời” để biểu tượng sự cao quý và thiêng liêng nhất. Cho nên ngay tại thời đại này, trong những gia đình theo đạo Phật thuần thành, sáng chiều hằng ngày, con cái vẫn có những hành động để tỏ lòng tôn kính cha mẹ. Họ phải làm một số bổn phận đối với cha mẹ theo giáo lý nhà Phật: Săn sóc khi cha mẹ già yếu, làm những điều cần thiết để giúp đỡ cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và khi cha mẹ qua đời thì cử hành các nghi thức trong tang lễ của cha mẹ. <o:p></o:p>
Về phần cha mẹ, họ cũng có những bổn phận đối với con cái, phải giữ gìn, dạy bảo cho con cái tránh xa những đường tà, khuyến khích con cái làm những việc tốt lành và ích lợi, cho con cái được hưởng một nền giáo dục chu đáo, tìm những gia đình lương thiện cho con cái kết hôn và khi con cái đã trưởng thành thì chia gia tài cho họ. <o:p></o:p>
Thứ hai: Liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng và vâng lời thầy, phải chú ý đến những sự cần thiết của thầy, nếu thầy cần, phải chăm lo học hành. Về phía thầy, phải tận tâm dạy bảo học trò một cách chu đáo, giới thiệu bạn tốt cho trò và khi trò tốt nghiệp thì cố gắng tìm việc làm để bảo đảm kế sinh nhai cho trò. <o:p></o:p>
Thứ ba: Liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa vợ chồng được coi gần như một nếp sống đạo, có tính cách thiêng liêng. Giữa vợ và chồng phải có sự tin cậy, kính trọng, hy sinh, và có những bổn phận đối với nhau. Chồng phải luôn luôn tôn trọng vợ, không được thiếu sự kính nể đối với vợ, phải thương yêu và chung thủy đối với vợ, phải bảo đảm vị trí và tiện nghi của vợ, và nên làm vui lòng vợ bằng cách tặng nàng y phục và nữ trang. (Sự kiện đức Phật không quên đề cập đến việc tặng quà cho vợ khiến chúng ta thấy được sự mẫn cảm và tế nhị đầy nhân bản của Ngài đối với niềm cảm xúc của những con người bình thường). Về phía người vợ, phải tề gia nội trợ chu đáo, làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân nhân và người làm công. Vợ phải yêu thương và chung thủy với chồng, phải biết giữ gìn gia sản, phải khôn khéo và hoạt bát trong công việc. <o:p></o:p>
Thứ tư: Liên hệ giữa bạn bè, bà con, hàng xóm láng giềng: Mọi người phải niềm nở và tử tế đối với nhau, nói năng vui vẻ, hòa nhã, phải làm việc có lợi ích cho nhau và đối xử bình đẳng với nhau, không cãi cọ mà giúp đỡ lẫn nhau khi cần và đừng bỏ rơi khi người ta gặp hoàn cảnh khó khăn. <o:p></o:p>
Thứ năm: Liên hệ giữa chủ và người làm công: người chủ có nhiều bổn phận đối với người giúp việc hoặc người làm công, phải lượng sức của người ta để mà giao việc phù hợp, tiền lương phải tương xứng, phải cung cấp thuốc men và thỉnh thoảng tặng thưởng cho người ta. Về phía người làm công thì phải chăm chỉ làm lụng, không lười biếng, phải lương thiện và vâng lời chủ, không ăn gian nói dối và phải tận tụy trong công việc. <o:p></o:p>
Thứ sáu: Liên hệ giữa tu sĩ và cư sĩ: với niềm kính quý, người cư sĩ phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất của tu sĩ, người tu sĩ phải truyền bá sự hiểu biết cho cư sĩ với tấm lòng từ bi, lân mẫn và hướng dẫn họ đi trên chánh đạo, không lạc vào tà đạo. <o:p></o:p>
Như vậy, chúng ta đã thấy rõ rằng dù là một người dân bình thường sống trong gia đình, tham dự những sinh hoạt ngoài xã hội, họ vẫn được thụ hưởng sự giáo hóa của đức Thế Tôn, vẫn có thể tu tập, tạo sự an lạc trong nếp sống của một người Phật tử.<o:p></o:p>
Trách Vụ Hoằng Pháp của Cư sĩ<o:p></o:p>
Cư sĩ là thành phần đông đảo trong hai hàng đệ tử của đức Phật. Do đó, ngoài bổn phận trong gia đình, ngoài xã hội và hộ trì Phật pháp người Cư sĩ còn có bổn phận phải nỗ lực tu tập, thực hành để góp phần truyền bá giáo pháp, tức là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh sáng giải thoát cho đời. Như vậy, trách vụ của người Cư sĩ là vô cùng quan trọng trong việc phát triển Phật giáo trong ý nghĩa độ tha cũng như chuẩn bị hoàn cảnh tốt đẹp cho việc tự độ của mình. Trong lịch sử có nhiều vị vua Phật tử có công lao lớn trong việc hoằng dương chánh pháp mà điển hình là vua Asoka ở Ấn Ðộ, vua Trần Nhân Tông của Việt ffice:smarttags" /><?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com
><st1:place w:st=
<st1:country-region w:st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> và Lương Võ Đế của Trung Hoa.
<o:p></o:p>
Trong trách vụ góp phần truyền bá giáo pháp, người Cư sĩ Phật giáo cần làm và phải làm là luôn giữ giới luật vì giới luật nhà Phật nhằm tự ngăn ngừa các động lực tham dục tác hại, giúp phát triển tâm từ bi nhằm bảo vệ hạnh phúc an lạc cho mình và cho người khác, cũng như cho cộng đồng xã hội. Một Phật tử tại gia luôn luôn gìn giữ năm giới, không làm các điều ác, làm các việc lành, giàu lòng cảm thông, vị tha, khiêm tốn và thường hay giúp đỡ người khác, là một người có tư cách, một người có phẩm hạnh đạo đức cao, là cách truyền giáo lý tưởng nhất của hàng Cư sĩ cho những người xung quanh. Những người xung quanh thường không rõ đạo Phật, họ không có thì giờ tìm hiểu đạo Phật, nên thường có khuynh hướng đánh giá Phật giáo qua cung cách cư xử của những người có đạo mà họ tiếp xúc hàng ngày. Trong lời kết luận về vai trò hộ pháp của người Cư sĩ Phật giáo, Hoà thượng Thích Thanh Từ nhận định rằng: “Giờ rãnh rỗi, Phật tử nói chuyện thân mật trong gia đình, hoặc đi thăm người láng giềng đau yếu... đều là những buổi thuyết pháp linh động của cư sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý, ấy là bài thuyết pháp sống của Phật tử tại gia. Phật tử tại gia thực hiện được nhiệm vụ mình, mới thật là người hộ đạo chân chính”. <o:p></o:p>
Trong hàng ngũ Phật tử tại gia còn có hàng Cư sĩ thọ Bồ Tát Giới, dành cho bất cứ ai nếu muốn phát tâm Bồ đề: trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sinh. Đây là lực lượng Phật tử tại gia quan trọng, vừa tiếp tay hỗ trợ quý Tăng Ni trong việc hoằng pháp, vừa là cây cầu nối giữa quý thầy với khối đông đảo quần chúng Phật tử. Hiện nay có nhiều địa phương không có chùa, không có Thầy nên chủ yếu việc hoằng pháp những nơi này là do giới này thực hiện. Hiện tại ở Việt Nam số lượng Phật tử tại gia thọ Bồ Tát Giới không được đông đảo, mỗi kỳ Đại Giới Đàn tổ chức ở Việt Nam số lượng cầu thọ Bồ Tát Giới không quá con số 100 vị; cho nên các Cư sĩ đã thọ Tam quy Ngũ giới có tâm ao ước muốn đem đạo Phật đến với mọi nhà mọi nơi, có tâm ước muốn góp bàn tay xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh, cần được khuyến khích gia nhập vào hàng ngũ này.
(theo Tâm Diệu )<o:p></o:p>
<o:p></o:p>

<HR align=left SIZE=1 width="33%">
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Chào chị PTD

Hiện tại ở Việt Nam số lượng Phật tử tại gia thọ Bồ Tát Giới không được đông đảo, mỗi kỳ Đại Giới Đàn tổ chức ở Việt Nam số lượng cầu thọ Bồ Tát Giới không quá con số 100 vị; cho nên các Cư sĩ đã thọ Tam quy Ngũ giới có tâm ao ước muốn đem đạo Phật đến với mọi nhà mọi nơi, có tâm ước muốn góp bàn tay xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh, cần được khuyến khích gia nhập vào hàng ngũ này.
Xin chị cho hỏi một câu : Thọ Bồ Tát Giới là điều cần thiết khi phát Bồ Đề tâm ? Thọ Bồ tát giới là phải xin thọ Đại Giới đàn của giáo hội ? Bồ tát giới bao gồm những giới luật gì ?
Trong lịch sử có nhiều vị vua Phật tử có công lao lớn trong việc hoằng dương chánh pháp mà điển hình là vua Asoka ở Ấn Ðộ

Xin chị cho spl biết ít nhiều về vua A Dục nếu có thể
Mặc dù đây là bài viết của người khác chớ không phải là của chị viết.
Thân
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Thiện tri thức SPL thân
1/ Giới Bồ tát và việc thọ giới Bồ tát khi phát Bồ Đề Tâm
Theo tôi biết thì trong sách của các Đại Sư có nói , phát Bồ Đề tâm thì mình đến trước bàn thờ Phật trong nhà mình , mình khấn nguyện tên , tuổi , pháp danh của mình ra và nguyện với Phật rằng , con xin nguyện phát tâm Bồ Đề trên quy y Tam Bảo nguyện tinh tấn tu hành thành Phật Đạo, dưới hóa độ chúng sinh thành Phật , nghĩa là tu hạnh Tự Giác và Giác Tha cho đến khi Giác Hạnh Viên mãn.Điều này thực hiện sau khi đã quy y tam bảo và thọ ngũ giới .
Nếu có biết chùa nào mà vị xuất gia có tổ chức giới đàn truyền giới Bồ Tát cho cư sỹ phật tử , thì ghi danh xin thọ giới Bồ Tát
Thường là các chùa có giới đàn Quy Y thọ Tam Quy Ngũ Giới cho cư sỹ phật tử . Trong trường hợp này có thể là quý thầy sẽ gởi mình đến Đại Giới Đàn để thọ lễ truyền giới Bồ Tát với tư cách cư sỹ phật tử tai gia.
Về Giới Tử thọ Bồ Tát Giới theo mình biết có hai loại :
_ tu sỹ xuất gia ,sau khi thọ giới gọi là Bồ Tát tỳ kheo
_ cư sỹ tại gia , gọi là Ưu Bà Tắc Ưu Bà Di thọ giới Bồ Tát.
Giới Bồ Tát :
Bồ Tát giới có tất cả 58 điều giới, trong số này có 10 điều trọng, và 48 điều khinh. Trọng là nặng nếu phạm thì có lỗi nặng. Khinh là nhẹ, nếu phạm thì mắc lỗi nhẹ.
Chỉ sơ lược liệt kê 10 điều trọng là: 1. Giết hại; 2. Trộm cắp; 3. Dâm dục; 4. Nói dối; 5. Say rượu; 6. Nói điều lỗi của bốn chúng (là Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di); 7. Khen mình chê người; 8. Keo kiệt lại hay chê bai; 9. Hờn giận không nguôi; 10. Gièm pha Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng).
(Nếu chính thức thọ giới tại Giới đàn hay Đại giới đàn thì có vị Giáo Thọ chỉ dạy tất cả giới và ý nghĩa từng giới rõ ràng. )

2/ Về vua A Dục
Vị vua thứ ba của triều đại Maurya ( Khổng Tước ) tại Ấn Độ , triều đại có sau khi Phật Thích Ca nhập diệt và trước Tây Lịch ( nhiều thư liệu nói khác nhau về năm sinh và năm lên ngôi của Vua ) .
Vua A Dục từng là một quân vương hung bạo và nổi tiếng là tàn ác .Nhưng sau có duyên gặp Phật pháp và đã hối hận về tâm hung bạo và hành vi tàn ác của mình.Ông trở thành một ông vua hiền lương vì thay đổi chính sách trị nước, không bằng bạo lực mà bằng lòng nhân từ, đồng thời ông đã ủng hộ Phật pháp , có nhiều đóng góp trong việc truyền lưu đạo Phật và để lại các công trình kiến trúc như :
_ A Dục Vương tháp : ở Bồ Đề đạo tràng , nơi đức Phật thành đạo.Gọi là tháp Đại Giác , phía sau tháp chính có một tháp nhỏ với những hình tượng nổi.Vua A Dục xây tháp này vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch.
_A Dục Vương Trụ Đá :Do vua A Dục dựng lên năm 250 trước Tây lịch trong vườn Lâm tỳ ni , nới đức Phật đản sanh, năm 624 trước Tây lịch
_ Tương truyền vua A Dục đã xây 84-000 tháp đựng xá lợi Phật , ở tất cả những nơi mà ông đã đi qua lễ lạy chiêm bái di tích của Phật giáo .
Ngoài ra , cuộc đời vua đã để lại những tích truyện nhiều ấn tượng ly kỳ , thành " A Dục Vương truyện ".

 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên