Cầu Phật pháp từ trong sự cung kính

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
Nói trở lại việc sư phụ kêu bạn mang giày ngược, bạn phải làm sao?



A. Có một hạng đệ tử ‘hỗn độn’.

Lão hòa thượng nói: ‘Có một loại đệ tử ‘hỗn độn’, sư phụ kêu mang giày ngược, người này liền mang ngược, cũng không nghĩ đến mang ngược có thể làm được không’. Ngài lắc đầu than thở!



Hỗn độn ra sao?

1. Y theo người mà không y theo pháp, không biết đây là khảo nghiệm.

Loại đệ tử ‘hỗn độn thiệt’ này cũng có nhiều hạng, nhiều tâm niệm khác nhau. Có người cho rằng: ‘Ðều là lời sư phụ dạy, có sai thì sư phụ chịu nhân quả, tôi cứ làm theo thì được rồi’! Người này không biết khi học Phật phải ‘Y pháp, không y theo người’, ‘Y nghĩa không y theo lời nói’ (3). Nếu sư phụ dạy sai dĩ nhiên sư phụ sẽ chịu nhân quả không tốt, nhưng tự mình lựa chọn tùy thuận theo sai lầm thì là không có trí huệ. Việc này là tự tâm lựa chọn, nhân quả của việc này thì tự mình phải chịu. Vả lại người đó không hiểu đây không phải là lời dạy, đây là bài thi, khảo nghiệm bạn sẽ làm như thế nào, khảo nghiệm giới, định, huệ, một cách thực tiễn. Vì không hiểu rõ, khù khờ không giác nên lão hòa thượng gọi họ là đệ tử hỗn độn (hồ đồ). Trồng ‘nhân’ lộn xộn như vậy, hy vọng đạt được ‘quả’ như thế nào? Dùng tâm hồ đồ như vậy sẽ không đi đầu thai lộn chỗ hay sao?



2. Không học mà cũng không hỏi (lúc té rồi trách sư phụ)

Ngoài ra có người cũng mang giày ngược nhưng lại có một tâm trạng khác, họ thuộc về nhóm có cách suy nghĩ ‘ngoan’. Cứ ngoan ngoãn làm theo, họ tưởng nếu sư phụ sai thì họ sai theo, như vậy có nghĩa là: ‘y giáo phụng hành’, hoặc gọi là ‘tôn trọng, hiếu thuận’. Họ không biết cho đến Khổng Tử trong Nho giáo cũng còn chất vấn đệ tử ‘Buộc tội cha mẹ bất nghĩa, như vậy có hiếu không?’, huống chi Phật giáo là trí tín, chẳng phải mê tín, tìm cầu trí huệ chớ không chạy theo một cách mù quáng. Họ không hiểu tự mình mê tín, mù quáng làm theo, còn nghĩ là mình rất ngoan, sẽ được giải thưởng ‘hiếu thuận và thành thật’. Họ cũng không biết rằng đây là khảo nghiệm nên chỉ nộp bài trả lời ‘mù quáng chạy theo’. Có bài nộp là được rồi, họ không muốn hiểu rõ đạo lý, tuy hoàn toàn không biết và cũng không biết xin sư phụ dạy bảo. (Tức là không học, cũng không hỏi), không biết Phật pháp có được từ sự cung kính tìm cầu, họ miễn cưỡng mang giày ngược, mang một cách rất khó khăn, nếu đi không được, làm không xong, té đau rồi lúc đó không biết có trách sư phụ dạy sai hay không? Ái chà, đáng thương quá, không biết tự mình học sai rồi, lấy nhầm đề ‘phi’ trong đề thi ‘thị phi’ rồi y theo đó mà làm. Sư trưởng vốn cố ý cho đệ tử gặp đèn đỏ để khảo xem đệ tử có tuân theo luật lệ giao thông hay không, đệ tử lại khờ khạo vượt đèn đỏ mà còn nghĩ mình thành thật nghe lời! có sự hiểu lầm, mê hoặc nghiêm trọng như vậy nên lão hòa thượng gọi họ là ‘đệ tử hỗn độn’. Chuyện mang giày ngược, té đau, rồi trách sư phụ dạy sai rất dễ xảy ra, vả lại rất ít đệ tử biết phản tỉnh thái độ tu học của mình, thật ra mình hoàn toàn không có tâm muốn học hỏi cầu pháp, tâm khiêm nhượng, không có thái độ cung kính cầu pháp, cứ tưởng là mình rất giỏi, đã biết hết rồi, cứ che đậy cho bộ mặt ‘tự ngã’ của mình, xem thường giáo pháp, để cho sư trưởng không có chỗ nào để dạy hết.

Nếu một người không công nhận mình có sai lầm, vẫn còn chỗ để sửa sai, cải tiến, cũng như công nhận mình đã thành Phật rồi, tâm kiêu mạn này rất nghiêm trọng, như lời lão hòa thượng nói: ‘Bịnh cuồng vọng ngu si phát lên, phát hoài không hết’.



Tìm cầu Phật pháp trong sự ‘cung kính’. Bản thân ‘Cung kính’ và ‘cầu’ vốn đã là Phật pháp.

Ấn Quang đại sư dạy: ‘Cầu Phật pháp từ trong sự cung kính, một phần cung kính được một phần lợi ích; mười phần cung kính được mười phần lợi ích’. Mọi người rất quen thuộc với câu này, nhưng rất ít người thật sự hiểu được ý nghĩa của pháp ‘cung kính’ và ‘cầu’. Cung nghĩa là ‘có cùng một tâm’, có cùng một tâm giống tâm Phật -- thể hội được ý nghĩa chân chánh của lời Phật dạy. ‘Cầu’ tức là khuất phục ‘ngã mạn’ (chướng ngại của tự ngã, kiêu ngạo, thờ ơ) khai mở mỹ đức trong Phật tánh, cũng là phát tâm cúi đầu, nhún nhường xin chỉ dạy, không phải tự cao tự đại, đợi Phật lại mời bạn đi học! Thiệt ra đức Phật đã hết lòng trông mong chúng ta giác ngộ, trông mong rất lâu rồi, Phật rất từ bi kêu gọi chúng ta học Phật -- đừng dùng tâm mê vọng, nhưng chúng ta cứ tự cao tự đại, dẹp không nổi tâm kiêu mạn, ngu si của mình, không chịu cúi đầu, không chịu truy cầu tánh giác nên không có cách nào tương ứng được.

Ðức Phật là người đã khai ngộ chứng quả, ngài rất từ bi và tự tại, thật ra ngài không cần chúng ta cung kính, cho dù chúng ta hoàn toàn không cung kính, thậm chí sỉ nhục đối với ngài cũng không ảnh hưởng gì, nhưng đối với chúng ta có ảnh hưởng rất lớn. Dùng tâm cung kính để cầu Phật pháp không có nghĩa là đức Phật hách dịch muốn mọi người cúi đầu, lạy lục mới chịu ban cho một tí Phật pháp. Cung kính cũng không chỉ đối với tượng Phật mà thôi, cung kính nói trong kinh điển là cung kính đối với tất cả chúng sanh, chân lý, sự, và vật. Lúc đối đầu với tất cả những cảnh giới và nhân sự có thể hiểu rõ tâm Phật, cùng tâm với Phật, có cùng tâm giác ngộ, từ bi, tâm Bồ Đề, và nhất là có cùng tâm nhu nhuyễn nhún nhường như đức Phật thuở xưa xả thân cầu Pháp, được vậy sẽ từ ‘sự’ dần dần có thể hiểu được ‘lý’. Giữ tâm cung kính thì trong các việc làm, giao tế hằng ngày cũng có thể ‘ngộ’ được Phật pháp. Nếu không thì dù có kinh lịch qua muôn ngàn việc gì cũng không thể nào ngộ được ‘lý’ trong Phật pháp. Ðời đời kiếp kiếp vẫn là người mê hoặc.

Có người cứ tưởng rằng cầu [pháp] trong sự cung kính là một phương pháp, là một cách làm gián tiếp để cầu Phật pháp, nhưng không biết bản thân của sự ‘cung kính cầu [pháp]’ chính là diệu pháp trực tiếp nhất để khuất phục phiền não ngã chấp, bản thân của nó vốn là Phật pháp cao thâm, chứ không phải dựa vào ‘cung kính cầu’ mới đạt được một Phật pháp gì khác. Vì chướng ngại chúng ta thành Phật không phải là do người khác, việc khác mà là vọng tưởng, chấp trước trong nội tâm của chính chúng ta. Việc này, lúc đức Phật thành đạo đã vạch ra [cho chúng ta biết] ngã chấp là thứ căn bản nhất trong các loại chấp trước, từ những kiến giải, tư tưởng mê hoặc cộng với sự chấp trước của mình tạo nên tự mình bảo vệ, tự tư ích kỷ, tham, sân, si, mạn, nghi. Cung kính cầu [pháp] tức là trực tiếp dẹp trừ các thứ chấp trước này.

Phàm không thể cung kính, nhún nhường mà cầu [pháp] tất nhiên vẫn còn các thứ ngã chấp, kiêu mạn, tự đại, tự mình biện hộ như mây đen che lấp; các thứ chướng ngại này không cản trở người khác mà làm chướng ngại không cho Phật quang của mình hiển hiện ra.

Tổ Ấn Quang dạy ‘Có mấy phần cung kính thì sẽ được bấy nhiêu phần lợi ích’ không có nghĩa là dùng tâm cung kính để cầu đến một thời gian rất lâu sau đó mới được lợi ích, mà ngay lúc cung kính liền có thể xả bỏ đám mây đen của ‘ngã chấp’, nhất định ngay lúc đó Phật quang hiện ra. Có thể xả bỏ hết mười phần ngạo mạn, ngã chấp, tự nhiên ngay lúc đó liền hiện ra được mười phần Phật quang; đây là Phật quang sẵn có trong tự tánh, không phải hướng ra bên ngoài để tìm cầu. Tìm cầu trong sự cung kính đương nhiên phải cầu năng lực mà mình có thể khuất phục ngã mạn và ngu si trong tự tâm. Tự mình có thể phát ra phần tâm lực này mới biểu hiện được cung kính và cầu pháp. Có câu rằng: ‘[chí] thành ở trong, hình [tướng] ở bên ngoài’. Bồ Tát giới dạy chúng ta đối với những gì trong Phật pháp mà mình không hiểu, chúng ta phải dùng chánh quán, chánh hướng, thừa nhận mình không đủ trí huệ, không đủ hiểu biết, dùng thái độ chính xác tin tưởng Như Lai, cung kính cầu pháp, học hỏi. Không tinh tấn học tập cũng trái ngược với tinh thần của giới luật.


Sai một ly, trật đi ngàn dậm

Hình như niệm Phật rất dễ, nhưng nếu thiếu tâm cung kính thì làn sóng của tâm niệm phát ra có rất nhiều sai số, không thể bắt được đài của đức Phật. Cũng giống như bắn tên không khó ở chỗ giương cung mà khó ở chỗ bắn trúng đích, chỉ cần lúc giương cung, lấp tên trật đi một chút, sai một hào ly thì trật đi ngàn dậm.



Ði vào cửa Phật chưa từng cung kính cầu pháp.

-- Uổng phí mất hết cả đời
này

Giống như phía trên có nói, lúc sư phụ kêu mang giày ngược, rõ ràng mình không hiểu đạo lý nhưng cứ tưởng mình biết, cứ cho mình đúng, cứ mang ngược đi bừa, hoàn toàn không biết phải nên cung kính xin [sư phụ] dạy rõ đạo lý. Như vậy có tâm ‘cung kính pháp’, tâm ‘cầu pháp’ gì đâu; nếu ngay cả một chút tâm ‘cung kính cầu pháp’ cũng không có đương nhiên rất khó được lợi ích. Nếu trong cửa Phật hao phí hết đời này, chưa từng phát tâm cung kính cầu pháp, chưa từng đạt được một phần lợi ích nào hết, như thế không phải quá uổng sao? Vì vậy lão hòa thượng mới dùng hai chữ ‘hỗn độn’ để hình dung [những người như vậy]. Kẻ mạt học như tôi tự kiểm điểm quả thật mình có quá nhiều ‘hỗn độn’, hao tốn quá nhiều thời gian, vả lại tự mình không biết là mình ‘hỗn độn’. Nguyện lấy đề thi cũ này gợi lại tánh giác của mình, không để đời đời, kiếp kiếp chôn vùi trong mớ ‘hỗn độn’ – trái nghịch giác, xuôi theo trần lao --.



B. Còn một loại đệ tử ‘còn hỗn độn hơn’ …

Còn một loại đệ tử khác lão hòa thượng hình dung là ‘còn hỗn độn hơn’.

Lúc sư phụ ra đề thi này, họ cũng không biết là đang bị khảo nghiệm nên cho rằng sư phụ quá vô lý, trình độ quá kém! Từ bên ngoài có lẽ người này không dám biểu lộ thái độ gì cả, nhưng trong tâm lại nghĩ: ‘Ôi chao! Loại sư phụ này cả việc không nên mang giày ngược cũng không biết, còn kêu tôi mang giày ngược, làm sao làm sư phụ được, còn kém hơn tôi nữa, hạng sư phụ như vậy không có cũng chẳng sao, hạng học sinh giỏi như tôi lẽ nào đi nghe hạng sư phụ như vậy, từ nhỏ tôi đã biết mang giày, còn mang giỏi hơn ông nữa, không cần ông dạy!’

Loại đệ tử này không những không biết đây là khảo nghiệm, mà còn tự biểu hiện ra tâm kiêu mạn của mình, đem nộp bài ‘Từ xưa tới bây giờ tôi rất giỏi khinh mạn, không biết nhún nhường, không những cứng đầu khó dạy, cũng không biết bề ngoài của mình không chống đối, hình như rất có lễ phép, nhưng bên trong lại kiêu ngạo, thờ ơ, phách lối’.

Nộp bài này sẽ được bao nhiêu điểm trong ‘Tuyển Phật trường’?

Nộp bài này, môn giới, định, huệ được bao nhiêu điểm?



Chuẩn bị vãng sanh về ‘Giải Mạn Quốc’ ?

Kinh Vô Lượng Thọ nói nhân địa tu hành của đức Phật A Di Ðà là ‘tiên ý thừa vấn’ (dùng thái độ khiêm nhường để [học] hỏi). Khi giao tiếp với người và làm việc đều khiêm nhường, cúi đầu để học hỏi. Miệng chúng ta niệm Di Ðà, nhưng hành vi của chúng ta lại trái ngược với đạo lý này – cái cổ làm bằng bê tông cốt sắt làm sao bắt chước đức Phật ‘tiên ý thừa vấn’. Có lúc sư phụ cúi đầu hỏi đệ tử, đệ tử muốn trả lời hay không, thậm chí đệ tử nhìn láo nhìn lia không biết nên trả lời hay không? Nộp bài này trong Tuyển Phật trường sẽ được bao nhiêu điểm? Tu ‘nhân’ này làm sao thành ‘quả’ Phật được. Có nhân địa và cách dụng tâm kiêu mạn này cho dù rất nỗ lực niệm Phật và tu các điều phước thì cũng chỉ có thể đến cõi nước A Tu La để làm vua hay công chúa, hoặc vãng sanh về ‘Giải Mạn quốc’ mà thôi! (Trong kinh nói có rất nhiều người vốn muốn sanh về cõi Cực Lạc nhưng đều sanh về Giải Mạn quốc, không thể sanh đến Tây phương, nhân nào quả nấy!) Muốn vãng sanh Tây phương Phật quốc thanh tịnh nhất định phải có nhân quả phù hợp lẫn nhau.

http://www.hoakhaikienphat.com/sach...gkham/dethituhanhcualaohoathuongquangkham.htm
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên