Chung tay góp sức hoằng dương Tịnh Độ !!!

gioidinhhue

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
15 Thg 7 2010
Bài viết
950
Điểm tương tác
47
Điểm
28
Địa chỉ
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
"Thời Mạt Pháp, hàng ức ức người tu hành, ít có được một người đắc đạo. Duy chỉ có y theo pháp môn niệm Phật mà được độ sanh tử"

NAMMTHNGTRTAMBO568.jpg


Kính thưa toàn thể quý Phật tử , nhằm mang lại an vui cho đời sống hiện tại của chúng sanh và quan trọng hơn hết là cứu chúng sanh ra khỏi sanh tử trầm luân để một phần nào đền đáp ân Chư Phật ,ân Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp ... Chúng con kính xin chư vị hãy cùng với chúng con chung tay góp sức hoằng dương Tịnh độ bằng mọi hành động mà chúng ta có thể làm được .

Có vô số cách hoằng dương Phật Pháp , ở đây chúng con chỉ nói đến Tịnh độ vì chúng con nhận thấy pháp môn này hiện tại là thích hợp nhất cho mọi tầng lớp căn cơ chúng sanh , cho xã hội hiện nay và là con đường dễ nhất ngắn nhất để thành tựu cho chúng sinh thành tựu Phật đạo . Ở đây chúng con xin nêu ra vài phương pháp mà chúng con đã mạo muội nghĩ ra , nếu vị nào có thêm phương pháp hoằng dương khác xin góp chung với chúng con :

1. Chư vị nào nghe hay đọc được bài pháp nào mà làm tăng trưởng thêm tín tâm kiên cố , nguyện lực thiết tha cho hành giả Tịnh độ thì xin hãy giới thiệu cho tất cả người thân bạn bè bằng tất cả mọi cách như : email , nhắn tin yahoo , copy link dẫn bài pháp đăng ở khắp nơi , sang băng đĩa , ấn tống sách , cho mượn sách hoặc đĩa băng ...

2. Khi bố thí giúp đỡ ai đó , thiết tha xin quý vị nhọc lòng một chút mà khuyên hộ niệm Phật cầu vãng sanh vì khi chư vị giúp đỡ người thì rất dễ khuyên họ trong lúc đó .

3. Thấy ai bệnh tật xin bố thí thuốc men cùng lúc khuyên họ niệm Phật cầu vãng sanh .

4. Trong nhà nên treo các chữ dạy niệm Phật cầu vãng sanh thay vì treo các tranh ảnh khác .

5. Góp tiền ( nếu ai có khả năng ) xây dựng bệnh viện hay trường học mà trong bệnh viện và trường học mọi người đều được khuyên dạy niệm Phật cầu vãng sanh .

6. Thường xuyên mở máy niệm Phật ở nhà càng nhiều càng tốt , một câu danh hiệu Phật lọt vào tai người khác sẽ vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo , sau này gặp nhân duyên thích hợp sẽ nảy mầm Bồ Đề .

7. Vị nào thường vào các diễn đàn , nếu có thể làm thành viên của web nào đó thì xin hãy lấy chữ ký của mình là " Nam Mô A Di Đà Phật " để bất cứ chúng sanh nào cũng có thể thấy . Như vậy đã gieo vào Tạng thức họ một hạt giống Phật.

8. Vào các viện dưỡng lão tặng cho các cụ già máy niệm Phật , sách dạy niệm Phật đơn giản dễ hiểu và mỏng nhỏ .

9. Thường xuyên niệm Phật trong tâm và trên miệng cũng ảnh hưởng chúng sanh vô số .

10. Nếu có lòng , thỉnh cầu quý vị hồi hướng phước báu cho tất cả chúng sanh đều tin sâu nguyện thiết hành trì tinh tấn niệm Phật và lâm chung tất cả đều vãng sanh Tây Phương .

11. Hãy cùng nhau đăng tải thật nhiều những bài viết hay pháp âm dạy niệm Phật trên khắp Web ( web nào cho phép ) , Blog , diễn đàn ...

12. Dịch câu " Hãy niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ của Phật A Di Đà " thành nhiều thứ ngôn ngữ trên thế giới để có thể đem pháp môn này phổ biến khắp quần sinh.

Con kính mong các Ngài hãy hoan hỷ cùng chúng con hoằng dương Tịnh Độ , chúng ta hãy làm hết sức còn kết quả hãy tùy vào nhân duyên , làm được như vậy tức là quý vị phụ giúp Chư Phật , Chư Bồ Tát giáo hóa thành tựu những vị Phật tương lai . Chúng con chân thành tri ân quý vị , đảnh lễ quý vị .Cầu chúc quý vị vãng sanh Tây Phương . Nguyện cho chúng sanh đều thành Phật đạo .

Nam Mô A Di Đà Phật

Xin hãy góp thêm ý kiến phương pháp độ sanh
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

cungduong

Registered
Phật tử
Tham gia
11 Thg 2 2012
Bài viết
399
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Gia đình con là gia đình phật tử tại nha trang.
Xin cúng dường các bài thuốc và những phương pháp chữa bệnh miễn phí cho các gia đình phật tử
Hoặc cho các gia đình có niềm tin sâu nhân quả,tin sâu phật pháp.
Xin cúng dường kinh sách
Xin cúng dường mọi gì có thể cho phật pháp


Xin quý vị hãy liên hệ:cungduongphatphap@yahoo.com
 

Tấn Hạnh

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 7 2011
Bài viết
339
Điểm tương tác
375
Điểm
63


Khi một người niệm danh hiệu của một vị Phật, Thiện căn đã được gieo trồng, Bổn tánh đã có cơ hội phát khởi. Người trì một danh hiệu Phật là tự mình nhờ tha lực của các Đức Phật gia hộ, tự mình làm tròn lại các hạnh tốt bên trong tâm thức của mình, là bắt đầu học theo hạnh nguyện của vị Phật mà mình trì niệm. Trong ngoài tương ưng, sức mạnh hạt giống giác ngộ ngày một được nuôi lớn bởi nội lực và sự gia hộ. Tâm chánh niệm, hành động cũng chánh niệm, từ nay hành giả niệm Phật đang đi trên con đường giải thoát. Giữ một lòng, một tâm chánh niệm mà trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Khi bỏ thân xác tứ đại này, con đường về Tây Phương Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà quyết không còn nghi nữa.

Nguyện độ chúng sanh về cõi Tinh Độ của Đức Phật A Di Đà để tu học chánh giác là một phước báo vô lượng được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dạy cho người tu học hợp duyên với pháp tu này. Nơi mà người tu học chỉ với một tấm lòng buông bỏ tất cả nghiệp xấu, cố gắng tăng trưởng nghiệp lành. Thân khẩu ý từ nay buông bỏ tất cả nghiệp dữ, một lòng chánh niệm, hạnh phúc vì mọi người mà làm, không tư lợi cho bản thân. Nhất nhất trong tâm chỉ một lòng niệm Phật A Di Đà. Ngày về Tây Phương Tịnh Độ nhất định không xa.

Dõng mãnh tinh tấn, trì niệm sáu chữ : NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà gia hộ cho tất cả chung sanh.
 

cungduong

Registered
Phật tử
Tham gia
11 Thg 2 2012
Bài viết
399
Điểm tương tác
12
Điểm
18
Con xin cám ơn các quý thầy.Con xin kể câu chuyện thực của gia đình chúng con.Quý vị nào tin hay không tin củng không sao hết.

Bên nội, ngoại con đều là gia đình phật tử hết,bên ngoại con chỉ thuần nông,được cái ai củng rất thiệt thà,chân quê.Ngoại con thì hay đi chùa,và hay chỉ dạy cho mọi người tu học.Ngoại con thì thương người và rất thương con cháu.Ngoại con có cái tánh là rất hay nóng giận,nói rất to,hồi đó mỗi lần ăn trộm vô nhà bắt gà vịt là sáng mai ngoại con cứ đứng trước nhà mà chửi rủa.Có lúc tụng kinh con cháu giỡn la to là ngoại con quay lại chửi rất to xong mới tụng tiếp.

Còn nội con củng vậy,bên nội con là nhà giáo, củng hay đi làm công quả chùa và hay chỉ dạy con cháu sống tốt,nhưng nội con rất ích kỷ,tuy là nhà giàu nhưng mỗi lần có ăn xin tới ,có lúc nội con cho có lúc không.Những lúc nào mà tụi con hư hỏng,chơi bời là nội con đánh và chỉ dạy rất cặn kẽ,cho nên tụi con rất sợ nội con.Do nội con khắc khe quá cho nên xóm làng hay nói nội con ở ác.Tụi con mà thấy ngoại con là rất thích và thấy nội con là không dám nhìn,sợ sệt.

Con ở bên nhà nội con,nhà nội con hay mời các thầy ở chùa về tụng kinh và cúng dường đồ ăn cho các thầy. Do các thầy củng là bà con trong dòng họ nên củng thân quen.Các thầy chỉ dạy nhiều mà lúc đó con không hiểu lắm về phật pháp.

Một hôm khi thọ trai xong,các thầy ngồi quây quần.Một vị thầy nhìn lên cái liễn treo 10 điều phật dạy nói.Gia đình mình phải luôn luôn theo các điều phật dạy là sẽ tu tập được.Vị thầy cả đó chỉ vào 1 câu trong cái liễn .
" KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH"
Vị đó nói với gia đình nội con,tu học cho nhiều nhưng phải nhớ câu này cho kỹ,hiểu cho sâu thì sau này sẽ hiểu rất nhiều về phật pháp.Lúc đó tụi con củng nhớ câu nói đó,chớ mà không quan tâm lắm vì còn nhỏ,củng hiểu sơ sơ là nên làm các việc thiện,giúp người,....chứ không có hiểu sâu là sao cả.

Bây giờ khi đã lớn khôn,đã gặp nhiều điều trong cuộc sống,lăn lộn khắp nơi,một hôm vô ăn cơm chay trong quán,con vô tình nhìn thấy lời chỉ dạy của vị thầy năm xưa.

" KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH"

Về nhà con củng suy nghĩ lại chính mình,nghĩ lại bà ngoại con đã mất,bà nội con hiện giờ còn sống,và những người thân bằng quyến thuộc,con mới hiểu được lời của phật dạy thiệt là hay.Nhìn lại bà ngoại con thì củng tu theo phật,củng hay nóng tánh mà không nhìn lại mình cho nên cuối đời không có được vãng sanh.Còn bà nội con thì bây giờ tuy già rồi,củng tu theo phật ,mà củng vì khắc khe với con cháu quá cho nên củng không biết mình ác.

Rút ra nững kinh nghiệm,nhìn lại mình và những người khác trong cuộc sống bon chen ,hối hả thực tế này.Nhìn lại lời phật dạy thiệt hay,con người củng vì cuộc sống nuôi thân,vì miếng cơm manh áo,gia đình vợ con ,hơn thua với người khác.............cho nên không có thời gian nhiều để nhìn lại mình đúng hay sai.Cho nên lúc nào chúng ta củng tạo nghiệp mà không hay biết.

Các gia đình phật tử,hay những gia đình hữu duyên mà nhận được những gì mà các vị thầy chỉ dạy,hoặc được một quyển kinh,một câu liễn,hoặc chỉ cần một niềm tin mà liên quan đến những lời phật dạy thì con nghĩ các người được nhận đó trước sau gì củng tu học thành tựu.Con nghĩ những người phật tử như chúng con mà làm những công việc như vậy là đã cúng dường chư phật rồi.Cho nên chúng con phát tâm cúng dường để mong báo đáp ân sư chỉ dạy.

Vấn đề giúp cho người khác có niềm tin nơi chư phật,tinh tấn tu tập đó mới là điều cần làm cấp bách của những người con phật.Cho nên nói phật pháp thậm thâm vi diệu là vậy.chỉ một lời dạy của chư phật " KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH" mà củng giúp ích cho rất nhiêu người.

Đây là những ý kiến chủ quan của chúng con,có những điều gì sai trái chúng con xin quý thầy chỉ dạy sửa sai ạ.

Gia đình chúng con xin thành kính tri ân đến thập phương chư phật.Chúng con xin kính chúc quý thầy và các gia đình phật tử thân tâm thường an lạc.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
 

Tấn Hạnh

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 7 2011
Bài viết
339
Điểm tương tác
375
Điểm
63


Đạo hữu !

Trong 10 điều Đức Phật dạy, có một câu mà đạo hữu nhắc đến " KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH ". Đạo hữu cũng đã hiểu được đôi phần rồi đó.

Vì sao kẻ thù lớn nhất của ta lại là chính bản thân ta ?.

Vì ta, nguyên nhân chính của tạo tác nghiệp báo sanh tử. Do ta có thân, mang tấm thân tứ đại giả hợp theo duyên mà có, lại cứ ngỡ là thật có. Thân này có được sanh ra và duy trì là do nghiệp báo nhiều đời kết tựu mà tạo nên. Theo nghiệp báo chiêu cảm nghiệp lành hay dữ mà gánh lấy. Vì có thân nên mới có Ngã ( chấp Ta là khác người, mưu cầu cho riêng cái Ta của mình ). Vì chấp Ngã là thật có nên tha hồ tạo tác nghiệp báo, mục đích là phục vụ dục lạc cho cái Ta được sung sướng. Bao nhiều tư lợi, mưu toan, việc ác tạo tác khiến cho chúng sanh khác phải đau khổ, mất mạng chỉ để thỏa mãn cái Ta mà thôi. Từ đây xa rời chánh đạo, tạo nghiệp ác chất chồng, nhân quả theo đó cảm ứng, luân hồi trong lục đạo không biết bao giờ dứt !. Không nhìn lại sự thật là thân này vô thường, có đó mất đó, chậm thì vài mươi năm, nhanh thì chớp nhoáng, mất lúc nào không hay trước.

Vì chấp có thân mà trôi dạt trong sanh tử luân hồi, vì có thân mà mưu cầu lợi ích, tạo nghiệp báo, gây đau khổ cho chúng sanh và đau khổ cho chính bản thân mình. Có thân mà phải chịu tám cái khổ của đời người bức bách ( sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu bị chia lìa khổ, thù mà phải sống gần nên khổ, mong muốn không được khổ, năm ấm bức bách mà khổ...). Gần nhất là đói cũng sợ, buồn cũng sợ, chê bai cũng sợ, nhục mạ cũng sợ, tai nạn cung sợ....Trăm ngài cái sợ phủ xuống chúng sanh vì có thân.

Nên Đức Phật dạy
" KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ CHÍNH MÌNH ".
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
23517804_1316322141807590_99635543959346861_n.jpg


PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH

Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt để phổ độ chúng sanh của Như Lai. Đức Như Lai nghĩ thương chúng sanh nên thị hiện thành Chánh Giác, thuận theo mọi căn cơ, khéo léo khuyên dụ dần dần. Với hàng đại căn bèn dạy ngộ “nhất tâm tạo trọn mọi thứ”, đoạn Hoặc chứng chân, dùng đó để tiến thẳng vào Bồ Đề. Với hàng tiểu khí thì dạy hiểu rõ nhân quả ba đời, hướng lành, tránh dữ để làm phương tiện nhập đạo. Tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật khác biệt, nhưng đều phải đoạn được hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới có thể thoát khỏi phần đoạn sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết, đạo quả chưa thành, dẫu có tu trì vẫn chẳng thể tự làm chủ được! Ở trong sanh tử đã lâu, người tấn đạo thì ít, kẻ lui sụt thì nhiều là vì đạo chẳng thắng nổi tập khí, nghiệp ràng buộc tâm. Ví như chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Tuy có công từ trước vẫn hoàn toàn chẳng được lợi ích gì. Do lẽ đó, Phật bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho dù phàm hay thánh, dù trí hay ngu đều dùng lòng tin sâu, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây chính là dùng tín nguyện của chính mình để cảm Phật từ bi, cảm ứng đạo giao ắt được nhiếp thọ. Đến khi lâm chung được theo Phật vãng sanh. Đã vãng sanh là đã đoạn Hoặc, mau chứng Vô Sanh. Người có đủ nghiệp chướng buộc ràng cũng dự vào địa vị Bất Thoái. Từ đấy thân cận Di Đà, dự vào hải chúng, được un đúc, dưỡng dục, giáo hóa, nhiễm mùi hương mầu nhiệm của Như Lai, chướng hết, trí trọn, khôi phục Phật tánh sẵn có. Nâng đỡ căn cơ kém cỏi, khéo dụ sơ tâm, chỉ có mình pháp môn này thật là bậc nhất. Ân Như Lai rộng lớn châu đáo, dẫu thiên địa, cha mẹ cũng không thể sánh ví được muôn một!

Nếu có thể thọ trì A Di Đà Kinh sẽ biết thế giới Cực Lạc chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui, y báo, chánh báo trang nghiêm, đủ mọi công đức; A Di Đà Phật hiện đang thuyết pháp, thọ mạng, quang minh vô lượng, thệ nguyện rộng sâu; các thượng thiện nhân cùng ở chung một chỗ, đều do tu diệu hạnh “nhiều phước đức nhân duyên” tín nguyện niệm Phật mà được sanh. [Biết vậy rồi] ai mà không thật sự vì sanh tử, phát tâm Bồ Đề, dùng lòng tín nguyện sâu xa, thiết tha để mong gần là được đạt lên địa vị Bất Thoái, xa là viên thành Phật đạo? Huống chi chư Phật sáu phương lợi ích khắp các chúng sanh, Bổn Sư Thích Ca đắc vô thượng đạo, không vị nào chẳng khởi đầu từ pháp này mà rốt cuộc cũng quy về pháp này đó ư?

Ấy là vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, do lấy Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân bao trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Pháp môn mầu nhiệm, không còn gì mầu nhiệm hơn được nữa, là chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Quả thật pháp này đã diễn giảng trọn vẹn thông suốt bổn hoài của Như Lai. Có duyên gặp được thì chính là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.

Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị nhất của Như Lai. Vì sao nói vậy? Do trong hết thảy pháp môn đều phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới hòng liễu thoát sanh tử. Nhưng đoạn Kiến Hoặc giống như cắt ngang dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống chi Tư Hoặc? Đoạn Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả. Nếu ước theo Viên Giáo thì là bậc Sơ Tín. Đoạn sạch Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả, tức là Thất Tín trong Viên Giáo. Sơ Quả Sơ Tín vẫn còn sanh tử, Tứ Quả Thất Tín mới liễu thoát được. Nhưng Thiên Thai Trí Giả đại sư thị hiện thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm. Tuy sở ngộ đã bằng với chư Phật, khuất phục trọn vẹn Ngũ Trụ phiền não[1], nhưng Kiến Hoặc vẫn chưa hề đoạn được. Thế nhưng Bổn Địa của đại sư thật sự chẳng thể suy lường, lâm chung chỉ nói mình chứng Ngũ Phẩm [là vì] Ngài lo sâu xa cho đời Mạt chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng chân, chỉ lấy minh tâm kiến tánh làm chuyện rốt ráo. Minh tâm kiến tánh chính là đại triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng thượng căn thì hễ ngộ bèn chứng, nên liền giải quyết xong. Nếu không, dẫu biết được chuyện vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng tránh khỏi bị thọ sanh lần nữa. Như Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, [tuy thế] vẫn chưa phải là quá tệ. Như sư Hải Ấn Tín trở thành con gái ông Châu Phòng Ngự, kể ra đã khó chịu đựng nổi. Ông Tăng núi Nhạn Đãng trở thành Tần Cối thì thật đáng thương xót quá sức!

Tự lực đoạn Hoặc chứng chân liễu sanh thoát tử khó khăn quá lắm! Những giáo lý tu chứng thông thường đức Như Lai đã nói trong cả một đời tuy là nhiều thứ pháp môn khác nhau, nhưng chẳng hề có chuyện còn đầy đủ Hoặc nghiệp lại có thể liễu sanh thoát tử! Chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ, hễ có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng, công phu cạn - sâu, đều trong lúc lâm chung nhờ vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Từ đấy, dần dần tấn tu, liền tự chứng được Vô Sanh cho đến viên mãn Phật Quả.

Đây chính là pháp môn đặc biệt do Như Lai thương xót chúng sanh căn cơ kém hèn làm cho họ đều được ngay trong đời này nhanh chóng thoát luân hồi. Phải biết pháp môn Tịnh Độ thật ra để thâu nhiếp người căn cơ thượng thượng! Vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát còn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh ngõ hầu viên mãn Phật quả. Lại còn đem điều ấy khuyên khắp Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, biết rằng: “Một pháp hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ chính là bước cuối cùng để viên mãn Phật quả!”

Đời có kẻ cuồng chẳng xét kỹ giáo lý, thấy ngu phu ngu phụ đều có thể tu trì pháp này, bèn miệt thị là pháp Tiểu Thừa. Chẳng biết đây chính là pháp môn bậc nhất “thành thủy thành chung, một đời thành Phật” của kinh Hoa Nghiêm. Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp hòi, cho rằng công phu của chính mình cạn mỏng, nghiệp lực sâu dầy, làm sao vãng sanh cho được? Chẳng biết tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh chư Phật không hai. Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật hoặc đủ mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền lâm chung còn được vãng sanh. Quán kinh nói thế, cớ sao không tin? Bọn họ còn vãng sanh, huống chi chúng ta dẫu có tội nghiệp, nhưng còn có chút công phu, so với phường Ngũ Nghịch, Thập Ác niệm mười tiếng hay mấy tiếng kia, đương nhiên còn cao hơn rất nhiều, cớ sao lại tự khinh, tự bỏ, đến nỗi đánh mất lợi ích vô thượng này!

Như Lai gọi pháp môn Tịnh Độ này là “pháp khó tin” bởi lẽ pháp này hạ thủ dễ dàng nhưng thành công cao, dùng sức ít nhưng được hiệu quả nhanh chóng, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị hơn hẳn những giáo lý thông thường trong cả một đời đức Phật giáo hóa. Nếu chẳng phải xưa đã có thiện căn, quyết khó thể tin nhận phụng hành. Tôi thường nói: “Chín pháp giới chúng sanh lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”, đấy chính là sự thật vậy! Nay đang là lúc nào? Chính là thời đao binh, đói kém, tật dịch đều nhóm họp, tuy chưa đến nỗi là ba tiểu tai[2], nhưng cũng đã là hiện tượng của ba tiểu tai vậy! Huống chi tà thuyết tung hoành, tri thức hiếm hoi, muốn nghe chánh pháp thật chẳng dễ gì!

Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)

Chú Thích:

[1] Còn gọi là Ngũ Trụ Địa Hoặc, tức Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Phiền Hoặc gộp thành một trụ, bốn trụ kia là Dục Ái Trụ Địa, Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ Địa, Vô Minh Trụ Địa. Do hết thảy phiền não đều nương vào năm thứ này nên chúng được gọi là Trụ (nương ở, nắm giữ). Do chúng phát sanh ra các phiền não nên gọi là Trụ Địa. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 5, giảng:
1. Kiến Nhất Thiết Xứ Trụ Địa: chính là Kiến Hoặc gồm Thân Kiến v.v… trong tam giới.
2. Dục Ái Trụ Địa: gồm phiền não trong Dục Giới, ngoại trừ vô minh và Kiến Hoặc, chấp vào Ngũ Dục bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp).
3. Sắc Ái Trụ Địa: phiền não trong Sắc Giới, không tính Kiến Hoặc, Vô Minh, không chấp vào Ngũ Dục bên ngoài, nhưng chấp vào sắc thân.
4. Hữu Ái Trụ Địa: phiền não trong Vô Sắc Giới, không gồm Kiến, Vô Minh, đã bỏ lìa chấp trước tham Sắc, nhưng vẫn còn yêu mến cái thân của chính mình.
5. Vô Minh Trụ Địa: tức hết thảy vô minh trong tam giới. Vô minh là cái tâm si ám, là cội gốc của hết thảy phiền não.
Duy Thức Tông chủ trương bốn món Trụ đầu là chủng tử của Phiền Não Chướng, món cuối là chủng tử của Sở Tri Chướng. Tông Thiên Thai gọi món đầu tiên là Kiến Hoặc, ba món giữa là Tư Hoặc, món cuối là Vô Minh Hoặc. Họ gọi chung Kiến Tư Hoặc là Giới Nội Hoặc (phiền hoặc trong tam giới), còn Vô Minh Hoặc là Giới Ngoại Hoặc.

[2] Tam Tai là còn gọi là Tam Tai Kiếp. Tam Tai xuất hiện trong kiếp Trụ và kiếp Hoại của thế giới. Có nhiều cách hiểu Tam Tai khác nhau đôi chút:
1. Theo Câu Xá Luận, quyển 12 thì Trụ Kiếp được chia thành 20 thời kỳ nhỏ. Khi tuổi thọ của hữu tình giảm từ tám vạn năm xuống mười năm, rồi lại tăng dần lên khoảng hai mươi lần. Cứ mỗi khi con người giảm tuổi thọ đến chừng còn 10 tuổi thì phát sinh một lần tai ách, tổng cộng có Đao Binh Tai (dùng vũ khí giết hại nhau), Tật Dịch Tai (dịch bệnh lưu hành), Cơ Cẩn Tai (đói kém mất mùa). Đây gọi là ba Tiểu Tai. Còn Đại Tam Tai phát sinh vào thời kỳ Hoại Kiếp. Các kinh như Đại Lâu Thán, Khởi Thế Kinh, Trường A Hàm (tiểu kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành), Ưu Bà Tắc Giới kinh, Đại Tỳ Bà Sa Luận đều nói giống như vậy.
2. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 1 thì Tiểu Tam Tai là:
a. Cơ Cẩn Tai, con người thọ tám vạn bốn ngàn năm. Cứ mỗi một trăm năm con người giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi thì hạn hán lớn không mưa, cây cỏ không mọc được, vô lượng người trong thế gian bị chết đói.
b. Tật dịch tai: Đến lúc con người tuổi thọ giảm còn 20 tuổi thì bệnh dịch phát sanh, con người chết vì tật dịch vô số.
c. Đao binh tai: Khi tuổi thọ con người còn 10 tuổi, ai nấy đều đánh lẫn nhau, tay cầm nhánh cỏ cũng hóa thành vũ khí tàn sát lẫn nhau.
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
23517804_1316322141807590_99635543959346861_n.jpg


PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH

Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt để phổ độ chúng sanh của Như Lai. Đức Như Lai nghĩ thương chúng sanh nên thị hiện thành Chánh Giác, thuận theo mọi căn cơ, khéo léo khuyên dụ dần dần. Với hàng đại căn bèn dạy ngộ “nhất tâm tạo trọn mọi thứ”, đoạn Hoặc chứng chân, dùng đó để tiến thẳng vào Bồ Đề. Với hàng tiểu khí thì dạy hiểu rõ nhân quả ba đời, hướng lành, tránh dữ để làm phương tiện nhập đạo. Tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật khác biệt, nhưng đều phải đoạn được hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới có thể thoát khỏi phần đoạn sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết, đạo quả chưa thành, dẫu có tu trì vẫn chẳng thể tự làm chủ được! Ở trong sanh tử đã lâu, người tấn đạo thì ít, kẻ lui sụt thì nhiều là vì đạo chẳng thắng nổi tập khí, nghiệp ràng buộc tâm. Ví như chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Tuy có công từ trước vẫn hoàn toàn chẳng được lợi ích gì. Do lẽ đó, Phật bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho dù phàm hay thánh, dù trí hay ngu đều dùng lòng tin sâu, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây chính là dùng tín nguyện của chính mình để cảm Phật từ bi, cảm ứng đạo giao ắt được nhiếp thọ. Đến khi lâm chung được theo Phật vãng sanh. Đã vãng sanh là đã đoạn Hoặc, mau chứng Vô Sanh. Người có đủ nghiệp chướng buộc ràng cũng dự vào địa vị Bất Thoái. Từ đấy thân cận Di Đà, dự vào hải chúng, được un đúc, dưỡng dục, giáo hóa, nhiễm mùi hương mầu nhiệm của Như Lai, chướng hết, trí trọn, khôi phục Phật tánh sẵn có. Nâng đỡ căn cơ kém cỏi, khéo dụ sơ tâm, chỉ có mình pháp môn này thật là bậc nhất. Ân Như Lai rộng lớn châu đáo, dẫu thiên địa, cha mẹ cũng không thể sánh ví được muôn một!

Nếu có thể thọ trì A Di Đà Kinh sẽ biết thế giới Cực Lạc chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui, y báo, chánh báo trang nghiêm, đủ mọi công đức; A Di Đà Phật hiện đang thuyết pháp, thọ mạng, quang minh vô lượng, thệ nguyện rộng sâu; các thượng thiện nhân cùng ở chung một chỗ, đều do tu diệu hạnh “nhiều phước đức nhân duyên” tín nguyện niệm Phật mà được sanh. [Biết vậy rồi] ai mà không thật sự vì sanh tử, phát tâm Bồ Đề, dùng lòng tín nguyện sâu xa, thiết tha để mong gần là được đạt lên địa vị Bất Thoái, xa là viên thành Phật đạo? Huống chi chư Phật sáu phương lợi ích khắp các chúng sanh, Bổn Sư Thích Ca đắc vô thượng đạo, không vị nào chẳng khởi đầu từ pháp này mà rốt cuộc cũng quy về pháp này đó ư?

Ấy là vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, do lấy Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân bao trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Pháp môn mầu nhiệm, không còn gì mầu nhiệm hơn được nữa, là chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Quả thật pháp này đã diễn giảng trọn vẹn thông suốt bổn hoài của Như Lai. Có duyên gặp được thì chính là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.

Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị nhất của Như Lai. Vì sao nói vậy? Do trong hết thảy pháp môn đều phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới hòng liễu thoát sanh tử. Nhưng đoạn Kiến Hoặc giống như cắt ngang dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống chi Tư Hoặc? Đoạn Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả. Nếu ước theo Viên Giáo thì là bậc Sơ Tín. Đoạn sạch Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả, tức là Thất Tín trong Viên Giáo. Sơ Quả Sơ Tín vẫn còn sanh tử, Tứ Quả Thất Tín mới liễu thoát được. Nhưng Thiên Thai Trí Giả đại sư thị hiện thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm. Tuy sở ngộ đã bằng với chư Phật, khuất phục trọn vẹn Ngũ Trụ phiền não[1], nhưng Kiến Hoặc vẫn chưa hề đoạn được. Thế nhưng Bổn Địa của đại sư thật sự chẳng thể suy lường, lâm chung chỉ nói mình chứng Ngũ Phẩm [là vì] Ngài lo sâu xa cho đời Mạt chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng chân, chỉ lấy minh tâm kiến tánh làm chuyện rốt ráo. Minh tâm kiến tánh chính là đại triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng thượng căn thì hễ ngộ bèn chứng, nên liền giải quyết xong. Nếu không, dẫu biết được chuyện vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng tránh khỏi bị thọ sanh lần nữa. Như Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, [tuy thế] vẫn chưa phải là quá tệ. Như sư Hải Ấn Tín trở thành con gái ông Châu Phòng Ngự, kể ra đã khó chịu đựng nổi. Ông Tăng núi Nhạn Đãng trở thành Tần Cối thì thật đáng thương xót quá sức!

Tự lực đoạn Hoặc chứng chân liễu sanh thoát tử khó khăn quá lắm! Những giáo lý tu chứng thông thường đức Như Lai đã nói trong cả một đời tuy là nhiều thứ pháp môn khác nhau, nhưng chẳng hề có chuyện còn đầy đủ Hoặc nghiệp lại có thể liễu sanh thoát tử! Chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ, hễ có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng, công phu cạn - sâu, đều trong lúc lâm chung nhờ vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Từ đấy, dần dần tấn tu, liền tự chứng được Vô Sanh cho đến viên mãn Phật Quả.

Đây chính là pháp môn đặc biệt do Như Lai thương xót chúng sanh căn cơ kém hèn làm cho họ đều được ngay trong đời này nhanh chóng thoát luân hồi. Phải biết pháp môn Tịnh Độ thật ra để thâu nhiếp người căn cơ thượng thượng! Vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát còn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh ngõ hầu viên mãn Phật quả. Lại còn đem điều ấy khuyên khắp Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, biết rằng: “Một pháp hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ chính là bước cuối cùng để viên mãn Phật quả!”

Đời có kẻ cuồng chẳng xét kỹ giáo lý, thấy ngu phu ngu phụ đều có thể tu trì pháp này, bèn miệt thị là pháp Tiểu Thừa. Chẳng biết đây chính là pháp môn bậc nhất “thành thủy thành chung, một đời thành Phật” của kinh Hoa Nghiêm. Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp hòi, cho rằng công phu của chính mình cạn mỏng, nghiệp lực sâu dầy, làm sao vãng sanh cho được? Chẳng biết tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh chư Phật không hai. Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật hoặc đủ mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền lâm chung còn được vãng sanh. Quán kinh nói thế, cớ sao không tin? Bọn họ còn vãng sanh, huống chi chúng ta dẫu có tội nghiệp, nhưng còn có chút công phu, so với phường Ngũ Nghịch, Thập Ác niệm mười tiếng hay mấy tiếng kia, đương nhiên còn cao hơn rất nhiều, cớ sao lại tự khinh, tự bỏ, đến nỗi đánh mất lợi ích vô thượng này!

Như Lai gọi pháp môn Tịnh Độ này là “pháp khó tin” bởi lẽ pháp này hạ thủ dễ dàng nhưng thành công cao, dùng sức ít nhưng được hiệu quả nhanh chóng, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị hơn hẳn những giáo lý thông thường trong cả một đời đức Phật giáo hóa. Nếu chẳng phải xưa đã có thiện căn, quyết khó thể tin nhận phụng hành. Tôi thường nói: “Chín pháp giới chúng sanh lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”, đấy chính là sự thật vậy! Nay đang là lúc nào? Chính là thời đao binh, đói kém, tật dịch đều nhóm họp, tuy chưa đến nỗi là ba tiểu tai[2], nhưng cũng đã là hiện tượng của ba tiểu tai vậy! Huống chi tà thuyết tung hoành, tri thức hiếm hoi, muốn nghe chánh pháp thật chẳng dễ gì!

Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)

Chú Thích:

[1] Còn gọi là Ngũ Trụ Địa Hoặc, tức Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Phiền Hoặc gộp thành một trụ, bốn trụ kia là Dục Ái Trụ Địa, Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ Địa, Vô Minh Trụ Địa. Do hết thảy phiền não đều nương vào năm thứ này nên chúng được gọi là Trụ (nương ở, nắm giữ). Do chúng phát sanh ra các phiền não nên gọi là Trụ Địa. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 5, giảng:
1. Kiến Nhất Thiết Xứ Trụ Địa: chính là Kiến Hoặc gồm Thân Kiến v.v… trong tam giới.
2. Dục Ái Trụ Địa: gồm phiền não trong Dục Giới, ngoại trừ vô minh và Kiến Hoặc, chấp vào Ngũ Dục bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp).
3. Sắc Ái Trụ Địa: phiền não trong Sắc Giới, không tính Kiến Hoặc, Vô Minh, không chấp vào Ngũ Dục bên ngoài, nhưng chấp vào sắc thân.
4. Hữu Ái Trụ Địa: phiền não trong Vô Sắc Giới, không gồm Kiến, Vô Minh, đã bỏ lìa chấp trước tham Sắc, nhưng vẫn còn yêu mến cái thân của chính mình.
5. Vô Minh Trụ Địa: tức hết thảy vô minh trong tam giới. Vô minh là cái tâm si ám, là cội gốc của hết thảy phiền não.
Duy Thức Tông chủ trương bốn món Trụ đầu là chủng tử của Phiền Não Chướng, món cuối là chủng tử của Sở Tri Chướng. Tông Thiên Thai gọi món đầu tiên là Kiến Hoặc, ba món giữa là Tư Hoặc, món cuối là Vô Minh Hoặc. Họ gọi chung Kiến Tư Hoặc là Giới Nội Hoặc (phiền hoặc trong tam giới), còn Vô Minh Hoặc là Giới Ngoại Hoặc.

[2] Tam Tai là còn gọi là Tam Tai Kiếp. Tam Tai xuất hiện trong kiếp Trụ và kiếp Hoại của thế giới. Có nhiều cách hiểu Tam Tai khác nhau đôi chút:
1. Theo Câu Xá Luận, quyển 12 thì Trụ Kiếp được chia thành 20 thời kỳ nhỏ. Khi tuổi thọ của hữu tình giảm từ tám vạn năm xuống mười năm, rồi lại tăng dần lên khoảng hai mươi lần. Cứ mỗi khi con người giảm tuổi thọ đến chừng còn 10 tuổi thì phát sinh một lần tai ách, tổng cộng có Đao Binh Tai (dùng vũ khí giết hại nhau), Tật Dịch Tai (dịch bệnh lưu hành), Cơ Cẩn Tai (đói kém mất mùa). Đây gọi là ba Tiểu Tai. Còn Đại Tam Tai phát sinh vào thời kỳ Hoại Kiếp. Các kinh như Đại Lâu Thán, Khởi Thế Kinh, Trường A Hàm (tiểu kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành), Ưu Bà Tắc Giới kinh, Đại Tỳ Bà Sa Luận đều nói giống như vậy.
2. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 1 thì Tiểu Tam Tai là:
a. Cơ Cẩn Tai, con người thọ tám vạn bốn ngàn năm. Cứ mỗi một trăm năm con người giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi thì hạn hán lớn không mưa, cây cỏ không mọc được, vô lượng người trong thế gian bị chết đói.
b. Tật dịch tai: Đến lúc con người tuổi thọ giảm còn 20 tuổi thì bệnh dịch phát sanh, con người chết vì tật dịch vô số.
c. Đao binh tai: Khi tuổi thọ con người còn 10 tuổi, ai nấy đều đánh lẫn nhau, tay cầm nhánh cỏ cũng hóa thành vũ khí tàn sát lẫn nhau.

Bạn có thể nói dùm là tại sao pháp mônTịnh Độ thù thắng nhiếp độ tất cả căn cơ của chúng sanh như thế , mà Đức Phật sau khi thành đạo không phổ truyền liền cho chúng sinh sớm được đến Tây Phương mà hưởng cái an lạc rồi tu cho thành Phật luôn thể , mà lại phải nói hết cách này đến cách khác, nói ngược nói xuôi.... rồi mới nói đến môn Tịnh Độ?
Với lại , nếu đúng là môn Tịnh Độ thù thắng , thẳng tắt , mau chóng liễu ngộ như vậy, sao các vị bên nhà thiền không bỏ thiền mà sang Tịnh Độ cho khỏe hơn không?
Tôi thấy ngày nay , hầu như 80 - 90% những người học Phật đều chọn Môn Tịnh Độ, nhất là thường xuyên tụ hội ( Pháp hội rồi thường nhật ngày đêm đông đúc lắm) họ hớn hở hân hoan ngồi đâu cũng bàn luận Phật Pháp, Thầy nọ , Thầy kia học từ các vị ở bên Tàu , bên Ấn...
Có phải 80 - 90% đó là những người có trí tuệ thật sự mới lãnh hội và tin theo Tịnh Độ, còn lại là kém cỏi và thiếu niềm tin ...?
Lại nữa tôi thấy các vị theo Tịnh Độ có đi sang đất Phật bên ấn độ, rồi đem một gói đất , nói là từ chỗ Phật thành đạo , rồi về mua tháp thủy tinh, Phalê có cái tiền triệu , đem bỏ nắm đất đó vào rồi đưa lên bàn thờ, thờ trong nhà như thờ thánh thần vậy. Chắc những người này họ đã nhìn thấy Phật trong nắm đất đó phải ? họ đã làm đúng với tinh thần của người theo Tịnh Độ rồi chứ.
Mong bạn chỉ rõ
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
1427112610-1740562087.jpg


TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI LUẬN
Tác Giả: Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)
Việt Dịch: Như Hòa


Thuốc không quý - tiện, thuốc trị lành bịnh là thuốc hay. Pháp không hơn - kém, pháp khế hợp căn cơ là pháp diệu. Thuở xưa, căn tánh con người thù thắng, tri thức như rừng, tùy ý tu một pháp đều có thể chứng đạo. Người đời nay, căn tánh kém cỏi, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ Tịnh Độ thì chẳng nhờ vào đâu để được giải thoát. Tôi tự thẹn nhiều đời, nhiều kiếp, ít gieo căn lành, phước mỏng, huệ cạn, chướng nặng, nghiệp sâu; lúc đang cầu học hỏi lại chẳng gặp thiện hữu, chưa được nghe đạo truyền tân[1] của thánh hiền, lậm cái độc của Hàn, Âu[2] phế Phật. Học vấn chưa thành, nghiệp lực đã hiện ra trước. Từ đấy, bệnh nặng cả mấy năm, chẳng làm gì được. Nghĩ kỹ thiên địa quỷ thần chiếu soi như thế, cổ kim thánh hiền đông nhiều đến thế, huống chi Phật vốn chẳng có quyền lực để ép người thuận theo; ắt phải nhờ vào vua thánh, tôi hiền hộ trì thì đạo Phật mới có thể lưu truyền khắp thiên hạ vậy. Nếu pháp ấy quả thật đúng như lời họ Hàn, họ Âu: “Phật pháp trái nghịch thánh đạo, gây hại cho Trung Quốc” thì chẳng những riêng vua thánh, tôi hiền xưa nay chẳng dung thứ cho Phật pháp tồn tại nơi đời, mà thiên, địa, quỷ thần cũng tru diệt chẳng còn sót từ lâu rồi; nào phải đợi đến họ Âu, họ Hàn dùng lời hư vọng để bác bỏ nữa!

Sách Trung Dung nói: “Đạo quân tử thì kẻ ngu phu, ngu phụ còn có thể biết được, hành được”; còn như cái đạo đạt đến mức cùng cực thì ngay cả thánh nhân cũng có chỗ chẳng hay biết, chẳng thể thực hiện được nổi. Ông Âu, ông Hàn tuy hiền, nhưng còn kém xa thánh nhân rất nhiều! Huống gì có những điều thánh nhân còn chẳng biết chẳng hay! Phật pháp nào có phải là pháp mà phàm tình, trí thế gian có thể suy lường được nổi. Tôi bèn nhanh chóng sửa đổi tâm trước, xuất gia làm Tăng, tự lượng sức mình: Nếu chẳng nương vào sức thệ nguyện rộng lớn của đức Như Lai thì quyết khó có thể ngay trong đời này thoát khỏi sanh tử. Từ ấy, chỉ niệm Phật, chỉ cầu Tịnh Độ. Từ nhiều năm qua, tôi đã lạm dự vào chốn giảng pháp, nhiều phen tham vấn các bậc Thiền Đức[3], chẳng qua là muốn làm sáng tỏ Đệ Nhất Nghĩa Đế Tịnh Độ để làm tư lương[4] thượng phẩm vãng sanh mà thôi. Hận rằng sức lực yếu ớt nên hạnh khó dũng mãnh; nhưng tôi tín nguyện kiên cố, không những các sư giảng Thiền trong thế gian không thể lay chuyển tôi chút nào, dẫu cho chư Phật hiện thân dạy tu pháp khác, tôi cũng chẳng chịu bỏ pháp này nhận lấy pháp khác, trái nghịch cái tâm ban đầu. Hiềm rằng túc nghiệp gây chướng ngại nên rốt cuộc tôi chưa đạt được nhất tâm bất loạn để đích thân chứng được Niệm Phật Tam Muội, thẹn thùng vô kể.

Một ngày nọ có một Thượng Tọa, tham học Thiền tông đã lâu, kiêm thông giáo lý, mắt xem bốn biển rỗng không, thề chứng Nhất Thừa, noi gương Thiện Tài tham học khắp các tri thức, đến Loa Sơn gõ cửa thất tôi. Khi ấy, tôi vừa xem tập Di Đà Yếu Giải thấy văn sâu lý thẳm, chẳng tiện cho kẻ sơ cơ, mông muội, nên muốn thâu thập những giáo lý của tông Thiên Thai để viết lời giải thích, ngõ hầu giúp bậc sơ học dễ bề tiến bộ, chứ chẳng dám bắt chước cổ đức hoằng xiển đạo mầu, chỉ toan tạo nhân duyên thâm nhập chỗ thù thắng cho hậu học. Mừng có vị Thượng Tọa ấy đến, nên tôi liền tặng ông ta một cuốn Yếu Giải, rồi tỏ ý muốn viết lời giải thích. Nhân đấy, Thượng Tọa bảo tôi:

- Một cuốn Yếu Giải trước kia tôi đã từng xem, thấy trong ấy viết rằng: “Tạng sâu thẳm của Hoa Nghiêm, cốt tủy bí nhiệm của Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho vạn hạnh của Bồ Tát đều chẳng ra khỏi kinh này”. Những câu như vậy chẳng thể kể hết, thật đúng chèn ép Tông (Thiền), Giáo (các tông phái khác như Hoa Nghiêm, Thiên Thai...), quá khen Tịnh Độ, báng chánh pháp luân, khiến chúng sanh nghi lầm! Chẳng hiểu đại sư Ngẫu Ích đã có học thức thiên cổ hy hữu sao lại không trực chỉ nhân tâm, hoằng dương Chỉ Quán. Trái lại, Ngài chấp vào thứ kiến giải ấy khiến kẻ ngu phu, ngu phụ dùng đó như bùa hộ thân, chỉ mong hàng Tăng, tục trong đời giữ một pháp buông bỏ vạn hạnh; lấy vũng nước nơi dấu chân, bỏ cả biển rộng, cùng bước vào nẻo mê, vĩnh viễn quay lưng với đường chánh, đoạn diệt giống Phật, tội ngập cả trời. Muốn báo ân Phật thì trước hết nên hủy diệt sạch sách này, sao thầy còn tính viết lời giải thích để giúp cho sách ấy được lưu thông vậy? Tâm giận ngùn ngụt, như đối diện cừu thù.

Tôi đợi cho ông ta bình tĩnh lại, thong thả bảo rằng:

- Ông coi lời giải thích này của ngài Ngẫu Ích là tội lỗi quá nặng; ấy là chỉ biết ngọn, nhánh, chứ chẳng biết đến cội, nguồn, như con chó khờ chạy theo hòn đất, như con ngỗng chúa chẳng chọn sữa[5]. Phải biết cái lỗi ấy chẳng do cuốn Yếu Giải này của ngài Ngẫu Ích mà thật sự là do Phật Thích Ca, Phật Di Đà, mười phương chư Phật và ba kinh Tịnh Độ, kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, các kinh Đại Thừa và các vị đại Bồ Tát, tổ sư: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v... Nếu ông có thể làm đại pháp vương trừng trị tội ấy thì lời ông sẽ được cả thế gian phụng hành; bằng không thì kẻ dân ngu nơi rừng núi xưng bừa là hoàng đế, tự chế pháp luật, bội phản luật vua, chẳng mấy chốc sẽ bị diệt môn tru tộc vậy. Ông nói như thế là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, ngay đời này sẽ hãm vào A Tỳ địa ngục thọ khổ bao kiếp, trọn không có lúc thoát ra. Cậy chút phước trong quá khứ, tạo khổ báo bao kiếp. Hạng người được tam thế chư Phật gọi là “đáng thương xót” chính là ông vậy.

Ông ta giật mình, nói:

- Thầy bảo tội nơi đức Thích Ca, Di Đà v.v... Sao mà lại trái nghịch lý thường đến như thế? Xin thầy giải thích cặn kẽ nguyên do. Nếu lý ấy thật sự thù thắng, tôi đâu dám chẳng tuân theo!

Tôi bảo:

- Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong đời. Đại sự nhân duyên vừa nói đó chính là muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập[6] tri kiến của Phật, thẳng cho đến khi thành Phật mà thôi; há còn có gì khác nữa đâu!

Khốn nỗi chúng sanh căn tánh có lớn - nhỏ, mê có cạn - sâu, chẳng thể tỏ thấu trực tiếp bản hoài của Phật. Do đó, đức Phật mới thuận theo căn cơ đặt bày giáo pháp, đối bệnh phát thuốc, vì lẽ thật mà bày ra phương tiện quyền biến, khai Quyền hiển Thật[7]; [chỉ một pháp] Nhất Thừa mà bèn nói ra các thuyết. Nếu có kẻ thiện căn thành thục thì sẽ làm cho họ sanh lên được bờ kia; còn đối với kẻ ác nghiệp sâu dày, sẽ khiến họ dần dần thoát khỏi trần lao, rủ lòng tiếp dẫn; khéo khuyến dụ dần dần. Dẫu có dùng các ví dụ như trời, đất, mẹ cha… cũng chẳng diễn tả nổi chút phần [từ ân của Phật]. Hơn nữa, do hết thảy pháp môn đều nhờ vào tự lực. Dẫu là kẻ túc căn thâm hậu triệt ngộ tự tâm, nhưng nếu hai thứ Kiến Hoặc, Tư Hoặc vẫn còn sót chút ít chưa hết thì vẫn sanh tử trong luân hồi y như cũ không thoát được! Huống hồ là kẻ đã thọ thai ấm, đối cảnh liền sanh chấp trước, từ giác đến giác thì ít, nhưng từ mê vào mê lại nhiều. Bậc thượng căn còn như vậy, đối với kẻ trung căn, hạ căn còn biết nói sao nữa! Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt dứt dòng sông rộng bốn mươi dặm, huống hồ là Tư Hoặc! Liễu sanh thoát tử há có dễ đâu!

Do vậy, [các pháp môn khác] chẳng thể độ trọn ba căn, thỏa trọn bản hoài của Phật; chỉ có một pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ, chuyên cậy vào hoằng thệ nguyện lực của Phật Di Đà, chẳng cần biết đến thiện căn thành thục hay chẳng thành thục, ác nghiệp nặng hay nhẹ; cứ hễ chịu sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật thì lúc lâm chung sẽ quyết định được Phật Di Đà rủ lòng từ tiếp dẫn, vãng sanh Tịnh Độ. Người thiện căn thuần thục sẽ nhanh chóng viên thành Phật quả; dẫu là kẻ ác nghiệp nặng nề cũng được dự vào dòng thánh. Đấy chính là đạo cốt yếu để độ sanh của tam thế chư Phật, là pháp mầu nhiệm để thượng thánh lẫn hạ phàm cùng tu. Do vậy, các kinh Đại Thừa đều tuyên bày pháp trọng yếu này; lịch đại tổ sư không vị nào chẳng tuân hành. Ông tự phụ Thiền - Giáo, bảo xằng rằng hoằng dương Tịnh Độ là báng chánh pháp luân, là đoạn diệt hạt giống Phật, đủ chứng tỏ ông đã bị ma dựa vào thân, mất trí điên rồ, nhận mê là giác, chỉ chánh bảo tà, là chủng tử địa ngục vậy!

Trong kiếp xưa, đức Thích Ca, đức Di Đà từng phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sanh. Một vị thị hiện sanh nơi uế độ, dùng cái uế, dùng điều khổ để chiết phục, đưa đi; một vị an cư Tịnh Độ, lấy tịnh, lấy lạc để nhiếp thọ hòng nhào luyện chúng sanh. Ông chỉ biết ngu phu, ngu phụ vẫn có thể niệm Phật nên đến nỗi miệt thị Tịnh Độ, sao chẳng xét suy: Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, sau khi ngài Thiện Tài đã chứng ngộ gần bằng chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ngõ hầu viên mãn Phật quả. Lại còn khuyên dạy khắp Hoa Tạng hải chúng[8] đó ư? Trong toàn thể Hoa Tạng hải chúng, chẳng có một ai là phàm phu, Nhị Thừa, mà đều là bậc Pháp Thân Đại Sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị cùng phá vô minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể nương vào bổn nguyện luân hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật.

Hơn nữa, trong biển Hoa Tạng có vô lượng Tịnh Độ, nhưng các ngài đều hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới thì đủ biết: Vãng Sanh Cực Lạc chính là huyền môn để thoát khổ, là đường tắt để thành Phật. Vì vậy, tự cổ chí kim, trong tất cả tùng lâm dù Thiền hay Giáo, hay Luật, không nơi nào chẳng sớm tối trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây phương. Ông đã tham bái khắp các tùng lâm, ắt hẳn hằng ngày cũng tu tập, cớ sao lại sanh hủy báng đến thế! Sách Nho có nói: “Tu tập mà chẳng xem xét, dùng hằng ngày mà không biết”, há không phải là nói đến hạng người như ông hay sao? Hoa Nghiêm là vua của các kinh, vua trong Tam Tạng; chẳng tin Hoa Nghiêm thì là nhất-xiển-đề[9]. Dẫu cho chẳng đọa vào A Tỳ ngay khi còn sống thì khi báo hết sẽ quyết định rớt vào Vô Gián. Tôi muốn thoát khổ nên cầu sanh Tịnh Độ, ông muốn được khổ nên hủy báng Hoa Nghiêm. Ông cứ giữ cái chí của ông, tôi hành cái đạo của tôi. Tướng quân chẳng xuống ngựa, ai nấy tự ruổi theo đường mình. Đạo đã khác thì chẳng thể cùng bàn luận được! Ông đi đi, tôi chẳng muốn trò chuyện với ông nữa!

Ông ta đáp:

- Đạo quý ở chỗ hoằng thông, hễ nghi thì cần phải đoạn nghi, sao thầy lại cự tuyệt đến thế? Tôi thường nghe “Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở khắp hết thảy chỗ, nơi đức Phật ở gọi là Thường Tịch Quang”; chỉ cần chứng được Pháp Thân thì đương xứ (ngay nơi người ấy đang ở) chính là Tịch Quang Tịnh Độ. Sao lại phải dùng cái tâm sanh diệt “bỏ Đông lấy Tây” mới coi là được vậy?

Tôi đáp:

- Ông nói sao dễ dàng quá! Tuy đương xứ chính là Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng nếu chẳng phải là Trí Đoạn[10] đã đạt đến rốt ráo, đã viên chứng pháp thân Tỳ Lô thì chẳng thể đích thân thọ dụng triệt để được nổi! Các địa vị như: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác, cả bốn mươi mốt địa vị trong Viên Giáo vẫn là Phần Chứng! Nếu ông đã chứng được trọn vẹn Tỳ Lô Pháp Thân thì nói “đương xứ chính là Tịch Quang” cũng chẳng hại gì; còn nếu chưa được như thế thì dẫu có nói đến thức ăn và tính đếm của cải vẫn chẳng thể khỏi bị chết vì đói lạnh được!

Ông ta hỏi:

- “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” là điều trong Tông môn thường nói chẳng lẽ là sai lầm hay sao?

Tôi nói:

- Thuyết đó của nhà Thiền chuyên chỉ về lý tánh, chứ chẳng bàn đến sự tu. Vì sao vậy? Nhà Thiền muốn cho người ta trước hết biết đến cái lý “chẳng dính mắc nhân quả, phàm - thánh, chúng sanh và Phật tu chứng”. Sau đấy, mới y theo lý đó mà phát khởi tu nhân hòng chứng quả, siêu phàm nhập thánh. Đấy chính là mặt Sự: Chúng sanh chứng thành Phật đạo. Sao ông lẫn lộn Sự và Lý, tri kiến điên đảo đến thế? Ông lại bảo bỏ Đông lấy Tây là sanh diệt, nhưng chẳng biết chấp Đông phế Tây lại là đoạn diệt. Hễ còn chưa chứng Diệu Giác thì có ai thoát khỏi lấy - bỏ? Ba A Tăng Kỳ kiếp luyện hạnh, trăm kiếp tu nhân, thượng cầu, hạ hóa, đoạn Hoặc chứng Chân, có việc gì chẳng phải là chuyện lấy - bỏ đâu? Phải biết: Đức Như Lai muốn cho hết thảy chúng sanh mau chứng Pháp Thân và Tịch Quang, nên Phật mới đặc biệt khuyên trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương vậy!

Hỏi:

- Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận[11] của Táo Bá Lý Trưởng Giả[12] nhận định Tây phương Tịnh Độ chỉ [dành cho] hàng phàm phu còn có một phần chấp tướng, chưa tin nổi thật lý Pháp Không. Nếu chuyên ức niệm thì tâm sẽ được tịnh một phần, sẽ được sanh Tịnh Độ. Pháp đó là Quyền pháp chứ chẳng phải Thật pháp; cớ sao Hoa Tạng hải chúng lại cùng nguyện vãng sanh? Ngài Táo Bá chứng thánh quả ngay trong hiện đời, thần thông trí huệ chẳng thể nghĩ bàn; nhất quyết Ngài phải là Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm thị hiện nên lời Ngài nói nhất định chẳng sai lầm!

Đáp:

- Tuy ngài Táo Bá là Bồ Tát thị hiện, nhưng khi ấy kinh Hoa Nghiêm chưa được truyền đến [Trung Hoa] trọn vẹn, Ngài chẳng dự đoán được nên mới lập thuyết như vậy. Xét ra, ngài Táo Bá tạo luận vào niên hiệu Khai Nguyên đời vua Đường Huyền Tông. Sau khi viết xong luận, Ngài liền nhập diệt; phải hơn năm mươi năm sau, mãi đến năm Trinh Nguyên thứ mười một (795) đời vua Đức Tông, vua nước Ô Trà[13] ở Nam Thiên Trúc mới dâng bộ Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm gồm bốn mươi cuốn bằng Phạn văn. Đến năm Trinh Nguyên thứ mười bốn (798), kinh mới dịch xong để lưu thông. Ba mươi chín quyển trước tương ứng với phẩm Nhập Pháp Giới [của bản] Hoa Nghiêm tám mươi cuốn, nhưng văn nghĩa [trong bản Hoa Nghiêm bốn mươi quyển] có phần tường tận hơn. Trong cuốn thứ tám mươi, ngài Thiện Tài nương vào sức oai thần lực của ngài Phổ Hiền, sở chứng đã ngang với ngài Phổ Hiền, ngang bằng chư Phật, nên ngài Phổ Hiền bèn đọc cho nghe bài kệ khen ngợi công đức thắng diệu của Như Lai. Do kinh văn đến đây chưa hết nên [pháp hội] chưa kết thúc mà kinh [Bát Thập Hoa Nghiêm] đã hết. Kịp đến khi phẩm Hạnh Nguyện truyền đến, trong cuốn thứ bốn mươi, ngài Phổ Hiền dùng mười đại nguyện vương để khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng khiến cho họ hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới; nói xong, Như Lai khen ngợi, đại chúng phụng hành. [Đến đây], kinh văn mới hoàn bị. Vì lẽ đó, cổ đức mới đem quyển này đặt nối theo sau tám mươi quyển kia để lưu thông, muốn cho kẻ hậu học đều được thọ trì toàn bộ bản kinh vậy. Cổ đức nói: “Một pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ chỉ Phật với Phật mới biết trọn vẹn, bậc Đăng Địa Bồ Tát[14] còn chẳng biết nổi ít phần”, chính là ý này. Pháp Tịnh Độ tóm trọn hết thảy bậc thượng căn lợi khí chẳng còn sót vậy.

Kinh Đại Tập dạy: ‘Đời mạt pháp ức ức kẻ tu hành, hiếm một ai đắc đạo. Chỉ nương theo pháp Niệm Phật thì mới thoát khỏi sanh tử’; như vậy, pháp Tịnh Độ cũng thâu nhiếp hết thảy thiên nhân, lục đạo cụ phược phàm phu[15] chẳng còn sót gì! Ông tin ngài Táo Bá mà chẳng tin phẩm Hạnh Nguyện và kinh Đại Tập, tức là tuân theo cáo thị quyền nghi một thuở của quan huyện, trái nghịch sắc chỉ của hoàng đế muôn đời chẳng đổi. Sao mà chẳng biết tôn, ty, khinh, trọng đến như thế ấy!

Hỏi:

- Nếu đã là hải chúng thị hiện, sao lại phải đợi có kinh truyền đến mới biết?

Đáp:

- Hoằng dương Phật pháp quả thật chẳng phải là việc dễ! Cần phải có chứng cứ thì mới gây được lòng tin. Một bộ kinh Hoa Nghiêm siêu việt các kinh, chẳng thể không có dẫn chứng mà tự lập thuyết được!

Hỏi:

- Lúc kinh Niết Bàn chưa truyền đến Trung Hoa, sao ngài Đạo Sanh[16] đã đề xướng trước là Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh. Há có nên bảo là ngài Táo Bá chẳng bằng ngài Đạo Sanh ư?

Đáp:

- Xiển Đề nguyên là chúng sanh mà hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh thì sao riêng Xiển Đề lại chẳng có? Bậc có trí thức đều có thể dự đoán được điều này; còn chuyện vãng sanh sẽ viên mãn Phật quả thì các kinh tuyệt chưa tuyên nói, ai dám tự ý suy đoán dựng lên giáo nghĩa lạ lùng đó? Điều thứ hai là Sự và Lý tuyệt đối chẳng ngang bằng như nhau nên chẳng thể dẫn trường hợp này làm chứng. Còn về sở chứng của hai vị thì chẳng phải điều bọn phàm phu thấp sát đất ta có thể biết được nổi, nào dám hý luận! Phải biết: Bồ Tát hoằng pháp hoặc thuận hoặc nghịch, dùng các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Biết đâu ngài Táo Bá thị hiện không biết cốt là để đôn đốc sự tin tưởng nơi người đời sau!

Hỏi:

- Các sư Thiền tông đa số chê bỏ Tịnh Độ, đó là vì lẽ gì?

Đáp:

- Các sư Thiền tông chỉ truyền Phật tâm nên tất cả ngôn thuyết đều quy về hướng thượng. Ông đã tham Thiền nhiều năm mà còn chẳng biết lẽ này thì sự hiểu biết của ông đều là ác tri kiến phá hoại Thiền tông vậy.

Hỏi:

- Tôi còn đang là phàm phu sát đất, dám đâu lung lăng! Đấy thật là lời lẽ của chư Tổ, quyết có thể lấy làm bằng chứng. Lục Tổ nói: “Người Đông phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây phương. Người Tây phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào?” Ngài Triệu Châu[17] nói: “Một chữ Phật tôi chẳng thích nghe”. Lại nói: “Lão tăng niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày”. Phần nhiều các sư Thiền tông có những câu nói như thế ấy thì thầy lại nói như thế nào đây?

Đáp:

- Lục Tổ trực chỉ hướng thượng để cho người ta biết giữ lấy tự tâm, còn ông lại chẻ văn giải nghĩa, biện luận pháp môn tu trì; đấy là như câu nói “tưởng miếng xương lừa có hình yên ngựa là cái cằm của cha”[18], lầm lẫn quá thể! Ông phải biết là người ở Tây phương đã hết sạch Kiến Hoặc và Tư Hoặc, tiến lên phá được Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc. Họ chỉ có tấn tu, tuyệt đối chẳng có chuyện tạo tội. Tổ nói “kẻ ấy cầu sanh cõi nào?” là nếu trong lúc ấy mà chưa đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc thì nương nhờ Phật từ lực, kẻ đới nghiệp vãng sanh sẽ được sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Một phen đã sanh trong cõi kia rồi thì hai hoặc Kiến và Tư sẽ triệt để tiêu diệt, giống như quăng miếng tuyết vào lò lửa lớn, tuyết chưa rơi đến nơi đã biến mất. Thân cận người đức hạnh thì ý niệm hèn tệ sẽ tiêu hết. Nếu như Kiến Hoặc, Tư Hoặc đã hết sạch thì sẽ sanh vào Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ; phá được một phần vô minh thì sanh vào Thật Báo Vô Chướng Ngại Tịnh Độ. Vô minh hết sạch, phước huệ viên mãn thì sẽ sanh vào Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Tại cõi này hiện chứng như thế thì tại cõi kia tấn tu cũng sẽ như thế.

Sao ông quá lo họ không có chốn để sanh về để rồi tự chướng mình, chướng người, chẳng chịu cầu sanh? Nghe nói [người khác] ăn bị mắc nghẹn bèn bỏ cả ăn đến nỗi chết mất thì đúng là kẻ si trong thiên hạ không ai bằng ông! Ông chỉ biết một câu của ngài Triệu Châu: “Một chữ Phật, ta chẳng thích nghe” sao chẳng lấy luôn câu kế tiếp. Ông Tăng hỏi: “Hòa thượng có vì người hay không?” Triệu Châu nói: “Phật, Phật!” Ông chỉ muốn căn cứ vào câu ‘Niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày’ mà chẳng dựa theo câu: “Hòa thượng được đại vương cúng dường như thế, sẽ dùng gì để báo đáp?” Triệu Châu nói: “Niệm Phật”. Sao lại chẳng y theo câu: “Tăng hỏi: ‘Mười phương chư Phật còn có thầy hay chăng?’ Triệu Châu nói: ‘Có’. Hỏi: ‘Thầy của chư Phật là gì?’ Triệu Châu đáp: ‘A Di Đà Phật, A Di Đà Phật’. Ông bảo phần nhiều các sư Thiền tông nói như thế, nhưng chẳng biết lời đáp tương ứng căn cơ của nhà Thiền được gọi là “cơ phong”, gọi là “chuyển ngữ”. Hỏi ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Ông chẳng biết phản chiếu hồi quang, tham cứu nơi chính mình, chỉ một bề nhai bã hèm, chạy theo hòn đất, bao giờ mới liễu thoát được! Tôi xuất gia hơn ba mươi năm, luôn nghe chư Tăng cùng nhắc những câu “Niệm Phật súc miệng ba ngày, Phật hiệu chẳng thích nghe”, còn câu “lấy Phật, Phật để độ người”, “dùng niệm Phật báo ân”, “A Di Đà Phật là thầy mười phương chư Phật” tuyệt chưa từng nghe có ai nhắc đến một lần.

Ôi! Những câu trên đều cùng từ một miệng thốt ra, nếu đã cho những câu trước là thật và đáng tin thì những câu sau cũng phải là thật và đáng tin, cớ sao chỉ chấp nhận lời tổn, còn lời ích lại chống báng! Một thuận, một chống, tự mâu thuẫn nhau. Phàm lời nói của ngài Triệu Châu đều quy về bổn phận; những câu “Phật chẳng thích nghe” và “Niệm Phật báo ân” đều là chuyển ngữ. Nếu có thể ngay từ những câu đó biết được tự tâm thì mới biết đạo của ngài Triệu Châu vượt khỏi thường tình, ý nghĩa vượt ngoài ngôn ngữ, ắt sẽ cắm cúi niệm Phật suốt cả ngày mà vẫn còn thấy là chưa đủ vậy! Nếu như đã không được đích thân gặp ngài Triệu Châu, sao chẳng lấy việc Niệm Phật để tu trì, há có nên chấp lấy câu bác Phật làm căn cứ! Hễ niệm Phật thì ngay trong đời này sẽ thoát khỏi luân hồi, trong tương lai quyết định thành Phật đạo. Còn nếu nương theo lời bác Phật thì là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng; hiện đời tội nghiệp chất như núi, phước huệ băng tiêu, khi mạng chung vĩnh viễn đọa trong A Tỳ chịu khổ nhiều kiếp. Lẽ lợi - hại, được - mất thật là một trời, một vực!

Nói chung, người đời nay toàn là hạng phước mỏng, huệ cạn, nghiệp nặng, chướng sâu; đối với điều được lợi ích thì khủng khỉnh nghe; đối với điều khiến mình bị tổn hại lại toàn thân rạp lạy (“được lợi ích, bị tổn hại” là đối với những kẻ chưa ngộ, hiểu lầm mà nói, chứ không phải pháp của cổ đức nói có tổn hay ích). Lời chư sư đáp theo căn cơ thảy đều như thế, chẳng phiền phải giải thích cặn kẽ. Ông bảo lời chân thành của Tổ quyết có thể dùng làm bằng chứng thì sao chẳng tuân theo lời ngài Bách Trượng[19]: “Tu hành thì niệm Phật là ổn đáng!” Sao ông cũng lại chẳng tuân những quy củ ngài Bách Trượng đã lập: cầu đảo cho vị Tăng mắc bệnh, tống táng, thiêu hóa vị Tăng đã mất, [những quy củ ấy] chẳng phải đều là hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ đó ư? Có nên bảo là: Ngài Bách Trượng chỉ muốn cho kẻ chết được vãng sanh, chứ chẳng muốn kẻ sống cầu sanh hay sao! Sao ông lại chẳng thuận theo tổ thứ mười bốn ở trời Tây là ngài Long Thọ Bồ Tát: Như Lai huyền ký Bồ Tát sẽ vãng sanh, khôi phục kinh Hoa Nghiêm từ long cung. Ngài tạo nhiều bộ luận để riêng khen ngợi Tây phương như luận Tỳ Bà Sa[20] khen ngợi Tịnh Độ là đạo “dễ tu chóng đạt” đó ư! Sao ông lại chẳng tuân theo tổ thứ mười hai là Mã Minh Bồ Tát: Trong phần cuối của luận Khởi Tín, Ngài có dạy phương tiện tối thắng khiến người niệm Phật cầu sanh Tây phương thường hầu Di Đà, trọn chẳng thoái chuyển? Sao ông lại chẳng làm theo Nhị Tổ A Nan, Sơ Tổ Ca Diếp kết tập Tam Tạng và các kinh Tịnh Độ? Nếu Tịnh Độ chẳng đáng là pháp, có hại cho đời thì các Ngài há chẳng phân biệt tốt - xấu vẫn giữ lại tạo thành nguồn tội cho hậu thế hay sao? Thêm nữa, các kinh Đại Thừa đều khen ngợi Tịnh Độ, chỉ có kinh Tiểu Thừa là không có lấy một chữ nhắc đến. Há nên bảo các kinh Đại Thừa chẳng đáng là pháp sao?

Hơn nữa, lúc đức Phật nói kinh Di Đà, sáu phương hằng hà sa số chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài khuyên tin kinh này; có nên nói là sáu phương chư Phật cũng khiến cho người ta mắc tội hay sao? Nếu như ông bảo chẳng thể không tin các vị Lục Tổ, Triệu Châu... thì các ngài Long Thọ, Mã Minh, A Nan, Ca Diếp, Thích Ca, Di Đà, sáu phương chư Phật, các kinh Đại Thừa lại càng chẳng thể không tin! Nếu bảo chư Phật, chư Tổ, các kinh đều chẳng đáng tin thì sao lại tin lời Lục Tổ, Triệu Châu...? Thấy gần mà chẳng thấy xa, biết nhỏ chẳng biết lớn, giống như kẻ nhà quê chỉ nể thế lực ông huyện, chẳng biết oai đức của hoàng đế; trẻ nhỏ thấy tiền đồng bèn chộp lấy, gặp ma-ni bảo châu chẳng đoái hoài. Ông có biết bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh chỉ bày lẽ có - không, lợi - hại, được - mất của Thiền và Tịnh hay chăng? Ngài Vĩnh Minh là hóa thân của Phật Di Đà, há lẽ nào Ngài đành để người khác mắc tội báng chánh pháp luân, khiến cho chúng sanh nghi lầm, đoạn diệt Phật chủng hay sao?

Ông ta đáp:

- Bài Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh quá chi ly, chẳng đáng để làm khuôn phép, vì sao vậy? Ông ấy nói: “Có Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ”. Nếu đúng như lời ông ta nói thì phần đông các Thiền giả hiện tại đều khán câu “Người Niệm Phật Là Ai?” Lại có vị trụ trong Niệm Phật Đường niệm Phật bao năm, họ có đều hiện đời là thầy của người ta, kiếp sau liền thành Phật, Tổ hay chăng? Lại nói: “Không Thiền có Tịnh Độ, muôn người tu muôn người đỗ, nếu gặp Phật Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ?” Nay kẻ ngu phu, ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật đâu đâu cũng có; chưa thấy mấy kẻ khi lâm chung hiện các tướng lành, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Bởi vậy, tôi biết Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh chẳng đáng coi là khuôn phép!

Tôi nói:

- Sao ông hấp tấp nuốt trộng quả táo, chẳng nếm mùi vị của nó như thế. Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại Tạng, là khuôn phép tu trì. Trước hết phải nhận thức đích xác thế nào là Thiền, thế nào là Tịnh? Thế nào là Hữu, thế nào là Vô? Rồi mới phân tích theo lời văn thì sẽ biết mỗi một chữ đều như trời tạo, đất dựng, không chữ nào chẳng xác đáng, không chữ nào có thể thay đổi được! Trong vòng mấy mươi năm lại đây, tôi thấy lời lẽ các sư giảng Thiền đều giống hệt lời của ông, chẳng khác chút nào! Kiến thức như thế thì đúng là Thiền cùng Tịnh Độ mỗi ngày một suy tàn.

Hỏi:

- Sao gọi là Thiền, Tịnh cùng với Hữu, Vô, cúi xin dạy rõ cho!

Đáp:

- Thiền chính là Chân Như Phật tánh vốn sẵn có của chúng ta. Trong nhà Thiền gọi đó là“bản lai diện mục trước lúc cha mẹ chưa sanh ra”; nhưng nhà Thiền chẳng nói toạc ra, chính là để người khác tham cứu tự chứng ngộ nên mới nói như vậy. Đó chính là tâm thể thuần chân, không Năng, không Sở, vừa tịch, vừa chiếu, linh tri ly niệm vậy (Linh tri ly niệm nghĩa là trọn chẳng có ý niệm nhưng luôn nhận thức rõ ràng cảnh vật hiện tiền).

Tịnh Độ là tín nguyện, trì danh, cầu sanh Tây phương, chứ chẳng phải chỉ nói đến “Duy Tâm Tịnh Độ, Tự Tánh Di Đà”.

“Có Thiền” là tận sức tham cứu đến cùng cực, niệm tịch, tình vong, thấy thấu suốt cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.

“Có Tịnh Độ” là chân thật phát Bồ Đề tâm, sanh tín, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương. Thiền và Tịnh Độ chỉ là ước theo giáo, ước theo lý. “Có Thiền” và “có Tịnh Độ” là ước theo căn cơ, ước về tu. Về giáo lý thời hằng nhiên như thế; Phật chẳng thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Xét về căn cơ, tu hành thì phải nương vào giáo để khởi hạnh; hành cho đến khi chứng ngộ tột cùng lý, sao cho thật có mới thôi! Điều thứ hai là xét về văn từ tuy tương tự nhưng thật ra rất khác nhau, phải suy xét kỹ càng, chớ có lẫn lộn! Nếu như tham Thiền nhưng chưa ngộ hoặc ngộ chưa triệt để thì đều chẳng được gọi là Có Thiền. Nếu như niệm Phật nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín, nguyện; hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chân thành, thiết tha, lơ là, hờ hững, làm cho lấy có; hoặc hành tuy tinh tấn nhưng tâm mến luyến trần cảnh, hoặc cầu đời sau sanh trong nhà phú quý để hưởng vui ngũ dục, hoặc cầu sanh lên trời để hưởng phước lạc cõi trời, hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một ngộ cả ngàn, đắc Đại Tổng Trì, hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh thì đều chẳng được gọi là Có Tịnh Độ.

Hỏi:

- Xuất gia làm Tăng hoằng pháp lợi sanh lại có lỗi chi mà cũng bị loại trừ?

Đáp:

- Nếu đã đoạn Kiến Tư Hoặc, đã liễu sanh tử, nương theo đại nguyện luân, thị hiện sanh trong đời trược, thượng hoằng hạ hóa, độ thoát chúng sanh thì được. Nếu như tuy có trí nguyện nhưng chưa đoạn được Kiến, Tư Hoặc, dẫu cho lúc ban đầu thọ sanh chẳng mê, cũng khó giữ [không mê] trọn đời, nhiều đời. Tuy có thể hoằng pháp nhưng chưa chứng Vô Sanh, tình chủng vẫn còn nên khi gặp cảnh đối duyên khó tránh khỏi bị mê hoặc. Nếu đã mê theo cảnh mà còn có thể mau giác ngộ thì trong cả vạn người chẳng có được một, hai; từ mê vào mê, chẳng thể tự dứt, bao kiếp trầm luân, thật là vô số! Vì nghĩa ấy, đức Như Lai mới dạy người vãng sanh Tịnh Độ, gặp Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn. Sau đó, nương theo Phật từ lực và tâm nguyện của chính mình, trở vào Sa Bà độ thoát chúng sanh thì chỉ có tiến chẳng thoái, có được không mất vậy. Chưa đoạn Kiến Tư Hoặc mà trụ trong cõi này hoằng pháp thì các tông khác không tông nào chẳng như vậy, chứ Tịnh Tông dứt khoát chẳng chấp thuận. Đời lắm kẻ cho rằng “tham Thiền là Có Thiền, niệm Phật là có Tịnh Độ”; như vậy thì chẳng những đã không hiểu Thiền, Tịnh, lại còn chẳng hiểu văn nghĩa, cô phụ tấm lòng đại từ bi của ngài Vĩnh Minh Cổ Phật, cắt đứt con đường tắt thoát khổ cho hành nhân đời sau. Tự mình lầm, làm người lầm, gây hại nào có cùng cực? Đấy chính là nhận lầm vạch khắc ở đòn cân, sai suyển hào ly, xa cách như trời với đất!

Ông ta nói:

- Tôi đã tạm hiểu ý nghĩa của Thiền, Tịnh và có - không; xin thầy giảng giải rành mạch lời văn sâu nhiệm của cả bốn bài kệ cho!

Tôi nói:

- Có Thiền, có Tịnh Độ.

Như cọp mọc thêm sừng.

Hiện tại làm thầy người,

Đời sau làm Phật, Tổ

Nghĩa là: Người ấy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập Kinh tạng, hiểu trọn vẹn các pháp môn Quyền, Thật của đức Như Lai; nhưng trong các pháp lại chỉ chọn lấy một pháp Tín Nguyện Niệm Phật để làm chánh hạnh chung nhằm tự lợi, lợi người. Bậc thượng phẩm thượng sanh đọc tụng Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa như đã nói trong Quán Kinh chính là hạng người này vậy. Người ấy có đại trí huệ, có đại biện tài; tà ma, ngoại đạo nghe tên vỡ mật. Người ấy như cọp đeo thêm sừng oai mãnh không chi sánh bằng. Đối với kẻ đến học sẽ thuyết pháp tùy theo căn cơ: Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp dẫn thì sẽ dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp độ; chỉ nên dùng chuyên tu Tịnh Độ để tiếp dẫn thì sẽ dùng chuyên tu Tịnh Độ tiếp độ. Bất luận thượng, trung, hạ căn, không ai là chẳng được đội ơn, há chẳng phải là bậc đạo sư của trời, người hay sao? Đến lúc lâm chung, người ấy được Phật tiếp dẫn vãng sanh thượng phẩm; trong khoảng khảy ngón tay hoa nở gặp Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn; thấp nhất thì cũng chứng bậc Sơ Trụ trong Viên giáo; cũng có người đốn siêu các địa vị, đạt đến bậc Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo đã có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi, huống hồ là các địa vị kế tiếp đó lại càng lần lượt thù thắng hơn; nhất là địa vị Đẳng Giác thứ bốn mươi mốt! Vì vậy Tổ mới nói: “Đời sau làm Phật Tổ”.

Không Thiền, có Tịnh Độ.
Vạn người tu, vạn đỗ.
Nếu gặp Phật Di Đà,
Lo gì chẳng khai ngộ

Nghĩa là: Hành nhân tuy chưa minh tâm, kiến tánh, nhưng đã quyết chí cầu sanh Tây phương. Do vì trong kiếp xưa, đức Phật đã phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con; nếu chúng sanh thật sự có thể [nhớ Phật] như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, liền được đức Phật nhiếp thọ. Vì ra sức tu Định, Huệ nên được vãng sanh. Kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lúc lâm chung bị các sự khổ bức bách bèn sanh lòng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu Phật đến mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi mất ngay trong lúc đó, họ đều được Phật hóa thân tiếp dẫn vãng sanh. Đấy há chẳng phải là “vạn người tu, vạn đỗ” hay sao? Những kẻ đó tuy niệm Phật chẳng lâu nhưng do niệm Phật cực kỳ mãnh liệt nên có thể đạt được lợi ích lớn lao ấy, chẳng nên so với kẻ tu hành lơ là hờ hững mà bàn luận niệm nhiều hay ít. Đã sanh về Tây phương thì tuy gặp Phật, nghe pháp có nhanh - chậm chẳng đồng, nhưng đều đã cao dự dòng thánh, trọn chẳng thoái chuyển. Tùy theo căn tánh sâu, cạn, hoặc tiệm hay đốn mà chứng các quả vị. Đã được chứng quả thì cần gì bàn đến khai ngộ nữa. Ấy chính là: “Nếu gặp Phật Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ” vậy.

Có Thiền không Tịnh Độ,
Mười tu, chín lần chần,
Ấm cảnh nếu hiện tiền,
Chớp mắt đi theo nó.

Nghĩa là: Hành nhân tuy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến Tư phiền não chẳng dễ đoạn trừ, phải trải qua nhiều duyên trui luyện để trừ sạch hết chẳng sót, mới có thể xuất ly phần đoạn sanh tử[21]. Người chưa đoạn một mảy nào thì chẳng cần bàn đến! Dẫu chỉ còn một mảy chưa đoạn sạch hết thì lục đạo luân hồi vẫn y như cũ khó thoát. Biển sanh tử sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời vợi; còn chưa về được đến nhà thì đã mạng chung! Người đại ngộ mười người hết chín đều như vậy. Cho nên mới nói: “Mười người, chín lần chần”. Lần chần (ta đà) người đời thường nói là “chần chờ”.

“Ấm cảnh” là cảnh của Trung Ấm thân; tức là những cảnh được hiển hiện trong khi lâm chung bởi nghiệp lực thiện - ác trong đời này và bao kiếp. Một khi những cảnh ấy hiện ra, trong chớp mắt sẽ liền theo nghiệp lực thiện - ác nào mạnh mẽ nhất để đi thọ sanh trong đường thiện hay ác; chẳng thể làm chủ tình thế một mảy may nào! Giống như người mắc nợ, chủ nào mạnh sẽ kéo đi trước. Tâm tình lắm mối đa đoan, coi trọng chỗ nào sẽ rớt vào đấy. Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, đều là do lẽ trên vậy! Bởi thế mới nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Chữ Ấm: âm và nghĩa đồng với chữ Âm, nghĩa là che đậy; tức là: do nghiệp lực này che lấp nên chân tánh chẳng thể hiển hiện. Miết (瞥), âm giống chữ Phiết (撇), nghĩa là nháy mắt, chớp mắt. Có người hiểu chữ Ta (蹉) nghĩa là “lầm lẫn”, Ấm Cảnh là Ngũ Ấm Ma Cảnh, chung quy vì chẳng hiểu chữ Thiền và chữ Có nên mới nói hồ đồ như vậy. Lẽ nào những bậc đại triệt đại ngộ mười người tu chín người lạc đường đi theo Ngũ Ấm Ma nên bị ma dựa phát cuồng? Phàm những kẻ bị ma dựa phát cuồng đều là kẻ chẳng biết giáo lý, chẳng minh tự tâm, là giống tăng thượng mạn, tu mù luyện đui mà thôi. Sao chẳng biết hay - dở, lại đem gán cho bực đại triệt đại ngộ! Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện luận rõ!

Không Thiền không Tịnh Độ.
Giường sắt và cột đồng.
Vạn kiếp cùng ngàn đời.
Không một ai nương dựa.

Có kẻ bảo “không Thiền, không Tịnh” tức là vùi đầu tạo nghiệp ác, chẳng tu pháp lành. Lầm to, lầm to! Dù pháp môn vô lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích hợp cho các căn cơ hơn hết. Hành nhân chưa được triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh, lơ là, hời hợt tu các pháp môn khác, Định - Huệ đã chẳng thể quân bình để đoạn Hoặc chứng Chân, lại chẳng nương vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh; đem công đức trọn đời tu trì để cảm lấy phước báo đời sau sanh trong trời, người. Đời này đã không chánh trí thì đời sau ắt bị phước chuyển mê đắm trong ngũ dục, tạo đủ các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp sẽ khó thoát ác báo. Khi một hơi thở chẳng hít vào được nữa thì liền đọa địa ngục, rành rành sẽ ở trong bao kiếp dài lâu nằm lăn nơi giường sắt, ôm ấp cột đồng để đền trả lòng tham thanh sắc, giết hại sanh mạng v.v... các thứ ác nghiệp. Tuy chư Phật, Bồ Tát rủ lòng xót thương, nhưng do ác nghiệp ngăn chướng, người ấy vẫn chẳng thể được hưởng lợi ích. Người xưa nói: “Người tu hành nếu chẳng chánh tín, cầu sanh Tây phương, tu hành đủ các việc thiện khác thì gọi là kẻ oán đời thứ ba”, chính là nói đến ý này. Ấy là vì đời nay tu hành, đời sau hưởng phước; vì ỷ phước làm ác nên liền bị đọa lạc. Đạt được cái vui giả tạm trong đời kế mà muôn kiếp phải vĩnh viễn chịu khổ. Ví dù nghiệp địa ngục tiêu thì lại chuyển sanh làm ngạ quỷ, súc sanh; muốn lại được thân người thì thật là điều khó nhất trong những điều khó. Vì vậy, Phật lấy tay bốc đất rồi hỏi A Nan rằng: “Đất trong tay ta là nhiều, hay đất trong đại địa là nhiều?” A Nan bạch Phật: “Đất trong đại địa nhiều”. Phật nói: “Được thân người như đất trong tay, mất thân người như đất trong đại địa”. [Xét theo lời Phật] thì “muôn kiếp, ngàn đời, không một người nương dựa” vẫn là lời luận rất nông cạn vì câu ấy còn hạn cuộc vào âm vận của bài kệ.

Ôi! Hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực; pháp môn Tịnh Độ chuyên nhờ Phật lực. Trong hết thảy pháp môn, phải trừ sạch Hoặc nghiệp mới liễu sanh tử; còn trong pháp môn Tịnh Độ: do đới nghiệp vãng sanh liền dự dòng thánh. Đại sư Vĩnh Minh sợ đời chẳng hiểu biết nên mới đặc biệt phân định để chỉ bày cho tương lai. Liệu Giản đáng gọi là chiếc bè báu nơi bến mê, là đạo sư (người dẫn đường) nơi đường hiểm. Đáng tiếc người trong cõi đời hờ hững đọc lướt qua, chẳng chịu nghiên cứu kỹ. Có phải là do chúng sanh ác nghiệp đồng phận nên xui khiến thế chăng?

Ông ấy nói:

- Tôi xưa tội gì mà sớm mê mất chân thuyên[22], xưa có phước gì nay được nghe lời xuất yếu? Xin được ghé dự vào hàng đồ chúng, cầm nắm bình, khăn.

Tôi bảo:

- Tôi nào có đức gì mà dám nhận lời ấy. Những lời tôi nói đều là tuân theo ý chư Phật, chư Tổ. Nếu ông có thể ngưỡng tín Phật, Tổ, hoằng dương Tịnh Độ thì không đức gì chẳng báo được, không tội gì chẳng diệt được. Xưa ngài Thiên Thân Bồ Tát lúc ban đầu báng Đại Thừa, sau hoằng dương Đại Thừa để chuộc lỗi. Nếu ông có thể noi theo dấu chân thơm của Ngài thì tôi nguyện xả thân cúng dường.

Thượng tọa bèn lễ Phật, phát nguyện rằng:

- Con tên là... từ nay trở đi chuyên tu Tịnh nghiệp, chỉ cầu khi lâm chung vãng sanh thượng phẩm, gặp Phật, nghe pháp, đốn chứng Vô Sanh. Sau đấy, chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười phương, dùng các thứ phương tiện: nghịch, thuận, ẩn, hiển để hoằng thông pháp này, độ thoát chúng sanh đến tột cùng vị lai chẳng hề gián đoạn. Hư không có tận, nguyện của con vô cùng. Nguyện Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thường Trụ Tam Bảo thương xót tấm lòng ngu thành của con, cùng rủ lòng nhiếp thọ.

Tôi bảo:

- Về Sự, Tịnh Độ là đại nhân duyên; về Lý, Tịnh Độ là bí mật tạng. Ông có thể tin nhận phụng hành được thì chính là lấy sự trang nghiêm của chư Phật để tự trang nghiêm.

Thượng Tọa vâng dạ lui ra. Nhân đấy chép lại cuộc vấn đáp này để khuyên bảo người chưa biết đến pháp này.

[1] Truyền tân: nói gọn của thành ngữ “tân tận hỏa truyền” (củi hết lửa còn) ý nói đạo truyền thừa giữa thầy và trò.

[2] Âu Dương Tu và Hàn Dũ: Hai nhà Nho bài xích Phật giáo mạnh mẽ nhất vào thời Đường - Tống

[3] Nguyên văn là Thiền tượng: Tượng là thợ giỏi, thợ khéo, thường được chỉ những bậc thông đạt pháp môn. Ở đây tạm dịch là Thiền Đức.

[4] Tư lương (sambhāra): Hiểu theo nghĩa hẹp là những thứ cần dùng, cần chuẩn bị. Tư là giúp đỡ, lương là lương thực. Như người đi xa ắt phải nhờ vào lương thực để duy trì cái thân. Cũng vậy, người muốn chứng quả trong tam thừa phải nhờ công đức thiện căn làm lương thực nuôi dưỡng cái thân huệ mạng. Do vậy, Tư Lương hiểu theo nghĩa rộng là hết thảy các thứ góp phần thành tựu đạo Bồ Đề.

[5] Theo Tổ Đình Sự Uyển, quyển 5, nếu bỏ sữa và nước cùng trong một đồ đựng, ngỗng chúa chỉ uống sữa bỏ lại nước. Nước tượng trưng cho chúng sanh, sữa tượng trưng cho Phật. Dùng điển tích “ngỗng chúa chọn sữa” để tỷ dụ bậc giác ngộ sống trong thế gian chẳng bị nhiễm ô. Điển tích này còn dùng để chỉ khả năng phân biệt chân - ngụy, thiện - ác.

[6] Đây là luận điểm chủ yếu của kinh Pháp Hoa: Khai là phá trừ vô minh của chúng sanh, mở toang Như Lai Tạng, thấy được lý Thật Tướng. Thị nghĩa là hiển thị, Hoặc chướng đã trừ thì tri kiến bộc lộ bản thể, pháp giới vạn đức hiển thị phân minh. Ngộ là chứng ngộ, sau khi chướng trừ, bản thể hiện thì sự (hiện tượng), lý (bản thể) dung thông nên có sở ngộ. Nhập nghĩa là chứng nhập, tức là sự lý đã dung thông nên tự tại vô ngại, chứng nhập biển trí huệ. Sách Pháp Hoa Văn Cú quyển 4 còn mở rộng hơn, phối hợp bốn mươi địa vị Pháp Thân đại sĩ như sau:

1. Khai tương ứng địa vị Thập Trụ.
2. Thị tương ứng địa vị Thập Hạnh.
3. Ngộ tương ứng địa vị Thập Hồi Hướng.
4. Nhập tương ứng địa vị Thập Địa.

Nếu phối hợp với Tứ Trí thì Khai là Đạo Huệ, Thị là Đạo Huệ Chủng, Ngộ là Nhất Thiết Trí, Nhập là Nhất Thiết Chủng Trí…

[7] Khai Quyền hiển Thật: Khai trừ những chấp trước của Quyền Giáo, hiển thị nghĩa chân thật. Nói cách khác, khai trừ, gạt bỏ những chấp trước vào những phương tiện quyền biến để hiển thị nghĩa Nhất Thừa chân thật.

[8] Biển Hoa Tạng tức Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (Kusuma-tala Garbha Vyūhā Kāra Lokadhātu Samudra), dịch đủ nghĩa là Liên Hoa Xuất Sanh Thế Giới, hoặc Diệu Hoa Bố Địa Thai Tạng Trang Nghiêm Thế Giới, Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, Thập Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, hoặc chỉ gọi gọn là Hoa Tạng Giới hoặc Thập Hoa Tạng. Đây là thế giới thanh tịnh trang nghiêm do đức Tỳ Lô Giá Na Phật khi tu nhân phát nguyện cảm thành. Thế giới này do Tu-di sơn vi trần số phong luân nâng giữ. Trên tầng phong luân cao nhất có một biển nước thơm. Trong ấy có một hoa sen lớn, tên là Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng. Hoa Tạng Thế Giới nằm chính giữa hoa sen ấy, vây quanh bằng Kim Cang Luân Vi Sơn. Đất trong đó do Kim Cang tạo thành, kiên cố không hư hoại, thanh tịnh bằng phẳng, có thế giới hải vi trần số sự trang nghiêm. Trong ấy lại có vi trần số biển nước thơm, mỗi biển rộng bằng bốn thiên hạ và có vi trần số con sông nước thơm. Đất hai bờ sông ấy đều bằng diệu bảo trang nghiêm, xếp đặt khéo léo như lưới Thiên Đế. Trong mỗi một biển nước thơm lại có bất khả thuyết vi trần số thế giới chủng, mỗi một thế giới chủng lại gồm bất khả thuyết vi trần số thế giới. Biển nước thơm chính giữa Hoa Tạng thế giới, có tên là Vô Biên Diệu Hoa Quang. Giữa biển ấy mọc lên một hoa sen, thế giới chủng trong hoa sen ấy tên là Phổ Chiếu Thập Phương. Trong đó có hai mươi thứ bất khả thuyết vi trần số thế giới xếp vòng quanh. Đức Phật xuất hiện trong thế giới này. Sách Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương giảng thêm: Cứ mười cảnh giới Phật gọi chung là một quốc độ hải hay thế giới hải. Thế giới hải chính là các thế giới thuộc phạm vi nhiếp hóa của mười đức Phật v.v… Nói chung, cảnh giới Hoa Nghiêm Thế Giới Hải rất phức tạp, rộng lớn, hầu như không thể hình dung được nổi! Cảnh giới đã rộng lớn như thế thì dĩ nhiên thánh chúng trong ấy vô lượng vô biên không thể tính đếm được, cho nên dùng chữ “hải chúng” (chúng nhiều như biển) để tạm hình dung.

[9] Nhất xiển đề: Nhất-xiển-đề (Icchantika hoặc Ecchantika): được dịch nghĩa là đoạn thiện căn, lòng tin không đầy đủ, lòng ham muốn cùng cực, tham lam to lớn, hoặc Vô Chủng Tánh, Thiêu Chủng (hạt giống cháy), tức là hạng người không có lòng tin, đoạn sạch thiện căn. Kinh Lăng Già chia Nhất Xiển Đề thành hai loại:

1. Đoạn Thiện Xiển Đề, tức kẻ vốn thiếu nhân giải thoát (đoạn thiện căn).

2. Đại Bi Xiển Đề: Hoặc Bồ Tát Xiển Đề, tức bậc Bồ Tát thị hiện, cố ý không nhập Niết Bàn do bi nguyện.

Đa phần các kinh luận nói Nhất Xiển Đề không thể thành Phật, riêng Đại Bát Niết Bàn kinh khẳng định Nhất Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật.

[10] Có hai cách hiểu chữ “Trí Đoạn”:

1. Dùng trí Bát Nhã đoạn trừ phiền não.

2. Trí Đoạn là Trí Đức và Đoạn Đức. Soi thấu tỏ chân lý thì gọi là Trí Đức, đây chính là Bồ Đề. Đoạn sạch phiền não thì gọi là Đoạn Đức, tức là Niết Bàn.

[11] Gọi đủ là Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận, gồm 120 quyển của cư sĩ Lý Thông Huyền soạn vào đời Đường, tác phẩm này được xếp vào Tục Tạng Kinh quyển 5. Đây là tác phẩm chú giải bản dịch kinh Hoa Nghiêm 80 cuốn (Bát Thập Hoa Nghiêm). Nội dung cuốn luận này chia kinh Hoa Nghiêm làm mười môn để nêu tỏ những ý nghĩa trọng yếu: Y giáo tông phần, y tông giáo biệt, giáo nghĩa sai biệt, thành Phật đồng biệt, thuyết giáo thời phần, Tịnh Độ quyền thật, nhiếp hóa cảnh giới, nhân quả diên súc (nhân quả kéo dài hay rút ngắn), hội giáo thỉ chung. Tác giả Lý Thông Huyền đặc biệt sùng mộ giáo thuyết Thập Huyền Lục Tướng của tông Pháp Tướng nên đã vận dụng những khái niệm này vào trong cách giải thích kinh điển. Tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận này đã ảnh hưởng sâu đậm đến ngài Thanh Lương Trừng Quán, ta có thể thấy rõ điều này qua tác phẩm Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao.

[12] Tức Lý Thông Huyền (635-730) là học giả Hoa Nghiêm thời Đường, xuất thân từ hoàng tộc, quê ở Thương Châu (nay thuộc Thương Huyện, tỉnh Hà Bắc), thông minh dĩnh ngộ, tinh thông sách Nho lẫn kinh Phật. Năm Khai Nguyên thứ 7 (719), ông ẩn cư ở Phương Sơn, Thọ Dương, phủ Thái Nguyên để nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch (tức Bát Thập Hoa Nghiêm), chỉ ăn táo, lá tùng bách để sống suốt mấy năm trong núi. Vì vậy, thế gian gọi là Táo Bách (Bá) tiên sinh. Tháng Ba, năm Khai Nguyên thứ 18 (730), ông tọa hóa trong thất, hưởng thọ 96 tuổi. Tống Huy Tông ban hiệu là Hiển Giáo Diệu Nghiêm Trưởng Giả. Do vậy, người ta thường gọi ông là Lý Trưởng Giả. Ông lưu lại những tác phẩm như Hoa Nghiêm Kinh Hội Thích Luận 14 quyển, Tân Hoa Nghiêm Kinh Luận 40 quyển, Lược Thích Tân Hoa Nghiêm Kinh Tu Hành Thứ Đệ Quyết Nghi Luận 4 quyển, Thích Giải Mê Hiển Trí Thành Bi Thập Minh Luận 1 quyển, Thập Huyền Lục Tướng, Bách Môn Nghĩa Hải, Phổ Hiền Hạnh Môn, Hoa Nghiêm Quán… Lý Thông Huyền được coi là một nhân vật tiên phong trong trào lưu nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch.

[13] Ô Trà (Odra), nước cổ ở Đông Ấn Độ, nay là Orissa, thường bị người Hán phiên sai thành Ô Trành. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, người dân xứ này khôi ngô, hiếu học, tín phụng Phật pháp, Tăng chúng đông đến hơn vạn người, đều học giáo pháp Đại Thừa.

[14] Đăng Địa Bồ Tát: tức Địa Thượng Bồ Tát, hay nói cách khác, những vị đã chứng từ Sơ Địa cho đến Thập Địa.

[15] Lục đạo cụ phược phàm phu: Phàm phu trong sáu nẻo có đầy đủ các món phiền não, chưa đoạn được một món nào.

[16] Tức ngài Trúc Đạo Sanh (355-434), nhà học giả Niết Bàn thời Đông Tấn. Ngài là người Cự Lộc (nay thuộc Bình Hương, Hà Bắc), họ Ngụy. Sư nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ, xuất gia với ngài Trúc Pháp Thải. Năm 15 tuổi đã lên tòa giảng, bậc túc học danh sĩ cũng không biện luận thắng Sư được. Khi ngài Tăng Già Đề Bà dừng gót tại Lô Sơn, dịch A Tỳ Đàm Tâm Luận, Sư bèn theo học giáo nghĩa Nhất Thiết Hữu Bộ với ngài. Khi ngài Cưu Ma La Thập vào Trung Nguyên, Sư lại quảy tráp theo học. Sư cùng với các vị Đạo Dung, Tăng Duệ, Tăng Triệu trở thành những học trò kiệt xuất của ngài La Thập, được đời gọi bằng mỹ hiệu “Quan Nội Tứ Thánh”. Sư từng thỉnh ngài Phật Đà Thập dịch bộ Ngũ Phần Luật. Sư tinh thông học thuyết của các ngài Long Thọ, Đề Bà v.v… Chính Sư đề xướng thuyết “đốn ngộ thành Phật” và soạn các bộ luận Nhị Đế Luận, Phật Tánh Đương Hữu Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Tịnh Độ Luận. Nhân đọc bộ Nê Hoàn Kinh sáu quyển do ngài Pháp Hiển dịch, Sư bèn đề ra thuyết Nhất Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật. Lúc ấy, kinh Đại Bát Niết Bàn chưa truyền đến Trung Hoa, nên thuyết này của Sư bị công kích kịch liệt. Sư bị đại chúng tẫn xuất, phải ẩn cư tại Lô Sơn. Về sau, bản Đại Bát Niết Bàn Kinh của ngài Đàm Vô Sấm truyền đến phương Nam, nội dung hoàn toàn tương đồng với thuyết của ngài Đạo Sanh, đại chúng hết sức khâm phục. Theo truyền thuyết, Sư từng gom đá ở núi Hổ Khâu, tỉnh Giang Tô làm pháp chúng để giảng kinh. Do vậy mới có câu “Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu” (ngài Đạo Sanh giảng kinh, đá cũng gật đầu). Ngài mất trong khi đang giảng pháp trên tòa sư tử, thọ tám mươi tuổi.

[17] Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) là Thiền tăng đời Đường, người Tào Châu, Hác Hương (có thuyết nói là Thanh Châu, Lâm Truy), họ Hác, pháp hiệu Tùng Thẩm. Xuất gia từ nhỏ tại Hỗ Thông Viện, Tào Châu. Trước khi thọ Cụ Túc Giới đã từng tham yết ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện. Sau khi thọ giới tại Lưu Ly Đàn ở Tung Sơn, quay lại y chỉ với ngài Nam Tuyền hai mươi năm. Sau đó tham học khắp với các đại đức Bảo Thọ, Diêm Quan, Giáp Sơn, Ngũ Đài v.v… Năm Sư tám mươi tuổi, đại chúng thỉnh trụ tích tại Quán Âm Viện thuộc Đông Thành, Triệu Châu. Sư tận lực chấn hưng Nam Tông Thiền suốt bốn mươi năm, thọ 120 tuổi, được vua ban thụy hiệu là Chân Tế Đại Sư.

[18] Đây là một điển tích xuất phát từ sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 11. Nguyên văn: “Nhận lư yên kiều tác a da hạ hàm”. “Yên kiều” tức là cái yên ngựa, do hình trạng của nó giống như cái cầu nên gọi như thế. “Lư yên kiều” có nghĩa là cái xương lừa có hình dạng giống như cái yên ngựa, chứ không phải thật sự là yên ngựa. Trong truyện cổ dân gian Trung Quốc có chuyện đứa trẻ ngu si tưởng lầm cái xương lừa hình yên ngựa là xương hàm của cha. Thiền lâm hay dùng hình ảnh này để ví cho kẻ ngu muội, chẳng phân biệt được thật - giả.

[19] Bách Trượng Hoài Hải (720-814): Cao tăng đời Đường, từ nhỏ đã thích đi thăm chùa viện. Năm 20 tuổi, xuất gia với ngài Huệ Chiếu ở Tây Sơn, sau thọ Cụ Túc Giới với ngài Pháp Triều luật sư. Khi gặp Mã Tổ Đạo Nhất hoằng pháp tại Nam Khang bèn hết sức ngưỡng mộ, y chỉ theo, được ngài Mã Tổ ấn khả. Sư cùng với Tây Đường Trí Tạng, và Nam Tuyền Phổ Nguyện được xưng tụng là “tam đại sĩ”. Về sau, Sư lập thiền viện ở núi Bách Trượng tỉnh Giang Tây, chế định Thanh Quy, hướng dẫn đại chúng tu trì. Thanh Quy tức là quy định sinh hoạt của Tăng đoàn theo chế độ nông thiền. Sư thường nói: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”. Sư nhập diệt năm Nguyên Hòa thứ chín, thọ 95 tuổi, được vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư. Các đệ tử nổi tiếng của Sư là Hoàng Bá Hy Vận, Quy Sơn Linh Hựu v.v… Thanh Quy do Sư lập ra được gọi là Bách Trượng Thanh Quy, được khắp các tùng lâm trong thiên hạ tuân phụng.

[20] Luận Tỳ Bà Sa nói ở đây là bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận do ngài Long Thọ Bồ Tát soạn. Trong quyển năm của luận này, có câu: “Phật pháp có vô lượng môn, như đường đi trên thế gian có khó, có dễ. Đi theo đường bộ thì khó nhọc, đi đường thủy ngồi thuyền thì sung sướng. Bồ Tát đạo cũng giống như thế, có đạo thì khó hành tinh tấn, có đạo chỉ dùng lòng tin làm phương tiện, dễ đi, mau đạt đến địa vị Bất Thoái”. Tỳ Bà Sa (Vibhasa) có nghĩa là Quảng Giải (giảng giải rộng lớn), Quảng Thuyết (nói rộng), Thắng Thuyết, Chủng Chủng Thuyết, tức là những trước tác nhằm chú giải luật hay luận. Ngoài ra, còn một thể loại nhằm giải thích chi tiết kinh luận được gọi Tỳ Bà Sa Luận (Vibhasa-sastra). Hiện trong Đại Tạng có bốn bộ Tỳ Bà Sa Luận: A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận, Tỳ Bà Sa Luận, Ngũ Sự Tỳ Bà Sa Luận và Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (Dasabhumika-vibhasa-sastra). Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gồm 17 quyển, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán, thường gọi tắt là Thập Trụ Luận. Bộ luận này nhằm giải thích phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm (tức biệt bản của kinh Hoa Nghiêm với danh xưng Thập Địa Kinh). Ngài La Thập dịch chữ Thập Địa thành Thập Trụ nên luận này có tên như vậy. Thiên thứ 9 trong phẩm thứ 35 của luận này chính là Dị Hành Phẩm, là một điển tịch trọng yếu của Tịnh Tông.

[21] Phần đoạn sanh tử là sự sanh tử của chúng sanh trong tam giới. Do quả báo sai khác nên có hình mạo, thọ lượng sai khác. Vì vậy gọi là phần đoạn (đoạn diệt theo phần hạn). Theo Duy Thức Học, phần đoạn sanh tử lấy nghiệp thiện ác làm thân nhân (cái nhân gần), lấy phiền não chướng làm trợ duyên để cảm quả trong tam giới. Do tuổi thọ có dài ngắn khác nhau, do sức nhân duyên nên có hạn định khác biệt; do vậy gọi là Phần Đoạn. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại chia phần đoạn sanh tử thành ác đạo phần đoạn (quả báo trong tam đồ) và thiện đạo phần đoạn (quả báo trong đường trời người).

[22] Chân thuyên: lời giảng về lẽ thật, về chân lý.
Bạn có thể nói dùm là tại sao pháp mônTịnh Độ thù thắng nhiếp độ tất cả căn cơ của chúng sanh như thế , mà Đức Phật sau khi thành đạo không phổ truyền liền cho chúng sinh sớm được đến Tây Phương mà hưởng cái an lạc rồi tu cho thành Phật luôn thể , mà lại phải nói hết cách này đến cách khác, nói ngược nói xuôi.... rồi mới nói đến môn Tịnh Độ?
Với lại , nếu đúng là môn Tịnh Độ thù thắng , thẳng tắt , mau chóng liễu ngộ như vậy, sao các vị bên nhà thiền không bỏ thiền mà sang Tịnh Độ cho khỏe hơn không?
Tôi thấy ngày nay , hầu như 80 - 90% những người học Phật đều chọn Môn Tịnh Độ, nhất là thường xuyên tụ hội ( Pháp hội rồi thường nhật ngày đêm đông đúc lắm) họ hớn hở hân hoan ngồi đâu cũng bàn luận Phật Pháp, Thầy nọ , Thầy kia học từ các vị ở bên Tàu , bên Ấn...
Có phải 80 - 90% đó là những người có trí tuệ thật sự mới lãnh hội và tin theo Tịnh Độ, còn lại là kém cỏi và thiếu niềm tin ...?
Lại nữa tôi thấy các vị theo Tịnh Độ có đi sang đất Phật bên ấn độ, rồi đem một gói đất , nói là từ chỗ Phật thành đạo , rồi về mua tháp thủy tinh, Phalê có cái tiền triệu , đem bỏ nắm đất đó vào rồi đưa lên bàn thờ, thờ trong nhà như thờ thánh thần vậy. Chắc những người này họ đã nhìn thấy Phật trong nắm đất đó phải ? họ đã làm đúng với tinh thần của người theo Tịnh Độ rồi chứ.
Mong bạn chỉ rõ
Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát) dạy:

Pháp môn Tịnh Độ quả là đường lối chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới độ chúng sanh, mà cũng là đạo trọng yếu để hết thảy chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp cậy vào Phật từ lực, liễu thoát ngay trong một đời này. Ấy là vì hết thảy các pháp môn đức Như Lai đã nói, không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh thoát sanh tử, thành Phật đạo; nhưng do thượng căn thì ít, trung hạ căn lại đông, nên người được liễu thoát ngay trong một đời dẫu nhằm thời Chánh Pháp, Tượng Pháp còn chẳng thể thấy nhiều, huống gì thời Mạt Pháp căn cơ con người kém hèn, tuổi thọ ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, tà ma ngoại đạo tung hoành ư? Do vậy, đức Như Lai đã xét thấu trước cơ nghi, đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ nhằm làm cho hết thảy chúng sanh dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn đều chăm chú tu trì, đều cùng trong đời này vãng sanh Tịnh Độ. Bậc thượng căn thì mau thành Phật đạo, kẻ hạ căn cũng được dự vào dòng thánh.

So với những pháp môn cậy vào tự lực đã nói trong cả một đời đức Phật [thì pháp này] hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít được hiệu quả nhanh chóng. Do vì Phật lực, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, lại thêm sức Tín - Nguyện - Hạnh của chúng sanh nên bất luận công phu sâu hay cạn, tội nghiệp nặng hay nhẹ đều được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Do vậy, trong các kinh Đại Thừa, đức Như Lai đều nói kèm pháp này, như các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… Còn kinh chuyên nói [về pháp Tịnh Độ] thì có kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Trong ba kinh này, phàm là thệ nguyện của Phật Di Đà, sự trang nghiêm của Tịnh Độ, nhân vãng sanh của ba bậc chín phẩm, mười phương chư Phật tán thán đều được nêu rõ không còn sót.

Thế nhưng kinh A Di Đà ngôn từ ngắn gọn, nghĩa lý đầy đủ, dễ thọ trì nhất. Do vậy, cổ nhân xếp vào khóa tụng hằng ngày, bất luận dù Tông, dù Giáo, dù Luật đều đọc tụng trong khóa tối, nghĩa là cả thiên hạ dù Tăng hay tục không ai chẳng lấy Tịnh Độ làm chỗ quy hướng. Tuy hành trì như thế nhưng nếu chẳng suy xét kỹ càng nguyên do Phật, Tổ lập pháp thì sẽ vẫn chẳng coi chuyện cầu sanh Tây Phương là trọng. Đấy chính là “dùng hằng ngày mà không biết, quen làm mà chẳng xem xét”. Dù là bậc cao nhân thông Tông thông Giáo vẫn còn rất nhiều người đề cao pháp môn Tự Lực, chẳng chịu tin tưởng nương cậy Phật lực. Chí ấy cố nhiên là cao, nhưng sự thật khó thể đạt được ngay trong đời này. Nếu như chưa đoạn sạch được Hoặc nghiệp, phải thọ sanh lần nữa, quá nửa bị mê mất. Không những mọi điều mong mỏi đều thành bánh vẽ mà còn có mối lo do phước tạo nghiệp, thân sau phải đọa lạc! Do đó, phải nói là “thật đáng kinh hãi!”

Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp của cả một đời đức Phật, chẳng thể dùng những pháp môn thông thường để bàn luận được. Nếu chẳng hiểu rõ nghĩa này, cứ viện vào nghĩa lý của những pháp môn cậy vào tự lực thông thường để rồi ngờ vực lợi ích của pháp môn đặc biệt cậy vào Phật lực, chẳng chịu tin nhận thì sẽ bị mất mát to lớn. Phật nói pháp này khó tin chính là ngụ ý này vậy.
 

Ủng hộ hàng Việt

Registered
Phật tử
Tham gia
6 Thg 3 2017
Bài viết
13
Điểm tương tác
2
Điểm
3
123456789: Ấn Quang Đại Sư Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)

Tôi thấy các đệ tử thường quá lời khi khen các vị thầy/vị tổ của mình, không biết bao nhiêu phần trăm sự thật trong đấy.

Bạn có thể cho tôi đang phỉ báng các vị tổ, nhưng tôi nghĩ đó không phải phỉ báng nhưng tôi (và chúng ta) có quyền đặt ra câu hỏi (và nghi ngờ) để làm sáng tỏ vấn đề.

Và Bạn cho hỏi có nguồn tư liệu nào (khả tín) nói rằng (chứng tỏ) ngài Ấn Quang là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ Tát không ạ?

Thanks.

 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
19399337_1189883254451480_4640817570423579083_n.jpg


THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC LÀ CHÂN THẬT

Kinh A Di Đà Đức Phật dạy rằng: "Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó."

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai thị rằng:

Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường cảnh thánh. Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta, khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp trở về thuật lại, nói bên ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa kéo người bơi mà tự chạy. Cụ có vịnh hai câu thi:

Bá ban xảo kế tề thiên địa.
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền!

Hai câu này ngụ ý khen người Pháp trăm việc hay khéo sánh bằng trời đất, duy có sự sống chết là còn thuộc quyền tạo hóa định đoạt mà thôi! Vua Tự Đức và triều thần nghe nói thế đều không tin. Đến như ông Nguyễn Tri Phương là chỗ bạn thân, cũng mĩm cười cho là cụ Phan đi xa về nói khoác. Thử hỏi: - Vua Tự Đức cùng triều thần đều tự nhận mình là người học thức, cho sự việc đó tai không nghe, mắt không thấy, vượt quá sức tưởng tượng, nên không tin. Nhưng các điều ấy quả thật không có chăng? Lấy một việc nhỏ này suy ra, ta thấy nếu đem những định kiến theo tai nghe mắt thấy và sự tưởng nghĩ phàm thường mà đo lường cảnh thánh đều thành sai lạc.

Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người (từ ngàn xưa cho tới tận hôm nay) niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyền, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng được tâm khai thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo cách suy lường dựa theo lời Phật nói và SỰ HIỆN CHỨNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TU, ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.

Ấn Quang Tổ Sư (Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát) cũng đã từng dạy như sau:

Kinh dạy: “Chí tâm niệm Phật một tiếng diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Dạy người niệm Phật một tiếng hơn bố thí bảy báu (1.vàng 2.bạc 3.lưu-li 4.pha-lê 5.xa-cừ 6.mã-não 7.xích-châu) suốt trăm năm!

Thành tựu được sự vãng sanh cho mẹ thì cũng chính là chánh nhân Tịnh Nghiệp của tam thế Chư Phật, ấy là “hành Phật sự ngay trong trần lao (phiền não, ô nhiễm, chỉ cho thế giới ta bà này)”, công đức thù thắng vạn phần hơn những chuyện tầm thường khác!

Cổ nhân nói: “Thông Minh Chẳng Thể Cự Nổi Nghiệp, Phú Quý Chẳng Tránh Khỏi Luân Hồi".

Khi sinh tử xảy đến, không còn gì để nương dựa nữa cả, chỉ có mỗi A Di Đà Phật là nương nhờ được thôi! Tiếc thay người đời rất ít ai biết. Còn kẻ biết đến, có lòng tin chân thật và thật sự niệm Phật lại càng hiếm ít hơn nữa!

Lời Bàn:

"Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết" (Lìa Kinh Một Chữ, Tức Là Ma Nói) vì vậy chúng ta chỉ duy nhất tin tưởng và nương vào lời dạy trong Kinh Phật và Chư Tổ dạy giảng giải theo Kinh Phật mà thôi vì MA VƯƠNG GIẢ LÀM CHƯ HIỀN THÁNH, TU SĨ VÀ CƯ SĨ ĐỂ LÀM HƯ HOẠI CHÁNH PHÁP. Trong KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, Phẩm Tà Chánh Thứ Chín, Đức Phật dạy như sau:

“Nầy Ca-Diếp ! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn bảy trăm năm, ma Ba- Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp. Ví như thợ săn thân mặc pháp-y (thợ săn giả mặt áo cà sa, để các thú vật tưởng người xuất gia hiền thánh từ bi mà tới gần không phòng hờ) , cũng vậy, ma-vương Ba-tuần giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba-Tắc, Ưu- Bà- Di. Nó cũng hoá làm thân Tư-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La- Hán và hoá làm hình Phật. Ma-Vương đem thân hữu lậu hoá làm thân vô-lậu để làm hư hại chánh pháp.”

Chúng ta đang vào thời mạt pháp ngày càng sâu hơn, đồng nghĩa là chánh pháp đang lần lần bị tiêu diệt. Bây giờ chỉ y theo Kinh Phật dạy mà tu hành, y theo TÍN NGUYỆN HẠNH phát nguyện Niệm Phật và nương nhờ từ lực của Phật, mà mau chóng vãng sanh về Cực Lạc. Giáo lý Đại Thừa dạy con người Từ, Bi, Hỷ, Xã, Bồ Đề Tâm, Ba La Mật, Nhân Quả tất cả đều thuận theo chân lý của Phật lợi mình, lợi người, lợi hết thảy tất cả chúng sanh. Những ai tu hành có công đức nếu Phát Bồ Đề Tâm và hồi hướng về Phật Quả phát nguyện vãng sanh là tu theo Đại Thừa, cũng là tu đúng đường Bồ Tát Đạo theo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật như thuở xưa đã tu hành Phát Bồ Đề Tâm, thực hành Bồ Tát Đạo để làm lợi lạc cho chúng sanh. Và những ai sau khi vãng sanh rồi, sẽ không còn bị phiền não luân hồi nữa, chỉ nhất tâm tu hành cho đến khi đạt được Chánh Đẳng Giác, sau đó sẽ độ lại quyến thuộc những người đã từng có duyên với mình, và độ hết thảy vô lượng chúng sanh như Chư Phật đã làm. Nên những ai thành tâm thành kính Niệm Phật và tạo nhiều Công Đức hồi hướng phát nguyện vãng sanh nhất định sẽ được vãng sanh và dần dần sẽ thành tựu Phật Quả, vì NHÂN NÀO QUẢ NẤY.

Vì giáo lý Đại Thừa lợi ích cho muôn loài chúng sanh như vậy nên bọn ma chướng nó phá nhiều muốn ngăn bít đường thành đạo của chúng sanh để cùng nhau bị đọa lạc tổn hại phải chịu vô lượng khổ đau trong sinh tử luân hồi vô số kiếp không thể dùng số tính đếm, vì vậy hãy dùng mắt trí tuệ để phân biệt đúng sai, thiện ác, đừng để cho ma chướng che tâm mình. Vì cảnh giới của ma là Ích Kỷ, Tham Lam, Dục Vọng như khi xưa Đức Phật xuất gia đã bị cám dỗ rất nhiều, khi thành đạo là chúng ma tới phá hại, và sau rồi ma lại thỉnh Phật mau nhập Niết Bàn. Ma chướng không muốn tất cả chúng sanh được lợi lạc, hãy nhớ kỹ điều này, và dứt hẳn mọi nghi ngờ.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

22281814_862694980574406_2249331920983494218_n.jpg


PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ NGÀN KINH CÙNG XIỂN DƯƠNG, VẠN LUẬN ĐIỀU TUYÊN NÓI

Giáo pháp của pháp môn Tịnh Độ lớn lao thay! Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, pháp Trực Chỉ Nhân Tâm còn phải nhường phần kỳ đặc (lạ lùng, đặc biệt). [So với cách tu] “dùng ngay cái tâm này niệm Phật, niệm niệm thành Phật” thì lợi ích đạt được do trải bao kiếp tu chứng vẫn phải kém hơn. Độ khắp thượng trung hạ căn, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền Tông, như mưa đúng thời nhuần thấm muôn vật, như biển cả dung nạp các sông. Hết thảy các pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh Đại - Tiểu, Quyền - Thật, không hạnh nào chẳng quy về pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào Bổ Xứ, ngay trong một đời này viên mãn Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp giới lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo; mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh. Do vậy, Hoa Nghiêm hải chúng hết thảy đều tuân theo mười đại nguyện vương. Pháp Hoa xưng niệm một tiếng[1] đều chứng Thật Tướng các pháp.

Hạnh phương tiện tối thắng, ngài Mã Minh dạy trong luận Khởi Tín. Đạo dễ hành chóng đến, ngài Long Thọ xiển dương trong luận Tỳ Bà Sa. Ngài Trí Giả là hậu thân của Phật Thích Ca, nói Thập Nghi Luận, chuyên chí Tây Phương. Ngài Vĩnh Minh là Phật Di Đà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, suốt đời niệm Phật. Hội tam thừa ngũ tánh[2] cùng chứng chân thường, dẫn thượng thánh hạ phàm cùng lên bờ kia. Vì thế, [pháp này] được chín pháp giới cùng quy về, mười phương cùng khen ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên nói. Thật có thể gọi là lời bàn luận tột cùng trong giáo pháp cả một đời [đức Phật], là đại giáo Nhất Thừa vô thượng vậy! Chẳng gieo cội đức, dù trải bao kiếp vẫn khó thể gặp gỡ. Đã được thấy nghe, hãy nên siêng năng tu tập!

Tổ Sư Ấn Quang (Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)

Ghi Chú:

[1] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, có câu: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu ai tâm tán loạn, vào trong nơi tháp miếu, niệm mô Phật một tiếng, đều đã thành Phật đạo)

[2] Tam thừa ngũ tánh: Tam thừa là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Ngũ tánh: Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, chúng sanh có năm chủng tánh thành Phật bất đồng:
1) Bất định tánh: Tức căn tánh không nhất định, gần gũi Thanh Văn thì tu pháp Thanh Văn, gần Duyên Giác bèn tu pháp Duyên Giác v.v…
2) Vô chủng tánh tức hạng người không có chánh tín, thiện căn, bác không nhân quả, chẳng cầu giải thoát.
3) Thanh Văn Tánh.
4) Duyên Giác tánh.
5) Bồ Tát tánh.
Duy Thức Học lại phán định Ngũ Tánh như sau:
1) Bồ Tát Định Tánh
2) Thanh Văn Định Tánh
3) Duyên Giác Định Tánh
4) Tam Thừa Bất Định Tánh
5) Vô Tánh Hữu Tình.
Ba chủng tánh đầu quyết định thành tựu thánh quả, hai chủng tánh sau không nhất định.

21762730_855054864671751_3908345506374299934_o.jpg


Hòa Thượng Thích Trí Thủ Nói:

Trí thức con người ở cõi nầy bị hạn cuộc trong một phạm vi nhỏ bé nên đã cố đúc thành một mớ thành kiến cố chấp. Đem cái mớ thành kiến cố chấp ấy mà phán đoán sức thần thông biến hóa của chư Phật, của thế giới Cực Lạc do tịnh thức tổng hợp của vô lượng vô biên vô số chúng sanh phát khởi, thì thật khác nào đem kiến thức của loài sâu kiến mà bàn luận công trình xây dựng và quá trình hoạt động của quốc gia xã hội loài người. Dù cho cùng năm mãn đời, trải qua vô lượng vô số tháng năm, loài sâu kiến cũng không thể nào dùng suy luận của chúng mà hiểu đúng như sự thật được. Chỉ vì sâu kiến không phải là người vậy. Cũng tương tợ như thế, chúng ta chưa phải là Phật thì chưa thể nào hiểu thấu sức thần thông và trí huệ của Phật một cách tỏ tường. Đã không thấu rõ được thì dù có suy luận đến cùng năm mãn đời cũng không đem lại kết quả nào. Vì vậy, chúng ta chỉ nên tin lời Phật mà thật hành theo, quyết không bị lầm lạc và để khỏi bỏ phí thì giờ trong hí đàm. Nếu tự phụ là thông minh trí tuệ không chịu tin theo, chung quy sẽ trở lại thua những người thật thà chất phác mà có tín tâm mạnh mẽ. Sở dĩ sanh tâm tự phụ kiêu căng như thế, chẳng qua là phước đức thiển bạc nên mới không thọ nạp được một pháp môn giản dị và rất khó gặp như pháp môn Tịnh Độ. Thật cũng đáng tiếc lắm thay!

Trên đây, hoàn toàn đứng về phương diện Tín mà nói, chứ chưa đề cập đến hai phương diện Nguyện và Hạnh . Nhưng hễ Tín đã vững chắc thì Nguyện và Hạnh tự nhiên thành tựu, khỏi cần nhắc nhủ, khuyến hóa. Vì như khi đã tin chắc rằng trước sân nhà có hầm vàng thì tự nhiên không ai sai bảo, vẫn hăng hái đào bới tìm tòi. Còn nếu nghe nói có hầm vàng mà chưa chịu đi đào là vì lòng tin chưa vững chắc vậy.


20637934_1738161103152471_9215869520425355720_n.jpg


Hỏi: Xin hỏi Pháp sư, có người cho rằng Pháp môn Phật A-di-đà, là Tổ sư sau này phát minh, thời xưa không có Phật A-di-đà, đúng vậy không?

Đáp: Kinh điển y cứ chính của pháp môn này là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, là do Phật nói, và kinh điển y cứ phụ rất nhiều, có hơn hai trăm bộ, cho nên có căn cứ của Phật nói, có sự truyền thừa của Tổ sư, cũng có sự chứng ở hiện tại. Sự chứng ở hiện tại chính là tác phẩm Niệm Phật cảm ứng lục mà tôi đã biên soạn; trong sách này mỗi câu chuyện đều nói về cảm ứng của niệm Phật, nếu không có Phật A-di-đà, thì bạn niệm như thế nào cũng không có cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng chữa bệnh, có cảm ứng xua đuổi ma quỷ, có cảm ứng bản thân niệm Phật, người nhà tiêu tai miễn nạn, có sự tích bình thường niệm Phật, lâm chung Phật đến tiếp dẫn; có người cả đời không niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung đứt hơi, họ chỉ niệm Phật với chúng tôi vài câu thì nói Phật A-di-đà đã đến phía trước tiếp dẫn họ. Thế nên, có văn chứng, có lí chứng, có sự chứng, sự thật vững chắc ở ngay trước mắt, không bị người lừa.

Pháp sư Huệ Tịnh
Nam-mô A-di-đà Phật
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
1427112610-1740562087.jpg


TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI LUẬN
Tác Giả: Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát)
Việt Dịch: Như Hòa


Thuốc không quý - tiện, thuốc trị lành bịnh là thuốc hay. Pháp không hơn - kém, pháp khế hợp căn cơ là pháp diệu. Thuở xưa, căn tánh con người thù thắng, tri thức như rừng, tùy ý tu một pháp đều có thể chứng đạo. Người đời nay, căn tánh kém cỏi, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ Tịnh Độ thì chẳng nhờ vào đâu để được giải thoát. Tôi tự thẹn nhiều đời, nhiều kiếp, ít gieo căn lành, phước mỏng, huệ cạn, chướng nặng, nghiệp sâu; lúc đang cầu học hỏi lại chẳng gặp thiện hữu, chưa được nghe đạo truyền tân[1] của thánh hiền, lậm cái độc của Hàn, Âu[2] phế Phật. Học vấn chưa thành, nghiệp lực đã hiện ra trước. Từ đấy, bệnh nặng cả mấy năm, chẳng làm gì được. Nghĩ kỹ thiên địa quỷ thần chiếu soi như thế, cổ kim thánh hiền đông nhiều đến thế, huống chi Phật vốn chẳng có quyền lực để ép người thuận theo; ắt phải nhờ vào vua thánh, tôi hiền hộ trì thì đạo Phật mới có thể lưu truyền khắp thiên hạ vậy. Nếu pháp ấy quả thật đúng như lời họ Hàn, họ Âu: “Phật pháp trái nghịch thánh đạo, gây hại cho Trung Quốc” thì chẳng những riêng vua thánh, tôi hiền xưa nay chẳng dung thứ cho Phật pháp tồn tại nơi đời, mà thiên, địa, quỷ thần cũng tru diệt chẳng còn sót từ lâu rồi; nào phải đợi đến họ Âu, họ Hàn dùng lời hư vọng để bác bỏ nữa!

Sách Trung Dung nói: “Đạo quân tử thì kẻ ngu phu, ngu phụ còn có thể biết được, hành được”; còn như cái đạo đạt đến mức cùng cực thì ngay cả thánh nhân cũng có chỗ chẳng hay biết, chẳng thể thực hiện được nổi. Ông Âu, ông Hàn tuy hiền, nhưng còn kém xa thánh nhân rất nhiều! Huống gì có những điều thánh nhân còn chẳng biết chẳng hay! Phật pháp nào có phải là pháp mà phàm tình, trí thế gian có thể suy lường được nổi. Tôi bèn nhanh chóng sửa đổi tâm trước, xuất gia làm Tăng, tự lượng sức mình: Nếu chẳng nương vào sức thệ nguyện rộng lớn của đức Như Lai thì quyết khó có thể ngay trong đời này thoát khỏi sanh tử. Từ ấy, chỉ niệm Phật, chỉ cầu Tịnh Độ. Từ nhiều năm qua, tôi đã lạm dự vào chốn giảng pháp, nhiều phen tham vấn các bậc Thiền Đức[3], chẳng qua là muốn làm sáng tỏ Đệ Nhất Nghĩa Đế Tịnh Độ để làm tư lương[4] thượng phẩm vãng sanh mà thôi. Hận rằng sức lực yếu ớt nên hạnh khó dũng mãnh; nhưng tôi tín nguyện kiên cố, không những các sư giảng Thiền trong thế gian không thể lay chuyển tôi chút nào, dẫu cho chư Phật hiện thân dạy tu pháp khác, tôi cũng chẳng chịu bỏ pháp này nhận lấy pháp khác, trái nghịch cái tâm ban đầu. Hiềm rằng túc nghiệp gây chướng ngại nên rốt cuộc tôi chưa đạt được nhất tâm bất loạn để đích thân chứng được Niệm Phật Tam Muội, thẹn thùng vô kể.

Một ngày nọ có một Thượng Tọa, tham học Thiền tông đã lâu, kiêm thông giáo lý, mắt xem bốn biển rỗng không, thề chứng Nhất Thừa, noi gương Thiện Tài tham học khắp các tri thức, đến Loa Sơn gõ cửa thất tôi. Khi ấy, tôi vừa xem tập Di Đà Yếu Giải thấy văn sâu lý thẳm, chẳng tiện cho kẻ sơ cơ, mông muội, nên muốn thâu thập những giáo lý của tông Thiên Thai để viết lời giải thích, ngõ hầu giúp bậc sơ học dễ bề tiến bộ, chứ chẳng dám bắt chước cổ đức hoằng xiển đạo mầu, chỉ toan tạo nhân duyên thâm nhập chỗ thù thắng cho hậu học. Mừng có vị Thượng Tọa ấy đến, nên tôi liền tặng ông ta một cuốn Yếu Giải, rồi tỏ ý muốn viết lời giải thích. Nhân đấy, Thượng Tọa bảo tôi:

- Một cuốn Yếu Giải trước kia tôi đã từng xem, thấy trong ấy viết rằng: “Tạng sâu thẳm của Hoa Nghiêm, cốt tủy bí nhiệm của Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho vạn hạnh của Bồ Tát đều chẳng ra khỏi kinh này”. Những câu như vậy chẳng thể kể hết, thật đúng chèn ép Tông (Thiền), Giáo (các tông phái khác như Hoa Nghiêm, Thiên Thai...), quá khen Tịnh Độ, báng chánh pháp luân, khiến chúng sanh nghi lầm! Chẳng hiểu đại sư Ngẫu Ích đã có học thức thiên cổ hy hữu sao lại không trực chỉ nhân tâm, hoằng dương Chỉ Quán. Trái lại, Ngài chấp vào thứ kiến giải ấy khiến kẻ ngu phu, ngu phụ dùng đó như bùa hộ thân, chỉ mong hàng Tăng, tục trong đời giữ một pháp buông bỏ vạn hạnh; lấy vũng nước nơi dấu chân, bỏ cả biển rộng, cùng bước vào nẻo mê, vĩnh viễn quay lưng với đường chánh, đoạn diệt giống Phật, tội ngập cả trời. Muốn báo ân Phật thì trước hết nên hủy diệt sạch sách này, sao thầy còn tính viết lời giải thích để giúp cho sách ấy được lưu thông vậy? Tâm giận ngùn ngụt, như đối diện cừu thù.

Tôi đợi cho ông ta bình tĩnh lại, thong thả bảo rằng:

- Ông coi lời giải thích này của ngài Ngẫu Ích là tội lỗi quá nặng; ấy là chỉ biết ngọn, nhánh, chứ chẳng biết đến cội, nguồn, như con chó khờ chạy theo hòn đất, như con ngỗng chúa chẳng chọn sữa[5]. Phải biết cái lỗi ấy chẳng do cuốn Yếu Giải này của ngài Ngẫu Ích mà thật sự là do Phật Thích Ca, Phật Di Đà, mười phương chư Phật và ba kinh Tịnh Độ, kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, các kinh Đại Thừa và các vị đại Bồ Tát, tổ sư: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v... Nếu ông có thể làm đại pháp vương trừng trị tội ấy thì lời ông sẽ được cả thế gian phụng hành; bằng không thì kẻ dân ngu nơi rừng núi xưng bừa là hoàng đế, tự chế pháp luật, bội phản luật vua, chẳng mấy chốc sẽ bị diệt môn tru tộc vậy. Ông nói như thế là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, ngay đời này sẽ hãm vào A Tỳ địa ngục thọ khổ bao kiếp, trọn không có lúc thoát ra. Cậy chút phước trong quá khứ, tạo khổ báo bao kiếp. Hạng người được tam thế chư Phật gọi là “đáng thương xót” chính là ông vậy.

Ông ta giật mình, nói:

- Thầy bảo tội nơi đức Thích Ca, Di Đà v.v... Sao mà lại trái nghịch lý thường đến như thế? Xin thầy giải thích cặn kẽ nguyên do. Nếu lý ấy thật sự thù thắng, tôi đâu dám chẳng tuân theo!

Tôi bảo:

- Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong đời. Đại sự nhân duyên vừa nói đó chính là muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập[6] tri kiến của Phật, thẳng cho đến khi thành Phật mà thôi; há còn có gì khác nữa đâu!

Khốn nỗi chúng sanh căn tánh có lớn - nhỏ, mê có cạn - sâu, chẳng thể tỏ thấu trực tiếp bản hoài của Phật. Do đó, đức Phật mới thuận theo căn cơ đặt bày giáo pháp, đối bệnh phát thuốc, vì lẽ thật mà bày ra phương tiện quyền biến, khai Quyền hiển Thật[7]; [chỉ một pháp] Nhất Thừa mà bèn nói ra các thuyết. Nếu có kẻ thiện căn thành thục thì sẽ làm cho họ sanh lên được bờ kia; còn đối với kẻ ác nghiệp sâu dày, sẽ khiến họ dần dần thoát khỏi trần lao, rủ lòng tiếp dẫn; khéo khuyến dụ dần dần. Dẫu có dùng các ví dụ như trời, đất, mẹ cha… cũng chẳng diễn tả nổi chút phần [từ ân của Phật]. Hơn nữa, do hết thảy pháp môn đều nhờ vào tự lực. Dẫu là kẻ túc căn thâm hậu triệt ngộ tự tâm, nhưng nếu hai thứ Kiến Hoặc, Tư Hoặc vẫn còn sót chút ít chưa hết thì vẫn sanh tử trong luân hồi y như cũ không thoát được! Huống hồ là kẻ đã thọ thai ấm, đối cảnh liền sanh chấp trước, từ giác đến giác thì ít, nhưng từ mê vào mê lại nhiều. Bậc thượng căn còn như vậy, đối với kẻ trung căn, hạ căn còn biết nói sao nữa! Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt dứt dòng sông rộng bốn mươi dặm, huống hồ là Tư Hoặc! Liễu sanh thoát tử há có dễ đâu!

Do vậy, [các pháp môn khác] chẳng thể độ trọn ba căn, thỏa trọn bản hoài của Phật; chỉ có một pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ, chuyên cậy vào hoằng thệ nguyện lực của Phật Di Đà, chẳng cần biết đến thiện căn thành thục hay chẳng thành thục, ác nghiệp nặng hay nhẹ; cứ hễ chịu sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật thì lúc lâm chung sẽ quyết định được Phật Di Đà rủ lòng từ tiếp dẫn, vãng sanh Tịnh Độ. Người thiện căn thuần thục sẽ nhanh chóng viên thành Phật quả; dẫu là kẻ ác nghiệp nặng nề cũng được dự vào dòng thánh. Đấy chính là đạo cốt yếu để độ sanh của tam thế chư Phật, là pháp mầu nhiệm để thượng thánh lẫn hạ phàm cùng tu. Do vậy, các kinh Đại Thừa đều tuyên bày pháp trọng yếu này; lịch đại tổ sư không vị nào chẳng tuân hành. Ông tự phụ Thiền - Giáo, bảo xằng rằng hoằng dương Tịnh Độ là báng chánh pháp luân, là đoạn diệt hạt giống Phật, đủ chứng tỏ ông đã bị ma dựa vào thân, mất trí điên rồ, nhận mê là giác, chỉ chánh bảo tà, là chủng tử địa ngục vậy!

Trong kiếp xưa, đức Thích Ca, đức Di Đà từng phát đại thệ nguyện độ thoát chúng sanh. Một vị thị hiện sanh nơi uế độ, dùng cái uế, dùng điều khổ để chiết phục, đưa đi; một vị an cư Tịnh Độ, lấy tịnh, lấy lạc để nhiếp thọ hòng nhào luyện chúng sanh. Ông chỉ biết ngu phu, ngu phụ vẫn có thể niệm Phật nên đến nỗi miệt thị Tịnh Độ, sao chẳng xét suy: Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, sau khi ngài Thiện Tài đã chứng ngộ gần bằng chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười đại nguyện vương, hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ngõ hầu viên mãn Phật quả. Lại còn khuyên dạy khắp Hoa Tạng hải chúng[8] đó ư? Trong toàn thể Hoa Tạng hải chúng, chẳng có một ai là phàm phu, Nhị Thừa, mà đều là bậc Pháp Thân Đại Sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị cùng phá vô minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể nương vào bổn nguyện luân hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật.

Hơn nữa, trong biển Hoa Tạng có vô lượng Tịnh Độ, nhưng các ngài đều hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới thì đủ biết: Vãng Sanh Cực Lạc chính là huyền môn để thoát khổ, là đường tắt để thành Phật. Vì vậy, tự cổ chí kim, trong tất cả tùng lâm dù Thiền hay Giáo, hay Luật, không nơi nào chẳng sớm tối trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây phương. Ông đã tham bái khắp các tùng lâm, ắt hẳn hằng ngày cũng tu tập, cớ sao lại sanh hủy báng đến thế! Sách Nho có nói: “Tu tập mà chẳng xem xét, dùng hằng ngày mà không biết”, há không phải là nói đến hạng người như ông hay sao? Hoa Nghiêm là vua của các kinh, vua trong Tam Tạng; chẳng tin Hoa Nghiêm thì là nhất-xiển-đề[9]. Dẫu cho chẳng đọa vào A Tỳ ngay khi còn sống thì khi báo hết sẽ quyết định rớt vào Vô Gián. Tôi muốn thoát khổ nên cầu sanh Tịnh Độ, ông muốn được khổ nên hủy báng Hoa Nghiêm. Ông cứ giữ cái chí của ông, tôi hành cái đạo của tôi. Tướng quân chẳng xuống ngựa, ai nấy tự ruổi theo đường mình. Đạo đã khác thì chẳng thể cùng bàn luận được! Ông đi đi, tôi chẳng muốn trò chuyện với ông nữa!

Ông ta đáp:

- Đạo quý ở chỗ hoằng thông, hễ nghi thì cần phải đoạn nghi, sao thầy lại cự tuyệt đến thế? Tôi thường nghe “Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở khắp hết thảy chỗ, nơi đức Phật ở gọi là Thường Tịch Quang”; chỉ cần chứng được Pháp Thân thì đương xứ (ngay nơi người ấy đang ở) chính là Tịch Quang Tịnh Độ. Sao lại phải dùng cái tâm sanh diệt “bỏ Đông lấy Tây” mới coi là được vậy?

Tôi đáp:

- Ông nói sao dễ dàng quá! Tuy đương xứ chính là Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng nếu chẳng phải là Trí Đoạn[10] đã đạt đến rốt ráo, đã viên chứng pháp thân Tỳ Lô thì chẳng thể đích thân thọ dụng triệt để được nổi! Các địa vị như: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác, cả bốn mươi mốt địa vị trong Viên Giáo vẫn là Phần Chứng! Nếu ông đã chứng được trọn vẹn Tỳ Lô Pháp Thân thì nói “đương xứ chính là Tịch Quang” cũng chẳng hại gì; còn nếu chưa được như thế thì dẫu có nói đến thức ăn và tính đếm của cải vẫn chẳng thể khỏi bị chết vì đói lạnh được!

Ông ta hỏi:

- “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” là điều trong Tông môn thường nói chẳng lẽ là sai lầm hay sao?

Tôi nói:

- Thuyết đó của nhà Thiền chuyên chỉ về lý tánh, chứ chẳng bàn đến sự tu. Vì sao vậy? Nhà Thiền muốn cho người ta trước hết biết đến cái lý “chẳng dính mắc nhân quả, phàm - thánh, chúng sanh và Phật tu chứng”. Sau đấy, mới y theo lý đó mà phát khởi tu nhân hòng chứng quả, siêu phàm nhập thánh. Đấy chính là mặt Sự: Chúng sanh chứng thành Phật đạo. Sao ông lẫn lộn Sự và Lý, tri kiến điên đảo đến thế? Ông lại bảo bỏ Đông lấy Tây là sanh diệt, nhưng chẳng biết chấp Đông phế Tây lại là đoạn diệt. Hễ còn chưa chứng Diệu Giác thì có ai thoát khỏi lấy - bỏ? Ba A Tăng Kỳ kiếp luyện hạnh, trăm kiếp tu nhân, thượng cầu, hạ hóa, đoạn Hoặc chứng Chân, có việc gì chẳng phải là chuyện lấy - bỏ đâu? Phải biết: Đức Như Lai muốn cho hết thảy chúng sanh mau chứng Pháp Thân và Tịch Quang, nên Phật mới đặc biệt khuyên trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương vậy!

Hỏi:

- Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận[11] của Táo Bá Lý Trưởng Giả[12] nhận định Tây phương Tịnh Độ chỉ [dành cho] hàng phàm phu còn có một phần chấp tướng, chưa tin nổi thật lý Pháp Không. Nếu chuyên ức niệm thì tâm sẽ được tịnh một phần, sẽ được sanh Tịnh Độ. Pháp đó là Quyền pháp chứ chẳng phải Thật pháp; cớ sao Hoa Tạng hải chúng lại cùng nguyện vãng sanh? Ngài Táo Bá chứng thánh quả ngay trong hiện đời, thần thông trí huệ chẳng thể nghĩ bàn; nhất quyết Ngài phải là Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm thị hiện nên lời Ngài nói nhất định chẳng sai lầm!

Đáp:

- Tuy ngài Táo Bá là Bồ Tát thị hiện, nhưng khi ấy kinh Hoa Nghiêm chưa được truyền đến [Trung Hoa] trọn vẹn, Ngài chẳng dự đoán được nên mới lập thuyết như vậy. Xét ra, ngài Táo Bá tạo luận vào niên hiệu Khai Nguyên đời vua Đường Huyền Tông. Sau khi viết xong luận, Ngài liền nhập diệt; phải hơn năm mươi năm sau, mãi đến năm Trinh Nguyên thứ mười một (795) đời vua Đức Tông, vua nước Ô Trà[13] ở Nam Thiên Trúc mới dâng bộ Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm gồm bốn mươi cuốn bằng Phạn văn. Đến năm Trinh Nguyên thứ mười bốn (798), kinh mới dịch xong để lưu thông. Ba mươi chín quyển trước tương ứng với phẩm Nhập Pháp Giới [của bản] Hoa Nghiêm tám mươi cuốn, nhưng văn nghĩa [trong bản Hoa Nghiêm bốn mươi quyển] có phần tường tận hơn. Trong cuốn thứ tám mươi, ngài Thiện Tài nương vào sức oai thần lực của ngài Phổ Hiền, sở chứng đã ngang với ngài Phổ Hiền, ngang bằng chư Phật, nên ngài Phổ Hiền bèn đọc cho nghe bài kệ khen ngợi công đức thắng diệu của Như Lai. Do kinh văn đến đây chưa hết nên [pháp hội] chưa kết thúc mà kinh [Bát Thập Hoa Nghiêm] đã hết. Kịp đến khi phẩm Hạnh Nguyện truyền đến, trong cuốn thứ bốn mươi, ngài Phổ Hiền dùng mười đại nguyện vương để khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng khiến cho họ hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới; nói xong, Như Lai khen ngợi, đại chúng phụng hành. [Đến đây], kinh văn mới hoàn bị. Vì lẽ đó, cổ đức mới đem quyển này đặt nối theo sau tám mươi quyển kia để lưu thông, muốn cho kẻ hậu học đều được thọ trì toàn bộ bản kinh vậy. Cổ đức nói: “Một pháp Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ chỉ Phật với Phật mới biết trọn vẹn, bậc Đăng Địa Bồ Tát[14] còn chẳng biết nổi ít phần”, chính là ý này. Pháp Tịnh Độ tóm trọn hết thảy bậc thượng căn lợi khí chẳng còn sót vậy.

Kinh Đại Tập dạy: ‘Đời mạt pháp ức ức kẻ tu hành, hiếm một ai đắc đạo. Chỉ nương theo pháp Niệm Phật thì mới thoát khỏi sanh tử’; như vậy, pháp Tịnh Độ cũng thâu nhiếp hết thảy thiên nhân, lục đạo cụ phược phàm phu[15] chẳng còn sót gì! Ông tin ngài Táo Bá mà chẳng tin phẩm Hạnh Nguyện và kinh Đại Tập, tức là tuân theo cáo thị quyền nghi một thuở của quan huyện, trái nghịch sắc chỉ của hoàng đế muôn đời chẳng đổi. Sao mà chẳng biết tôn, ty, khinh, trọng đến như thế ấy!

Hỏi:

- Nếu đã là hải chúng thị hiện, sao lại phải đợi có kinh truyền đến mới biết?

Đáp:

- Hoằng dương Phật pháp quả thật chẳng phải là việc dễ! Cần phải có chứng cứ thì mới gây được lòng tin. Một bộ kinh Hoa Nghiêm siêu việt các kinh, chẳng thể không có dẫn chứng mà tự lập thuyết được!

Hỏi:

- Lúc kinh Niết Bàn chưa truyền đến Trung Hoa, sao ngài Đạo Sanh[16] đã đề xướng trước là Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh. Há có nên bảo là ngài Táo Bá chẳng bằng ngài Đạo Sanh ư?

Đáp:

- Xiển Đề nguyên là chúng sanh mà hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh thì sao riêng Xiển Đề lại chẳng có? Bậc có trí thức đều có thể dự đoán được điều này; còn chuyện vãng sanh sẽ viên mãn Phật quả thì các kinh tuyệt chưa tuyên nói, ai dám tự ý suy đoán dựng lên giáo nghĩa lạ lùng đó? Điều thứ hai là Sự và Lý tuyệt đối chẳng ngang bằng như nhau nên chẳng thể dẫn trường hợp này làm chứng. Còn về sở chứng của hai vị thì chẳng phải điều bọn phàm phu thấp sát đất ta có thể biết được nổi, nào dám hý luận! Phải biết: Bồ Tát hoằng pháp hoặc thuận hoặc nghịch, dùng các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Biết đâu ngài Táo Bá thị hiện không biết cốt là để đôn đốc sự tin tưởng nơi người đời sau!

Hỏi:

- Các sư Thiền tông đa số chê bỏ Tịnh Độ, đó là vì lẽ gì?

Đáp:

- Các sư Thiền tông chỉ truyền Phật tâm nên tất cả ngôn thuyết đều quy về hướng thượng. Ông đã tham Thiền nhiều năm mà còn chẳng biết lẽ này thì sự hiểu biết của ông đều là ác tri kiến phá hoại Thiền tông vậy.

Hỏi:

- Tôi còn đang là phàm phu sát đất, dám đâu lung lăng! Đấy thật là lời lẽ của chư Tổ, quyết có thể lấy làm bằng chứng. Lục Tổ nói: “Người Đông phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh Tây phương. Người Tây phương tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào?” Ngài Triệu Châu[17] nói: “Một chữ Phật tôi chẳng thích nghe”. Lại nói: “Lão tăng niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày”. Phần nhiều các sư Thiền tông có những câu nói như thế ấy thì thầy lại nói như thế nào đây?

Đáp:

- Lục Tổ trực chỉ hướng thượng để cho người ta biết giữ lấy tự tâm, còn ông lại chẻ văn giải nghĩa, biện luận pháp môn tu trì; đấy là như câu nói “tưởng miếng xương lừa có hình yên ngựa là cái cằm của cha”[18], lầm lẫn quá thể! Ông phải biết là người ở Tây phương đã hết sạch Kiến Hoặc và Tư Hoặc, tiến lên phá được Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc. Họ chỉ có tấn tu, tuyệt đối chẳng có chuyện tạo tội. Tổ nói “kẻ ấy cầu sanh cõi nào?” là nếu trong lúc ấy mà chưa đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc thì nương nhờ Phật từ lực, kẻ đới nghiệp vãng sanh sẽ được sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Một phen đã sanh trong cõi kia rồi thì hai hoặc Kiến và Tư sẽ triệt để tiêu diệt, giống như quăng miếng tuyết vào lò lửa lớn, tuyết chưa rơi đến nơi đã biến mất. Thân cận người đức hạnh thì ý niệm hèn tệ sẽ tiêu hết. Nếu như Kiến Hoặc, Tư Hoặc đã hết sạch thì sẽ sanh vào Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ; phá được một phần vô minh thì sanh vào Thật Báo Vô Chướng Ngại Tịnh Độ. Vô minh hết sạch, phước huệ viên mãn thì sẽ sanh vào Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Tại cõi này hiện chứng như thế thì tại cõi kia tấn tu cũng sẽ như thế.

Sao ông quá lo họ không có chốn để sanh về để rồi tự chướng mình, chướng người, chẳng chịu cầu sanh? Nghe nói [người khác] ăn bị mắc nghẹn bèn bỏ cả ăn đến nỗi chết mất thì đúng là kẻ si trong thiên hạ không ai bằng ông! Ông chỉ biết một câu của ngài Triệu Châu: “Một chữ Phật, ta chẳng thích nghe” sao chẳng lấy luôn câu kế tiếp. Ông Tăng hỏi: “Hòa thượng có vì người hay không?” Triệu Châu nói: “Phật, Phật!” Ông chỉ muốn căn cứ vào câu ‘Niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày’ mà chẳng dựa theo câu: “Hòa thượng được đại vương cúng dường như thế, sẽ dùng gì để báo đáp?” Triệu Châu nói: “Niệm Phật”. Sao lại chẳng y theo câu: “Tăng hỏi: ‘Mười phương chư Phật còn có thầy hay chăng?’ Triệu Châu nói: ‘Có’. Hỏi: ‘Thầy của chư Phật là gì?’ Triệu Châu đáp: ‘A Di Đà Phật, A Di Đà Phật’. Ông bảo phần nhiều các sư Thiền tông nói như thế, nhưng chẳng biết lời đáp tương ứng căn cơ của nhà Thiền được gọi là “cơ phong”, gọi là “chuyển ngữ”. Hỏi ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Ông chẳng biết phản chiếu hồi quang, tham cứu nơi chính mình, chỉ một bề nhai bã hèm, chạy theo hòn đất, bao giờ mới liễu thoát được! Tôi xuất gia hơn ba mươi năm, luôn nghe chư Tăng cùng nhắc những câu “Niệm Phật súc miệng ba ngày, Phật hiệu chẳng thích nghe”, còn câu “lấy Phật, Phật để độ người”, “dùng niệm Phật báo ân”, “A Di Đà Phật là thầy mười phương chư Phật” tuyệt chưa từng nghe có ai nhắc đến một lần.

Ôi! Những câu trên đều cùng từ một miệng thốt ra, nếu đã cho những câu trước là thật và đáng tin thì những câu sau cũng phải là thật và đáng tin, cớ sao chỉ chấp nhận lời tổn, còn lời ích lại chống báng! Một thuận, một chống, tự mâu thuẫn nhau. Phàm lời nói của ngài Triệu Châu đều quy về bổn phận; những câu “Phật chẳng thích nghe” và “Niệm Phật báo ân” đều là chuyển ngữ. Nếu có thể ngay từ những câu đó biết được tự tâm thì mới biết đạo của ngài Triệu Châu vượt khỏi thường tình, ý nghĩa vượt ngoài ngôn ngữ, ắt sẽ cắm cúi niệm Phật suốt cả ngày mà vẫn còn thấy là chưa đủ vậy! Nếu như đã không được đích thân gặp ngài Triệu Châu, sao chẳng lấy việc Niệm Phật để tu trì, há có nên chấp lấy câu bác Phật làm căn cứ! Hễ niệm Phật thì ngay trong đời này sẽ thoát khỏi luân hồi, trong tương lai quyết định thành Phật đạo. Còn nếu nương theo lời bác Phật thì là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng; hiện đời tội nghiệp chất như núi, phước huệ băng tiêu, khi mạng chung vĩnh viễn đọa trong A Tỳ chịu khổ nhiều kiếp. Lẽ lợi - hại, được - mất thật là một trời, một vực!

Nói chung, người đời nay toàn là hạng phước mỏng, huệ cạn, nghiệp nặng, chướng sâu; đối với điều được lợi ích thì khủng khỉnh nghe; đối với điều khiến mình bị tổn hại lại toàn thân rạp lạy (“được lợi ích, bị tổn hại” là đối với những kẻ chưa ngộ, hiểu lầm mà nói, chứ không phải pháp của cổ đức nói có tổn hay ích). Lời chư sư đáp theo căn cơ thảy đều như thế, chẳng phiền phải giải thích cặn kẽ. Ông bảo lời chân thành của Tổ quyết có thể dùng làm bằng chứng thì sao chẳng tuân theo lời ngài Bách Trượng[19]: “Tu hành thì niệm Phật là ổn đáng!” Sao ông cũng lại chẳng tuân những quy củ ngài Bách Trượng đã lập: cầu đảo cho vị Tăng mắc bệnh, tống táng, thiêu hóa vị Tăng đã mất, [những quy củ ấy] chẳng phải đều là hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ đó ư? Có nên bảo là: Ngài Bách Trượng chỉ muốn cho kẻ chết được vãng sanh, chứ chẳng muốn kẻ sống cầu sanh hay sao! Sao ông lại chẳng thuận theo tổ thứ mười bốn ở trời Tây là ngài Long Thọ Bồ Tát: Như Lai huyền ký Bồ Tát sẽ vãng sanh, khôi phục kinh Hoa Nghiêm từ long cung. Ngài tạo nhiều bộ luận để riêng khen ngợi Tây phương như luận Tỳ Bà Sa[20] khen ngợi Tịnh Độ là đạo “dễ tu chóng đạt” đó ư! Sao ông lại chẳng tuân theo tổ thứ mười hai là Mã Minh Bồ Tát: Trong phần cuối của luận Khởi Tín, Ngài có dạy phương tiện tối thắng khiến người niệm Phật cầu sanh Tây phương thường hầu Di Đà, trọn chẳng thoái chuyển? Sao ông lại chẳng làm theo Nhị Tổ A Nan, Sơ Tổ Ca Diếp kết tập Tam Tạng và các kinh Tịnh Độ? Nếu Tịnh Độ chẳng đáng là pháp, có hại cho đời thì các Ngài há chẳng phân biệt tốt - xấu vẫn giữ lại tạo thành nguồn tội cho hậu thế hay sao? Thêm nữa, các kinh Đại Thừa đều khen ngợi Tịnh Độ, chỉ có kinh Tiểu Thừa là không có lấy một chữ nhắc đến. Há nên bảo các kinh Đại Thừa chẳng đáng là pháp sao?

Hơn nữa, lúc đức Phật nói kinh Di Đà, sáu phương hằng hà sa số chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài khuyên tin kinh này; có nên nói là sáu phương chư Phật cũng khiến cho người ta mắc tội hay sao? Nếu như ông bảo chẳng thể không tin các vị Lục Tổ, Triệu Châu... thì các ngài Long Thọ, Mã Minh, A Nan, Ca Diếp, Thích Ca, Di Đà, sáu phương chư Phật, các kinh Đại Thừa lại càng chẳng thể không tin! Nếu bảo chư Phật, chư Tổ, các kinh đều chẳng đáng tin thì sao lại tin lời Lục Tổ, Triệu Châu...? Thấy gần mà chẳng thấy xa, biết nhỏ chẳng biết lớn, giống như kẻ nhà quê chỉ nể thế lực ông huyện, chẳng biết oai đức của hoàng đế; trẻ nhỏ thấy tiền đồng bèn chộp lấy, gặp ma-ni bảo châu chẳng đoái hoài. Ông có biết bài Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh chỉ bày lẽ có - không, lợi - hại, được - mất của Thiền và Tịnh hay chăng? Ngài Vĩnh Minh là hóa thân của Phật Di Đà, há lẽ nào Ngài đành để người khác mắc tội báng chánh pháp luân, khiến cho chúng sanh nghi lầm, đoạn diệt Phật chủng hay sao?

Ông ta đáp:

- Bài Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh quá chi ly, chẳng đáng để làm khuôn phép, vì sao vậy? Ông ấy nói: “Có Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ”. Nếu đúng như lời ông ta nói thì phần đông các Thiền giả hiện tại đều khán câu “Người Niệm Phật Là Ai?” Lại có vị trụ trong Niệm Phật Đường niệm Phật bao năm, họ có đều hiện đời là thầy của người ta, kiếp sau liền thành Phật, Tổ hay chăng? Lại nói: “Không Thiền có Tịnh Độ, muôn người tu muôn người đỗ, nếu gặp Phật Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ?” Nay kẻ ngu phu, ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật đâu đâu cũng có; chưa thấy mấy kẻ khi lâm chung hiện các tướng lành, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Bởi vậy, tôi biết Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh chẳng đáng coi là khuôn phép!

Tôi nói:

- Sao ông hấp tấp nuốt trộng quả táo, chẳng nếm mùi vị của nó như thế. Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại Tạng, là khuôn phép tu trì. Trước hết phải nhận thức đích xác thế nào là Thiền, thế nào là Tịnh? Thế nào là Hữu, thế nào là Vô? Rồi mới phân tích theo lời văn thì sẽ biết mỗi một chữ đều như trời tạo, đất dựng, không chữ nào chẳng xác đáng, không chữ nào có thể thay đổi được! Trong vòng mấy mươi năm lại đây, tôi thấy lời lẽ các sư giảng Thiền đều giống hệt lời của ông, chẳng khác chút nào! Kiến thức như thế thì đúng là Thiền cùng Tịnh Độ mỗi ngày một suy tàn.

Hỏi:

- Sao gọi là Thiền, Tịnh cùng với Hữu, Vô, cúi xin dạy rõ cho!

Đáp:

- Thiền chính là Chân Như Phật tánh vốn sẵn có của chúng ta. Trong nhà Thiền gọi đó là“bản lai diện mục trước lúc cha mẹ chưa sanh ra”; nhưng nhà Thiền chẳng nói toạc ra, chính là để người khác tham cứu tự chứng ngộ nên mới nói như vậy. Đó chính là tâm thể thuần chân, không Năng, không Sở, vừa tịch, vừa chiếu, linh tri ly niệm vậy (Linh tri ly niệm nghĩa là trọn chẳng có ý niệm nhưng luôn nhận thức rõ ràng cảnh vật hiện tiền).

Tịnh Độ là tín nguyện, trì danh, cầu sanh Tây phương, chứ chẳng phải chỉ nói đến “Duy Tâm Tịnh Độ, Tự Tánh Di Đà”.

“Có Thiền” là tận sức tham cứu đến cùng cực, niệm tịch, tình vong, thấy thấu suốt cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.

“Có Tịnh Độ” là chân thật phát Bồ Đề tâm, sanh tín, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương. Thiền và Tịnh Độ chỉ là ước theo giáo, ước theo lý. “Có Thiền” và “có Tịnh Độ” là ước theo căn cơ, ước về tu. Về giáo lý thời hằng nhiên như thế; Phật chẳng thể tăng, phàm chẳng thể giảm. Xét về căn cơ, tu hành thì phải nương vào giáo để khởi hạnh; hành cho đến khi chứng ngộ tột cùng lý, sao cho thật có mới thôi! Điều thứ hai là xét về văn từ tuy tương tự nhưng thật ra rất khác nhau, phải suy xét kỹ càng, chớ có lẫn lộn! Nếu như tham Thiền nhưng chưa ngộ hoặc ngộ chưa triệt để thì đều chẳng được gọi là Có Thiền. Nếu như niệm Phật nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín, nguyện; hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chân thành, thiết tha, lơ là, hờ hững, làm cho lấy có; hoặc hành tuy tinh tấn nhưng tâm mến luyến trần cảnh, hoặc cầu đời sau sanh trong nhà phú quý để hưởng vui ngũ dục, hoặc cầu sanh lên trời để hưởng phước lạc cõi trời, hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một ngộ cả ngàn, đắc Đại Tổng Trì, hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh thì đều chẳng được gọi là Có Tịnh Độ.

Hỏi:

- Xuất gia làm Tăng hoằng pháp lợi sanh lại có lỗi chi mà cũng bị loại trừ?

Đáp:

- Nếu đã đoạn Kiến Tư Hoặc, đã liễu sanh tử, nương theo đại nguyện luân, thị hiện sanh trong đời trược, thượng hoằng hạ hóa, độ thoát chúng sanh thì được. Nếu như tuy có trí nguyện nhưng chưa đoạn được Kiến, Tư Hoặc, dẫu cho lúc ban đầu thọ sanh chẳng mê, cũng khó giữ [không mê] trọn đời, nhiều đời. Tuy có thể hoằng pháp nhưng chưa chứng Vô Sanh, tình chủng vẫn còn nên khi gặp cảnh đối duyên khó tránh khỏi bị mê hoặc. Nếu đã mê theo cảnh mà còn có thể mau giác ngộ thì trong cả vạn người chẳng có được một, hai; từ mê vào mê, chẳng thể tự dứt, bao kiếp trầm luân, thật là vô số! Vì nghĩa ấy, đức Như Lai mới dạy người vãng sanh Tịnh Độ, gặp Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn. Sau đó, nương theo Phật từ lực và tâm nguyện của chính mình, trở vào Sa Bà độ thoát chúng sanh thì chỉ có tiến chẳng thoái, có được không mất vậy. Chưa đoạn Kiến Tư Hoặc mà trụ trong cõi này hoằng pháp thì các tông khác không tông nào chẳng như vậy, chứ Tịnh Tông dứt khoát chẳng chấp thuận. Đời lắm kẻ cho rằng “tham Thiền là Có Thiền, niệm Phật là có Tịnh Độ”; như vậy thì chẳng những đã không hiểu Thiền, Tịnh, lại còn chẳng hiểu văn nghĩa, cô phụ tấm lòng đại từ bi của ngài Vĩnh Minh Cổ Phật, cắt đứt con đường tắt thoát khổ cho hành nhân đời sau. Tự mình lầm, làm người lầm, gây hại nào có cùng cực? Đấy chính là nhận lầm vạch khắc ở đòn cân, sai suyển hào ly, xa cách như trời với đất!

Ông ta nói:

- Tôi đã tạm hiểu ý nghĩa của Thiền, Tịnh và có - không; xin thầy giảng giải rành mạch lời văn sâu nhiệm của cả bốn bài kệ cho!

Tôi nói:

- Có Thiền, có Tịnh Độ.

Như cọp mọc thêm sừng.

Hiện tại làm thầy người,

Đời sau làm Phật, Tổ

Nghĩa là: Người ấy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập Kinh tạng, hiểu trọn vẹn các pháp môn Quyền, Thật của đức Như Lai; nhưng trong các pháp lại chỉ chọn lấy một pháp Tín Nguyện Niệm Phật để làm chánh hạnh chung nhằm tự lợi, lợi người. Bậc thượng phẩm thượng sanh đọc tụng Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa như đã nói trong Quán Kinh chính là hạng người này vậy. Người ấy có đại trí huệ, có đại biện tài; tà ma, ngoại đạo nghe tên vỡ mật. Người ấy như cọp đeo thêm sừng oai mãnh không chi sánh bằng. Đối với kẻ đến học sẽ thuyết pháp tùy theo căn cơ: Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp dẫn thì sẽ dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp độ; chỉ nên dùng chuyên tu Tịnh Độ để tiếp dẫn thì sẽ dùng chuyên tu Tịnh Độ tiếp độ. Bất luận thượng, trung, hạ căn, không ai là chẳng được đội ơn, há chẳng phải là bậc đạo sư của trời, người hay sao? Đến lúc lâm chung, người ấy được Phật tiếp dẫn vãng sanh thượng phẩm; trong khoảng khảy ngón tay hoa nở gặp Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn; thấp nhất thì cũng chứng bậc Sơ Trụ trong Viên giáo; cũng có người đốn siêu các địa vị, đạt đến bậc Đẳng Giác. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo đã có thể hiện thân làm Phật trong trăm cõi, huống hồ là các địa vị kế tiếp đó lại càng lần lượt thù thắng hơn; nhất là địa vị Đẳng Giác thứ bốn mươi mốt! Vì vậy Tổ mới nói: “Đời sau làm Phật Tổ”.

Không Thiền, có Tịnh Độ.
Vạn người tu, vạn đỗ.
Nếu gặp Phật Di Đà,
Lo gì chẳng khai ngộ

Nghĩa là: Hành nhân tuy chưa minh tâm, kiến tánh, nhưng đã quyết chí cầu sanh Tây phương. Do vì trong kiếp xưa, đức Phật đã phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con; nếu chúng sanh thật sự có thể [nhớ Phật] như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật thì sẽ cảm ứng đạo giao, liền được đức Phật nhiếp thọ. Vì ra sức tu Định, Huệ nên được vãng sanh. Kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lúc lâm chung bị các sự khổ bức bách bèn sanh lòng hổ thẹn lớn lao, xưng niệm danh hiệu Phật đến mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi mất ngay trong lúc đó, họ đều được Phật hóa thân tiếp dẫn vãng sanh. Đấy há chẳng phải là “vạn người tu, vạn đỗ” hay sao? Những kẻ đó tuy niệm Phật chẳng lâu nhưng do niệm Phật cực kỳ mãnh liệt nên có thể đạt được lợi ích lớn lao ấy, chẳng nên so với kẻ tu hành lơ là hờ hững mà bàn luận niệm nhiều hay ít. Đã sanh về Tây phương thì tuy gặp Phật, nghe pháp có nhanh - chậm chẳng đồng, nhưng đều đã cao dự dòng thánh, trọn chẳng thoái chuyển. Tùy theo căn tánh sâu, cạn, hoặc tiệm hay đốn mà chứng các quả vị. Đã được chứng quả thì cần gì bàn đến khai ngộ nữa. Ấy chính là: “Nếu gặp Phật Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ” vậy.

Có Thiền không Tịnh Độ,
Mười tu, chín lần chần,
Ấm cảnh nếu hiện tiền,
Chớp mắt đi theo nó.

Nghĩa là: Hành nhân tuy triệt ngộ Thiền tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến Tư phiền não chẳng dễ đoạn trừ, phải trải qua nhiều duyên trui luyện để trừ sạch hết chẳng sót, mới có thể xuất ly phần đoạn sanh tử[21]. Người chưa đoạn một mảy nào thì chẳng cần bàn đến! Dẫu chỉ còn một mảy chưa đoạn sạch hết thì lục đạo luân hồi vẫn y như cũ khó thoát. Biển sanh tử sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời vợi; còn chưa về được đến nhà thì đã mạng chung! Người đại ngộ mười người hết chín đều như vậy. Cho nên mới nói: “Mười người, chín lần chần”. Lần chần (ta đà) người đời thường nói là “chần chờ”.

“Ấm cảnh” là cảnh của Trung Ấm thân; tức là những cảnh được hiển hiện trong khi lâm chung bởi nghiệp lực thiện - ác trong đời này và bao kiếp. Một khi những cảnh ấy hiện ra, trong chớp mắt sẽ liền theo nghiệp lực thiện - ác nào mạnh mẽ nhất để đi thọ sanh trong đường thiện hay ác; chẳng thể làm chủ tình thế một mảy may nào! Giống như người mắc nợ, chủ nào mạnh sẽ kéo đi trước. Tâm tình lắm mối đa đoan, coi trọng chỗ nào sẽ rớt vào đấy. Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, đều là do lẽ trên vậy! Bởi thế mới nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Chữ Ấm: âm và nghĩa đồng với chữ Âm, nghĩa là che đậy; tức là: do nghiệp lực này che lấp nên chân tánh chẳng thể hiển hiện. Miết (瞥), âm giống chữ Phiết (撇), nghĩa là nháy mắt, chớp mắt. Có người hiểu chữ Ta (蹉) nghĩa là “lầm lẫn”, Ấm Cảnh là Ngũ Ấm Ma Cảnh, chung quy vì chẳng hiểu chữ Thiền và chữ Có nên mới nói hồ đồ như vậy. Lẽ nào những bậc đại triệt đại ngộ mười người tu chín người lạc đường đi theo Ngũ Ấm Ma nên bị ma dựa phát cuồng? Phàm những kẻ bị ma dựa phát cuồng đều là kẻ chẳng biết giáo lý, chẳng minh tự tâm, là giống tăng thượng mạn, tu mù luyện đui mà thôi. Sao chẳng biết hay - dở, lại đem gán cho bực đại triệt đại ngộ! Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện luận rõ!

Không Thiền không Tịnh Độ.
Giường sắt và cột đồng.
Vạn kiếp cùng ngàn đời.
Không một ai nương dựa.

Có kẻ bảo “không Thiền, không Tịnh” tức là vùi đầu tạo nghiệp ác, chẳng tu pháp lành. Lầm to, lầm to! Dù pháp môn vô lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích hợp cho các căn cơ hơn hết. Hành nhân chưa được triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh, lơ là, hời hợt tu các pháp môn khác, Định - Huệ đã chẳng thể quân bình để đoạn Hoặc chứng Chân, lại chẳng nương vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh; đem công đức trọn đời tu trì để cảm lấy phước báo đời sau sanh trong trời, người. Đời này đã không chánh trí thì đời sau ắt bị phước chuyển mê đắm trong ngũ dục, tạo đủ các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp sẽ khó thoát ác báo. Khi một hơi thở chẳng hít vào được nữa thì liền đọa địa ngục, rành rành sẽ ở trong bao kiếp dài lâu nằm lăn nơi giường sắt, ôm ấp cột đồng để đền trả lòng tham thanh sắc, giết hại sanh mạng v.v... các thứ ác nghiệp. Tuy chư Phật, Bồ Tát rủ lòng xót thương, nhưng do ác nghiệp ngăn chướng, người ấy vẫn chẳng thể được hưởng lợi ích. Người xưa nói: “Người tu hành nếu chẳng chánh tín, cầu sanh Tây phương, tu hành đủ các việc thiện khác thì gọi là kẻ oán đời thứ ba”, chính là nói đến ý này. Ấy là vì đời nay tu hành, đời sau hưởng phước; vì ỷ phước làm ác nên liền bị đọa lạc. Đạt được cái vui giả tạm trong đời kế mà muôn kiếp phải vĩnh viễn chịu khổ. Ví dù nghiệp địa ngục tiêu thì lại chuyển sanh làm ngạ quỷ, súc sanh; muốn lại được thân người thì thật là điều khó nhất trong những điều khó. Vì vậy, Phật lấy tay bốc đất rồi hỏi A Nan rằng: “Đất trong tay ta là nhiều, hay đất trong đại địa là nhiều?” A Nan bạch Phật: “Đất trong đại địa nhiều”. Phật nói: “Được thân người như đất trong tay, mất thân người như đất trong đại địa”. [Xét theo lời Phật] thì “muôn kiếp, ngàn đời, không một người nương dựa” vẫn là lời luận rất nông cạn vì câu ấy còn hạn cuộc vào âm vận của bài kệ.

Ôi! Hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực; pháp môn Tịnh Độ chuyên nhờ Phật lực. Trong hết thảy pháp môn, phải trừ sạch Hoặc nghiệp mới liễu sanh tử; còn trong pháp môn Tịnh Độ: do đới nghiệp vãng sanh liền dự dòng thánh. Đại sư Vĩnh Minh sợ đời chẳng hiểu biết nên mới đặc biệt phân định để chỉ bày cho tương lai. Liệu Giản đáng gọi là chiếc bè báu nơi bến mê, là đạo sư (người dẫn đường) nơi đường hiểm. Đáng tiếc người trong cõi đời hờ hững đọc lướt qua, chẳng chịu nghiên cứu kỹ. Có phải là do chúng sanh ác nghiệp đồng phận nên xui khiến thế chăng?

Ông ấy nói:

- Tôi xưa tội gì mà sớm mê mất chân thuyên[22], xưa có phước gì nay được nghe lời xuất yếu? Xin được ghé dự vào hàng đồ chúng, cầm nắm bình, khăn.

Tôi bảo:

- Tôi nào có đức gì mà dám nhận lời ấy. Những lời tôi nói đều là tuân theo ý chư Phật, chư Tổ. Nếu ông có thể ngưỡng tín Phật, Tổ, hoằng dương Tịnh Độ thì không đức gì chẳng báo được, không tội gì chẳng diệt được. Xưa ngài Thiên Thân Bồ Tát lúc ban đầu báng Đại Thừa, sau hoằng dương Đại Thừa để chuộc lỗi. Nếu ông có thể noi theo dấu chân thơm của Ngài thì tôi nguyện xả thân cúng dường.

Thượng tọa bèn lễ Phật, phát nguyện rằng:

- Con tên là... từ nay trở đi chuyên tu Tịnh nghiệp, chỉ cầu khi lâm chung vãng sanh thượng phẩm, gặp Phật, nghe pháp, đốn chứng Vô Sanh. Sau đấy, chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười phương, dùng các thứ phương tiện: nghịch, thuận, ẩn, hiển để hoằng thông pháp này, độ thoát chúng sanh đến tột cùng vị lai chẳng hề gián đoạn. Hư không có tận, nguyện của con vô cùng. Nguyện Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Thường Trụ Tam Bảo thương xót tấm lòng ngu thành của con, cùng rủ lòng nhiếp thọ.

Tôi bảo:

- Về Sự, Tịnh Độ là đại nhân duyên; về Lý, Tịnh Độ là bí mật tạng. Ông có thể tin nhận phụng hành được thì chính là lấy sự trang nghiêm của chư Phật để tự trang nghiêm.

Thượng Tọa vâng dạ lui ra. Nhân đấy chép lại cuộc vấn đáp này để khuyên bảo người chưa biết đến pháp này.

[1] Truyền tân: nói gọn của thành ngữ “tân tận hỏa truyền” (củi hết lửa còn) ý nói đạo truyền thừa giữa thầy và trò.

[2] Âu Dương Tu và Hàn Dũ: Hai nhà Nho bài xích Phật giáo mạnh mẽ nhất vào thời Đường - Tống

[3] Nguyên văn là Thiền tượng: Tượng là thợ giỏi, thợ khéo, thường được chỉ những bậc thông đạt pháp môn. Ở đây tạm dịch là Thiền Đức.

[4] Tư lương (sambhāra): Hiểu theo nghĩa hẹp là những thứ cần dùng, cần chuẩn bị. Tư là giúp đỡ, lương là lương thực. Như người đi xa ắt phải nhờ vào lương thực để duy trì cái thân. Cũng vậy, người muốn chứng quả trong tam thừa phải nhờ công đức thiện căn làm lương thực nuôi dưỡng cái thân huệ mạng. Do vậy, Tư Lương hiểu theo nghĩa rộng là hết thảy các thứ góp phần thành tựu đạo Bồ Đề.

[5] Theo Tổ Đình Sự Uyển, quyển 5, nếu bỏ sữa và nước cùng trong một đồ đựng, ngỗng chúa chỉ uống sữa bỏ lại nước. Nước tượng trưng cho chúng sanh, sữa tượng trưng cho Phật. Dùng điển tích “ngỗng chúa chọn sữa” để tỷ dụ bậc giác ngộ sống trong thế gian chẳng bị nhiễm ô. Điển tích này còn dùng để chỉ khả năng phân biệt chân - ngụy, thiện - ác.

[6] Đây là luận điểm chủ yếu của kinh Pháp Hoa: Khai là phá trừ vô minh của chúng sanh, mở toang Như Lai Tạng, thấy được lý Thật Tướng. Thị nghĩa là hiển thị, Hoặc chướng đã trừ thì tri kiến bộc lộ bản thể, pháp giới vạn đức hiển thị phân minh. Ngộ là chứng ngộ, sau khi chướng trừ, bản thể hiện thì sự (hiện tượng), lý (bản thể) dung thông nên có sở ngộ. Nhập nghĩa là chứng nhập, tức là sự lý đã dung thông nên tự tại vô ngại, chứng nhập biển trí huệ. Sách Pháp Hoa Văn Cú quyển 4 còn mở rộng hơn, phối hợp bốn mươi địa vị Pháp Thân đại sĩ như sau:

1. Khai tương ứng địa vị Thập Trụ.
2. Thị tương ứng địa vị Thập Hạnh.
3. Ngộ tương ứng địa vị Thập Hồi Hướng.
4. Nhập tương ứng địa vị Thập Địa.

Nếu phối hợp với Tứ Trí thì Khai là Đạo Huệ, Thị là Đạo Huệ Chủng, Ngộ là Nhất Thiết Trí, Nhập là Nhất Thiết Chủng Trí…

[7] Khai Quyền hiển Thật: Khai trừ những chấp trước của Quyền Giáo, hiển thị nghĩa chân thật. Nói cách khác, khai trừ, gạt bỏ những chấp trước vào những phương tiện quyền biến để hiển thị nghĩa Nhất Thừa chân thật.

[8] Biển Hoa Tạng tức Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (Kusuma-tala Garbha Vyūhā Kāra Lokadhātu Samudra), dịch đủ nghĩa là Liên Hoa Xuất Sanh Thế Giới, hoặc Diệu Hoa Bố Địa Thai Tạng Trang Nghiêm Thế Giới, Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, Thập Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải, hoặc chỉ gọi gọn là Hoa Tạng Giới hoặc Thập Hoa Tạng. Đây là thế giới thanh tịnh trang nghiêm do đức Tỳ Lô Giá Na Phật khi tu nhân phát nguyện cảm thành. Thế giới này do Tu-di sơn vi trần số phong luân nâng giữ. Trên tầng phong luân cao nhất có một biển nước thơm. Trong ấy có một hoa sen lớn, tên là Chủng Chủng Quang Minh Nhụy Hương Tràng. Hoa Tạng Thế Giới nằm chính giữa hoa sen ấy, vây quanh bằng Kim Cang Luân Vi Sơn. Đất trong đó do Kim Cang tạo thành, kiên cố không hư hoại, thanh tịnh bằng phẳng, có thế giới hải vi trần số sự trang nghiêm. Trong ấy lại có vi trần số biển nước thơm, mỗi biển rộng bằng bốn thiên hạ và có vi trần số con sông nước thơm. Đất hai bờ sông ấy đều bằng diệu bảo trang nghiêm, xếp đặt khéo léo như lưới Thiên Đế. Trong mỗi một biển nước thơm lại có bất khả thuyết vi trần số thế giới chủng, mỗi một thế giới chủng lại gồm bất khả thuyết vi trần số thế giới. Biển nước thơm chính giữa Hoa Tạng thế giới, có tên là Vô Biên Diệu Hoa Quang. Giữa biển ấy mọc lên một hoa sen, thế giới chủng trong hoa sen ấy tên là Phổ Chiếu Thập Phương. Trong đó có hai mươi thứ bất khả thuyết vi trần số thế giới xếp vòng quanh. Đức Phật xuất hiện trong thế giới này. Sách Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương giảng thêm: Cứ mười cảnh giới Phật gọi chung là một quốc độ hải hay thế giới hải. Thế giới hải chính là các thế giới thuộc phạm vi nhiếp hóa của mười đức Phật v.v… Nói chung, cảnh giới Hoa Nghiêm Thế Giới Hải rất phức tạp, rộng lớn, hầu như không thể hình dung được nổi! Cảnh giới đã rộng lớn như thế thì dĩ nhiên thánh chúng trong ấy vô lượng vô biên không thể tính đếm được, cho nên dùng chữ “hải chúng” (chúng nhiều như biển) để tạm hình dung.

[9] Nhất xiển đề: Nhất-xiển-đề (Icchantika hoặc Ecchantika): được dịch nghĩa là đoạn thiện căn, lòng tin không đầy đủ, lòng ham muốn cùng cực, tham lam to lớn, hoặc Vô Chủng Tánh, Thiêu Chủng (hạt giống cháy), tức là hạng người không có lòng tin, đoạn sạch thiện căn. Kinh Lăng Già chia Nhất Xiển Đề thành hai loại:

1. Đoạn Thiện Xiển Đề, tức kẻ vốn thiếu nhân giải thoát (đoạn thiện căn).

2. Đại Bi Xiển Đề: Hoặc Bồ Tát Xiển Đề, tức bậc Bồ Tát thị hiện, cố ý không nhập Niết Bàn do bi nguyện.

Đa phần các kinh luận nói Nhất Xiển Đề không thể thành Phật, riêng Đại Bát Niết Bàn kinh khẳng định Nhất Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật.

[10] Có hai cách hiểu chữ “Trí Đoạn”:

1. Dùng trí Bát Nhã đoạn trừ phiền não.

2. Trí Đoạn là Trí Đức và Đoạn Đức. Soi thấu tỏ chân lý thì gọi là Trí Đức, đây chính là Bồ Đề. Đoạn sạch phiền não thì gọi là Đoạn Đức, tức là Niết Bàn.

[11] Gọi đủ là Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận, gồm 120 quyển của cư sĩ Lý Thông Huyền soạn vào đời Đường, tác phẩm này được xếp vào Tục Tạng Kinh quyển 5. Đây là tác phẩm chú giải bản dịch kinh Hoa Nghiêm 80 cuốn (Bát Thập Hoa Nghiêm). Nội dung cuốn luận này chia kinh Hoa Nghiêm làm mười môn để nêu tỏ những ý nghĩa trọng yếu: Y giáo tông phần, y tông giáo biệt, giáo nghĩa sai biệt, thành Phật đồng biệt, thuyết giáo thời phần, Tịnh Độ quyền thật, nhiếp hóa cảnh giới, nhân quả diên súc (nhân quả kéo dài hay rút ngắn), hội giáo thỉ chung. Tác giả Lý Thông Huyền đặc biệt sùng mộ giáo thuyết Thập Huyền Lục Tướng của tông Pháp Tướng nên đã vận dụng những khái niệm này vào trong cách giải thích kinh điển. Tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận này đã ảnh hưởng sâu đậm đến ngài Thanh Lương Trừng Quán, ta có thể thấy rõ điều này qua tác phẩm Hoa Nghiêm Đại Sớ Sao.

[12] Tức Lý Thông Huyền (635-730) là học giả Hoa Nghiêm thời Đường, xuất thân từ hoàng tộc, quê ở Thương Châu (nay thuộc Thương Huyện, tỉnh Hà Bắc), thông minh dĩnh ngộ, tinh thông sách Nho lẫn kinh Phật. Năm Khai Nguyên thứ 7 (719), ông ẩn cư ở Phương Sơn, Thọ Dương, phủ Thái Nguyên để nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch (tức Bát Thập Hoa Nghiêm), chỉ ăn táo, lá tùng bách để sống suốt mấy năm trong núi. Vì vậy, thế gian gọi là Táo Bách (Bá) tiên sinh. Tháng Ba, năm Khai Nguyên thứ 18 (730), ông tọa hóa trong thất, hưởng thọ 96 tuổi. Tống Huy Tông ban hiệu là Hiển Giáo Diệu Nghiêm Trưởng Giả. Do vậy, người ta thường gọi ông là Lý Trưởng Giả. Ông lưu lại những tác phẩm như Hoa Nghiêm Kinh Hội Thích Luận 14 quyển, Tân Hoa Nghiêm Kinh Luận 40 quyển, Lược Thích Tân Hoa Nghiêm Kinh Tu Hành Thứ Đệ Quyết Nghi Luận 4 quyển, Thích Giải Mê Hiển Trí Thành Bi Thập Minh Luận 1 quyển, Thập Huyền Lục Tướng, Bách Môn Nghĩa Hải, Phổ Hiền Hạnh Môn, Hoa Nghiêm Quán… Lý Thông Huyền được coi là một nhân vật tiên phong trong trào lưu nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch.

[13] Ô Trà (Odra), nước cổ ở Đông Ấn Độ, nay là Orissa, thường bị người Hán phiên sai thành Ô Trành. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, người dân xứ này khôi ngô, hiếu học, tín phụng Phật pháp, Tăng chúng đông đến hơn vạn người, đều học giáo pháp Đại Thừa.

[14] Đăng Địa Bồ Tát: tức Địa Thượng Bồ Tát, hay nói cách khác, những vị đã chứng từ Sơ Địa cho đến Thập Địa.

[15] Lục đạo cụ phược phàm phu: Phàm phu trong sáu nẻo có đầy đủ các món phiền não, chưa đoạn được một món nào.

[16] Tức ngài Trúc Đạo Sanh (355-434), nhà học giả Niết Bàn thời Đông Tấn. Ngài là người Cự Lộc (nay thuộc Bình Hương, Hà Bắc), họ Ngụy. Sư nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ, xuất gia với ngài Trúc Pháp Thải. Năm 15 tuổi đã lên tòa giảng, bậc túc học danh sĩ cũng không biện luận thắng Sư được. Khi ngài Tăng Già Đề Bà dừng gót tại Lô Sơn, dịch A Tỳ Đàm Tâm Luận, Sư bèn theo học giáo nghĩa Nhất Thiết Hữu Bộ với ngài. Khi ngài Cưu Ma La Thập vào Trung Nguyên, Sư lại quảy tráp theo học. Sư cùng với các vị Đạo Dung, Tăng Duệ, Tăng Triệu trở thành những học trò kiệt xuất của ngài La Thập, được đời gọi bằng mỹ hiệu “Quan Nội Tứ Thánh”. Sư từng thỉnh ngài Phật Đà Thập dịch bộ Ngũ Phần Luật. Sư tinh thông học thuyết của các ngài Long Thọ, Đề Bà v.v… Chính Sư đề xướng thuyết “đốn ngộ thành Phật” và soạn các bộ luận Nhị Đế Luận, Phật Tánh Đương Hữu Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Tịnh Độ Luận. Nhân đọc bộ Nê Hoàn Kinh sáu quyển do ngài Pháp Hiển dịch, Sư bèn đề ra thuyết Nhất Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật. Lúc ấy, kinh Đại Bát Niết Bàn chưa truyền đến Trung Hoa, nên thuyết này của Sư bị công kích kịch liệt. Sư bị đại chúng tẫn xuất, phải ẩn cư tại Lô Sơn. Về sau, bản Đại Bát Niết Bàn Kinh của ngài Đàm Vô Sấm truyền đến phương Nam, nội dung hoàn toàn tương đồng với thuyết của ngài Đạo Sanh, đại chúng hết sức khâm phục. Theo truyền thuyết, Sư từng gom đá ở núi Hổ Khâu, tỉnh Giang Tô làm pháp chúng để giảng kinh. Do vậy mới có câu “Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu” (ngài Đạo Sanh giảng kinh, đá cũng gật đầu). Ngài mất trong khi đang giảng pháp trên tòa sư tử, thọ tám mươi tuổi.

[17] Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) là Thiền tăng đời Đường, người Tào Châu, Hác Hương (có thuyết nói là Thanh Châu, Lâm Truy), họ Hác, pháp hiệu Tùng Thẩm. Xuất gia từ nhỏ tại Hỗ Thông Viện, Tào Châu. Trước khi thọ Cụ Túc Giới đã từng tham yết ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện. Sau khi thọ giới tại Lưu Ly Đàn ở Tung Sơn, quay lại y chỉ với ngài Nam Tuyền hai mươi năm. Sau đó tham học khắp với các đại đức Bảo Thọ, Diêm Quan, Giáp Sơn, Ngũ Đài v.v… Năm Sư tám mươi tuổi, đại chúng thỉnh trụ tích tại Quán Âm Viện thuộc Đông Thành, Triệu Châu. Sư tận lực chấn hưng Nam Tông Thiền suốt bốn mươi năm, thọ 120 tuổi, được vua ban thụy hiệu là Chân Tế Đại Sư.

[18] Đây là một điển tích xuất phát từ sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 11. Nguyên văn: “Nhận lư yên kiều tác a da hạ hàm”. “Yên kiều” tức là cái yên ngựa, do hình trạng của nó giống như cái cầu nên gọi như thế. “Lư yên kiều” có nghĩa là cái xương lừa có hình dạng giống như cái yên ngựa, chứ không phải thật sự là yên ngựa. Trong truyện cổ dân gian Trung Quốc có chuyện đứa trẻ ngu si tưởng lầm cái xương lừa hình yên ngựa là xương hàm của cha. Thiền lâm hay dùng hình ảnh này để ví cho kẻ ngu muội, chẳng phân biệt được thật - giả.

[19] Bách Trượng Hoài Hải (720-814): Cao tăng đời Đường, từ nhỏ đã thích đi thăm chùa viện. Năm 20 tuổi, xuất gia với ngài Huệ Chiếu ở Tây Sơn, sau thọ Cụ Túc Giới với ngài Pháp Triều luật sư. Khi gặp Mã Tổ Đạo Nhất hoằng pháp tại Nam Khang bèn hết sức ngưỡng mộ, y chỉ theo, được ngài Mã Tổ ấn khả. Sư cùng với Tây Đường Trí Tạng, và Nam Tuyền Phổ Nguyện được xưng tụng là “tam đại sĩ”. Về sau, Sư lập thiền viện ở núi Bách Trượng tỉnh Giang Tây, chế định Thanh Quy, hướng dẫn đại chúng tu trì. Thanh Quy tức là quy định sinh hoạt của Tăng đoàn theo chế độ nông thiền. Sư thường nói: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”. Sư nhập diệt năm Nguyên Hòa thứ chín, thọ 95 tuổi, được vua ban thụy hiệu là Đại Trí Thiền Sư. Các đệ tử nổi tiếng của Sư là Hoàng Bá Hy Vận, Quy Sơn Linh Hựu v.v… Thanh Quy do Sư lập ra được gọi là Bách Trượng Thanh Quy, được khắp các tùng lâm trong thiên hạ tuân phụng.

[20] Luận Tỳ Bà Sa nói ở đây là bộ Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận do ngài Long Thọ Bồ Tát soạn. Trong quyển năm của luận này, có câu: “Phật pháp có vô lượng môn, như đường đi trên thế gian có khó, có dễ. Đi theo đường bộ thì khó nhọc, đi đường thủy ngồi thuyền thì sung sướng. Bồ Tát đạo cũng giống như thế, có đạo thì khó hành tinh tấn, có đạo chỉ dùng lòng tin làm phương tiện, dễ đi, mau đạt đến địa vị Bất Thoái”. Tỳ Bà Sa (Vibhasa) có nghĩa là Quảng Giải (giảng giải rộng lớn), Quảng Thuyết (nói rộng), Thắng Thuyết, Chủng Chủng Thuyết, tức là những trước tác nhằm chú giải luật hay luận. Ngoài ra, còn một thể loại nhằm giải thích chi tiết kinh luận được gọi Tỳ Bà Sa Luận (Vibhasa-sastra). Hiện trong Đại Tạng có bốn bộ Tỳ Bà Sa Luận: A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận, Tỳ Bà Sa Luận, Ngũ Sự Tỳ Bà Sa Luận và Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (Dasabhumika-vibhasa-sastra). Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận gồm 17 quyển, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán, thường gọi tắt là Thập Trụ Luận. Bộ luận này nhằm giải thích phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm (tức biệt bản của kinh Hoa Nghiêm với danh xưng Thập Địa Kinh). Ngài La Thập dịch chữ Thập Địa thành Thập Trụ nên luận này có tên như vậy. Thiên thứ 9 trong phẩm thứ 35 của luận này chính là Dị Hành Phẩm, là một điển tịch trọng yếu của Tịnh Tông.

[21] Phần đoạn sanh tử là sự sanh tử của chúng sanh trong tam giới. Do quả báo sai khác nên có hình mạo, thọ lượng sai khác. Vì vậy gọi là phần đoạn (đoạn diệt theo phần hạn). Theo Duy Thức Học, phần đoạn sanh tử lấy nghiệp thiện ác làm thân nhân (cái nhân gần), lấy phiền não chướng làm trợ duyên để cảm quả trong tam giới. Do tuổi thọ có dài ngắn khác nhau, do sức nhân duyên nên có hạn định khác biệt; do vậy gọi là Phần Đoạn. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại chia phần đoạn sanh tử thành ác đạo phần đoạn (quả báo trong tam đồ) và thiện đạo phần đoạn (quả báo trong đường trời người).

[22] Chân thuyên: lời giảng về lẽ thật, về chân lý.

Ấn Quang Đại Sư (Tổ Sư Đời Thứ 13 Của Tịnh Độ Tông Và Cũng Là Hóa Thân Của Đại Thế Chí Bồ Tát) dạy:

Pháp môn Tịnh Độ quả là đường lối chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới độ chúng sanh, mà cũng là đạo trọng yếu để hết thảy chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp cậy vào Phật từ lực, liễu thoát ngay trong một đời này. Ấy là vì hết thảy các pháp môn đức Như Lai đã nói, không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh thoát sanh tử, thành Phật đạo; nhưng do thượng căn thì ít, trung hạ căn lại đông, nên người được liễu thoát ngay trong một đời dẫu nhằm thời Chánh Pháp, Tượng Pháp còn chẳng thể thấy nhiều, huống gì thời Mạt Pháp căn cơ con người kém hèn, tuổi thọ ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, tà ma ngoại đạo tung hoành ư? Do vậy, đức Như Lai đã xét thấu trước cơ nghi, đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ nhằm làm cho hết thảy chúng sanh dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn đều chăm chú tu trì, đều cùng trong đời này vãng sanh Tịnh Độ. Bậc thượng căn thì mau thành Phật đạo, kẻ hạ căn cũng được dự vào dòng thánh.

So với những pháp môn cậy vào tự lực đã nói trong cả một đời đức Phật [thì pháp này] hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít được hiệu quả nhanh chóng. Do vì Phật lực, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, lại thêm sức Tín - Nguyện - Hạnh của chúng sanh nên bất luận công phu sâu hay cạn, tội nghiệp nặng hay nhẹ đều được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Do vậy, trong các kinh Đại Thừa, đức Như Lai đều nói kèm pháp này, như các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… Còn kinh chuyên nói [về pháp Tịnh Độ] thì có kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Trong ba kinh này, phàm là thệ nguyện của Phật Di Đà, sự trang nghiêm của Tịnh Độ, nhân vãng sanh của ba bậc chín phẩm, mười phương chư Phật tán thán đều được nêu rõ không còn sót.

Thế nhưng kinh A Di Đà ngôn từ ngắn gọn, nghĩa lý đầy đủ, dễ thọ trì nhất. Do vậy, cổ nhân xếp vào khóa tụng hằng ngày, bất luận dù Tông, dù Giáo, dù Luật đều đọc tụng trong khóa tối, nghĩa là cả thiên hạ dù Tăng hay tục không ai chẳng lấy Tịnh Độ làm chỗ quy hướng. Tuy hành trì như thế nhưng nếu chẳng suy xét kỹ càng nguyên do Phật, Tổ lập pháp thì sẽ vẫn chẳng coi chuyện cầu sanh Tây Phương là trọng. Đấy chính là “dùng hằng ngày mà không biết, quen làm mà chẳng xem xét”. Dù là bậc cao nhân thông Tông thông Giáo vẫn còn rất nhiều người đề cao pháp môn Tự Lực, chẳng chịu tin tưởng nương cậy Phật lực. Chí ấy cố nhiên là cao, nhưng sự thật khó thể đạt được ngay trong đời này. Nếu như chưa đoạn sạch được Hoặc nghiệp, phải thọ sanh lần nữa, quá nửa bị mê mất. Không những mọi điều mong mỏi đều thành bánh vẽ mà còn có mối lo do phước tạo nghiệp, thân sau phải đọa lạc! Do đó, phải nói là “thật đáng kinh hãi!”

Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp của cả một đời đức Phật, chẳng thể dùng những pháp môn thông thường để bàn luận được. Nếu chẳng hiểu rõ nghĩa này, cứ viện vào nghĩa lý của những pháp môn cậy vào tự lực thông thường để rồi ngờ vực lợi ích của pháp môn đặc biệt cậy vào Phật lực, chẳng chịu tin nhận thì sẽ bị mất mát to lớn. Phật nói pháp này khó tin chính là ngụ ý này vậy.

Ông mang mấy thứ mà tôi không có dùng cho tôi làm gì. tôi chỉ hỏi ông :
Bạn có thể nói dùm là tại sao pháp mônTịnh Độ thù thắng nhiếp độ tất cả căn cơ của chúng sanh như thế , mà Đức Phật sau khi thành đạo không phổ truyền liền cho chúng sinh sớm được đến Tây Phương mà hưởng cái an lạc rồi tu cho thành Phật luôn thể , mà lại phải nói hết cách này đến cách khác, nói ngược nói xuôi.... rồi mới nói đến môn Tịnh Độ?
Với lại , nếu đúng là môn Tịnh Độ thù thắng , thẳng tắt , mau chóng liễu ngộ như vậy, sao các vị bên nhà thiền không bỏ thiền mà sang Tịnh Độ cho khỏe hơn không?
Tôi thấy ngày nay , hầu như 80 - 90% những người học Phật đều chọn Môn Tịnh Độ, nhất là thường xuyên tụ hội ( Pháp hội rồi thường nhật ngày đêm đông đúc lắm) họ hớn hở hân hoan ngồi đâu cũng bàn luận Phật Pháp, Thầy nọ , Thầy kia học từ các vị ở bên Tàu , bên Ấn...
Có phải 80 - 90% đó là những người có trí tuệ thật sự mới lãnh hội và tin theo Tịnh Độ, còn lại là kém cỏi và thiếu niềm tin ...?
Lại nữa tôi thấy các vị theo Tịnh Độ có đi sang đất Phật bên ấn độ, rồi đem một gói đất , nói là từ chỗ Phật thành đạo , rồi về mua tháp thủy tinh, Phalê có cái tiền triệu , đem bỏ nắm đất đó vào rồi đưa lên bàn thờ, thờ trong nhà như thờ thánh thần vậy. Chắc những người này họ đã nhìn thấy Phật trong nắm đất đó phải ? họ đã làm đúng với tinh thần của người theo Tịnh Độ rồi chứ.
Tại sao không trả lời thẳng vào câu hỏi, mà bằng sức học của mình ấy chứ.
Còn cứ nghe tiếng sao nơi đầu thôn mà ngẩn ngơ theo điệu nhạc là sao?
Hãy trả lời mấy điều trên cho thật vào.
Còn ông có muốn tôi dập đầu ông bằng kinh sách không?
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Ông mang mấy thứ mà tôi không có dùng cho tôi làm gì. tôi chỉ hỏi ông :
Bạn có thể nói dùm là tại sao pháp mônTịnh Độ thù thắng nhiếp độ tất cả căn cơ của chúng sanh như thế , mà Đức Phật sau khi thành đạo không phổ truyền liền cho chúng sinh sớm được đến Tây Phương mà hưởng cái an lạc rồi tu cho thành Phật luôn thể , mà lại phải nói hết cách này đến cách khác, nói ngược nói xuôi.... rồi mới nói đến môn Tịnh Độ?
Với lại , nếu đúng là môn Tịnh Độ thù thắng , thẳng tắt , mau chóng liễu ngộ như vậy, sao các vị bên nhà thiền không bỏ thiền mà sang Tịnh Độ cho khỏe hơn không?
Tôi thấy ngày nay , hầu như 80 - 90% những người học Phật đều chọn Môn Tịnh Độ, nhất là thường xuyên tụ hội ( Pháp hội rồi thường nhật ngày đêm đông đúc lắm) họ hớn hở hân hoan ngồi đâu cũng bàn luận Phật Pháp, Thầy nọ , Thầy kia học từ các vị ở bên Tàu , bên Ấn...
Có phải 80 - 90% đó là những người có trí tuệ thật sự mới lãnh hội và tin theo Tịnh Độ, còn lại là kém cỏi và thiếu niềm tin ...?
Lại nữa tôi thấy các vị theo Tịnh Độ có đi sang đất Phật bên ấn độ, rồi đem một gói đất , nói là từ chỗ Phật thành đạo , rồi về mua tháp thủy tinh, Phalê có cái tiền triệu , đem bỏ nắm đất đó vào rồi đưa lên bàn thờ, thờ trong nhà như thờ thánh thần vậy. Chắc những người này họ đã nhìn thấy Phật trong nắm đất đó phải ? họ đã làm đúng với tinh thần của người theo Tịnh Độ rồi chứ.
Tại sao không trả lời thẳng vào câu hỏi, mà bằng sức học của mình ấy chứ.
Còn cứ nghe tiếng sao nơi đầu thôn mà ngẩn ngơ theo điệu nhạc là sao?
Hãy trả lời mấy điều trên cho thật vào.
Còn ông có muốn tôi dập đầu ông bằng kinh sách không?

23473040_1772313616403886_7473898458498074782_n.jpg


23559635_1771746693127245_2818569110672645109_n.jpg


11219126_1488208191481098_8562400897013483259_n.jpg
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10 Thg 11 2013
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43

Này thằng điên. tự mình còn bất khả đắc thì lấy cái gì để độ , độ cái gì hử?
Không nghe cổ đức nói pháp với pháp chẳng đến với nhau được bởi pháp vốn tịch diệt hứ?
Còn mấy cái cọ quậy mấp mấy hai miêng da chỉ là chơi bời cho hết ngày tháng rồi chết thì tùy theo khi sống ham muốn thành chi thì rồi thành cái đó chứ độ điếc chi hứ.
Mấy cái ảnh đó mà cứ ám trong lòng thì rồi không biết có đến tây phương hay là ra bãi rác nằm cũng nên .hahahaahahahahahahahahaha........
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Này thằng điên. tự mình còn bất khả đắc thì lấy cái gì để độ , độ cái gì hử?
Không nghe cổ đức nói pháp với pháp chẳng đến với nhau được bởi pháp vốn tịch diệt hứ?
Còn mấy cái cọ quậy mấp mấy hai miêng da chỉ là chơi bời cho hết ngày tháng rồi chết thì tùy theo khi sống ham muốn thành chi thì rồi thành cái đó chứ độ điếc chi hứ.
Mấy cái ảnh đó mà cứ ám trong lòng thì rồi không biết có đến tây phương hay là ra bãi rác nằm cũng nên .hahahaahahahahahahahahaha........
23561738_1773283139640267_1328719100085746773_n.jpg
 

Bkav

Registered
Phật tử
Tham gia
19 Thg 11 2017
Bài viết
13
Điểm tương tác
8
Điểm
3
Về cảnh giới Tây phương cực lạc, phân tích sâu thì còn nhiều điều để bàn. Với tôi, có hai quan điểm trái chiều:

1. Cảnh giới Tây phương cực lạc là có thật (thường được lưu truyền bằng hình thức người này nói cho người kia).

2. Tôi tin rằng nhiều người thấy các cảnh này cảnh khác là có, nhưng nếu đối chiếu với khoa học, có thể các cảnh đó là các cảnh tưởng, kết quả của một quá trình ám thị lâu dài, hoặc do sự hoạt động bất bình thường của não bộ (có thể do chấn thương hoặc chính cách niệm A di đà liên tục đã tạo ra sự bất thường này).

Dù sao mọi thứ vẫn đang để ngỏ.



Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây:

Trong kỳ thi môn Tâm lý Thần học, các sinh viên đến từ nhiều nguồn khác nhau gặp được cùng một đề thi như sau:

“Trong cùng một hoàn cảnh bị hoảng hốt thình lình, mỗi nhóm người có sự thể hiện chung những phản ứng khác nhau:

- Nhóm Tịnh Độ hô: “Mô Phật!” hay “Nam Mô A Di Đà Phật!”
- Nhóm Thiên Chúa giáo la: “Giê Su Ma lạy Chúa tôi!”
- Nhóm Hồi giáo kêu: “Ối, A-la!”
- Nhóm Đa Thần giáo hét: “Trời, Đất, Thánh, Thần, Thiên, Địa ơi!”
- Nhóm Tây phương rên: “Oh, my God!”

Nếu đêm về những người trong mỗi nhóm đều nằm mơ gặp được vị giáo chủ hoặc thần linh của mình, hiện tượng này là gì? Giải thích nguyên nhân?”

Các bài làm đều có những cách trả lời khác nhau. Nói chung có thể phân chia thành các nhóm ý chính như sau:

_ Ý kiến 1: Điều này chứng tỏ các hiện tượng siêu nhiên thuộc Thượng Đế, Chúa, Phật, Thánh, Thần là có thật! Các Ngài luôn ở bên cạnh con người, thể hiện qua nhiều hình thức để cứu giúp con người.

_ Ý kiến 2: Đây là sự giao thoa, giao cảm, linh ứng cụ thể của thế giới siêu hình mầu nhiệm, nhưng chỉ có những người có những đức tin mạnh mẽ, thuần khiết mới cảm nhận được.

_ Ý kiến 3: Theo Duy vật Biện chứng, đó chỉ là sự ngẫu nhiên và đương nhiên. Ngẫu nhiên vì không phải ai và bất cứ lúc nào cũng thấy được như vậy. Và đương nhiên, vì cũng giống như các cô gái mới lớn cứ thầm gọi tên và nhớ nghĩ đến người mình yêu, tất sẽ có lúc nằm mơ gặp được “người trong mộng”. Ảo tưởng và thực tế rất khác nhau, vì thế chẳng có thần thánh, ma quỷ gì cả.

_ Ý kiến 4: Trong cùng một nhóm người có cùng một khẩu hành X sẽ tạo nên tiềm thức X giống nhau, với nhân duyên thích ứng sẽ thể hiện thành một tưởng thức X tương tự nhau, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng đồng nhất”. Nhưng so với các nhóm khác có các khẩu hành khác nên có tiềm thức khác và tưởng thức cũng khác, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng sai biệt”.

Các quan điểm trên tuy khác nhau nhưng đều có những lập luận vững chắc, những chứng cứ kiên cố hậu thuẫn, nên số điểm vẫn chưa được xác định.

Có lẽ do câu hỏi quá khó nên đến nay kỳ thi này là trường hợp duy nhất không công bố kết quả cụ thể. Có thể các sinh viên sẽ phải thi lại một đề thi khác. Còn quý vị đọc đến đây nghĩ như thế nào?

( Trích từ https://dieuphapcuukho.blogspot.com/2015/11/tam-ly-than-hoc.html?m=1)
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Về cảnh giới Tây phương cực lạc, phân tích sâu thì còn nhiều điều để bàn. Với tôi, có hai quan điểm trái chiều:

1. Cảnh giới Tây phương cực lạc là có thật (thường được lưu truyền bằng hình thức người này nói cho người kia).

2. Tôi tin rằng nhiều người thấy các cảnh này cảnh khác là có, nhưng nếu đối chiếu với khoa học, có thể các cảnh đó là các cảnh tưởng, kết quả của một quá trình ám thị lâu dài, hoặc do sự hoạt động bất bình thường của não bộ (có thể do chấn thương hoặc chính cách niệm A di đà liên tục đã tạo ra sự bất thường này).

Dù sao mọi thứ vẫn đang để ngỏ.



Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây:

Trong kỳ thi môn Tâm lý Thần học, các sinh viên đến từ nhiều nguồn khác nhau gặp được cùng một đề thi như sau:

“Trong cùng một hoàn cảnh bị hoảng hốt thình lình, mỗi nhóm người có sự thể hiện chung những phản ứng khác nhau:

- Nhóm Tịnh Độ hô: “Mô Phật!” hay “Nam Mô A Di Đà Phật!”
- Nhóm Thiên Chúa giáo la: “Giê Su Ma lạy Chúa tôi!”
- Nhóm Hồi giáo kêu: “Ối, A-la!”
- Nhóm Đa Thần giáo hét: “Trời, Đất, Thánh, Thần, Thiên, Địa ơi!”
- Nhóm Tây phương rên: “Oh, my God!”

Nếu đêm về những người trong mỗi nhóm đều nằm mơ gặp được vị giáo chủ hoặc thần linh của mình, hiện tượng này là gì? Giải thích nguyên nhân?”

Các bài làm đều có những cách trả lời khác nhau. Nói chung có thể phân chia thành các nhóm ý chính như sau:

_ Ý kiến 1: Điều này chứng tỏ các hiện tượng siêu nhiên thuộc Thượng Đế, Chúa, Phật, Thánh, Thần là có thật! Các Ngài luôn ở bên cạnh con người, thể hiện qua nhiều hình thức để cứu giúp con người.

_ Ý kiến 2: Đây là sự giao thoa, giao cảm, linh ứng cụ thể của thế giới siêu hình mầu nhiệm, nhưng chỉ có những người có những đức tin mạnh mẽ, thuần khiết mới cảm nhận được.

_ Ý kiến 3: Theo Duy vật Biện chứng, đó chỉ là sự ngẫu nhiên và đương nhiên. Ngẫu nhiên vì không phải ai và bất cứ lúc nào cũng thấy được như vậy. Và đương nhiên, vì cũng giống như các cô gái mới lớn cứ thầm gọi tên và nhớ nghĩ đến người mình yêu, tất sẽ có lúc nằm mơ gặp được “người trong mộng”. Ảo tưởng và thực tế rất khác nhau, vì thế chẳng có thần thánh, ma quỷ gì cả.

_ Ý kiến 4: Trong cùng một nhóm người có cùng một khẩu hành X sẽ tạo nên tiềm thức X giống nhau, với nhân duyên thích ứng sẽ thể hiện thành một tưởng thức X tương tự nhau, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng đồng nhất”. Nhưng so với các nhóm khác có các khẩu hành khác nên có tiềm thức khác và tưởng thức cũng khác, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng sai biệt”.

Các quan điểm trên tuy khác nhau nhưng đều có những lập luận vững chắc, những chứng cứ kiên cố hậu thuẫn, nên số điểm vẫn chưa được xác định.

Có lẽ do câu hỏi quá khó nên đến nay kỳ thi này là trường hợp duy nhất không công bố kết quả cụ thể. Có thể các sinh viên sẽ phải thi lại một đề thi khác. Còn quý vị đọc đến đây nghĩ như thế nào?

( Trích từ https://dieuphapcuukho.blogspot.com/2015/11/tam-ly-than-hoc.html?m=1)
15193612_657102117802682_1428382254703794330_n.jpg


NHỮNG KẺ HỦY BÁNG KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA ĐÓ ĐÃ DÙNG TAI, MẮT, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý TẠO RA ĐỦ THỨ ÁC NGHIỆP, NÊN KHI HỌ SINH LÀM NGƯỜI THÌ THÀNH NHỮNG KẺ MẮC BỊNH TÂM LÝ BIẾN THÁI, TRỞ NÊN VÔ TRI, VÔ GIÁC

Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là:

1. Ðoạn dâm (dứt dâm dục)
2. Ðoạn sát (dứt giết hại)
3. Ðoạn thâu (dứt trộm cắp)
4. Ðoạn vọng (dứt nói dối).

Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!

Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy, nhưng có người lại không tin. Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải thiện, cũng không cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo!

Trong các bộ kinh mà Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật, cho đến những kẻ dùng đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa, thì tôi cũng không tin được! Tại vì sao? Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là "vô minh tội nghiệp." Kinh này chính là "đối bịnh cho thuốc," là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi. Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm hại mình rồi hại người khác vậy!

Bởi vậy cho nên những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những vị học giả danh tiếng như vầy, có những nhà giáo sư nổi tiếng như kia, hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm này là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy dẫy.

Nếu thật sự đúng như vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật Giáo không cần phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra sao, tất cả mọi thứ đều nhất tề vất bỏ hết! Các vị thử nghĩ coi, loại người như vậy thật là ác độc vô cùng; nếu những người như thế đó mà không bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa!

Mới đây tôi có nói đến một em bé bị bịnh thần kinh (em bé này có bịnh tâm lý biến thái, hành vi quái dị, toàn thân đều có bịnh). Ðứa bé này sở dĩ bị bịnh là vì kiếp trước đã từng hủy báng kinh điển Ðại Thừa, tạo nên tội nghiệp đọa địa ngục Vô Gián, bây giờ sinh ra làm người phải chịu quả báo như vậy. Ðó cũng là vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay là giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản hữu trí huệ của mình bị hủy diệt đi; thật là đáng thương thay!

Bởi những kẻ hủy báng kinh điển Ðại Thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra đủ thứ ác nghiệp, nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm lý biến thái, trở nên vô tri, vô giác, đến khi thọ ác báo rồi, lại còn cho rằng mình là hay là giỏi lắm!

Chúng ta không nên dùng cái "thông minh giả" của mình mà hủy báng lời Phật. Nào là những kẻ rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo sư uyên bác, nào là các vị Pháp Sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy báng Phật Pháp thì vô hình trung, lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh mất đi lòng tin chơn chính. Cho nên các vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau, họ sẽ đầu thai làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm! Bởi vì họ làm hại tri kiến của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật là vô cùng nguy hại!

Các vị hãy nghĩ coi, vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ không thể làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi! Không trộm cắp thì ở trên bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp, nhưng thực sự có rất nhiều học giả, giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh hay của kẻ khác rồi vá víu lại để làm của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ khác mà làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy! Nếu một ngày nào mà họ nói những lời lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi! Ðương nhiên không phải tất cả những vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại.

Bởi vì không làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên họ sợ hãi, và không thể chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì họ không thể tồn tại, và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời:

"Khoát đạt không,
Bát nhân quả,
Mãng mãng đãng đãng, Chiêu ương họa."

Nghĩa là:

"Phủ nhận hết mọi thứ,
Bác bỏ luật nhân quả,
Thì tự chuốc lấy tai ương."

Trong tương lai họ sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián, lúc đó họ có hối lỗi thì không còn kịp nữa!

Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ Chín Của Quy Ngưỡng Tông)
 

Bkav

Registered
Phật tử
Tham gia
19 Thg 11 2017
Bài viết
13
Điểm tương tác
8
Điểm
3
Về cảnh giới Tây phương cực lạc, phân tích sâu thì còn nhiều điều để bàn. Với tôi, có hai quan điểm trái chiều:

1. Cảnh giới Tây phương cực lạc là có thật (thường được lưu truyền bằng hình thức người này nói cho người kia).

2. Tôi tin rằng nhiều người thấy các cảnh này cảnh khác là có, nhưng nếu đối chiếu với khoa học, có thể các cảnh đó là các cảnh tưởng, kết quả của một quá trình ám thị lâu dài, hoặc do sự hoạt động bất bình thường của não bộ (có thể do chấn thương hoặc chính cách niệm A di đà liên tục đã tạo ra sự bất thường này).

Dù sao mọi thứ vẫn đang để ngỏ.



Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây:

Trong kỳ thi môn Tâm lý Thần học, các sinh viên đến từ nhiều nguồn khác nhau gặp được cùng một đề thi như sau:

“Trong cùng một hoàn cảnh bị hoảng hốt thình lình, mỗi nhóm người có sự thể hiện chung những phản ứng khác nhau:

- Nhóm Tịnh Độ hô: “Mô Phật!” hay “Nam Mô A Di Đà Phật!”
- Nhóm Thiên Chúa giáo la: “Giê Su Ma lạy Chúa tôi!”
- Nhóm Hồi giáo kêu: “Ối, A-la!”
- Nhóm Đa Thần giáo hét: “Trời, Đất, Thánh, Thần, Thiên, Địa ơi!”
- Nhóm Tây phương rên: “Oh, my God!”

Nếu đêm về những người trong mỗi nhóm đều nằm mơ gặp được vị giáo chủ hoặc thần linh của mình, hiện tượng này là gì? Giải thích nguyên nhân?”

Các bài làm đều có những cách trả lời khác nhau. Nói chung có thể phân chia thành các nhóm ý chính như sau:

_ Ý kiến 1: Điều này chứng tỏ các hiện tượng siêu nhiên thuộc Thượng Đế, Chúa, Phật, Thánh, Thần là có thật! Các Ngài luôn ở bên cạnh con người, thể hiện qua nhiều hình thức để cứu giúp con người.

_ Ý kiến 2: Đây là sự giao thoa, giao cảm, linh ứng cụ thể của thế giới siêu hình mầu nhiệm, nhưng chỉ có những người có những đức tin mạnh mẽ, thuần khiết mới cảm nhận được.

_ Ý kiến 3: Theo Duy vật Biện chứng, đó chỉ là sự ngẫu nhiên và đương nhiên. Ngẫu nhiên vì không phải ai và bất cứ lúc nào cũng thấy được như vậy. Và đương nhiên, vì cũng giống như các cô gái mới lớn cứ thầm gọi tên và nhớ nghĩ đến người mình yêu, tất sẽ có lúc nằm mơ gặp được “người trong mộng”. Ảo tưởng và thực tế rất khác nhau, vì thế chẳng có thần thánh, ma quỷ gì cả.

_ Ý kiến 4: Trong cùng một nhóm người có cùng một khẩu hành X sẽ tạo nên tiềm thức X giống nhau, với nhân duyên thích ứng sẽ thể hiện thành một tưởng thức X tương tự nhau, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng đồng nhất”. Nhưng so với các nhóm khác có các khẩu hành khác nên có tiềm thức khác và tưởng thức cũng khác, trường hợp này gọi là “thân sai biệt, tưởng sai biệt”.

Các quan điểm trên tuy khác nhau nhưng đều có những lập luận vững chắc, những chứng cứ kiên cố hậu thuẫn, nên số điểm vẫn chưa được xác định.

Có lẽ do câu hỏi quá khó nên đến nay kỳ thi này là trường hợp duy nhất không công bố kết quả cụ thể. Có thể các sinh viên sẽ phải thi lại một đề thi khác. Còn quý vị đọc đến đây nghĩ như thế nào?

( Trích từ https://dieuphapcuukho.blogspot.com/2015/11/tam-ly-than-hoc.html?m=1)

Ở trên mình phỉ báng chỗ nào khi đức phật dạy: chớ có tin, chớ có tin. Và bạn cần phân biệt giữa phỉ báng và đặt nghi vấn.

Thân
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông) dạy:

Bậc Sơ Địa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của hàng Nhị Địa Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát thì không thể biết được cảnh giới của Đẳng Giác Bồ Tát, Sơ Quả A La Hán thì không thể biết được cảnh giới của Nhị Quả A La Hán... Cho nên, khi chưa có được trí huệ chân chánh thì chúng ta không nên sanh tâm hủy báng Tam Bảo.

Tại sao có những người muốn hủy báng Tam Bảo? Đó là vì họ không có tín tâm! Nguyên nhân nào khiến những kẻ ấy không có tín tâm? Tùy theo trường hợp, có lúc là do họ giao du nhằm bạn xấu mà ra. "Bạn xấu" là bao gồm những kẻ xấu xa, ác độc, không hiểu Phật Pháp. Những kẻ ác không hiểu Phật Pháp thì thường hủy báng Tam Bảo, do đó nếu người nào kết giao với họ thì cũng bị tiêm nhiễm, dần dần cũng có thói khinh chê, hủy hoại Tam Bảo như họ vậy.

Ngoài ra, những người siểm khúc, ngu si cũng thường hủy báng Tam Bảo. Thế nào gọi là "siểm khúc"? "Siểm khúc" là siểm nịnh, nịnh nọt—người thời nay thường nói là "tâng bốc, bợ đỡ." Như có những người không tiếc lời ca tụng, tấm tắc khen ngợi quý vị, để được quý vị tin yêu, rồi sau đó lợi dụng sự tin yêu của quý vị để mưu đồ lợi lộc riêng tư—như thế gọi là "siểm khúc," bởi tâm địa của họ vốn khúc mắc quanh co, gian manh xảo trá, chứ không phải ngay thẳng, thành thật. Vì sao họ lại siểm khúc như thế? Bởi vì họ ngu si! Song le, những kẻ ngu si đó lại tự cho rằng mình vô cùng thông minh tài trí, nên ôm trong lòng một nỗi "thông minh mạn"—kiêu hãnh, ngạo mạn về trí thông minh hão của mình!

"Thông minh mạn" cũng chính là "tăng thượng mạn"—là thứ kiêu căng ngã mạn giống như của năm ngàn người bỏ ra về, không dự Pháp Hội thuyết Kinh Pháp Hoa vậy. Người "tăng thượng mạn" mang trong lòng mối "thông minh mạn"—họ có phần nào thông minh, song rất kiêu ngạo, xem thường người khác, coi ai cũng không bằng mình. Do thói ngạo mạn về trí thông minh của mình, nên họ không tin Chánh Pháp, lại còn khinh chê, hủy báng giáo lý của Đức Phật, "móc" bỏ Pháp Nhãn của chúng sanh. Tại sao nói như thế? Bởi chúng sanh vốn có Trạch Pháp Nhãn (con mắt, khả năng biết chọn lựa Pháp), nhưng họ lại muốn làm cho chúng sanh mất phương hướng, lầm đường lạc lối, như thế thì có khác nào cầm dao khoét mất "con mắt" Trạch Pháp Nhãn của chúng sanh?

Những kẻ làm cho chúng sanh không còn Trạch Pháp Nhãn này, trong tương lai sẽ bị quả báo thân thể có khuyết tật hoặc tàn phế, như không có tay hoặc không có chân. "Không có chân" tức là mắc bệnh liệt hoặc bệnh khoèo, và thường là không đi đứng được hoặc chỉ đi khập khiểng. Họ cũng có thể phải chịu quả báo bị câm, tuy có lưỡi nhưng không nói được. Vì sao có người bị câm? Quý vị cần phải lưu ý điểm này—người câm trên thế gian này đều là do hủy báng Tam Bảo mà ra!

Những kẻ hủy báng Tam Bảo sẽ bị đọa vào địa ngục và ở đó thọ tội trong suốt hai ức năm, rồi mới được đi đầu thai; đầu thai làm thân gì? Họ phải đầu thai làm thân súc sanh như ngựa, trâu, dê, gà, chó... ; và họ phải mang thân súc sanh như thế suốt hai ức năm, rồi sau đó mới được làm người trở lại. Bấy giờ, tuy họ được mang thân người song sáu căn không toàn vẹn—như bị đui mù, không có mắt; hoặc bị điếc, không nghe thấy gì cả; hoặc bị câm, có lưỡi mà không nói được, chẳng khác gì không có lưỡi vậy... Nói tóm lại, những người mà đời này lục căn bị khiếm khuyết hoặc tướng mạo xấu xí, đều là do trong đời quá khứ họ đã từng chê bai, hủy báng Tam Bảo. Lúc sống, họ phải chịu đựng vô lượng đau khổ đắng cay như thế, và sau khi chết họ lại còn bị đọa vào địa ngục Vô Gián nữa. Đó là nói về quả báo do hủy báng Tam Bảo.

Đây là điều chúng ta cần phải chú ý—phàm là kinh điển của Phật, chúng ta nhất định phải tôn kính, quý trọng. Kinh Kim Cang có dạy:

"Phàm nơi nào có kinh điển là nơi đó có Phật."

(Phàm thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật.)

Ở đâu có kinh điển thì ở đó có Phật. Kinh điển là nơi an trụ của Pháp Thân chư Phật, do đó chúng ta phải hết lòng cung kính. Nơi cất giữ kinh điển cần phải được thu dọn cho sạch sẽ, ngăn nắp, không nên để bừa bãi. Kinh Phật phải được đặt ở nơi cao ráo và bên trên tất cả các loại kinh điển hoặc sách vở phổ thông khác, và phải để về phía đầu nằm chứ không được để ở phía chân; bằng không, nếu để ở dưới thấp, tức là không cung kính. Ngoài ra, giường ngủ là nơi không được sạch sẽ nhất, cho nên phải nhớ kỹ là không nên để kinh điển trên giường. Phàm là kinh Phật hoặc sách Phật, chúng ta đều phải cung kính, tôn trọng—phải cung kính kinh điển như cung kính Phật vậy. Không cung kính kinh điển tức là không cung kính Phật, và như thế cũng chính là hủy báng Tam Bảo vậy.

Những nghiệp tội "làm thân Phật chảy máu, hủy báng Tam Bảo, chẳng kính tôn kinh" là như nhau, cho nên kẻ nào có những hành vi này, thì "kẻ đó phải đọa vào địa ngục Vô Gián trong ngàn muôn ức kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được." Do đó, mọi người phải nhớ kỹ đoạn kinh văn vô cùng quan trọng này. Người học Phật nhất định phải luôn luôn tôn kính Tam Bảo, quý trọng kinh điển, và không làm thân Phật chảy máu!
 

Bkav

Registered
Phật tử
Tham gia
19 Thg 11 2017
Bài viết
13
Điểm tương tác
8
Điểm
3
Hòa thượng Tuyên Hóa là một trường hợp cần được đánh giá lại.
 

hungmq

Registered
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2014
Bài viết
503
Điểm tương tác
258
Điểm
43
Ở trên mình phỉ báng chỗ nào khi đức phật dạy: chớ có tin, chớ có tin. Và bạn cần phân biệt giữa phỉ báng và đặt nghi vấn.

Thân

Nghe thì tưởng là thông minh hiểu biết nhưng lại rất NGU. BKAV rất ngu bạn có giận không ? hihi.
Phật dạy khi nghe điều gì đó kể cả ta nói thì chớ vội tin, mà hãy tự thực hành, tự chứng ngộ chứ không phải là tin hết hoàn toàn. Thời này nhiều kẻ như thế lợi dụng lời Phật nói rồi sau đó chơi chiêu trò nghi vấn với tinh thần phá bĩnh nhiều hơn là đặt nghi vấn mong được giải đáp, hoặc trao đổi pháp hành.
Những kẻ ngu như thế này thường tự cho mình thông minh, nói vài ba câu tỏ vẻ đắc đạo , tỏ vẻ giác ngộ là nhiều. Rất giỏi vặn vẹo người khác.
Hòa thượng Tuyên Hóa, BKAV có quyền đặt nghi vấn nhưng nghi vấn trong trao đổi pháp hành, :)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên