đạo phật và khoa học hiện đại

nhuphong

Registered
Phật tử
Tham gia
11 Thg 8 2014
Bài viết
41
Điểm tương tác
0
Điểm
6
Cư sỹ Như Trụ biên soạn
ĐẠO PHẬT
VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

1.jpg


Phật lịch 2559 Dương Lịch 2015
LỜI NÓI ĐẦU

Tôi đã đọc sách “Hướng dẫn ứng dụng năng
lượng sinh học”
của tiến sĩ Nguyễn Đình Phư.
Sách đã được hội đồng khoa học trung tâm đào
tạo CEFIN thuộc Liên hiệp các hội khoa học và
kỹ thuật Việt Nam chọn làm giáo trình huấn
luyện ứng dụng năng lượng sinh học, nhằm
nâng cao hiểu biết và bảo vệ sức khỏe cho cộng
đồng.
Sách đã tập hợp khá đầy đủ những thành
tựu khoa học và các công trình nghiên cứu ứng
dụng năng lượng sinh học. Lại đề xuất những
phương pháp đào tạo, huấn luyện rất mới mẻ,
đã và đang thực hành có hiệu quả về cách chữa
bệnh không phải dùng thuốc.
Liên hệ giữa nhận thức về nội dung cuốn
sách với kiến thức khoa học và Phật học là
nguyên nhân khiến tôi biên soạn bài: “Đạo
Phật và khoa học hiện đại”.

Bài biên soạn nhằm chia sẻ với bạn đồng tu
về Pháp môn Niệm Phật, với độc giả có duyên
với Phật Pháp để cùng hiểu về: đức Phật, Đạo
Phật và Pháp môn Niệm Phật. Đó là mục
đích của tôi khi biên soạn bài này vậy.
Nam mô A Di Đà Phật
MỤC LỤC
I. Khoa học hiện đại phát triển tới đâu, ở
đó đã có Đạo Phật. ................................9
II. Trong kinh Hoa nghiêm Phật chỉ rõ
thể tính của năng lượng bản thể giác tính
(Phật tính)...........................................15
III. Từ kinh Lăng Nghiêm thấy ra được
nguyên nhân xuất hiện chúng sinh khắp
Pháp giới.............................................31
IV. Vận dụng Phật Pháp và khoa học hiện
đại để nhận biết thân tâm con người...36
1. Nhận biết về thân con người.........................38
a. Về thần kinh hệ ........................................39
b. Về xác thân sinh diệt ...............................40
c. Liên hệ giữa chủng tử nghiệp với ghen di
truyền có trong hợp tử ( trứng đã thụ tinh) của cha
mẹ trong quá trình hình thành bào thai .............43
2. Nhận thức về tâm con người.........................53
a. Nhận thức về tâm mê của con người ........53
b. Nhận thức về tâm giác vốn có của con
người .....................................................................59
3. Nhận thức bổ sung về thân, tâm con người
..............................................................................59
a. Vận dụng, liên hệ, đối chiếu giữa kiến thức
Phật pháp, kiến thức khoa học và thành tựu khoa
hoc hiện đại về 7 vầng hào quang bao quanh cơ thể
con người đẻ lý giải lời dạy của Phật....................59
b. Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng
hào quang bao quanh cơ thể con người đã làm sáng
tỏ đạo lý nhân quả luân hồi của Phật là chân thật,
khách quan và khoa học.......................................73
c. Nhận thức về sự khác nhau giữa chúng sinh
hữu tình là con người và chúng sinh hữu tình là
thực vật và động vật............................................114
V. Pháp môn niệm Phật là pháp môn khoa
học hiện đại về hào quang năng lượng trí
tuệ Phật.............................................117
1. Pháp môn niệm Phật là pháp tha lực về hào
quang năng lượng trí tuệ Phật............................117
a) Sơ lược tiểu sử của Phật A Di Đà và xuất xứ
của Pháp Môn Niệm Phật...................................117
b) Nội dung của đại nguyện 13, 14 (trích kinh
Vô Lượng Thọ do cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập).......118
c) Nội dung của đại nguyện thứ 18.............122
d) Thành tựu khoa học hiện đại về 7 vầng hào
quang bao quanh cơ thể con người và kiến thức về
bản chất sóng năng lượng sinh học đã làm sáng tỏ
pháp môn niệm Phật là pháp môn khoa học hiện
đại về hào quang năng lượng trí tuệ Phật và việc
hồi hướng công đức niệm Phật là chân thật, khách
quan và khoa học ................................................127
e) Điều kiện để người tu Pháp môn niệm Phật
được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc
là chính niệm tín và nguyện.................................131
f) Người tu pháp môn niệm Phật giữ được
chính niệm (tín, nguyện) cho đến trước khi lâm
chung. Đến khi lâm chung được Phật A Di Đà cùng
Thánh chúng tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc..134
g) Sơ đồ Nhân Duyên Quả của Pháp môn Niệm
Phật.....................................................................139
2. Trong thời kỳ Mạt Pháp chỉ có pháp môn niệm
Phật là pháp môn duy nhất, Phật độ chúng sinh
phàm phu giải thoát khỏi biển khổ luân hồi sinh
tử và tu tiếp thành Phật......................................140

I. Khoa học hiện đại phát triển tới
đâu, ở đó đã có Đạo Phật.
Trong Phật Pháp có khái niệm về
chúng sinh. Vậy chúng sinh là gì?
Số nhiều, số đông gọi là chúng. Số nhiều
số đông sinh ra (tạo ra ) mới có gọi là
chúng sinh. To như dãy núi, nhỏ như hạt
bụi. Lớn như con voi, bé như con kiến. Cao
như ngọn cây, thấp như ngọn cỏ… Đều là
chúng sinh cả.
Chúng sinh chia làm hai loại chính:
Chúng sinh vô tình, khoa học gọi là vật chất
vô sinh. Chúng sinh hữu tình, khoa học gọi
là vật chất hữu sinh. Lại còn có chúng sinh
vô hình và chúng sinh hữu hình.v.v...
Phần tử nhỏ nhất của vật chất vô sinh
là phân tử. Phân tử vẫn là chúng sinh vì còn
do nguyên tử cấu tạo nên (Thuyết Phân tử
- Nguyên tử)
. Nguyên tử vẫn còn là chúng
sinh vì còn do hạt nhân và electron (điện
tử)
cấu tạo nên (Thuyết Cấu tạo Nguyên
tử)
. Hạt nhân nguyên tử vẫn còn là chúng
sinh vì còn do nơtron và *** cấu tạo nên
(Thuyết Cấu tạo Hạt nhân Nguyên tử).
Chỉ còn nơtron, ***, electron nó
không từ cái gì sinh ra (tạo ra) nên không
phải là chúng sinh mà thôi.
Nơtron, ***, electron là năng lượng
bản thể cấu tạo nên vũ trụ. Nó có thể tính
riêng biệt: Nơtron không tích điện (trung
hòa điện)
, nó tập trung khối lượng của cả
nguyên tử, mỗi nơtron có khối lượng là 1
đvC. *** tích điện dương, mỗi ***
tích 1 đơn vị điện tích dương (+1). Electron
tích điện âm. Mỗi electron tích 1 đơn vị điện
tích âm (-1).
Vì là thể tính riêng biệt nên gọi là
tự tính. Kinh Lăng Nghiêm Phật gọi
là Pháp giới tính. Bát Nhã Tâm Kinh
Phật gọi là tính không.
Thế nên, Bát Nhã Tâm Kinh có đoạn
“Này xá lợi tử sắc (vật chất) chẳng
khác không (năng lượng, không
chẳng khác sắc. Sắc tức là không,
không tức là sắc, thọ tưởng hành thức
cũng đều như thế

Này xá lợi tử! Tướng “không” của
vạn pháp, không sinh không diệt,
không nhơ không sạch, không thêm
không bớt. Cho nên trong chân không
không có nhãn nhĩ…”

Trong kinh Lăng Nghiêm đoạn nói về
đại địa, Phật mô tả như sau: “Ông hãy xét
cái tính của đại địa to thì làm đất liền,
nhỏ thì làm vi trần cho đến lân hư
trần, do chẻ chất cực vi là sắc tướng
nhỏ tột ra thành bảy phần mà thành.
Nếu chẻ lân hư trần nữa thì thật là
tính hư không.
A nan. Nếu cái lân hư trần đó chẻ
ra thành được hư không thì biết hư
không cũng sinh ra được sắc tướng…”.

Như vậy đối chiếu với thành tựu thực
nghiệm của khoa học hiện đại thì:
Vi trần là sắc tướng nhỏ tột chính
là phân tử
Lân hư trần chính là nguyên tử
Tính hư không chính là năng lượng
bản thể của nơtron, *** và electron.
Bát Nhã Tâm Kinh và Kinh Lăng Nghiêm
Phật nói cách đây gần hai nghìn sáu trăm
năm. Cho đến thế kỷ thứ 20 nhà bác học vĩ
đại Anhxtanh mới tiên đoán về sự tương
đương giữa vật chất và năng lượng:
“Vật chất là năng lượng cô đặc lại.
Năng lượng là vật chất phân tán ra.”

Và Anhxtanh đã phát biểu: “Khoa học
hiện đại phát triển tới đâu, ở đó đã có
đạo Phật.”

Nhờ khoa học hiện đại khám phá ra 3
năng lượng bản thể nơtron, *** và elec-tron, con người mới hiểu được nguồn gốc
cấu tạo nên vật chất vô sinh (chúng sinh vô
tình)
. Còn nguồn gốc sinh ra vật chất
hữu sinh (chúng sinh hữu tình), khoa
học hiện đại chưa khám phá ra được.
Nhưng kinh Lăng Nghiêm Phật nói:
Pháp giới tính duyên khởi ra chúng
sinh vô tình và hữu tình khắp Pháp
giới (vũ trụ). Trong Pháp giới tính đó
ngoài ba năng lượng bản thể nơtron, pro-ton và electron (thuộc năng lượng vật lý)
còn có năng lượng bản thể thứ tư. Đó là
năng lượng bản thể giác tính. Tính thấy
tính biết đúng sự thật về nhân sinh và vũ trụ
(năng lượng tâm linh). Kinh Hoa nghiêm
gọi là Phật tính. Bát Nhã Tâm Kinh gọi là
tính chân không. Trong sách Hướng dẫn
ứng dụng năng lượng sinh học tiên đoán là
năng lượng thông tin.
Tại sao lại gọi giác tính là Phật tính?
Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới gốc
cây Bồ Đề, người Ấn Độ thời đó gọi ngài là
Bútđa. Nghĩa của từ Bút đa là giác. Người
Trung Quốc gọi ngài là giác giả và chuyển
âm của từ Bútđa là Phật Đà, bỏ chữ Đà còn
lại chữ Phật.
Phật là giác, nên giác tính cũng là Phật
tính vậy.
Thành Phật là trở về với Pháp giới
tính (bản thể tuyệt đối). Nên tâm của Phật
là năng lượng bản thể giác tính (Phật
tính)
phủ trùm Pháp giới (vũ trụ). Thân
của Phật trở về với năng lượng bản thể
của ***, nơtron và electron có trong
thân của chúng sinh vô tình và hữu tình khắp
Pháp giới, nên gọi là Pháp thân.
Đức Phật nói: “Như vàng kia lấy
ra từ quặng. Thành vàng rồi, vàng
không trở lại thành quặng được nữa.
Cũng như thế, Phật là do chúng sinh
tu thành. Thành Phật rồi, Phật không
trở lại thành chúng sinh được nữa”.

Thế nên thành Phật là trở thành đấng Vô
Thượng Giác hay Đấng giác ngộ Vô
Thượng, không còn là chúng sinh nữa.
Những vấn đề trình bày ở trên là để
hiểu về Đức Phật. Còn thế nào là đạo Phật?
Đạo Phật là con đường tu hành thành
Phật, con đường tu hành này như thế nào
sẽ đề cập tới ở phần cuối bài.
II. Trong kinh Hoa nghiêm Phật chỉ
rõ thể tính của năng lượng bản thể
giác tính (Phật tính)

Thành Phật rồi, Phật mới hiểu và chỉ rõ
thể tính của năng lượng bản thể giác tính
gồm tám chữ:
Linh (linh thiêng), Minh (sáng biết),
Đổng (rỗng rang), Triệt (thông thấu), Trạm
(trong trẻo), Tịch (vắng lặng), Thường
(còn), Hằng (lâu).
Xin trích lời chú giải tám chữ này từ
kinh A Di Đà Sớ Sao:
“Linh là tính linh giác (khôn biết).
Minh là trí sáng suốt. Mặt trời, mặt trăng
tuy có ánh sáng nhưng không được gọi là
linh thiêng vì là vô tình. Nay chỉ trong bản
tính sáng suốt rất hay lạ khó lường, với sự
sáng suốt ấy, không thể lấy chi so sánh cho
cùng nên gọi là linh và minh. Nghĩa là vừa
khôn thiêng vừa sáng biết.
Đổng, Triệt là thông suốt, đổng là sự
thông suốt cực điểm. Mặt trời, mặt trăng
tuy chiếu khắp nhưng không thể soi thấu vật
trong chậu úp. Thế là thông suốt mà chưa
được hoàn toàn thông suốt vì còn bị chướng
ngại. Nay tính linh minh đây soi khắp đất
trời, thấu trong vàng đá, bốn phương trên
dưới không hề chướng ngại. Vì là bản tính
sáng suốt thông thấu, không chỗ nào là
chẳng thông suốt như Thiên nhãn thông,
Tha tâm thông.
Cái thông đây không phải là như đối với
sự ngăn cách mà nói rằng thông, nên gọi là
Đổng Triệt.
Trạm là không nhiễm ô, Tịch là không
lay động. Đại địa tuy tịch nhưng không thể
bảo là trạm vì còn nhuốm màu chiến tranh,
núi lở đất động. Nay chỉ có bản tính rất vắng
lặng, trong sạch vì không cặn bã. Sự vắng
lặng ấy không thể lấy chi so sánh cho cùng
tận nên gọi là trạm tịch.
Hằng là hằng lâu, Thường là sự hằng
lâu cực điểm. Đại địa tuy bền chắc nhưng
không tránh khỏi kiếp hoại. Thế là lâu mà
chưa thật là lâu. Nay trạm tịch đây, với trước
từ vô thủy, kéo sau vẫn vô chung, suốt xưa,
suốt nay không hề biến đổi, bởi vì thường
còn mãi mãi, không bao giờ chẳng thường,
chẳng phải như cái thường đối với cái tạm
mà nói rằng lâu, nên gọi là Thường Hằng.”

Do thể tính của bản thể giác tính như
vậy, nên trí tuệ chân tâm Phật gồm có bốn
trí: Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình
đẳng tính trí và Đại viên kính trí,

Thành sở tác trí là trí tuệ muốn cái
gì là cái đó hiện ra, không muốn nữa nó tự
biến đi.
Diệu quan sát trí là trí tuệ quan sát vi
diệu gồm có lục thần thông: như túc mạng
thông là trí tuệ biết được mạng sống của
mình, của người nhiều kiếp về quá khứ.
Tha tâm thông là trí tuệ biết được ý nghĩ
của người khác. Thiên nhãn thông là trí
tuệ thấy biết rất xa xuyên qua từng vách
lòng đất. Thấy biết cảnh giới hữu hình và
vô hình. Thấy biết những điều xảy ra trong
tương lai..v.v. và Thiên nhĩ thông là trí
tuệ nghe biết thấu suốt xa gần. Thần túc
thông là trí tuệ tạo ra thần lực, khả năng
biến hóa khôn lường như đằng vân, phân
thân, v..v. Lậu tận thông, đã tận diệt lậu
hoặc là kiến hoặc và tư hoặc.
Các bậc thánh từ A La Hán trở lên đã có
trí tuệ Diệu quan sát trí, tức 6 thần thông.
Nhưng đạt đến quả vị Phật thì Túc mạng
thông trở thành Túc mạng minh (thấy
biết mạng sống tột cùng quá khứ)
. Thiên
nhãn thông trở thành thiên nhãn minh
(thấy biết tột cùng vị lai). Lậu tận thông
trở thành Lậu tận minh (tận diệt được
lậu hoặc là vô minh hoặc)
. Và có đủ 5 nhãn
(mắt): nhục nhãn (mắt người), thiên nhãn
(mắt trời), tuệ nhãn (mắt của Alahán), pháp
nhãn (mắt của Bồ Tát) và Phật nhãn (mắt
của Phật).

Bình đẳng tính trí là trí tuệ bình đẳng
tuyệt đối, không còn phân biệt ta, người
chúng sinh vì đồng chung bản thể vậy.
Đại viên kính trí là trí tuệ siêu việt thấy
đúng biết đúng, tột cùng sự thật về nhân
sinh và vũ trụ nên gọi là vô thượng giác.
- Theo Phật pháp, tâm của con người
tạo nên bởi tám thức:
(1) Nhãn thức (cái biết do mắt thấy).
(2) Nhĩ thức (cái biết do tai nghe).
(3) Tỵ thức (cái biết do mũi ngửi).
(4) Thiệt thức (cái biết do lưỡi nếm).
(5) Thân thức (cái biết do thân xúc).
(6) Thức thứ sáu được gọi là Ý thức
(cái biết do ý căn nghĩ ngợi) chính là tâm
thức.
(7) Thức thứ 7 gọi là Mạtna thức (thức
chấp ngã)
vừa là ý vừa là ý căn.
(8) Thức thứ 8 là A lại da thức, còn
gọi là thần thức, chính là tâm trí tuệ hay
tâm Phật của con người. Kinh Lăng Nghiêm
gọi là thức tinh nguyên minh, thức còn giữ
nguyên tính Phật. Nên mới có câu Phật tại
tâm là như vậy.
Đặc tính của 8 thức được Đại sư Trần
Huyền Trang, đời nhà Đường bên Trung
Quốc thể hiện qua bài kệ như sau:
“Anh em tám chú, một chàng si*
(thức thứ 7)
Riêng thức thứ 6 thật linh ly** (ý
thức)
Năm chú ở ngoài lo buôn bán***
Làm chủ trong nhà đệ bát y” (thức
thứ 8 hay thần thức)
Ghi chú:

* Chàng si: si là si mê, sinh ra phiền não,
tham, sân, thúc đẩy thân khẩu gây ác nghiệp.
** Thật linh ly: khôn ngoan, lanh lợi, tính
toán, phân biệt...
*** Năm chú ở ngoài lo buôn bán: Năm
chú ở ngoài là 5 thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỵ
thức, thiệt thức, thân thức, 5 thức này nhận
biết những điều thấy, nghe hay do năm căn
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân duyên theo năm
trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, rồi đưa
những nhận biết này vào ký trong tàng thức
(bộ nhớ) của thức thứ 8 tạo ra Pháp trần.
Những pháp trần này ví như những món lãi
về tiền của. Vì thế mới gọi năm thức ở ngoài
lo buôn bán là như vậy.
Đặc tính của tám thức này còn đặc trưng
bởi bốn chữ: Minh, ký, ức, trì. Minh là
sáng biết. Ký là ghi lại trong tàng thức (kho
thức)
. Ức là nhớ lại. Trì là giữ lại trong tàng
thức.
Quá trình tu hành thành Phật, tám
thức này chuyển dần thành bốn trí.
Tu chứng quả A la hán, năm thức: nhãn,
nhĩ, tỵ, thiệt, thân thức chuyển thành
Thành sở tác trí. Thức thứ sáu chuyển
thành Diệu quan sát trí. Tu tiếp chứng
quả vị Bồ tát Bát địa, thức thứ bảy là Mạtna
thức chuyển thành Bình đẳng tính trí.
Tu tiếp chứng quả vị Phật, thức thứ tám A
lại da chuyển thành Đại viên kính trí.
Khả năng siêu việt tiềm ẩn trong tâm
con người, khoa học ngày nay đã đề cập
tới. Trích trang 26 - 27 sách Hướng dẫn ứng
dụng năng lượng sinh học:
“Con người mới khai thác được 1%
năng lượng của vũ trụ, và đối với bản
thân mình thì chưa quá 4% khả năng
của bộ não”.

Ngoài trí thông minh, kỹ năng kỹ xảo,
con người còn có nhiều khả năng tiềm ẩn
khác mà khoa học giáo dục hiện nay chưa
có khả năng phát huy lên được. Những khả
năng tiềm ẩn ấy là:
a. Thần giao cách cảm: Là khả năng
thông tin của các cơ thể sống không dùng
phương tiện vật lý.
Khả năng thần giao cách cảm có thể
được dùng vào công tác ngoại giao, đối tác
làm ăn, trong quân sự.
b. Nhìn xuyên không gian và thời
gian
: Là khả năng nắm bắt được sự kiện xảy
ra trong quá khứ, hiện tại hay trong tương
lai ở mọi lúc, mọi nơi.
Khả năng thấu thị được ứng dụng vào
ngành sinh học định vị, khoa học tự dự báo…
Có ý nghĩa đối với cuộc sống.
c. Đoán và đọc ý nghĩ của người
khác
: Là khả năng nhận biết ý nghĩ của
người khác, thậm chí bành trướng ý thức,
buộc người khác hành động ngoài ý muốn
của họ.
Khả năng này được ứng dụng trong thôi
miên chữa bệnh, trong việc tìm đối tác làm
ăn, ngoại giao
d. Hiệu ứng toàn lực và toàn thức:
- Hiệu ứng toàn lực: tương tác giữa các
vật chất làm tan biến và tái tạo vật chất
không bằng lực vật lý. Tạp chí Vật lý có uy
tín trên thế giới (Physical Review Letter 3 –
1993)
có đề cập đến khả năng làm tan biến
một con người thành các hạt siêu nhẹ và tái
tạo tại một nơi khác.
- Hiệu ứng toàn thức: là khả năng tự có
trí thông minh, sự hiểu biết không cần học,
nhất là trong lĩnh vực tính toán, ngoại ngữ.
e. Chữa bệnh không dùng thuốc:
Có nhiều phương pháp chữa bệnh không
dùng thuốc. Ở đây chúng ta đề cập đến khả
năng chữa bệnh bằng năng lượng sinh học,
ở các mức khác nhau: xung, sóng và màu
sắc năng lượng…”

 Những hình ảnh trình chiếu về
khả năng siêu việt của Tề Thiên Đại Thánh
trong phim Tây Du Ký chính là mô tả thần
thông trí tuệ Phật,
nhưng ở mức độ thấp
(chưa chứng A la hán). Vì thế Tề Thiên Đại
Thánh hay đến Nam Hải cầu Bồ Tát Quan
Âm đến giúp.
Xin trích một số truyện kể về việc
sử dụng thần thông của Đức Phật Thích Ca
và các vị Thánh Tăng:
 Truyện kể về Đức Phật đi khất
thực
: Một hôm Đức Phật đến khất thực tại
nhà ông trưởng giả (nhà giàu). Khi mới đến
cửa nhà, một con chó đang nằm trong gậm
giường chạy bổ ra sủa rất dữ dội. Phật để chó
sủa một lúc mới lẩm bẩm (nói nhỏ) thuyết
pháp cho nó. Thế là chó ngừng cắn, cúp đuôi
đi vào nằm lại trong gậm giường. Vừa lúc
chủ nhà mang cơm ra cúng Phật, thấy được
cảnh ấy. Con chó sau khi nghe Phật thuyết
pháp, nó nằm lì không chịu ra ăn uống nữa.
Phật quán thấy con chó đã chết và được siêu
thoát mới trở lại gia đình để khất thực. Phật
vừa tới cửa, chủ nhà chạy ra nói những lời
rất nặng: “Mấy hôm trước ông nói gì với
con chó nhà tôi mà sau đó nó không chịu
ra ăn uống và đã chết? Nó là con chó trông
nhà rất tốt, tôi rất quý nó. Thế mà vì ông,
nó chết. Ông còn quay lại đây làm gì nữa?”
.
Phật nói: “Con chó ấy chính là bố ông đấy.
Bố ông làm được nhiều tiền mà chẳng dám
tiêu, lại chẳng cho ai, giúp ai. Có bao nhiêu
thì mua vàng bạc tích lũy dần rồi cho vào lọ
chôn ngay dưới gậm giường của mình, lúc
sắp chết tiếc của không nói cho con cháu
biết. Sau khi chết đầu thai vào con chó của
nhà mình, ngay khi còn bé nó đã nằm tại
nơi chôn lọ vàng để canh giữ. Không tin,
ông đào lên sẽ rõ. Ông còn tham lam bỏn
xẻn hơn cả bố ông đấy. Hãy lấy bài học của
bố ông để sửa mình.”
Chủ nhà sau đó đào
lên, thấy đúng có lọ vàng như Phật nói.
Một số kinh khi Phật nói, Phật cũng
vận dụng thần thông, phóng hào quang qua
đỉnh đầu, tạo thành một màn hình cực lớn,
trình chiếu những cảnh diễn ra để minh họa.
Trích một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm:
“Phóng hào quang khắp thị hiện
Lúc đó đức Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng
ra trăm thứ hào quang báu, trong hào quang
hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa thân
Như Lai, ngồi trên hoa sen. Trên đỉnh phóng
ra mười đạo hào quang bách hảo! Trong
mỗi đạo hào quang đều hiện ra những vị
Kim Cương Mật Tích. Số lượng bằng mười
số cát sông Hằng, sách núi, Cẩm xứ khắp cõi
hư không. Đại chúng ngửa mặt lên xem, vừa
yêu vừa sợ, cầu Phật thương xót che chở,
nhất tâm nghe đức Phóng Quang Như Lai,
nơi vô kiến đỉnh tướng của Phật, tuyên nói
Thần chú…”

 Truyện kể về Hòa thượng Hư
Vân, một thánh tăng Trung Quốc. Ngài sinh
năm 1840, thọ trên 120 tuổi. Trong cuốn Hư
Vân tự truyện có ghi: Ngài vận dụng thần
thông trí tuệ để giải quyết một số việc khó.
Trích một chuyện (trang 423– 425) tựa đề:
Cảm ứng
“Khoảng tháng sáu năm Dân quốc thứ
33 (1944) lúc san mặt bằng bắt đầu xây
dựng điện Thiên Vương (Tổ đình Vân Môn),
tại phía hữu của trai đường hiện nay có một
cây chương già rễ cây chằng chịt ăn sâu vào
lòng đất. Thân cây có chu vi khoảng hai
tầm (mười sáu thước Tàu), cao khoảng vài
trượng, lá che rợp đến nửa mẫu. Thân cây
rất nặng lại nghiêng về phía điện Tổ. Nếu
chừa cây này lại thì không tiện cho công
trình xây mới, nhưng nếu chặt ngã thì e tổn
hại nhiều mặt. Bởi vì phía tây bắc của cây là
điện Tổ cũ, phía đông bắc là Tăng liêu, phía
tây nam là Đại điện cũ cùng Tam môn, chỉ
có phương đông nam là không có trở ngại.
Nhưng sức nặng của thân cây lại nghiêng về
phía ngược lại.
Khi chặt cây phải mất nửa tháng, càng
đốn nó càng nghiêng về phía tây bắc, ngôi
nhà cũ như điện Tổ, Đại điện càng thêm
nguy khốn. Đại chúng hoảng sợ, bối rối tìm
cách cứu vãn tình thế. Có người đề nghị
dùng dây cáp kéo nó về phương đông nam,
có người bàn dùng cọc chống ở phía tây bắc.
Có người nói phải hạ cái nhà cũ đã. Nghe
bàn tán, Sư chỉ cười bảo: “Hãy để đó, hãy
theo kế hoạch cũ mà đốn thôi, đừng có lo
lắng hay rụt rè chi cả.”

Mỗi ngày trước khi mặt trời lặn, Sư đều
đích thân chặt vài rìu. Lâu ngày nó nghiêng về
phía tây bắc, mặt tổ điện càng thêm bị đe dọa.
Một hôm sau giờ ngọ trai, Sư dẫn Tăng
tục lên điện niệm Bồ Tát Quán Thế Âm như
thường lệ, vừa nhiễu Phật xong, Sư ngồi kiết
già trên chiếc ghế dài sắp ở mặt trước phía
đông tây. Gió lớn bỗng nhiên nổi lên, rung
chuyển cả mái ngói, đại chúng biết cây đại
thọ sắp đổ, sợ bị nó đè. Chỉ thấy Sư điềm
nhiên ngồi kiết già như thường lệ, không
chút dao động, không hề phòng bị chi cả.
Trong phút chốc có tiếng ầm nổi lên, đất
động nhà xiêu, bụi bay mù trời, không còn
phân biệt rõ chi cả. Lát sau biết cây đại thụ
đã ngã mà chưa đè sập điện Tổ, đại chúng
mới định thần sắc, đi ra ngoài xem, thấy cây
đại thọ đổ về hướng đông nam, ngược lại
với khuynh hướng thường ngày của nó. Các
phương khác đều vô ngại. Đại chúng bàn
tán xôn xao, ai cũng bảo là Hòa thượng có
thần lực không thể nghĩ bàn. Lúc bấy giờ
biên giả cùng cư sĩ Hoàng Nhật Quang đang
có mặt tại hiện trường, tận mắt thấy được
sự thật này.”

 Một chuyện khác kể về Hòa
thượng Tuyên Hóa, một Thánh Tăng Trung
Quốc, hoằng pháp tại Mỹ từ năm 1962 đến
1995. Trích trong quyển Khai thị trang 48 - 50.
“Khi còn ở Đông bắc (Trung Quốc), vì phải
xây chùa Tam Hoa, tôi vào thôn trang kiếm
xe chở vật liệu. Đến đâu cũng trả lời: Không
có xe, không có thời giờ. Bỗng một cô tới hỏi:
Con tôi bệnh nặng, bác sĩ đã chối không chữa
cho nữa, nhà chùa có cứu được không?
Tôi đáp vì cô không hiếu thảo với cha mẹ
chồng nên có sự không may. Cô phải đối trước
bàn thờ Tổ tiên sám hối, đối trước cha mẹ
chồng từ nay ăn ở phải đạo thì con cô sẽ khỏi.
Cô ta làm đúng như lời, rồi bế đứa bé
đến chùa. Tôi định thần khấn Tam Bảo gia
bị, vừa xoa đầu đứa trẻ, vừa chúc nguyện.
Nó liền mở mắt, một lúc sau rời tay mẹ, tụt
xuống đất đi chơi. Thế là ông thôn trưởng
đưa ngay chín cái xe đến cho nhà chùa dùng.
Từ đó người ta tranh nhau làm công quả.
Giáo lý cao siêu, chỉ những bậc thượng
căn mới biết quy ngưỡng. Ngôi Tam Bảo lâu
lâu cũng phải thị hiện thần lực để lòng người
cảm phục mà quay về tu hành.
III. Từ kinh Lăng Nghiêm thấy ra
được nguyên nhân xuất hiện chúng
sinh khắp Pháp giới

Mê thấy ra hư không, kết đặc (hóa
hợp)
thành sắc.
- Hư không kết đặc thành sắc chính là
vật chất mà vật chất là chúng sinh. Chúng
sinh vô tình thuộc về năm đại: Đất đại,
Nước đại, Gió đại, Hỏa đại, Không
đại do nơtron, protron, electron tạo nên.
Chính là vô số dải ngân hà, vô lượng các vì
sao, vô biên các thái dương hệ, trong đó có
mặt trời, mặt trăng, núi rừng đất liền, sông
ngòi biển cả, bầu khí quyển.v.v…
Thêm hai đại nữa là kiến đại, thức
đại. Cùng với năm đại kể trên sinh ra chúng
sinh hữu tình khắp pháp giới.
Do mê khiến thành chúng sinh, mà đã
là chúng sinh hữu tình thì năng lượng của
bản tâm không còn là năng lượng bản
thể giác tính nữa, nó chuyển thành năng
lượng sinh học có tần số dao động của sóng
năng lượng thấp hơn rất nhiều tần số dao
động của sóng năng lượng giác tính (Phật
tính)
. Nó tạo nên kiến đại và thức đại.
Từ năng lượng bản thể giác tính là trí
tuệ tâm Phật do mê nên chuyển thành năng
lượng của chúng sinh. Khoa học ngày nay
gọi là năng lượng sinh học là trí tuệ bản tâm
của các bậc Thánh.
Mê thêm một tầng nữa (mê đặc), năng
lượng sinh học bản tâm của thánh A
La Hán tiềm ẩn trong các tế bào thần
kinh, của thần kinh hệ chính là thức thứ
tám hay thần thức, là bản tâm của chúng
sinh thuộc cảnh giới Phàm mà con người là
trung tâm.
Vì thế Kinh Hoa Nghiêm Phật nói “Lạ
thay, tất cả chúng sinh đều đầy đủ
đức năng trí tuệ Như Lai (Phật đã
thành) chỉ do vọng tưởng chấp trước
(mê) mà không chứng đắc (không
thành Phật).”

Như vậy, nguyên nhân có chúng sinh là
do tâm bị mê.
Giác là Phật, mê là chúng sinh. Vì
giác là biết đúng sự thật, mê là biết sai sự
thật. Xin lấy ví dụ hình ảnh để làm rõ giữa
tâm giác và tâm mê.
Một hồ nước trong vắt đứng lặng, mặt
nước không hề gợn sóng, dụ cho tâm Phật
(giác). Đêm rằm mặt trăng soi bóng tròn rõ
như thật. Khi có gió thổi (gió dụ cho tâm mê)
mặt nước gợn sóng, bóng trăng sai khác,
nhìn không thật nữa. Mặt nước gợn sóng dụ
cho thức tâm chúng sinh. Sóng nước cũng là
nước trong hồ nước đứng lặng. Thế nên thức
tâm chúng sinh với chân tâm Phật không
hai không khác, chỉ do mê – giác mà có hai
có khác mà thôi, nên kinh Phật nói “Phiền
não tức Bồ đề”
vậy.
- Trong bản đồ mười pháp giới, có chín
cõi giới là chúng sinh gồm: Bồ tát, Duyên
giác, Thanh văn, Trời, Atula, Người,
Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.
Trong 9 pháp giới có 3 pháp giới thuộc
cảnh giới Thánh là Bồ Tát, Duyên Giác,
Thanh Văn và 6 pháp giới thuộc cảnh
giới Phàm là Trời, Atula, Người, Súc
Sinh, Ngạ Quỷ, Địa ngục gọi là 6 đạo
luân hồi.
Nguyên nhân mà con người phải
trôi lăn trong Lục đạo luân hồi là gì?
Khi sống tạo thiện nghiệp nhiều hơn hoặc
ít hơn ác nghiệp một chút, khi chết sẽ được
sinh lên ba cõi lành: Atula, Người, Trời. Nếu
tạo nghiệp ác quá nhiều so với nghiệp thiện
cho tới không tạo thiện nghiệp nào, khi chết
sẽ đọa vào ba ác đạo Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa
ngục. Nên nguyên nhân con người phải trôi
lăn trong lục đạo luân hồi là nghiệp. Vậy
nghiệp là gì? Những điều thiện, điều ác do
thân tức việc làm, miệng tức lời nói, ý tức ý
nghĩ tạo ra thì gọi là nghiệp. Việc làm thiện,
lời nói thiện, ý nghĩ thiện gọi là nghiệp nhân
thiện. Nói, làm, nghĩ ác gọi là nghiệp nhân
ác. Khi gieo nghiệp nhân thiện thì được
quả báo là phúc (gọi là phúc báo). Khi gieo
nghiệp nhân ác thì chịu quả báo khổ (gọi là
khổ báo)
. Nghiệp là nhân, báo là quả. Khi
nhân quả nghiệp báo nối tiếp không ngừng
thì gọi là luận hồi vậy.
IV. Vận dụng Phật Pháp và khoa học
hiện đại để nhận biết thân tâm con
người.

Phần tử nhỏ nhất của vật chất vô sinh
(chúng sinh vô tình) là phân tử.
Phần tử nhỏ nhất của vật chất hữu sinh
(chúng sinh hữu tình) là tế bào
Tế bào có hai loại: tế bào thần kinh
(còn gọi là nơron thần kinh) và tế bào sinh
diệt.
- Tế bào thần kinh do vật chất
thanh tịnh (tịnh sắc) kết đặc lại mà thành
có nguồn gốc từ năng lượng sinh học ở
môi trường, nên Phật Pháp gọi là tế bào
tịnh sắc hay tế bào thắng nghĩa. Nó ví như
một chiếc pin nhưng là pin tế bào. Chiếc
pin thường thì nạp năng lượng của dòng
điện một chiều là năng lượng vật lý, dùng
hết năng lượng thì bỏ hoặc nạp lại. Còn
pin tế bào thì nạp năng lượng sinh học
hay nhân điện, là năng lượng thần thức,
chính là tâm trí tuệ của con người. Khác
với pin thường, pin tế bào chỉ nạp năng
lượng một lần dùng cho cả đời, nó không bị tiêu hao. Khi chết năng lượng thần
thức này lại rút đi để nạp vào tế bào thần
kinh của thân mới (nếu được sinh lại làm
người)
. Chức năng của tế bào thần kinh là
bảo quản và truyền đạt năng lượng thần
thức do sự điều hành của các cơ quan của
thần kinh hệ.
- Tế bào sinh diệt: Phật Pháp gọi là
tế bào phù trần. Theo di truyền học, tế bào
sinh diệt được cấu tạo bởi nhiều đại phân tử
nhưng chủ yếu là phân tử prôtêin, đại phân
tử ADN, gen di truyền và các nhiễm sắc thể.
Thành phần đặc trưng của tế bào con người
gồm 46 nhiễm sắc thể, ghép thành 23 cặp,
mỗi cặp có một nhiễm sắc thể có nguồn gốc
từ cha, một nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ
mẹ. Trên mỗi nhiễm sắc thể có hàng triệu
phân tử ADN, trên mỗi phân tử ADN lại có
vô số các gen di truyền.
Tế bào có hai loại: Tế bào sinh dưỡng và
tế bào sinh dục, tế bào sinh dưỡng có 23 cặp
nhiễm sắc thể, tế bào sinh dục gọi là giao tử,
có số nhiễm sắc thể bằng nửa số nhiễm sắc
thể của tế bào sinh dưỡng. Gồm hai loại: Tế
bào trứng có 22 nhiễm sắc thể thường và 1
nhiễm sắc thể giới tính X, tế bào tinh trùng
có 22 nhiễm sắc thể thường và một nhiễm
sắc thể giới tính X hoặc Y (tế bào trứng chỉ
có một loại nhiễm sắc thể X, tế bào tinh
trùng có hai loại nhiễm sắc thể giới tính X
hoặc Y).

Nhờ có khả năng tự phân đôi của phân
tử ADN và nhiễm sắc thể, nên tế bào mới có
khả năng sinh sôi phát triển.
1. Nhận biết về thân con người
Phật dạy thân con người là thân tứ đại:
Đất, Nước, Gió, Lửa. Những thứ gì là chất
rắn thuộc về đất, những thứ gì là chất lỏng
thuộc về nước, những thứ gì chuyển động
như máu chảy, không khí hít thở… thuộc về
gió, thân nhiệt thuộc về lửa.
Phật còn gọi thân người là thân năm
uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn,
Hành uẩn, Thức uẩn, là năm nhóm vật
chất.
Sắc uẩn là xác thân sinh diệt .
Bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức là thần
kinh hệ .
a. Về thần kinh hệ
Nghiệp lực dẫn thần thức đi đầu thai.
Tế bào thần kinh hình thành ngay khi trứng
mới được thụ tinh và năng lượng thần thức
nạp ngay vào các tế bào thần kinh đó. Tế bào
thần kinh phân chia dần cùng với sự hình
thành dần thân thể của hài nhi và phân chia
đầy đủ thành hệ thần kinh hoàn chỉnh trước
khi hài nhi chào đời. Thần kinh hệ tồn tại
không sinh diệt từ khi hài nhi chào đời cho
đến lúc chết. Nó chỉ bị rối loạn từng phần
khi thân bị mắc bệnh hay suy nhược khi
phải làm việc trí óc nhiều hoặc lúc về già. Nó
không nhận thức ăn từ môi trường đưa vào
xác thân, trừ một số thần kinh trung ương
phải làm việc về suy nghĩ và thấy nghe hay
biết thì cần năng lượng lấy từ chất đạm mà
thôi. Thần kinh hệ tập hợp hơn 2 tỷ tế bào
thần kinh, có chức năng bảo quản và truyền
đạt năng lượng thần thức hay thức thứ tám
tới các hệ cơ quan khác và các tuyến nội
tiết… làm cho nó hoạt động và còn điều hòa
hoạt động của các cơ quan… đó. Nó còn bức
xạ hào quang năng lượng thần thức ra ngoài
tạo nên năm ấm chính là tâm mê của con
người.
Tóm lại thần kinh hệ chỉ là công cụ bảo
quản và phát huy tác dụng của thần thức đối
với thân tâm của con người mà thôi.
b. Về xác thân sinh diệt
Theo di truyền học, khi còn trong bào
thai xác thân sinh diệt hình thành từ một tế
bào sinh dưỡng hoàn chỉnh (23 cặp nhiễm
sắc thể)
gọi là hợp tử (trứng đã thụ tinh)
Nếu hợp tử có 22 cặp nhiễm sắc thể
thường và một cặp nhiễm sắc thể giới tính
XX thì bào thai phát triển thành con gái.
Nếu hợp tử có 22 cặp nhiễm sắc thể thường
và 1 cặp nhiễm sắc thể XY thì bào thai phát
triển thành con trai.
Tế bào sinh dưỡng (hợp tử) sinh sôi
phát triển là nhờ vào nguồn dinh dưỡng
lấy từ máu mẹ qua nhau thai và năng lượng
sinh học qua thân mẹ. Các tế bào sinh
dưỡng mới sinh hợp thành các cơ, các mô,
đến các cơ quan và thành xác thân sinh
diệt hoàn chỉnh trước khi hài nhi chào
đời. Sau khi chào đời, hài nhi phải hít thở
không khí qua cửa mũi và nhận thức ăn
qua cửa miệng. Thức ăn bất luận từ loại
thực phẩm gì, nhưng qua tiêu hóa phải có
đủ các chất chính: Chất bột đường (phân
tử gluxít), chất béo (phân tử lipit), chất
đạm (phân tử protit), muối khoáng và
vitamin.v.v... Chất đường có tác dụng
tạo năng lượng cho cơ bắp hoạt động đi
đứng nằm ngồi. Chất béo dùng để dự
trữ, nó còn có tác dụng sinh năng lượng
chống rét và chuyển hóa thành đường.
Còn chất đạm một phần tạo năng lượng
cho 4% số tế bào thần kinh mà con người
sử dụng cho hoạt động trí óc, phần còn lại
cùng với một số chất, một số khoáng chất
được đưa vào nhân tế bào để sản sinh ra
tế bào mới. Theo Di truyền học thì quá
trình sinh hóa tạo ra tế bào mới do sự
điều hành của năng lượng thông tin (sao
mã, giải mã)
. Năng lượng thông tin này
do đại phân tử ADN bảo quản và truyền
đạt. Câu hỏi đặt ra là: Năng lượng thông
tin khoa học hiện đại hiện nay xác định
là năng lượng sinh học, nó do đâu mà có?
Mặt khác lại thấy, tế bào là phần tử sổng
nhỏ nhất hợp thành xác thân. Đã là phần
tử sống thì phải dựa vào nguồn năng
lượng nào đấy để tồn tại và sinh sôi phát
triển. Năng lượng đó chính là năng lượng
sinh học có trong môi trường, đưa vào tế
bào, nhưng qua cửa nào? Khoa học hiện
đại ngày nay về trường sinh học đã trả lời
câu hỏi ở trên (trang 138 sách hướng dẫn
ứng dụng năng lượng sinh học)
và xác
định cửa đó là luân sa.
Trích trang 33 – Sách Hướng dẫn ứng
dụng năng lượng sinh học:
“Cơ thể năng lượng sinh học quanh mỗi
con người không ngừng vận động và tạo ra
các điểm hút. Quan sát thực tiễn, các nhà
khoa học còn nhận thấy cơ thể năng lượng
sinh học tồn tại dưới dạng sóng vật chất.

Giao thoa của 21 sóng năng lượng tạo ra
đại huyệt (luân xa chính). Giao thoa của 14
sóng năng lượng tạo ra trung huyệt (luân xa
phụ)
. Giao thoa của (n ≤ 7) sóng năng lượng
tạo ra huyệt châm cứu (có tới 1000 huyệt).
Như vậy rõ ràng luân xa là cửa ngõ,
nơi giao tiếp năng lượng của thân thể
với môi trường.
c. Liên hệ giữa chủng tử nghiệp với
ghen di truyền có trong hợp tử ( trứng
đã thụ tinh) của cha mẹ trong quá
trình hình thành bào thai

Trên bản đồ mười Pháp giới có nêu nhân
quả để được sinh lại làm người như sau:
Giữ gìn ngũ giới
Dù ít, dù nhiều
Sang, hèn, thọ, yểu
Theo nghiệp cảm chiêu.

Ngũ giới là năm điều luật ngăn cấm Phật
tử tại gia tránh làm điều ác (gây nghiệp nhân
ác).

Năm giới gồm:
- Một là: Không sát hại (từ bi không sát
hại chúng sinh)

- Hai là: Không trộm cắp (ngay thẳng
không lấy của người)

- Ba là: Không tà dâm (trong sạch,
không quan hệ bất chính)

- Bốn là: Không nói dối (chân thật, khônng dối gạt)
- Năm là: Không uống rượu (ngày
nay thêm không dùng chất kích thích, ảnh
hưởng đến sức khỏe và thần kinh, khi say dễ
bị kích động làm điều tàn ác).

Khi sống ta gây nghiệp, năng lượng
nghiệp nhân của y nghiệp thiện ác được giữ
lại trong tàng thức (bộ nhớ) của thức thứ 8
hay thần thức. Năng lượng nghiệp nhân của
thân khẩu nghiệp thiện ác được giữ lại trong
phân tử ADN của nhân tế bào sinh diệt được
gọi là chủng tử nghiệp. Các chủng tử nghiệp
trong phân tử AND liên kết với từng chủng
loại của gen di truyền. Trong từng chủng
loại của gen di truyền đó, gen nào liên kết
với chủng tử nghiệp thiện là gen tốt (đẹp).
Gen nào liên kết với chủng tử nghiệp ác gọi
là gen xấu (kém).
Kinh Phật dạy “Khi chết muôn thứ
mang chẳng được chỉ có nghiệp theo
mình”. “Mình”
là thần thức còn “nghiệp
theo mình”
gồm hai loại nghiệp chủ yếu
là tích tụ nghiệp và cận tử nghiệp. Tích tụ
nghiệp gồm chủng tử nghiệp tạo ra trong
kiếp sống trước khi chết, cộng với chủng
tử nghiệp của quá khứ. Cận tử nghiệp là
nghiệp tạo ra trước khi chết. “Nghiệp theo
mình”
này khi sống là chủng tử nghiệp, khi
chết theo thần thức rời bỏ xác thân dưới
dạng năng lượng thông tin gọi là nghiệp lực.
Nghiệp lực này là động lực rất mãnh liệt nên
nó dẫn thần thức đi đầu thai vào thân mới.
Kinh Phật còn dạy: “phi ân oán bất
thành phụ tử”
. Có ơn thì đầu thai làm con
để đền ơn (hoặc trả nợ). Có oán thì đầu thai
làm con để báo oán (hoặc đòi nợ).
Nếu đầu thai để đền ơn thì nghiệp lực
đó là thiện vì tâm thiện mới nghĩ đến đền
ơn. Nghiệp lực thiện đó sẽ cảm chiêu nhiều
với chủng tử nghiệp thiện của cha mẹ (cha
mẹ giữ gìn ngủ giới nhiều)
. Nhờ chủng tử
nghiệp thiện nhiều đó mà bào thai phát
triển tốt và ra đời nhờ nghiệp nhân thiện
tạo ra ở kiếp trước sẽ được hưởng phúc báo
là giàu sang phú quý, mạnh khỏe sống lâu.
Nếu đầu thai để báo oán thì sẽ ngược lại
với đền ơn. Đúng với nhân quả sinh lại làm
người là “theo nghiệp cảm chiêu”. Kiến thức
của nền văn minh cổ Ấn Độ thì gọi là “đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Còn
theo Di truyền học: Nếu bào thai tập trung
(hay chọn) được nhiều gen tốt của cha mẹ
có trong hợp tử, sẽ phát triển thành người
con xinh đẹp hơn, mạnh khỏe sống lâu hơn
và có tương lai tiền đồ hơn cha mẹ (bản sao
tốt)
. Nên tục ngữ có câu “con hơn cha là nhà
có phúc”
. Ngược lại bào thai tập trung nhiều
gen xấu của cha mẹ, sẽ phát triển thành
người con xấu hơn, ốm yếu, mạng yểu hơn
cha mẹ. Đúng với câu tục ngữ “Đời cha ăn
mặn đời con khát nước”.

Qua nhận thức như trên thấy chủng tử
nghiệp thiện ác và gen di truyền có trong
hợp tử của cha mẹ, đều là nhân tố quyết
định người con được hưởng phúc báo (bản
sao tốt)
hay phải chịu khổ báo (bản sao xấu).
Nên nó đồng với nhau là một, là nguyên
nhân dẫn đến kết luận về có sự giống nhau
giữa đạo lý nhân quả luân hồi của Phật pháp
với Di truyền học của khoa học hiện đại.
Nhưng tại sao có trường hợp nghiệp lực
thiện dẫn thần thức đầu thai vào bố mẹ có
chủng tử nghiệp thiện lại sinh ra người con
hèn kém (bản sao xấu)? Bởi vì có sự khác
nhau về chức năng giữa cận tử nghiệp và
tích tụ nghiệp. Nghiệp lực của cận tử nghiệp
có động lực mãnh liệt hơn động lực của tích
tụ nghiệp, nên dẫn thần thức đến người có
duyên ân oán để đầu thai. Còn nghiệp lực của
tích tụ nghiệp mới “cảm chiêu” với chủng tử
nghiệp thiện ác (hay gen tốt, xấu) của cha
mẹ, để nhận quả báo “sang, hèn, thọ, yểu”.
Thường thì cận tử nghiệp giống với tích tụ
nghiệp (cùng thiện hay cùng ác) như những
trường hợp nêu ở trên. Còn khác nhau chỉ
là cá biệt, nó chỉ xảy ra khi chủng tử nghiệp
thiện hay ác của hậu báo biến thành hiện
báo trước lúc chết. Thí dụ: có người cả đời
gieo nghiệp nhân ác nhiều hơn thiện (giữ
gìn ngũ giới ít)
, nhưng trước khi chết (hấp
hối)
, cuốn phim trải nghiệm cuộc đời quay
lại những cảnh ác mình đã làm, bỗng nhiên
thấy hổ thẹn, muốn được sống tiếp để đền
bù thì bị tắt hơi (chết), nên cận tử nghiệp
đó là thiện. Nghiệp lực của cận tử nghiệp đó
dẫn thần thức tìm đến đầu thai vào người
mà mình chịu ơn, nhưng nghiệp lực của tích
tụ nghiệp lại là ác nhiều hơn thiện sẽ cảm
chiêu (chọn gen), với chủng tử nghiệp ác
nhiều hơn thiện (gen xấu) của cha mẹ nên
phải chịu khổ báo (bản sao xấu). Vì thế mới
xảy ra trường hợp cha mẹ thuộc gia đình
hiền lương lại sinh con ngỗ nghịch. Ngược
lại cận tử nghiệp là ác tích tụ nghiệp là thiện
sẽ xảy ra ngược lại như trên, nên mới xảy ra
trường hợp cha mẹ hèn kém sinh con quý tử.
Qua phần phân tích hai hiện tượng như
trên rút ra kết luận:
- Hai hiện tượng xảy ra như trên thuộc
về biến dị của Di truyền học.
- Việc cảm chiêu với chủng tử nghiệp
hay chọn gen tốt xấu của cha mẹ là chức
năng của tích tụ nghiệp. Nghiệp lực của tích
tụ nghiệp là thiện sẽ chọn được những gen
tốt. Nghiệp lực của tích tụ nghiệp là ác, chỉ
chọn được những gen xấu mà thôi.
Việc chọn gen tốt xấu này bắt đầu từ
khi trứng chưa được thụ tinh, bởi vì mỗi lần
giao hợp có tới chục nghìn tế bào tinh trùng,
vậy tế bào tinh trùng nào được cùng tế bào
trứng tạo thành hợp tử? Đó là công việc của
nghiệp lực tích tụ nghiệp.
Ngoài việc chọn gen tốt xấu có trong tinh
trùng lại còn chọn tinh trùng có nhiễm sắc
thể giới tính X hay Y. Vì trong số tế bào tinh
trùng, một nửa mang nhiễm sắc thể giới tính
X, một nửa mang nhiễm sắc thể giới tính Y.
Việc chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể giới
tính phụ thuộc vào thần thức của người nữ
hay người nam tham gia đầu thai. Nếu là nữ
thì nghiệp lực tích tụ nghiệp theo cảm ứng giới
tính chỉ chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể
giới tính X, còn nam là Y. Cảm ứng giới tính
này mang tính đặc thù nhưng cá biệt cũng
có trường hợp thay đổi. Thí dụ: có một người
nữ nào đấy thấy thân nữ quá khổ, như phải
mang nặng đẻ đau, nuôi con vất vả, lại phải
thọ nhận cái thân yếu ớt và còn bị sức ép tâm
lý về tập quán trọng nam kinh nữ .v.v... nên
phát nguyện mạnh mẽ cầu Hồng Ân Tam Bảo
được đổi sang thân nam ở kiếp sau và dũng
mãnh tu hành làm lành lánh dữ, chắc cũng có
thể thắng được cảm ứng giới tính của nghiệp
lực tích tụ nghiệp mà chọn tinh trùng mang
nhiễm sắc thể giới tính Y để được mang thân
nam ở kiếp sau. Còn đối với nam, nếu người
đó trọng nam khinh nữ một cách cực đoan, lại
có những hành động tàn ác đối với vợ mình và
những người nữ khác, thì chắc sẽ phải chuốc
lấy hậu quả là nghiệp lực tích tụ nghiệp sẽ
chọn tinh trùng có nhiễm sắc thể giới tính X
để chuyển sang thân nữ ở kiếp sau.
Xin trích câu chuyện trong tác phẩm
Thức Thứ Tám của tiến sĩ Lâm Như Tạng
để minh chứng việc đổi từ thân nam kiếp
này sang thân nữ kiếp sau:
“ Câu chuyện sau đây do bác sỹ Lan Ste-venson- giáo sư đại học Virgina Hoa Kỳ sưu
tầm và thuyết trình tại đại học Virginia:

Một cô gái Miến Điện (nay đã có gia
đình)
lúc sinh ra, các ngón tay trên bàn tay
phải bị cụt gần sát bàn tay. Cô thường nhớ
về tiền kiếp kinh hoàng đã thuật lại cho
người nhà nghe như sau: Kiếp trước cô là
một người đàn ông đã tạo nhiều đau khổ
cho người vợ khiến người vợ phải tự tử.
Người mẹ vợ rất căm giận quyết lập kế trả
thù cho con gái mình. Một hôm bà thuê một
tên giết mướn dùng một thanh kiếm chặn
đường chém người rể độc ác kia, anh ta sợ
hãi quá liền đưa tay phải ra đỡ và la lên:
Trời ơi! Đừng giết tôi! Nhưng tên giết mướn
vẫn không dừng tay, đưa một đường kiếm
cắt đứt các ngón tay phải và đâm anh ta chết
ngay tại chỗ. Giáo sư Lan Stevenson đã cho
cử tọa xem hình chụp bàn tay và giải thích
đó là dấu tích của sự luân hồi bị chặt đứt
ngay từ kiếp trước.
Việc đổi từ thân nam kiếp trước thành
thân nữ kiếp này qua chuyện kể trên tương
ứng với biến dị của di truyền học.
Qua hai kết luận nêu trên cùng với
kết luận của phần trước khẳng định có sự
giống nhau giữa đạo lý nhân quả
luân hồi của Phật với Di truyền học
của khoa học hiện đại.
Thế nên đạo lý nhân quả luân hồi là một
học thuyết khoa học, nó khách quan và công
bằng tuyệt đối. Nếu gieo nhân thiện thì được
hưởng quả phúc, gieo nhân ác phải chịu quả
khổ ngàn vạn lần chẳng hề sai khác. Chỉ vì
chúng sinh không biết, không hiểu, không
tin nhân quả nên mới bị hai tên giặc tham,
sân thúc đẩy gây nghiệp nhân ác mà phải
chịu trôi lăn mãi trong biển khổ luân hồi từ
vô thủy kiếp đến nay. Đức Phật vì thế xót
thương mở ra pháp môn Thù Thắng cho
chúng sinh tu hành, xả bỏ xác thân sinh diệt
là xác thân vay mượn, là giả thân, Phật pháp
gọi là giả tướng, để trở về với thật tướng là
thân năng lượng, chính là báo thân Phật ở
cõi Tịnh độ của đức Phật ADiĐà. Pháp môn
Thù Thắng đó là Pháp môn niệm Phật vậy.
2. Nhận thức về tâm con người.
a. Nhận thức về tâm mê của con người
Tâm mê của con người còn gọi là vọng
tâm, kinh Lăng Nghiêm gọi là thức tâm phan
duyên hay căn bản sinh tử, kinh Tứ Niệm Xứ
gọi là tâm vô thường, luận Đại Thừa Khởi
Tín của Tổ Mã Minh gọi là tâm sinh diệt.
Trích bài giảng “Món ăn tinh thần”
trong quyển Khai thị của Hòa thượng Tuyên
Hóa để thấy rõ tâm này.
“Linh minh giác tính, hiện đang hoạt
động ở sáu căn. Tính thấy ở mắt, tính nghe
ở tai, tính ngửi ở mũi, tính nếm ở lưỡi, tính
xúc ở thân, tính biết ở ý. Kinh Lăng nghiêm
gọi giác tính này là căn bản Bồ Đề. Bát Nhã
gọi là căn bản trí.
Phật tính bản hữu này, nếu đứng quyền
làm chủ nhân ông thì chính niệm hiện tiền,
làm gì cũng tự tại, không chướng ngại. Chúng
ta sẽ là Thánh, Hiền, làm Tổ làm Phật.
Ngu si ám chướng, chúng ta không an
định sống trong tính Bồ đề, cứ theo tâm
phân biệt. Suốt ngày đưa sáu trần ảo ảnh
(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) vào tâm
(Si). Tôn sùng hai giặc tham sân làm chủ,
tạo nghiệp sát đạo dâm vọng. Cảm quả luân
hồi sinh tử trong sáu đạo Trời, Người, Atu-la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.
Thế là quên tính Phật vào cuộc đời ma
Sách dạy một niệm không sinh, Phật
tính hiện tiền
Sáu thức vừa động, tâm bị che mờ.
Diệu minh bản hữu, thông thiên, triệt
địa, viên mãn khắp mười phương, vẫn là
thể chất của chúng ta, vẫn là nòng cốt sự
sống của chúng ta. Nhưng mê hẳn, hiện nay
chúng ta đang theo nghiệp báo, nhận thân
máu mủ tanh hôi làm thể xác. Cả ngày tôi
khổ, tôi vui, nhận thọ ấm là mình. Tôi yêu
tôi ghét, nhận tưởng ấm là mình. Tôi thiện
tôi ác, nhận hành ấm là mình. Tôi nhận tôi
biết, nhận thức ấm là mình.
Bị giam chặt trong năm ấm như thế,
dù chỉ một lời nói, một việc làm sơ hở liền
thành trâu, ngựa, gà, vịt vv...
Đáng thương nhất là những người tu
hành. Một lòng muốn thoát ba đường ác.
Chỉ vì không phân biệt hai căn bản sinh tử
và Bồ Đề ở ngay nơi sáu căn mà cứ vô tình
bỏ Phật theo ma.
Chỉ học Phật, biết tới trí tuệ bản hữu
mới hy vọng tỉnh ngộ. Trong sáu đạo luân
hồi, cõi Trời sung sướng quá, sáu căn gây
mê quá mạnh nên khó tỉnh. Các cõi dưới
khổ quá, tinh thần bị cùm trong một thần
kinh hệ không phương tiện giác tỉnh. Chỉ
có bộ óc con người có khả năng ngộ đạo.
Thân người là cơ quan tiến đạo, nhưng nó
có bệnh đói khát. Nếu không cho ăn uống
thì mình khô sắc tụy, không thể thành đạo
nghiệp. Chúng ta phải ăn uống nuôi thân,
nhưng thân hoạt động được, bộ máy tuần
hoàn, bộ máy tiêu hóa, bộ máy hô hấp… đều
do thần kinh hệ điều hòa, mà chủ chốt
toàn bộ thần kinh là Phật tính. Cho
nên người tu phải tham thiền niệm
Phật. Trí tuệ quang minh mới là thực
phẩm chính yếu.”

- Hòa thượng Tuyên Hóa dạy: “Quên
tính Phật vào cuộc đời ma”
. Tính Phật chính
là năng lượng thần thức tiềm ẩn trong toàn
bộ tế bào thần kinh. Khoa học đã tính được
hơn hai tỷ tế bào thần kinh mà con người
mới sử dụng có 4% năng lượng thần thức có
trong hơn hai tỷ tế bào thần kinh đó. Xin kể
lại câu chuyện về Phật Thích Ca khi còn tại
thế gian: “Trên đường đi giáo hóa chúng sinh,
Phật dừng chân ngồi nghỉ tại một khu rừng.
Ngài nhặt một nắm lá trên tay và bảo ông
Anan (thị giả của Phật): Con có biết không?
Những điều ta nói ra chỉ ít như nắm
lá trên tay. Còn những điều ta biết,
nhiều như lá của cả rừng đại ngàn
này. Những điều Phật nói là ngôn từ thuộc
về thức tâm dụ cho 4% số tế bào thần kinh
mà Phật sử dụng khi mang thân người. Còn
những điều Phật biết thuộc về trí tuệ Phật
là năng lượng bản thể giác tính phủ trùm vũ
trụ, thấu suốt tận cùng quá khứ (túc mạng
minh), tận cùng vị lai (thiên nhãn minh).
Chúng sinh sử dụng quá ít số tế bào thần
kinh cho sự thấy biết, nên sự thấy biết đó
quá mê lầm, chính là bỏ Phật theo ma vậy!

- Ngài còn dạy: “…hiện ta đang theo
nghiệp nhận thân máu mủ tanh hôi là thể
xác (sắc ấm). Cả ngày tôi khổ, tôi vui, nhận
thọ ấm là mình. Tôi yêu tôi ghét, nhận
tưởng ấm là mình. Tôi thiện tôi ác, nhận
hành ấm là mình. Tôi nhận tôi biết, nhận
thức ấm là mình…”

Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và
thức ấm mà Tổ dạy ở trên Phật gọi là 5 lớp
mê lầm do 5 uẩn ngăn che trí tuệ mà sinh ra.
Con người đã nhận 5 lớp mê lầm 5 ấm này là
tâm tính của mình. Chính là vọng tâm sinh
diệt hay tâm mê của mình vậy.
- Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: Quá
trình tu hành mà phá sạch được ba lớp mê
lầm: Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm thì kiến
hoặc, tư hoặc sẽ không còn. Tư hoặc chính
là ba độc tham, sân, si. Ba độc tham, sân, si
không còn dẫn đến nghiệp sạch tình không
là xả bỏ được xác thân sinh diệt, trở về với
thân kim sắc là ứng thân Phật. Người tu đã
ra khỏi luân hồi sinh tử trong sáu đạo mà
chứng quả vị thánh Alahán vậy.
b. Nhận thức về tâm giác vốn có của
con người

Tâm giác vốn có của con người kinh Lăng
Nghiêm gọi là Thức Tinh Nguyên Minh hay
căn bản Bồ Đề. Luận Đại Thừa Khởi Tín của
Tổ Mã Minh gọi là Tâm Chân Như. Duy Thức
Luận gọi là Thức Thứ Tám hay thức A lại da,
chính là thần thức. Nó là trí tuệ Phật của con
người bị năm uẩn ngăn che, sinh ra tâm mê
năm ấm. Tâm mê năm ấm tạo ra nghiệp và
chính nó lại bị nghiệp lực dẫn đi đầu thai hết
vào thân này lại sang thân khác từ vô thủy
kiếp đến nay chưa bao giờ tạm dừng.
3. Nhận thức bổ sung về thân, tâm con
người

a. Vận dụng, liên hệ, đối chiếu giữa
kiến thức Phật pháp, kiến thức khoa
học và thành tựu khoa hoc hiện đại về
7 vầng hào quang bao quanh cơ thể
con người đẻ lý giải lời dạy của Phật

“Năm uẩn ngăn che trí tuệ, sinh
ra năm ấm”
dẫn đến kết luận: sáu vầng
hào quang bức xạ từ luân xa 1 đến luân xa
6 chính là 5 lớp mê sắc ấm, thọ ấm, tưởng
ấm, hành ấm và thức ấm:
a/1. Thành tựu khoa học hiện đại về
bảy vầng hào quang bao quanh cơ
thể con người. (Trích sách Hướng dẫn
ứng dụng năng lượng sinh học. Tác giả:
Nguyễn Đình Phư do Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin phát hành tháng
8/1995 từ trang 138 - 143)

1. Cấu trúc và hào quang của con
người

Hệ thống hào quang được nhìn nhận
từ xưa đến nay, có những khác biệt về tên
gọi, màu sắc, số vầng. Hào quang có thể
cao 2,5m và rộng 1m bao quanh thân người.
Hình dạng hào quang giống hệt như một
quả trứng. Trường hào quang là nơi giao tiếp
năng lượng và thông tin của cơ thể và môi
trường chung quanh. Hào quang được phân
ra nhiều vầng khác nhau. Các vầng lẻ 1, 3, 5,
7 có màu rõ rệt, còn các vầng chẵn hơi mờ.
2. Cấu trúc cụ thể
Năng lượng sinh học bao quanh con
người tạo ra bảy vầng hào quang khác nhau.
Đặc thù của mỗi vầng quyết định hình thái
của cơ thể sống. Trong phạm vi nghiên cứu
một cách phổ cập, chúng ta quan sát bảy
vầng hào quang theo thứ tự:
a. Vầng cảm giác
- Vị trí: từ da ra 2,5cm, bao sát thân thể,
có hình dạng như thân thể. Giữ vai trò như
một cái khung gồm những vạch năng lượng
để tế bào dựa vào tồn tại và sinh sôi phát
triển.
- Màu sắc: Màu xanh trong, nhạt, có khi
xanh xám.
- Đặc trưng: cảm giác thể chất, hoạt
động thể chất.
b. Vầng cảm xúc
- Vị trí: Cách da 2,5 – 7,5cm
- Màu sắc: Màu thay đổi từ vàng chói
đến xám xịt nhưng lại chứa tất cả các màu
của cầu vồng.
- Đặc trưng: Cảm xúc, cảm nghĩ
c. Vầng tâm thần
- Vị trí: cách da 7,5 – 20,5cm
- Màu sắc: màu vàng chói
- Đặc trưng: Đời sống tư duy
d. Vầng tinh tú
- Vị trí: cách da 15 – 25cm
- Màu sắc: màu hồng là chủ yếu
- Đặc trưng: tình cảm yêu thương
e. Vầng hình thái bổ sung
- Vị trí: Cách da 15 – 60cm, vầng hình
trái xoan
- Màu sắc: màu trong suốt trên nền cô
ban
- Đặc trưng: thái độ, lời nói, trách nhiệm
f. Vầng thượng giới
- Vị trí: cách da 60 – 82cm
- Màu sắc: màu phấn là chủ yếu
- Đặc trưng: trí tưởng tượng, suy đoán
vượt qua giới hạn hữu hình
g. Vầng nhân quả
-Vị trí: tiếp nối vùng hình thái bổ sung,
kích thước tùy thuộc bản thể
- Màu sắc: gồm những sợi tơ vàng lấp
lánh, cấu trúc vỏ dày 0,6 – 1,3cm, là nơi
giao tiếp và phòng vệ năng lượng với môi
trường, có tần số rung động lớn.
- Đặc trưng: Bản thể vật chất và đời
sống tâm linh là nơi chứa đựng sơ đồ cuộc
sống, trải nghiệm trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Đóng vai trò như một màn hình
display để trình chiếu các cuốn băng video -
tế bào ghi trải nghiệm cuộc sống.
Như vậy, hào quang của con người phân
thành bảy vùng, luôn biểu hiện cảm giác,
cảm xúc, ý nghĩ, ký ức, những trải nghiệm
cuộc đời, bộc lộ tính cách đặc trưng và trạng
thái sức khỏe của người đó. Hào quang hình
thành lớp vỏ giao tiếp và phòng vệ năng
lượng cho bản thể.”

3. Hào quang và luân xa
Các sóng năng lượng sinh học tồn tại
trong hào quang. Theo các nhà nghiên cứu
thì sóng này là sóng đứng, chúng đan chéo
nhau giao thoa tạo ra điểm hút năng lượng.
Mối quan hệ giữa sóng năng lượng và hệ
thống luân xa được mô tả như sau:
a. Luân xa chính
Là giao thoa của 21 sóng năng lượng
sinh học, chúng nằm trên dòng chảy lớn
theo mạch nhâm về mạch đốc.
b. Luân xa phụ
Là giao thoa của 14 sóng năng lượng sinh
học. Luân xa phụ nằm trên hai lòng bàn tay
và lòng bàn chân.
c. Các huyệt châm cứu
Là giao thoa của n (n<=7) sóng năng
lượng sinh học. Chúng có tới hơn một nghìn
điểm nằm rải rác khắp cơ thể.
Luân xa là cửa ngõ, nơi giao tiếp năng
lượng của thân thể với môi trường. Chính tại
mỗi luân xa, vầng vật chất tự phát sáng. Mỗi
luân xa liên quan đến một vầng hào quang
và có chức năng riêng trong sự thụ nhận,
điều chỉnh năng lượng bảo vệ sức khoẻ.
4. Mối quan hệ giữa các luân xa
và các vầng hào quang
Quan hệ giữa luân xa và các vầng hào
quang được kiểm nhận qua trải nghiệm tập
luyện và quan sát thực tiễn:
a. Vầng cảm giác liên quan đến luân xa 1
b. Vầng cảm xúc liên quan đến luân xa 2
c. Vầng tâm thần liên quan đến luân xa 3
d. Vầng tinh tú liên quan đến luân xa 4
e. Vầng hình thái bổ sung liên quan đến
luân xa 5
f. Vầng thượng giới liên quan đến luân
xa 6
g. Vầng nhân quả liên quan đến luân xa 7
Mức năng lượng sinh học ở mỗi luân
xa liên quan đến độ sáng, màu sắc và kích
thước của mỗi vầng hào quang. Vấn đề này
chúng ta sẽ có dịp làm quen trong các bài
giảng về bản chất ánh sáng của năng lượng
sinh học.
2.jpg


a/2. Lý giải lời dạy của Phật
“Năm uẩn ngăn che trí tuệ sinh ra
năm ấm”
dẫn đến kết luận: sáu vầng
hào quang bức xạ từ luân xa 1 đến
luân xa 6 chính là 5 lớp mê sắc ấm, thọ
ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm
 Lý giải về năm uẩn
Thân thể con người do năm uẩn tạo
nên. Uẩn là chứa nhóm. Vậy thân thể con
người gồm năm nhóm vật chất là sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Trong năm nhóm vật chất này thì sắc
uẩn là thân thịt xương da máu mủ. Bốn uẩn
còn lại chính là phần còn lại của thân thể là
hệ thần kinh. Hệ thần kinh là do hơn hai tỷ
tế bào thần kinh tạo nên. Hơn hai tỷ tế bào
thần kinh này tích chứa hay tiềm ẩn năng
lượng trí tuệ của con người, chia thành bốn
nhóm. Nhóm tế bào thần kinh tích chứa
hay tiềm ẩn năng lượng trí tuệ thuộc về thọ
(cảm giác, cảm xúc khổ vui). Nhóm thuộc
về tưởng (tư duy, tình cảm). Nhóm thuộc
về hành (thiện, ác). Nhóm thuộc về thức
(nhận biết).
 Lý giải về ngăn che trí tuệ
* Trí tuệ: Trí tuệ của con người chính
là năng lượng của thức A lại da hay thức thứ
8 còn gọi là thần thức: Năng lượng trí tuệ
thần thức này tích chứa hay tiềm ẩn trong
hơn hai tỷ tế bào thần kinh chia làm bốn
nhóm thọ tưởng hành thức.
Có thể ví mỗi tế bào thần kinh của hệ
thần kinh như một chiếc pin. Pin thường
thì nạp bằng năng lượng của dòng điện một
chiều (năng lượng vật lý). Còn pin tế bào
thì nạp bằng năng lượng trí tuệ thần thức
(năng lượng tâm linh). Pin thường dùng
hết điện năng thì bỏ hoặc làm lại, còn pin tế
bào nạp năng lượng một lần khi thần thức
nhập thai, sử dụng cho đến khi chết. Thần
thức rời khỏi xác thân lại rút năng lượng trí
tuệ thần thức ra khỏi pin tế bào của hệ thần
kinh xác thân này. Đến khi nhập thai lại nạp
năng lượng trí tuệ thần thức vào pin tế bào
hệ thần kinh của thân mới.
* Ngăn che trí tuệ
Do bị năm uẩn ngăn che trí tuệ. Cụ thể
là hơn 2 tỷ tế bào thần kinh của hệ thần
kinh (4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức) và lớp
da bọc ngoài của thân thịt xương da máu
(sắc uẩn) ngăn che. Nên con người không
sống bằng tâm trí tuệ thần thức được, mà
phải sống bằng tâm mê do trí tuệ thần thức
bị năm uẩn ngăn che mà sinh ra. Đó là năm
ấm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và
thức ấm.
 Lý giải về năm ấm
Tâm con người vốn là trí tuệ thần thức,
thấy nghe biết bằng thần thông trí tuệ rất
vi diệu. Nhưng vì bị năm uẩn ngăn che sinh
ra năm ấm là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng
ấm, hành ấm và thức ấm. Là năm lớp
mê lầm mà con người đã nhận năm lớp mê
lầm năm ấm này là tâm tính của mình. Nhận
cái thân thịt xương da máu hôi tanh là thể
xác của mình (sắc ấm). Cả ngày tôi khổ tôi
vui, nhận thọ ấm là mình. Tôi yêu tôi ghét,
nhận tưởng ấm là mình. Tôi thiện tôi ác,
nhận hành ấm là mình. Tôi nhận tôi biết,
nhận thức ấm là mình. Cái xác thân thịt
xương da máu nó có sáu căn là mắt tai mũi
lưỡi thân ý. Sáu căn này duyên theo sáu trần
là sắc thanh hương vị xúc pháp nên có thấy
nghe hay. Do sáu căn có thấy nghe hay mà
sáu thức trong lớp mê thức ấm mới nhận
biết được những cái thấy nghe hay ấy của
6 căn đối với cảnh ngoài. Vì thế kinh Lăng
Nghiêm mới gọi cái tâm mê lầm năm ấm
là thức tâm phan duyên, chính là vọng
tâm hay tâm mê của con người vậy.
So sánh đối chiếu giữa sáu vầng hào
quang từ vầng 1 đến vầng 6 bao quanh cơ
thể con người với năm lớp mê năm ấm thấy
chúng đều từ các tế bào thần kinh có trong
thần kinh hệ hay các tế bào thần kinh của
bốn nhóm thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn
và thức uẩn bức xạ ra hay sinh ra. Cùng với
sự giống nhau giữa đặc trưng của sáu vầng
với đặc trưng của 5 lớp mê năm ấm. Rút ra
kết luận: sáu vầng hào quang từ 1 đến 6
chính là 5 lớp mê năm ấm.
So sánh đối chiếu theo
sơ đồ sau

3.jpg


b. Thành tựu khoa học hiện đại về
bảy vầng hào quang bao quanh cơ
thể con người đã làm sáng tỏ đạo lý
nhân quả luân hồi của Phật là chân
thật, khách quan và khoa học.
b/1 Vận dụng Phật Pháp để nhận biết
về bảy vầng hào quang bao quanh cơ
thể:
 Năng lượng thần thức trong các tế
bào thần kinh của thần kinh hệ (bốn uẩn
thọ tưởng hành thức)
bức xạ ra ngoài qua 6
luân xa lớn từ 1-6 trên mặt da của xác thân
(sắc uẩn) thành 6 vầng hào quang 5 ấm (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức ấm)
. Con người đã
nhận đặc trưng của 6 vầng hào quang năm
ấm là tâm tính của mình:
- Thân này là tôi, của tôi là đặc trưng
của vầng hào quang cảm giác, sắc ấm (qua
LX1)
- Tôi vui, tôi khổ, đặc trưng của vầng
hào quang cảm xúc thọ ấm (LX2)
- Tôi tư duy, đặc trưng của vầng hào
quang tâm thần tưởng ấm (LX3)
- Tôi yêu, tôi ghét, đặc trưng của vầng
hào quang tinh tú tưởng ấm (LX4)
- Tôi thiện, tôi ác, đặc trưng của vầng
hào quang hình thái bổ sung hành ấm (LX5)
- Tôi nhận, tôi biết, đặc trưng của vầng
hào quang thượng giới thức ấm (LX6)
Cái tâm tính này Phật Pháp gọi là vọng
tâm hay tâm sinh diệt vậy.
Còn vầng hào quang nhân quả bức xạ
qua luân xa 7 do đâu mà có? Xin lý giải như
sau:
Tâm con người lúc thiện lúc ác là do đặc
trưng của vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm. Khi đặc trưng tâm của vầng hào
quang hình thái bổ sung hành ấm là thiện
sẽ thúc đẩy thân và khẩu (miệng) hành
nghiệp thiện. Khi đặc trưng tâm của vầng
hào quang hình thái bổ sung hành ấm là ác
(si) sẽ sinh phiền não tham sân, thúc đẩy
thân và khẩu hành nghiệp ác. Năng lượng
nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu này
được giữ lại trong nhân tế bào sắc uẩn và
từ gen tốt xấu của nhân tế bào sắc uẩn bức
xạ qua luân xa 7 tạo thành vầng hào quang
nhân quả. Vị trí tiếp nối với vầng hòa quang
hình thái bổ sung hành ấm. Tại sao vầng
hào quang nhân quả lại tiếp nối với vầng
hào quang hình thái bổ sung hành ấm? Vì
năng lượng của vầng hào quang hình thái
bổ sung hành ấm là năng lượng của nghiệp
nhân ý nghiệp thiện ác. Khi năng lượng của
nghiệp nhân ý nghiệp thiện ác tăng thì năng
lượng nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu
cũng tăng. Vầng hào quang hình thái bổ
sung hành ấm giãn ra xa thân thì vầng hào
quang nhân quả cũng giãn ra xa thân. Và
ngược lại, vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm co lại thì vầng hào quang nhân quả
cũng co lại. Vậy hai vầng hào quang là khác
nhau, tuy là hai nhưng chính lại là một:
vầng hào quang của nghiệp nhân, ý,
thân, khẩu, nghiệp thiện ác vậy. Vầng
hào quang nhân quả bao bọc sáu vầng hào
quang năm ấm, có vỏ bọc dày từ 0,6cm đến
1,3cm, có tần số dao động lớn, là nơi giao
tiếp và phòng vệ năng lượng với môi trường.
Vị trí của vầng và kích thước của vỏ bọc phụ
thuộc bản thể.
Vị trí xa thân và kích thước của vầng
được xác định được như sau: Khi vị trí xa
thân của vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm là 60cm, vầng hào quang nhân
quả tiếp nối với vầng hào quang hình thái
bổ sung hành ấm ở vị trí 60cm nên có kích
thước là 100cm – 60cm=40 cm (100cm là vị
trí xa thân của bảy vầng hào quang mà vầng
hào quang nhân quả là vầng ngoài cùng nên
cũng là vị trí xa thân của vầng hào quang
nhân quả
). Kích thước 40cm này của vầng
là không thay đổi vì nó được tạo bởi năng
lượng nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu
nghiệp thiện ác từ gen di truyền tốt xấu
trong nhân tế bào bức xạ ra. Khi năng lượng
nghiệp nhân thiện của thân khẩu nghiệp
thiện tăng thì năng lượng nghiệp nhân ác
của thân khẩu nghiệp ác giảm và ngược lại
nên tổng số vẫn là như thế.
Khi vầng nối tiếp với vầng hào quang
hình thái bổ sung hành ấm ở vị trí xa thân
nhất là 60cm, vầng chứa thuần năng lượng
nghiệp nhân thiện của thân khẩu nghiệp
thiện, kích thước vỏ bọc của vầng là mỏng
nhất và bằng 0,6cm. Khi vầng nối tiếp với
vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm
ở vị trí gần thân nhất là 15cm, vầng chứa
thuần năng lượng nghiệp nhân ác của thân
khẩu nghiệp ác, kích thước vỏ bọc của vầng
là dày nhất và bằng 1,3cm.
 Mỗi vầng hào quang từ 2 đến 6 đều
có 2 vị trí gần thân và xa thân. Khoảng cách
giữa hai vị trí là kích thước của vầng. Khi vị
trí xa thân là xa nhất, kích thước của vầng
là dày nhất. Khi vị trí xa thân co lại gần
vị trí gần thân, kích thước của vầng mỏng
dần.
Vị trí xa thân co tiếp chập một với vị trí
gần thân, kích thước của vầng bằng 0, vầng
không còn.
Vị trí xa thân co lại dần, kích thước vầng
mỏng dần khiến cho:
- Màu sắc của các vầng cũng mờ nhạt
dần.
- Đặc trưng của vầng hào quang thượng
giới thức ấm thấy biết kém sáng suốt dần.
- Đặc trưng của vầng hào quang hình
thái bổ sung hành ấm, tâm thiện giảm dần,
tâm ác tăng dần.
- Đặc trưng của vầng hào quang tinh tú
tưởng ấm yêu thương giảm, ghét bỏ tăng.
- Đặc trưng của vầng hào quang cảm
xúc thọ ấm vui ít dần khổ tăng dần.
Sở dĩ có sự biến đổi trên là do mức
năng lượng của thần thức bức xạ ra mạnh
hay yếu. Nguyên nhân khiến có mức năng
lượng mạnh hay yếu là bởi đặc trưng tâm
của vầng hào quang hình thái bổ sung hành
ấm. Khi đặc trưng tâm của vầng hào quang
hình thái bổ sung hành ấm là thiện, chính là
ý nghiệp thiện. Khi đặc trưng tâm của vầng
hào quang hình thái bổ sung là ác, chính là
ý nghiệp ác. Năng lượng của ý nghiệp thiện,
ác này chính là năng lượng thần thức bức xạ
ra mạnh hay yếu vậy.
b/2 Vận dụng kiến thức về bảy
vầng hào quang đã xác định ở phần
trên để nhận biết quá trình luân hồi
của tâm con người khi còn đang sống.
 Khi đặc trưng tâm của vầng hào
quang hình thái bổ sung hành ấm là
thuần thiện, vị trí xa thân của vầng là xa
nhất bằng 60cm, kích thước của vầng là dày
nhất là 60cm – 15cm = 45cm, màu sắc của
vầng: trong suốt trên nền xanh cô ban, là
sáng đẹp nhất.

- Vầng hào quang nhân quả tiếp nối
với vầng hào quang hình thái bổ sung ở vị
trí 60cm, kích thước của vầng là 40cm, chứa
thuần năng lượng nghiệp nhân thiện của
thân khẩu nghiệp thiện. Vỏ của vầng cách
thân là 60cm + 40cm = 100cm. Kích thước
của vỏ vầng là mỏng nhất 0,6cm.
- Vầng hào quang thượng giới thức ấm
cũng ở vị trí xa thân nhất là 82cm, kích thước
của vầng là dày nhất: 82cm – 60cm=22cm.
Màu sắc của vầng: màu phấn là chủ yếu,
sáng đẹp nhất. Đặc trưng của vầng: nhận
biết sáng suốt nhất.
- Vầng hào quang tinh tú tưởng ấm
cũng ở vị trí xa thân nhất là 25cm, kích thước
của vầng: 25cm – 15cm=10cm, màu sắc của
vầng: màu hồng là chủ yếu, sáng đẹp nhất,
đặc trưng: thuần yêu thương.
- Vầng hào quang tâm thần tưởng ấm
cũng ở vị trí xa thân nhất là 20,5cm, kích
thước của vầng là dày nhất: 20,5cm – 7,5cm
= 13cm, màu sắc: màu vàng chói sáng đẹp
nhất, đặc trưng: tư duy tốt nhất.
- Vầng hào quang cảm xúc thọ ấm cũng
ở vị trí xa thân nhất là 7,5cm. Kích thước của
vầng là dày nhất bằng 7,5cm - 2,5cm = 5cm,
màu sắc: thay đổi từ vàng chói đến xám xịt,
nhưng lại chứa tất cả các màu của cầu vồng,
vẫn là sáng đẹp nhất, đặc trưng: thuần vui.
Người có cảnh giới tâm này là bậc
vĩ nhân hoặc thánh nhân.
 Khi đặc trưng tâm của vầng
hào quang hình thái bổ sung hành
ấm thiện nhiều hơn ác, vị trí xa thân co
lại 15 cm nên cách thân là: 60cm-15cm= 45
cm, kích thước của vầng mỏng bớt: 45cm –
15cm = 30cm, màu sắc của vầng đã kém vẻ
sáng đẹp.

Vầng hào quang nhân quả co lại nối tiếp
với vầng hào quang hình thái bổ sung hành
ấm ở vị trí 45cm, vỏ của vầng cách thân
45cm+40cm = 85cm. Vầng chứa nhiều năng
lượng nghiệp nhân thiện của thân khẩu
nghiệp thiện hơn năng lượng nghiệp nhân
ác của thân khẩu nghiệp ác, kích thước vỏ
bọc dày hơn 0,6cm.
Vị trí xa thân của các vầng hào quang
còn lại tiếp tục co về gần với vị trí gần thân,
kích thước của các vầng vẫn lớn hơn kích
thước trung bình của vầng, mầu sắc của các
vầng vẫn còn sáng đẹp, đặc trưng của các
vầng như vầng hào quang thượng giới thức
ấm vẫn thấy biết sáng suốt, vầng hào quang
tinh tú và tâm thần tưởng ấm vẫn yêu thương
nhiều, tư duy tốt, vầng hào quang cảm xúc
thọ ấm vẫn còn vui nhiều.
Người có cảnh giới tâm này là
người giữ gìn ngũ giới nhiều.
 Khi đặc trưng tâm của vầng hào
quang hình thái bổ sung hành ấm ác
nhiều hơn thiện.
Vị trí xa thân tiếp tục co thêm 15cm nữa,
nên cách thân là 45cm-15cm=30cm, kích
thước vầng là 30cm-15cm=15cm, mỏng hơn
kích thước trung bình của vầng, khiến màu
sắc của vầng đã mất đi vẻ sáng đẹp.

- Vầng hào quang nhân quả tiếp tục co
về nối tiếp với vầng hào quang hình thái bổ
sung hành ấm, ở vị trí cách thân là 30cm, vỏ
của vầng cách thân là 30cm+40cm = 70cm.
Năng lượng của vầng nhiều nghiệp nhân ác
của thân khẩu nghiệp ác hơn là năng lượng
nghiệp nhân thân khẩu nghiệp thiện, kích
thước vỏ bọc dày lên rất nhiều.
Vị trí xa thân của các vầng hào quang
còn lại tiếp tục co về gần với bị trí gần thân,
kích thước của các vầng đều mỏng hơn kích
thước trung bình của vầng, nên màu sắc của
các vầng đã mất đi vẻ sáng đẹp. Đặc trưng
của các vầng như vầng hào quang thượng
giới thức ấm, thấy biết đã kém sáng suốt.
Vầng hào quang tinh tú và tâm thần tưởng
ấm ghét bỏ nhiều hơn yêu thương, tư duy
kém, vầng hào quang cảm xúc thọ ấm khổ
nhiều hơn vui.
Người có cảnh giới tâm này là
người giữ gìn ngũ giới ít.
 Khi đặc trưng tâm của vầng
hào quang hình thái bổ sung hành
ấm là quá ác, vị trí xa thân của vầng tiếp
tục co thêm 10cm nữa nên cách thân: 30cm-10cm=20cm.
- Vầng hào quang nhân quả cũng co lại

gần thân và tiếp nối với vầng hào quang hình
thái bổ sung hành ấm ở vị trí cách thân là
20cm, vỏ bọc của vầng cách thân 20cm+40
cm = 60cm.
Vầng hào quang nhân quả là vầng
ngoài cùng mà vị trí gần thân của vầng hào
quang thượng giới thức ấm là 60 cm nên
vầng hào quang thượng giới thức ấm
không còn. Các vầng hào quang khác tuy
còn nhưng kích thước đều rất mỏng, màu
sắc mờ nhạt. Vầng hào quang thượng
giới thức ấm không còn, cảnh giới tâm
của con người mất đi sáu thức nên chỉ sống
bằng bản năng, tương đương với cảnh giới
của loài thú. Vì thế thường bị người đời
mắng nhiếc bằng những câu thậm tệ nhưng
đích thực như đồ vô ý thức, đồ súc sinh v.v..
Người có cảnh giới tâm này chỉ
tương đương với súc sinh.
 Khi đặc trưng tâm của vầng hào
quang hình thái bổ sung hành ấm là
cực ác:

- Vị trí xa thân của vầng hào quang
hình thái bổ sung hành ấm tiếp tục co thêm
5cm nữa nên cách thân là 20cm-5cm=15cm
khiến cho vị trí xa thân chập một với vị trí
gần thân. Vì thế vầng không còn.
- Vầng hào quang nhân quả co lại tới vị
trí gần thân là 15cm là vị trí gần thân của
vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm đã mất. Vầng hào quang
tinh tú tưởng ấm có vị trí gần thân
là 15 cm cũng không còn, chỉ còn vầng
hào quang tâm thần co về sát với vị trí
gần thân là 7,5cm. Vầng hào quang thọ
ấm cũng co về sát với vị trí gần thân là 2,5
cm, tạo nên cảnh giới tâm chỉ còn bốn
vầng hào quang là vầng hào quang cảm
giác sắc ấm, vầng hào quang cảm xúc thọ
ấm, vầng hào quang tâm thần tưởng ấm
và vầng hào quang nhân quả bao bọc bên
ngoài cách thân ở vị trí gần nhất là 15cm.
Kích thước của vầng là 40cm, chứa thuần
nghiệp nhân ác của thân khẩu. Vỏ bọc của
vầng là dày nhất (1,3cm).
Người có cảnh giới tâm này đã bị mất
ba vầng hào quang là vầng thượng giới
thúc ấm (ý thức), vầng hào quang tinh tú
tưởng ấm (tình cảm yêu thương) và vầng
hào quang hình thái bổ sung hành ấm (tâm
thiện)
. Nên họ tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ,
ghét ganh, thấy lợi giành tranh....
Cảnh giới tâm của họ còn thấp
hơn loại thú.
 Khi đặc trưng tâm của vầng hào
quang hình thái bổ sung hành ấm
là thuần ác
, vị trí xa thân của vầng hào
quang tâm thần tưởng ấm và vị trí xa thân
của vầng hào quang cảm xúc thọ ấm, co lại
chập một với vị trí gần thân làm mất thêm
hai vầng hào quang nữa, tạo nên cảnh giới
tâm chỉ gồm có hai vầng hào quang là
vầng hào quang cảm giác sắc ấm cách thân
2,5cm và vầng hào quang nhân quả bao
ngoài cách thân là 15cm, kích thước là 40cm
chứa thuần năng lượng nghiệp nhân ác của
thân khẩu nghiệp ác, kích thước của vỏ bọc
là dày nhất bằng 1,3cm.
Người có cảnh giới tâm này còn
thấp hơn loài thú dữ. Họ là những
tên đầu trộm đuôi cướp, đâm thuê chém
mướn, xì ke ma túy nặng, mãi dâm chuyên
nghiệp v.v…Hạng người này khó bề
cải tạo bởi vì ý thức, tâm thiện, tình
cảm yêu thương, cảm xúc vui vẻ đã
mất sạch trong tâm của họ nên giáo
dục bằng lời chỉ như nước đổ lá khoai, nếu
dùng hình phạt cũng như lấy đá đè cỏ mà
thôi. Tuy nhiên, rất cá biệt cũng có người
có thể do nghiệp nhân thiện quá khứ chín
mùi hay nghiệp nhân thiện thuộc hậu báo
biến thành hiện báo khiến họ hồi tâm, ăn
năn hối cải, tiếp thu sự giáo dục, thực thi
luật pháp, tự giác lao động cực nhọc để
chịu quả khổ do nhân ác họ đã gây nên, thế
rồi nghiệp giảm phúc tăng, các vầng hào
quang đã mất dần dần hiển lộ cho đến khi
xuất hiện đầy đủ bảy vầng hào quang bao
quanh cơ thể. Thế là họ đã trở lại thành
người với đầy đủ tính người vốn có, và cứ
thế tiếp tục làm lành lánh ác họ sẽ trở lại
thành người lương thiện.
 Như trình bày ở trên thì con
người khi sống đã tạo ra sáu cảnh
giới tâm thiện ác là:

- Cảnh giới tâm thuần thiện của bậc
vĩ nhân hoặc thánh nhân gồm 7 vầng hào
quang, kích thước của 7 vầng hào quang là
lớn nhất.
- Cảnh giới tâm thiện nhiều hơn ác của
người giữ gìn ngũ giới nhiều gồm 7 vầng hào
quang, kích thước của 7 vầng hào quang thu
nhỏ lại.
- Cảnh giới tâm ác nhiều hơn thiện của
người giữ gìn ngũ giới ít gồm 7 vầng hào
quang, kích thước của 7 vầng hào quang là
nhỏ nhất.
- Cảnh giới tâm quá ác của người ngang
với loài thú gồm 6 vầng hào quang. Kích
thước nhỏ hơn kích thước 7 vầng hào quang
của người giữ gìn ngũ giới ít.
- Cảnh giới tâm cực ác của người thấp
hơn loài thú gồm 4 vầng hào quang. Kích
thước thu lại quá nhỏ so với những người có
cảnh giới tâm quá ác.
- Cảnh giới tâm thuần ác của người thấp
hơn loài thú dữ gồm 2 vầng hào quang. Kích
thước là nhỏ nhất.
Ở sáu cảnh giới tâm này con người đã
gieo nhân thiện ác để rồi được hưởng phúc
báo của nhân thiện hay chịu khổ báo của
nhân ác sau khi chết vậy.
 Quá trình hình thành cảnh giới
tâm cao hơn cảnh giới tâm của con
người:

Khi vị trí xa thân của vầng hào quang
hình thái bổ sung hành ấm là xa nhất
(60cm), đặc trưng tâm của vầng hào quang
hình thái bổ sung hành ấm là thuần thiện thì
đặc trưng tâm của vầng hào quang thượng
giới thức ấm vẫn trong vòng thấy biết của
cảnh giới hữu hình. Vị trí xa thân của vầng
hào quang thượng giới thức ấm chỉ cách
thân tối đa là 82cm. Vì sao năng lượng thần
thức bức xạ qua luân xa sáu lại không vượt
quá 82cm? Vì bị hai lớp ngăn che: ở bên
trong là thân năm uẩn (tế bào thần kinh và
luân xa 6)
, ở bên ngoài là vỏ bọc của vầng
hào quang nhân quả. Vậy muốn cho năng
lượng thần thức qua luân xa sáu vượt được
vị trí xa thân là 82cm thì phải tu hành theo
pháp môn thiền định. Vậy thiền định là gì?
Bên ngoài tâm không duyên theo cảnh gọi
là thiền,bên trong tâm không động thì gọi
là định. Nếu tu thiền mà tâm không động
thì gọi là đắc định.Có đắc định mới có định
nghiệp và lực của định nghiệp mới thắng
được sự ngăn che của năm uẩn để năng
lượng thần thức qua luân xa 6 vượt được vị
trí xa thân là 82cm và vượt qua vỏ bọc của
vầng hào quang nhân quả, phóng thẳng ra
ngoài thành vầng hào quang trí tuệ, có vị
trí xa thân không dùng đơn vị đo là cm mà
phải dùng đơn vị đo lớn hơn. Năng lượng
vượt qua vầng hào quang nhân quả thì gọi
là thần thông (thần thức đã thông ra ngoài).
Thần thông là trí tuệ thấy, nghe, biết vượt
qua giới hạn hữu hình. Nó rất vi diệu, như
thiên nhãn thông nhìn thấu trong lòng đất,
nhìn qua tường vách, nhìn thấy được sự
việc sẽ xảy ra ở vị lai, như tha tâm thông
biết được ý nghĩ của người khác, như túc
mạng thông thấy biết được các kiếp quá
khứ của mình và của người v.v…Người tu
thiền càng vào sâu trong định, định lực
càng mạnh, vầng hào quang trí tuệ càng
dãn xa thân. Theo Phật Pháp thì có tám
mức định thấp mà người tu thiền có thể đạt
được gồm bốn mức tứ thiền thiên: sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Ở bốn mức
định này tâm của người tu không còn lòng
dục, chỉ còn vui ở trong định. Khi ở trong
định mà xả được tâm vui thì chuyển lên
bốn mức định cao hơn là tứ thiền không
bao gồm: không xứ định, thức xứ định, vô
sở hữu xứ định, phi tưởng phi phi tưởng xứ
định. Đạt được mức định phi tưởng phi phi
tưởng là cao tột, không vượt được nữa. Bởi
vì muốn vượt được mức định này thì phải
tu đến nghiệp sạch tình không là tận diệt
thân khẩu ý nghiệp.Thân khẩu nghiệp còn
tận diệt được chứ ý nghiệp thì khó tận diệt
vậy. Thế nên tu thiền mà không cùng tu giới
luật thì không thể nghiệp sạch tình không
được. Đạt được mức định phi tưởng phi
phi tưởng xứ định rồi mà không giữ được
vẫn bị tụt xuống mức định thấp hơn, hoặc
mất hẳn, như chuyện xảy ra ở Ấn Độ thời
đức Phật Thích Ca còn là thái tử Tất Đạt Đa
mới xuất gia tu hành. Thời ấy có đạo sĩ Út
Đầu Lan Thất đã đắc mức định phi tưởng
phi phi tưởng. Đạo sĩ được các đức vua xứ
Ấn Độ thời đó rất kính mộ. Theo thông lệ
hàng năm đạo sĩ được đức vua Ba Tư Nặc
mời xuống hoàng cung để thết đãi và tham
vấn. Đến hẹn, đạo sĩ đằng vân xuống hoàng
cung nhưng nhà vua có việc đột xuất phải
để ái phi thay tiếp. Đạo sĩ vừa nhìn thấy
ái phi, sắc đẹp tuyệt trần, trang phục lộng
lẫy liền bị động tâm, đã nhắm mắt rồi mà
tiếng oanh vàng vẫn còn thỏ thẻ cứ rót vào
tai khiến đạo sĩ mất thần thông phải đi bộ
về núi, sau phải tu hành vất vả mãi mới hồi
phục lại mức định như cũ. Thế mới biết khi
chưa tận diệt được nghiệp, tâm con người
vẫn bị nghiệp lực trói buộc trong cảnh giới
luân hồi vậy.
b/3 Vận dụng Phật Pháp và kiến
thức về bảy vầng hào quang để nhận
biết cảnh giới sáu đạo luân hồi và ba
cõi luân hồi của con người sau khi chết.
Theo Phật Pháp cảnh giới của lục đạo
luân hồi là cảnh giới mà con người phải
chịu khổ báo hoặc được hưởng phúc báo
của nhân ác, nhân thiện do họ tạo ra khi còn
sống:
 Cảnh giới địa ngục
Nếu cảnh giới tâm của con người khi
sống là thuần ác nên chỉ còn 2 vầng hào
quang. Khi chết thần thức nhận vầng hào
quang cảm giác sắc ấm làm thân (thân sắc
ấm)
và vầng hào quang nhân quả có vỏ bọc
dầy nhất 1,3 cm bao bọc bên ngoài. Rồi rời
khỏi sắc thân.
Do chỉ còn 2 vầng hào quang, kích thước
là nhỏ nhất nên nặng liền bị chìm sâu trong
lòng đất vì thế gọi là cảnh giới địa ngục.
Do vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả
là dầy nhất nên thần thức không thông ra
ngoài được vì thế không có thần thông trí
tuệ thấy nghe biết. Cho nên thần thức hoàn
toàn bị cô lập với cảnh ngoài. Những chủng
tử ý nghiệp ác trong tàng thức (bộ nhớ ) của
thần thức luôn hiện ra trong tâm những cơn
ác mộng triền miên không bao giờ dứt về
những cảnh họ bị tra tấn cực hình, chết đi
sống lại hãi hùng không sao tả siết.
Chịu quả báo ý nghiệp ác của địa ngục
cho đến khi thần thức bức xạ thêm 2 vầng
hào quang nữa là vầng hào quang cảm xúc
thọ ấm và vầng hào quang tâm thần tưởng
ấm. Mới chịu xong quả báo ý nghiệp ác của
cảnh giới địa ngục, và được sinh lên cảnh
giới cao hơn là cảnh giới ngạ quỷ để tiếp tục
chịu nốt món nợ ý nghiệp ác của cảnh giới
ngạ quỷ này.
* Cảnh giới ngạ quỷ
Nếu cảnh giới tâm của người khi sống
là cực ác nên chỉ còn 4 vầng hào quang. Khi
chết thần thức nhận vầng hào quang cảm
giác sắc ấm làm thân, cùng với vầng hào
quang cảm xúc thọ ấm, vầng hào quang tâm
thần tưởng ấm và vầng hào quang nhân quả
có vỏ bọc dày nhất bao bọc bên ngoài. Rồi
rời khỏi xác thân.
Kích thước của 4 vầng vẫn còn quá nhỏ
nên còn nặng liền bị chìm vào những hầm
hố hang động dưới mặt đất. Gọi là cảnh
giới ngạ quỷ.
Do vầng hào quang nhân quả vẫn còn
ở vị trí gần thân nhất, vỏ bọc của vầng vẫn
dày nhất, nên cũng giống với cảnh giới địa
ngục là thần thức hoàn toàn bị cô lập với
cảnh ngoài. Những chủng tử ý nghiệp ác mà
họ đã tạo ra ở kiếp trước được giữ lại trong
tàng thức của thần thức luôn hiện ra trong
tâm những cơn ác mộng triền miên không
bao giờ dứt về những cảnh đói khát, kêu la
vô cùng thảm thiết.
Họ phải chịu quả báo về ý nghiệp ác cho
đến khi thần thức bức xạ thêm ra 2 vầng hào
quang nữa là vầng hào quang tinh tú tưởng
ấm và vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm, là chịu xong quả báo về cảnh
giới ngạ quỷ. Mới được sinh lên cảnh giới
cao hơn là cảnh giới súc sinh, để phải
chịu tiếp quả báo về thân khẩu nghiệp
ác mà họ gây ra ở kiếp sống trước.
*Cảnh giới súc sinh
Nếu cảnh giới tâm con người khi sống
là quá ác nên chỉ còn 6 vầng hào quang.
Khi chết thần thức của họ nhận vầng hào
quang sắc ấm làm thân cùng với 4 vầng
hào quang là vầng hào quang cảm giác thọ
ấm, vầng hào quang tâm thần tưởng ấm,
vầng hào quang tinh tú tưởng ấm, vầng
hào quang hình thái bổ sung hành ấm và
vầng hào quang nhân quả có vỏ bọc mỏng
hơn 1,3cm một chút bao bọc bên ngoài.
Rồi rời khỏi sắc thân.
Kích thước 6 vầng hào quang vẫn nhỏ
nên còn hơi nặng. Vỏ bọc của vầng hào
quang nhân quả vẫn còn quá dày nên thần
thông trí tuệ thấy nghe biết mờ mịt thấp
kém. Cảnh giới tâm khi sống lại bị mất
vầng hào quang thượng giới thức ấm là
vầng thứ 6 (không còn ý thức). Vì thế cảnh
giới tâm của họ thấp hơn cảnh giới tâm
của con người còn đủ 7 vầng hào quang.
Nên phải tìm đến đầu thai vào cảnh giới
tương ứng là súc sinh (gia súc, gia cầm)
mà có thấy nghe hay, và nhờ vào thân
súc sinh ấy mà “trả nợ cho người” về
những nghiệp ác của thân khẩu do họ gây
ra khi còn sống.
Nhân quả nghiệp báo về cảnh giới súc
sinh ghi trong bản đồ 10 Pháp Giới đã
làm rõ ý phân tích ở trên:
“ Ngu si biếng nhác.
Dối gạt móc biêu.
Làm thân súc vật.
Trả nợ cho người”.

Họ phải chịu quả báo về cảnh giới súc
sinh này cho đến khi thần thức bức xạ thêm
vầng hào quang thứ 6 là vầng hào quang
thượng giới thức ấm, để có đủ 7 vầng hào
quang mới sinh lên cảnh giới tâm cao hơn
đó là cảnh giới tâm của người âm, rồi chờ
duyên cha mẹ để được sinh lại làm người.
*Cảnh giới con người
Cảnh giới tâm đủ bảy vầng hào quang,
sau khi chết thần thức nhận vầng hào quang
cảm giác sắc ấm làm thân, rời khỏi xác thân
cùng với năm vầng hào quang bốn ấm, bị
vầng hào quang nhân quả bao bọc dẫn đi
tìm duyên cha mẹ để đầu thai vào thân mới.
Nếu gặp duyên cha mẹ thì được sinh lại
làm người. Quá trình hình thành bào thai
diễn ra như sau: Thần thức nhập thai cùng
thời điểm với trứng được thụ tinh. Năng
lượng của sáu vầng hào quang năm ấm rút
vào thần thức ngay trong thời điểm đó, để
rồi nạp vào tế bào thần kinh. Cũng trong
thời điểm đó, năng lượng nghiệp nhân thiện
ác của thân khẩu nghiệp thiện ác trong vầng
hào quang nhân quả cũng rút vào nhập thai
để làm nhiệm vụ chọn gen sinh ra xác thân
của hài nhi. Khi hài nhi chào đời, thần thức
lại bức xạ năng lượng qua sáu luân xa của
hài nhi tạo ra sáu vầng hào quang năm ấm.
Sáu vầng hào quang năm ấm này có vị trí
xa thân gần thân, mầu sắc và đặc trưng của
các vầng đúng như cảnh giới của sáu vầng
trước lúc nhập thai. Cùng lúc đó năng lượng
nghiệp nhân thiện ác sau khi làm nhiệm vụ
chọn gen lại bức xạ qua luân xa bảy của hài
nhi thành vầng hào quang nhân quả bao bọc
sáu vầng hào quang năm ấm và xác thân của
hài nhi đó. Qua quá trình hình thành bào
thai, xin rút ra nhận định và kết luận sau:
Gen di truyền từ thân thế hệ trước sang
thân thế hệ sau, hai thân là khác nhau,
nhưng thần thức, năm ấm và nghiệp thiện
ác của thân khẩu do thân trước tạo ra tồn tại
cho đến lúc nhập thai, truyền từ thân trước
sang thân sau không hề thay đổi. Chỉ vì tâm
mê năm ấm, khi chết thì u minh mờ mịt,
khi nhập thai lại u minh mờ mịt hơn, khi ra
thai xác thân vừa đau đớn vừa phải tiếp xúc
với môi trường khác hẳn khi còn nằm trong
bụng mẹ như không khí, ánh sáng, nhiệt độ
v.v…nên quên hết tiền kiếp là như vậy. Trong
kinh Phật có câu: “Bồ tát còn quên khi cách
ấm, Thanh Văn chẳng nhớ lúc ra thai”
. Bồ
Tát, Thanh Văn là các vị tu hành đắc đạo, có
trí tuệ mà khi “cách ấm” (năm ấm trước lúc
nhập thai và năm ấm sau khi ra thai cách
nhau giữa hai thân cũ, mới qua thời gian
chín tháng ở trong thai)
còn quên mất tiền
kiếp huống chi là con người bình thường.
Trong câu chuyện thay thân đổi xác giữa cô
Cà Mâu và cô Bạc Liêu. Thần thức, năm ấm
và nghiệp của cô Cà Mâu sau khi chết không
phải vào thai ra thai mà nhận ngay thân mới
có sẵn của cô Bạc Liêu nên vẫn nhớ nguyên
tiền kiếp đã làm sáng tỏ nhận định và kinh
Phật dẫn ở trên. Câu chuyện về cô Cà Mâu
trích trong tập Phật học phổ thông của Hòa
thượng Thích Thiện Hoa xảy ra như sau:
“Tại sứ Đầm Dơi Cà Mâu ở làng Tân Việt.
Gia đình ông Cả Hiêu có cô con gái 19 tuổi
bị bệnh rồi qua đời. Gia đình khóc thương
thảm thiết, trong niềm đau đớn tột độ đó, ai
cũng mong sao cho con gái sống trở lại với
gia đình vì cô còn quá trẻ, lại là cô gái đẹp đẽ
dễ thương, dễ mến.
Cùng thời điểm đó có chuyện lạ lùng là
cách đó khoảng 100 cây số ở làng Vĩnh Mỹ
Bạc Liêu. Gia đình ông Hương Thừa có cô
con gái trẻ dễ thương, đẹp đẽ cũng bị bệnh
rồi qua đời. Gia đình khóc thương thảm
thiết chuẩn bị ma chay tẩm liệm. Thế nhưng
như một phép lạ, một ngày sau khi chết
cô gái bỗng nhiên sống dậy và chỉ sau vài
ngày tĩnh dưỡng, cô gái đã mạnh khỏe như
thường, không nhắc chi bệnh trạng đã làm
cô chết. Cả gia đình nửa mừng nửa sợ không
biết tại sao cô sống lại được, trong khi cô đã
chết một ngày rồi. Cả nhà còn đang hồi hộp
bán tín bán nghi cô gái nói cô là con gái của
ông Cả Hiêu ở làng Tân Việt sứ Đầm Dơi
Cà Mau chứ không phải con của gia đình
này. Gia đình càng hoảng sợ cho rằng ma
nhập xác nên đã mời thầy trừ tà đến cúng.
Cô gái thì tỉnh bơ và cứ nhắc đi nhắc lại là cô
không phải là ma quỷ mà là con gái ông Cả
Hiêu và đòi dẫn về nhà cũ ở cách đó độ 100
cây số. Qua mấy ngày trắc nghiệm thấy cô
không phải quỷ ám ma nhập gì cả mà hoàn
toàn là cô không hiểu chi về gia đình này
một mảy may nào. Cô cũng không biết gì về
thời thơ ấu của cô cho đến hiện tại, quả thật
cô là một người hoàn toàn khác. Do đó mà
gia đình nhà ông Hương Thừa đồng ý theo
sự dẫn đường của cô đi Cà Mau đến làng
Tân Việt để tìm hiểu thật hư thế nào.
Khi vừa vào nhà ông Cả Hiêu, cả nhà
còn ngơ ngác chưa biết thật hư thế nào cô
đã chạy đến ôm hôn cha mẹ là ông bà Cả
Hiêu nói rằng con đã về đây, chào hỏi mừng
rỡ với mọi người trong gia đình rồi đi rót
nước pha trà mời mọi người khách đúng như
người con gái trong gia đình, cái gì để chỗ
nào cũng biết. Sau nhiều lần trắc nghiệm
hỏi cô về quá khứ của cô và những việc trong
gia đình. Ông Cả Hiêu xác nhận đúng là con
gái yêu quý của họ thật sự mặc dầu với một
thân hình khác. Từ đó hai gia đình kết thân
với nhau, cô gái ấy sau này được hưởng hai
phần gia tài của hai gia đình ”.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhưng
rất cá biệt là khi thần thức năm ấm và nghiệp
nhập thai ra thai mà vẫn nhớ nguyên tiền
kiếp như câu chuyện do hòa thượng Thích
Thiện Hoa du học ở Đê Ly thủ đô Ấn Độ sưu
tầm và kể lại như sau:
Một cô bé mới sáu tuổi sinh ra trong một
gia trình ở Đê Ly nhớ lại tiền kiếp. Cô bé kể
lại cho bố mẹ nghe về chồng con và nơi ở
của cô ở kiếp trước rất rõ ràng. Bố mẹ cô cho
là cô bị bệnh thần kinh, tìm thầy chữa bệnh
nhưng cô bé vấn chẳng sao, thỉnh thoảng lại
kể về chuyện đó và xin bố mẹ cho cô về thăm
lại chồng con. Đến năm tám tuổi, cha mẹ
mới đồng ý và mời một phóng viên nhà báo
cùng đi. Đường xa hơn hai trăm cây số, khi
về tới nhà bố mẹ chồng, cô bé mừng rỡ và kể
lại chuyện cũ, bố mẹ chồng đều công nhận
là đúng. Khi về tới cửa nhà mình, cô nói với
mọi người tường vôi trước là màu trắng, nay
đã quét lại mầu khác. Vào nhà gặp lại đứa
con. Cô ôm lấy nó và nói mẹ đã về đây. Gặp
chồng (người chồng này đã lấy vợ khác)
mừng rỡ và kể lại chuyện cũ. Người chồng
đó xác nhận những điều cô nói là đúng. Đặc
biệt, cô chỉ chiếc đồng hồ treo trên tường
và nói chiếc đồng hồ này là quà tặng có ghi
chữ ở mặt sau. Khi hạ chiếc đồng hồ xuống
xem thì đúng như lời cô nói. Cô bé tám tuổi
đó lớn lên học sư phạm và làm hiệu trưởng
một trường học ở Đê Ly. Hòa thượng Thích
Thiện Hoa đã đến thăm và chụp chung với
bà hiệu trưởng đó một kiểu ảnh để làm nhân
chứng cho chuyện kể của mình.
Việc nhớ lại tiền kiếp còn xảy ra trong
những trường hợp xuất hiện các thần đồng.
Có phải họ là những người tài giỏi, trước khi
chết họ rất tiếc khả năng tài ba của họ, muốn
sống tiếp để được tiếp tục cống hiến hoặc công
trình nghiên cứu còn đang dang dở hay cuốn
sách họ viết chưa xong họ muốn sống tiếp để
hoàn thành thì bị chết. Do nguyện vọng tốt
đẹp và ý chí mạnh mẽ đó đã tạo nên phúc báo
lớn ở kiếp sau, khiến họ nhớ lại kiến thức và
khả năng tài ba ở kiếp trước chăng?!...
Quá trình hình thành bào thai để
được sinh lại làm người và các chuyện
kể, đã làm sáng tỏ chết không phải là
hết mà là luân hồi trong sáu đạo, và khi
chết muôn thứ mang chẳng được, chỉ có
nghiệp theo mình như lời Phật dạy vậy.
Nếu không gặp duyên cha mẹ, thần
thức vẫn nhận vầng hào quang cảm giác sắc
ấm làm thân cùng năm vầng hào quang bốn
ấm thọ tưởng hành thức và vầng hào quang
nhân quả bao ngoài (bảy vầng) cùng tồn
tại với cảnh giới của con người. Vì sắc thân
của họ là hào quang năng lượng, mắt người
không nhìn thấy được nên gọi là bóng ma.
Không gian mặt đất của bóng ma là một với
không gian mặt đất của con người nên phân
biệt gọi là người âm. Vì thế có câu “trần sao
âm vậy”
. Họ vẫn đi về trên con đường mà
khi còn sống họ đi, họ cũng đi chợ mà khi
còn sống họ thường đến, họ đến gian hàng
của người nhà hay người quen mà chẳng
ai hỏi họ, họ muốn giao tiếp mà chẳng
giao tiếp được vì họ không còn thân người,
không còn sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý để tiếp xúc với sáu trần sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp nên sáu thức trong vầng hào
quang thượng giới thức ấm không hiện hành
ra được, vì thế họ không còn thấy nghe hay
biết như khi còn sống. Nhưng họ thấy nghe
biết bằng thần thông do phúc báo mà có.
Tại sao do phúc báo lại có thần thông? Vì
khi chết, thần thức không còn bị lớp ngăn
che bên trong là thân năm uẩn (tế bào thần
kinh và sáu luân xa)
chỉ còn bị hai lớp ngăn
che bên ngoài là vầng hào quang cảm giác
sắc ấm và vỏ bọc của vầng hào quang nhân
quả nên năng lượng thần thức hiển lộ ra
ngoài vỏ bọc này thành thần thông trí tuệ
thấy nghe biết cảnh ngoài cả cảnh giới hữu
hình (cảnh giới của người đang sống)
cảnh giới vô hình (cảnh giới của người âm).
Vỏ bọc càng mỏng thần thông càng mạnh.
Vỏ bọc mỏng là do năng lượng nghiệp nhân
thiện của thân khẩu nghiệp thiện lớn hơn
năng lượng nghiệp nhân ác của thân khẩu
nghiệp ác. Vì thế nói nhờ phúc báo mà có
thần thông là như vậy (phúc báo là quả
báo của nghiệp nhân thiện)
. Thần thông
thuộc về năng lượng trí tuệ nên nó chân
thật, không so đo tính toán, phân biệt khôn
ngoan như ý thức của con người khi còn
sống. Nếu khi sống giữ gìn ngũ giới nhiều,
hành nhiều nghiệp thiện về thân khẩu, thần
thông của họ sẽ mạnh nên có câu “sống
khôn chết thiêng”
. Nhờ có thần thông mạnh
mà họ phù hộ được cho con cháu, người
thân còn đang sống và cho ma quyến thuộc
nương nhờ. Do có thiên nhãn thông nên họ
biết trước những chuyện tốt xấu sẽ xảy ra
với người thân, họ gửi thông tin qua người
khác, hoặc nhập vào người khác để nói hay
báo mộng cho mà biết. Cũng có khi họ biết
người thân sẽ bị tai nạn xảy ra ở đâu, họ sẽ
theo và khi tai nạn xảy ra, họ dùng thần túc
thông giúp người thân thoát khỏi tai nạn đó
v.v… Nếu khi sống giữ gìn ngũ giới ít thần
thông sẽ yếu hay rất yếu, họ không có khả
năng phù hộ cho người thân, họ chỉ là những
bóng ma vật vờ nơi đầu đường góc chợ hoặc
thường quẩn quanh bên mộ của mình, gắn
bó với cái xác chết chôn dưới đó v.v…Việc
tiến cúng vào những ngày giỗ hay tuần rằm
tết nhất, người âm chỉ thọ nhận những thứ
tiến cúng chứ không thọ hưởng được vì họ
không có sáu căn tiếp xúc với những thứ tiến
cúng nên sáu thức trong vầng hào quang
thượng giới thức ấm không hiện hành để
thọ hưởng được. Còn thọ nhận là do thần
thông mà thần thông thuộc về trí tuệ nên
chỉ thọ nhận các thứ tiến cúng chứ không
so đo phân biệt nhiều ít, đẹp xấu v.v…Vì thế
chỉ nên cúng giỗ đơn giản. Nếu làm to, cúng
mặn khiến họ phải chịu thêm nghiệp sát,
làm giảm thần thông của họ mà thôi.
Người âm không thọ hưởng được các
thứ tiến cúng nhưng lại thọ hưởng được
tình cảm thương nhớ, ý nghĩ tốt đẹp đối với
họ và thường cầu mong cho họ được mát
mẻ, siêu thoát, bởi vì đặc trưng tâm của họ
vẫn còn đủ tình cảm yêu thương, hờn giận,
khổ, vui. Họ lại có tha tâm thông nên đọc
được những ý nghĩ, tình cảm đó của người
thân đối với họ. Ở cảnh giới cõi âm vì không
có thân người nên họ không tạo được thiện
nghiệp.Họ cần người sống tạo thiện nghiệp
hồi hướng công đức cho họ sớm gặp duyên
cha mẹ để được sinh lại làm người.
 Cảnh giới Atula
Cảnh giới Atula là cảnh giới tâm của
con người khi sống đạt tới mức thuần thiện,
nhưng vì tính tình nóng nảy, cương trực nên
đối trước những sự việc ngang tai trái mắt
thường nổi sung giận dữ. Họ thích tranh
luận, đấu đá, kiện cáo, đôi khi còn cống cao
ngã mạn, vì thế trong bản đồ mười pháp giới
có ghi: “Phúc ngang bằng Trời, đức lại kém
với, sân giận lật đổ, tranh đấu khắp nơi”.

Những người khi sống có cảnh giới tâm này,
khi chết sẽ đầu thai vào một trong hai cảnh
giới tương ứng là: Trời dục giới và người,
người âm.
Nếu cảnh giới tâm là thuần thiện, khi
chết sẽ được đầu thai lên cõi trời dục giới để
hưởng phúc báo về ý nghiệp thiện cho đến
khi màu sắc của bảy vầng hào quang bớt
vẻ sáng đẹp, kích thước của bảy vầng co lại
một chút sẽ phải đầu thai trở lại cảnh giới
con người để hưởng tiếp phúc báo của thân
khẩu nghiệp thiện.
Nếu cảnh giới tâm thấp hơn cảnh giới
tâm thuần thiện mà gặp duyên cha mẹ thì
đầu thai trở lại làm người (người có máu
Atula)
để hưởng phúc báo của thân khẩu ý
nghiệp thiện và trả khổ báo của thân khẩu
ý nghiệp ác mà mình đã tạo ra ở kiếp trước.
Nếu không gặp duyên cha mẹ thì tồn tại
ở cõi âm. Do có phúc báo lớn, thần thông
của họ rất mạnh nên rất linh thiêng, thường
được người đời lập miếu để thờ gọi là thần
nhưng không có sắc phong, chính là thần
Atula vậy. Các vị thần Atula nếu gặp duyên
cha mẹ lại đầu thai trở lại làm người.
 Cảnh giới trời dục giới
Nếu đặc trưng tâm con người khi sống
là thuần thiện, cảnh giới tâm đầy đủ bảy
vầng hào quang, các vầng có vị trí xa thân
là xa nhất, kích thước của các vầng là dày
nhất, màu sắc sáng đẹp rực rỡ nhất, đặc
trưng tâm thấy biết sáng suốt nhất, tình
cảm thuần yêu thương, thuần vui v.v…Vầng
hào quang nhân quả chỉ còn năng lượng
nghiệp nhân thiện của thân khẩu nghiệp
thiện, vỏ bọc của vầng là mỏng nhất 0,6cm.
Người có cảnh giới tâm này khi chết được
sinh lên cảnh giới tương ứng là Trời dục
giới để hưởng phúc báo về ý nghiệp thiện
mà họ đã tạo ra khi còn sống. Do phúc báo
quá lớn nên thần thông của họ quá mạnh
vì thế gọi là thiên nhãn thông - mắt của
các vị Trời, thiên nhĩ thông - tai của các
vị Trời v.v…Phải chăng vì có thần thông
quá mạnh mà các vị Trời thường ban phát
phúc lành cho con người dưới hạ giới khi
họ cầu xin các Ngài?...Thân của các vị Trời
là thân hào quang năng lượng cảm giác sắc
ấm nên chỉ hưởng phúc báo của ý nghiệp
thiện. Chủng tử của nghiệp nhân ý nghiệp
thiện được giữ lại trong tàng thức luôn
hiện ra trong tâm thành những giấc mộng
đẹp triền miên không bao giờ dứt về những
cảnh sinh hoạt ăn uống tiệc tùng, vui chơi,
đàn ca, nhảy múa trong những lâu đài nguy
nga tráng lệ, sung sướng không sao tả siết.
Vì kích thước của bảy vầng hào quang là
lớn nhất nên nhẹ, vì thế cảnh giới tâm ở
trên tầng cao nên gọi là cõi Trời. Hưởng
hết phúc báo ý nghiệp thiện, màu sắc của
bảy vầng hào quang dần dần bớt đi vẻ sáng
đẹp, kích thước của các vầng dần dần co lại
sẽ nặng hơn, tương ứng với cảnh giới tâm
cực thiện của con người nên đầu thai trở
lại làm người để hưởng tiếp phúc báo của
thân khẩu ý nghiệp thiện.
 Cảnh giới của ba cõi: cõi Dục
giới, cõi Sắc giới và cõi Vô sắc giới

Sau khi chết con người đầu thai vào sáu
cảnh giới tương ứng, từ cảnh giới Trời dục
giới xuống tới cảnh giới Địa ngục gọi là sáu
đạo luân hồi. Chúng sinh trong sáu đạo này
còn lòng dục nên gọi là cõi dục giới.
Nếu khi sống mà đạt tới cảnh giới tâm
thuần thiện là đã xả bỏ được năm thứ dục
thô là: tài (tiền của), sắc (dâm dục), danh
(danh giá, địa vị), ăn, ngủ. Lại tu tiếp bằng
pháp môn thiền định cho đến khi xả bỏ hết
sáu thứ dục vi tế là: sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp, sẽ đắc bốn mức định là sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Khi chết theo
định nghiệp sinh thẳng lên cõi trời sắc giới
để hưởng phúc báo của định nghiệp (sống
ở trong định – tứ thiền thiên)
. Cõi trời sắc
giới cao hơn cõi trời dục giới.
Nếu khi còn sống đắc được bốn mức
định cao hơn nữa là: không xứ, thức xứ,
vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Ở bốn mức định này cảnh giới tâm không
còn hai vầng hào quang cảm giác sắc ấm
và cảm xúc thọ ấm, vì thế khi chết theo
định nghiệp sinh thẳng lên cõi trời cao hơn
cõi trời sắc giới và vì không còn vầng hào
quang cảm giác sắc ấm nên gọi là cõi trời
vô sắc giới để hưởng phúc báo thiền định
của tứ thiền không.Hưởng hết phúc báo
định nghiệp tứ thiền không ở cõi trời vô
sắc giới, lại chuyển sinh xuống hưởng phúc
báo định nghiệp của tứ thiền thiên ở cõi
trời sắc giới, lại chuyển sinh xuống hưởng
phúc báo ý nghiệp thiện của cõi trời dục
giới, lại chuyển sinh xuống cảnh giới người
để hưởng phúc báo thân khẩu ý nghiệp
thiện.
Chuyển sinh lên xuống giữa ba cõi như
thế gọi là luân hồi trong ba cõi (tam giới).
 Kết luận
Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng
hào quang bao quanh cơ thể con người đã
giúp ta nhận biết quá trình luân hồi của tâm
con người khi còn sống và cảnh giới lục đạo
luân hồi sau khi chết bằng những hình ảnh
cụ thể, đã hiện tướng ra trên giấy trắng mực
màu. Một lần nữa làm sáng tỏ đạo lý nhân
quả luân hồi của Phật là chân thật, khách
quan và khoa học vậy.
c. Nhận thức về sự khác nhau giữa
chúng sinh hữu tình là con người và
chúng sinh hữu tình là thực vật và
động vật.
Như ở phần III của bài đã viết: Chúng
sinh vô tình thuộc về năm đại là đất
đại, nước đại, gió đại, lửa đại và không
đại. Do ba bản thể năng lượng Nơtron,
***, electron hòa hợp duyên khởi mà tạo
nên. Chúng sinh hữu tình phải có thêm hai
đại nữa là kiến đại và thức đại là năng lượng
về cái thấy và cái biết của chúng sinh, có
nguồn gốc từ năng lượng bản thể giác tính, là
năng lượng về tính thấy, tính biết của Phật,
do mê nên mức năng lượng giảm mà sinh
ra. Nó chính là năng lượng sinh học mà khoa
học hiện đại đã khám phá ra được.
 Chúng sinh hữu tình là thực vật
và động vật chỉ do sáu đại
: đất đại,
nước đại, gió đại, lửa đại, không đại
và kiến đại hòa hợp duyên khởi mà sinh
ra. Như động vật bậc cao là loài thú cũng chỉ
sống được bằng năm giác quan và ba bản
năng sinh tồn mà thôi. Thí dụ: Trước mắt
con trâu là cái cây to, nó chỉ nhìn thấy cái
cây chứ không biết là cây gì, mít hay nhãn,
ai trồng, trồng từ bao giờ, quả có ngon hay
không ngon… Hay gần đấy có người gảy đàn,
nó chỉ nghe thấy âm thanh phát ra từ cây
đàn chứ không biết là đàn gì ghi ta hay đàn
bầu, ai gảy bài nhạc nào, có hay hay không
hay. Là bởi vì tâm của nó chỉ sinh ra từ
kiến đại (cái thấy) mà không có thức
đại (cái biết). Lại nữa, một bầy chó trong
sân nếu vứt cho một khúc xương chúng liền
xô tới tranh nhau, con nào khỏe giành được
chạy đi ăn một mình. Nó không biết nhường
nhịn chia nhau cùng ăn, vì nó chỉ sống bằng
bản năng sinh tồn, nó không có ý thức
tức không có thức đại (cái biết) vậy.
Các loài động vật bậc thấp thì không
đủ năm giác quan, con ốc, con hến chỉ có
một giác quan là xúc giác. Còn thực vật thì
không có giác quan vì nó không có tế bào
thần kinh, nhưng nó vẫn có cảm giác thấy,
như cây nào cũng đều hướng về ánh sáng,
cây xấu hổ ban ngày lá nó xòe ra, tối đến
hoặc đụng tay vào nó liền cụp lại. Khoa học
ngày nay đã chụp ảnh được hào quang bao
quanh lá cây.
 Chúng sinh hữu tình là con người
thì đầy đủ bảy đại: đất, nước, gió, lửa,
không, kiến và thức đại, hòa hợp duyên
khởi mà sinh ra.
Có như vậy khoa học mới
xác định được con người là vũ trụ thu nhỏ
hay tiểu vũ trụ. Còn Phật pháp thì chỉ rõ con
người là Phật vị lai, bởi vì tâm con người mới
tiềm ẩn đầy đủ tính Phật nên mới tu thành
Phật được và mới nói Phật tại tâm được.
V. Pháp môn niệm Phật là pháp môn
khoa học hiện đại về hào quang năng
lượng trí tuệ Phật.

1. Pháp môn niệm Phật là pháp tha lực
về hào quang năng lượng trí tuệ Phật
a) Sơ lược tiểu sử của Phật A Di Đà và
xuất xứ của Pháp Môn Niệm Phật

A Di Đà Phật là tiếng Phạn, dịch: vô
lượng quang, vô lượng thọ. Ngài là giáo chủ
thế giới cực lạc về phía tây. Theo kinh Cổ Âm
Vương, thì đời quá khứ lâu xa, có nước Diệu
Hỷ. Vị quốc vương là Kiều Thi Ca. Bấy giờ
có Phật Tự Tại Vương Như Lai ra đời. Kiều
Thi Ca xuất gia đầu Phật, hiệu là Pháp Tạng.
Lại kinh Vô Lượng Thọ nói: “ Pháp Tạng tỳ
khưu ở nơi Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai
phát lòng bồ đề, lại phát 48 lời nguyện, mỗi
nguyện như thế lại nói: nếu không được như
thế, tôi thề không thành Phật”
. Những đại
nguyện ấy đã thành tựu và ngài Pháp Tạng
đã thành Phật, tức là đức A Di Đà ở Thế Giới
Cực Lạc hiện nay.
Trong 48 đại nguyện có hai đại nguyện
13, 14 mở ra pháp tha lực, còn đại nguyện
18 là đại nguyện tiếp dẫn chúng sinh về Tây
Phương Cực Lạc mở ra Pháp môn Niệm
Phật, là xuất xứ của Pháp Môn Niệm Phật là
pháp tha lực vậy.
b) Nội dung của đại nguyện 13, 14
(trích kinh Vô Lượng Thọ do cư sĩ Hạ
Liên Cư hội tập)

“Khi tôi thành Phật, quang minh vô
lượng chiếu khắp mười phương. Vượt
hơn quang minh của thảy chư Phật.
Vượt hơn ánh sáng mặt trời, mặt trăng
ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sinh
thấy được quang minh chiếu chạm thân
mình, đều được an lạc, tâm từ hành
thiện. Được sinh nước tôi. Nếu không
như nguyện, không thành Chính giác”.

Phật là do chúng sinh tu thành. Phải
đầy đủ vô lượng quang, vô lượng thọ, vô
biên công đức. Mới chứng quả vị Phật. Tuy
nhiên nguyện tu hành của Chư Phật có mức
độ khác nhau nên nguyện lực cũng khác
nhau. Vì muốn độ tận chúng sinh nên đức
Phật A Di Đà đã phát đại nguyện 13 và 14
để có nguyện lực lớn, chính là Pháp tha lực.
Do có Pháp Tha Lực, Phật A Di Đà mới phát
tiếp đại nguyện thứ 18, là đại nguyện tiếp
dẫn chúng sinh về Tây Phương Cực Lạc để
mở ra Pháp Môn Niệm Phật là Pháp Tha
Lực. Nên 3 đại nguyện 13,14 và 18 đã mở ra
Pháp Môn Niệm Phật là Pháp Tha Lực vậy
. Ba đại nguyện này tổ Pháp Nhiên Thượng
Nhân gọi là Di Đà bản nguyện. Còn khi
nói, viết nguyện 18 là Di Đà bản nguyện
là nói tắt, viết tắt. Cũng như thế khi nói,
viết Pháp Môn Niệm Phật là nói tắt, viết
tắt. Còn nói đủ viết đủ phải là Pháp Môn
Niệm Phật là Pháp Tha Lực. Hay nói,
viết niệm Phật cũng là nói tắt viết tắt. Nói
đủ viết đủ phải là Tha Lực Niệm Phật. Có
hiểu như thế mới đồng với ý nghĩa của Pháp
Môn Niệm Phật là Pháp Tha Lực vậy.
Trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp
Nhiên Thượng Nhân dạy: “Kinh Quán Vô
Lượng Thọ chép rằng: “Quang minh
soi chiếu khắp 10 phương thế giới,
thâu nhiếp không rời chúng sinh niệm
Phật”
. Quang minh đức Phật A Di Đà
chỉ soi chiếu người niệm Phật chẳng
soi chiếu người tu các hạnh khác. Bởi
thế người cầu sinh sang Cực Lạc phải
biết niệm Phật là trọng yếu”
. Quang
minh chính là tha lực của Phật A Di đà vậy.
Trong Niệm Phật Cảnh, có người hỏi
Tổ Thiện Đạo: Nói về pháp môn thì vô
lượng Pháp nào là tự lực, pháp nào
là tha lực. Tổ đáp: “ Như Lai nói 84000
pháp môn, nhưng chỉ có một môn
Niệm Phật là tha lực. Các môn tu
hành khác đều là tự lực”.

Hỏi tiếp: Tu hành tự lực y theo
lời dạy trong kinh Phật bao giờ mới
thành tựu? Tu hành theo tha lực bao
giờ mới thành tựu?
Tổ đáp: “Tu hành tự lực theo lời
dạy trong kinh Phật từ lúc mới phát
tâm tu qua một đại A tăng tỳ kiếp mới
đến sơ địa bồ tát, ngang với quả vị A
la hán. Lại một đại a tăng tỳ kiếp nữa
mới đến bát địa bồ tát. Đây là tự lực.
Tu hành theo tha lực là pháp môn
niệm Phật, mau thì một ngày, chậm
thì bảy ngày niệm Phật A Di Đà vãng
sinh tịnh độ. Ngang hàng với Bồ Tát
bát địa. Tại sao? Vì nương vào sức
mạnh bản nguyện của Phật A Di Đà.
Trong kinh A Di Đà nói: “Chúng
sinh được sinh về cực lạc đều là bậc
bất thoái chuyển”. Tức là Bồ Tát bát
địa vậy.”

Lại hỏi tiếp: Tha lực và tự lực ý
nghĩa thế nào?
Tổ đáp: “Tha lực giống như con
kiến bám vào cánh đại bàng. Đại bàng
liền đem kiến để lên đỉnh núi Tu Di.
Kiến được lên cao thọ hưởng những
điều thích thú. Phàm phu niệm Phật
cũng như thế, nương vào nguyện lực
của Phật mau được trở về Tây Phương
thọ hưởng sự vui thích giống như con
kiến nương vào sức mạnh đại bàng
mà được lên núi, đấy là tha lực.
Các môn tu khác, giống như con
kiến dùng tự lực bò lên đỉnh núi,
chẳng thể tới được, đấy là tự lực.
Vả lại tự lực giống như kẻ phàm
phu què, không thể đi mau. Tha lực
giống như Chuyển Luân Vương, bay
trên hư không, qua lại khắp tứ thiên
hạ, vì nương vào sức mạnh của bánh
xe báu. Nương vào nguyện lực của
Phật A Di Đà cũng như thế, trong một
khoảnh khắc liền được vãng sinh Tây
phương vào bậc bất thoái.
Pháp môn niệm Phật nương vào
sức mạnh bản nguyện của Phật A Di
Đà mà mau chóng thành Phật. Vượt
qua các Pháp môn khác gấp trăm
nghìn vạn ức lần.”

c) Nội dung của đại nguyện thứ 18
“Nếu chúng sinh nào muốn về
nước ta. Một lòng tin ưa xưng danh
hiệu ta cho đến 10 niệm. Như không
được sinh ta không thành Phật”.
Từ
nội dung của đại nguyện 18 rút ra ba điều
kiện: Muốn về nước ta là cầu vãng sinh.
- Một lòng tin mà cầu vãng sinh hay
không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh, gọi
là tin sâu (điều kiện 1).
- Một lòng ưa mà cầu vãng sinh hay chỉ
một lòng cầu vãng sinh gọi là nguyện thiết
(điều kiện 2).
- Xưng danh hiệu ta hay niệm Phật (điều
kiện 3)

Trong 3 điều kiện thì tín đứng hàng đầu
và mở ra hai điều kiện sau. Bởi vì có tín mới
có nguyện. Có nguyện mới xưng danh hiệu ta
hay niệm Phật. Nếu tín mà không nguyện thì
gọi là tín xuông. Nếu nguyện mà không xưng
danh gọi là nguyện hão. Nên khi nói nguyện
thiết là đã có tin sâu (gồm 2 điều kiện).
Ba điều kiện này là cần và đủ. Cần là
không thể thiếu một điều kiện nào trong 3
điều kiện. Đủ là không cần thêm điều kiện
nào nữa vào 3 điều kiện.
Vì đại nguyện 18 mở ra Pháp môn Niệm
Phật nên 3 điều kiện này cũng là 3 điều kiện
của Pháp Môn Niệm Phật vậy.
Trong 3 điều kiện thì 2 điều kiện tin
sâu, nguyện thiết thuộc về tâm. Vậy tâm tin
sâu nguyện thiết là tâm gì? Là tâm chân
thật. Vì sao? Vì tâm con người mong cầu
đủ thứ. Nhưng chỉ một lòng cầu vãng sinh
(tin sâu, nguyện thiết) là chân thật. Vì cầu
vãng sinh là cầu giải thoát và cầu thành
Phật. Còn lại, kể cả cầu Phật cũng đều là cầu
nhân ngã. Cầu là để thỏa mãn lòng tham của
mình mà thôi. Tâm chân thật thì khởi
niệm chân thật. Niệm chân thật gọi
là chính niệm. Nên hai điều kiện tin
sâu, nguyện thiết hay tín nguyện còn
gọi là chính niệm vậy.
Trong niệm Phật Cảnh, tổ Thiện Đạo
cũng khuyên dạy người tu Pháp Môn Niệm
Phật như vậy:
“Luôn luôn niệm Phật phải chân thật
Y theo lời Phật chớ hồ nghi
Điều phục tâm viên đừng phóng dật.”

Còn điều kiện thứ 3 xưng danh hiệu
ta hay niệm Phật là hành động của
miệng lưỡi thuộc về thân. Nên xưng
danh hiệu ta hay niệm Phật chỉ là phương
tiện do thân miệng thực hiện để phục vụ
cho tâm chân thật (tin sâu nguyện thiết) của
người tu Pháp Môn Niệm Phật được vãng
sinh Tây Phương Cực Lạc mà thôi.
Trong niệm Phật Tông yếu, Tổ Pháp
Nhiên Thượng Nhân dạy: “Chỉ một lòng
cầu vãng sinh mà niệm Phật. Đó là
tha lực niệm Phật”.

Chỉ một lòng cầu vãng sinh là hai điều
kiện tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật là điều
kiện thứ 3. Vậy niệm Phật mà đủ 3 điều
kiện thì gọi là tha lực niệm Phật. Nếu
không đủ 3 điều kiện thì niệm Phật đó
gọi là tự lực niệm Phật.
Tha lực niệm Phật sẽ nhận được quang
minh hay tha lực của Phật chiếu trạm như
đại nguyện 14 của Phật A Di Đà đã chỉ rõ. “…
đều được an lạc, tâm từ hành thiện…”.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã làm rõ ý này
của đại nguyện 14. “Một câu niệm Phật
tiêu trừ 80 ức kiếp trọng tội sinh tử.
Lại được 80 ức kiếp công đức vi diệu”.

Xưng danh hiệu Phật hay niệm Phật
(điều kiện 3) chỉ là tín hiệu địa chỉ để tha
lực hay quang minh của Phật định hướng về
người niệm Phật đó. Còn có chiếu chạm hay
không là tuỳ thuộc vào tâm người niệm Phật
có đủ 2 điều kiện tin sâu, nguyện thiết hay
không. Nếu tâm người niệm Phật không có
2 điều kiện tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật
là để cầu nọ, cầu kia hoặc có 2 điều kiện tin
sâu, nguyện thiết mà bị tà niệm che mất thì
quang minh hay tha lực của Phật cũng không
chiếu chạm được. Vì thế, không phải câu
niệm Phật nào cũng là tha lực niệm Phật.
Pháp môn niệm Phật là pháp tha lực
nên người tu theo pháp môn phải có tâm độ
mình và độ người. Khi ta tha lực niệm Phật,
nhận được quang minh hay tha lực của Phật
chiếu chạm là đã tự độ cho mình, gọi là cảm
ứng đạo giao. Lại nhờ nhận được tha lực của
Phật chiếu chạm để độ cho người khác gọi
là hồi hướng công đức niệm Phật, chính là
thần giao cách cảm vậy.
d) Thành tựu khoa học hiện đại về 7
vầng hào quang bao quanh cơ thể con
người và kiến thức về bản chất sóng
năng lượng sinh học đã làm sáng tỏ
pháp môn niệm Phật là pháp môn
khoa học hiện đại về hào quang năng
lượng trí tuệ Phật và việc hồi hướng
công đức niệm Phật là chân thật,
khách quan và khoa học
Bản chất sóng năng lượng sinh học
(trích trang 202-203 sách Hướng dẫn ứng
dụng năng lượng sinh học, tác giả Nguyễn
Đình Phư)

- Sóng năng lượng sinh học định hướng
và mang thông tin. Khi bức xạ đủ mạnh, chủ
nhân có thể phát thông tin kèm theo và định
hướng cho sự lan truyền sóng. Khoảng cách
như thu hẹp lại, đối tượng dù ở đâu cũng lọt
vào vùng bức xạ của sóng năng lượng sinh
học. Vật cản hoàn toàn biến mất.
- Sóng năng lượng sinh học tương tác
lên các vật chất, đặc biệt mạnh với cơ thể
sống. Trường năng lượng sinh học như nhau
thì cộng hưởng, khác nhau thì chinh phục.
- Ít bị tiêu hao.
Năng lượng thần thức chính là năng
lượng trí tuệ Phật, do mê nên mức năng
lượng giảm đi quá nhiều. Con người là
chúng sinh nên năng lượng thần thức cũng
chính là năng lượng sinh học vậy.
 Làm sáng tỏ đại nguyện 13, 14,
18 hay Pháp Môn Niệm Phật là pháp
môn khoa học hiện đại về hào quang
năng lượng trí tuệ Phật

Khi ta xưng danh hiệu Phật hay niệm
Phật là ta đã phát tín hiệu địa chỉ khiến
cho năng lượng thông tin Bản nguyện của
Phật định hướng về phía ta. Nếu năng lượng
thông tin của ta phát ra từ tâm chân thật
(thần thức) là một lòng cầu vãng sinh hay
tín nguyện thì đồng với năng lượng thông tin
Bản nguyện của Phật, nên vỏ bọc của vầng
hào quang nhân quả cho giao tiếp. Chính là
chiếu chạm vào vầng hào quang nhân quả.
Vì vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả là
nơi giao tiếp năng lượng thông tin của bản
thể với năng lượng thông tin của môi trường.
Khi vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả
cho năng lượng thông tin Bản nguyện của
Phật giao tiếp với năng lượng thông tin của
ta phát từ năng lượng thần thức. Năng lượng
thông tin Bản nguyện của Phật cực mạnh nên
chinh phục năng lượng thông tin thần thức
của ta khiến cho năng lượng thông tin thần
thức bức xạ năng lượng mạnh thêm qua sáu
luân xa, làm cho các vầng hào quang dãn ra
xa thân. Năng lượng nghiệp nhân ý nghiệp
thiện của vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm tăng. Vầng hào quang nhân quả nối
tiếp với vầng hào quang hình thái bổ sung
hành ấm cũng dãn xa thân khiến cho nghiệp
nhân thiện của thân khẩu nghiệp thiện tăng
thêm, vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả
mỏng thêm. Vì thế khi ta tha lực niệm Phật
sẽ được Phật A Di Đà hỗ trợ nghiệp nhân
thiện thân khẩu ý cho ta là như vậy.
 Làm sáng tỏ về hồi hướng công
đức niệm Phật là chân thật

Khi ta tha lực niệm Phật. Năng lượng
thông tin Bản nguyện của Phật cực mạnh
đã chinh phục năng lượng thông tin thần
thức của ta, làm cho trường hào quang năng
lượng của ta mạnh thêm. Nhờ có trường hào
quang mạnh thêm này, ta định hướng về
những chúng sinh để chinh phục trường hào
quang năng lượng của họ, làm cho trường
hào quang năng lượng của họ mạnh thêm,
kích thước của các vầng hào quang dãn ra
xa thân, vỏ bọc của vầng hào quang nhân
quả mỏng thêm. Chính là ta đã hồi hướng
công đức niệm Phật cho họ.
Nếu chúng sinh đó còn đang sống.
Nghiệp nhân thân khẩu ý của họ tăng, khiến
cho nghiệp chướng tiêu trừ làm bớt đi những
chướng ngại trong cuộc sống đời thường.
Thiện căn lại thêm lớn giúp họ gặp nhiều
may mắn để được hưởng thêm phúc báo...
Nếu chúng sinh đó đang ở cõi âm. Do
vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả mỏng
thêm mà thần thông của họ mạnh thêm. Họ
sẽ bớt khổ hơn, lại có thể phù hộ được cho
con cháu. Và sớm gặp duyên cha mẹ để được
sinh lại làm người.
Nếu chúng sinh đó đang phải đọa vào
ác đạo, sẽ giúp cho họ trả ác nghiệp nhanh
hơn. Trường hào quang của họ mạnh dần
lên và rồi họ sẽ chuyển dần từ cảnh giới
thấp địa ngục lên các cảnh giới cao hơn
là ngã quỷ, súc sinh, để rồi từ những cảnh
giới ác đạo đó chuyển lên thành người âm
và đợi duyên cha mẹ để được sinh lại làm
người. Có câu “Một người tu bảy họ
được nhờ”
. Chắc là nói về người tu Pháp
Môn Niệm Phật vậy.
Những điều trình bày ở trên cho
thấy tác dụng của việc hồi hướng
công đức niệm Phật là chân thật
khách quan và khoa học.
e) Điều kiện để người tu Pháp môn
niệm Phật được Phật A Di Đà tiếp dẫn
về Tây Phương Cực Lạc là chính niệm
tín và nguyện

Phàm phu tội chướng thời kỳ Mạt Pháp
hiện nay nghiệp chướng quá sâu dày, thiện
căn quá yếu kém, căn cơ quá hạ liệt, thường
bị nội ma tham, sân, si quấy phá làm cho
tâm đầy tán loạn, không giữ được 2 điều
kiện tin sâu, nguyện thiết khi ngồi yên tĩnh
niệm Phật và cản trở khiến cho người tu
không luôn luôn niệm Phật được. Lại còn
bị ngoại ma ra sức phá hoại, lòng tin vào Di
Đà Bản Nguyện hay Pháp môn Niệm Phật
như gửi thông tin qua người khác, hoặc
nhập vào người khác để nói hoặc đưa tài
liệu làm cho người tu bị lạc đường. Nhưng
không phải vì thế mà phàm phu tội chướng
khó được vãng sinh. Trong niệm Phật Tông
Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: “Đã
sinh làm người trong cõi tán địa này
thì tâm đều tán loạn cả. Nếu phải bỏ
cái tâm tán loạn mới được vãng sinh
thì thật là vô lý. Tán tâm niệm Phật
mà được vãng sinh là chỗ đáng quý
của Di Đà Bản Nguyện vậy”.

Tổ Tri Húc cũng có lời dạy: “Niệm
Phật còn nhiều tán loạn, nếu được
vãng sinh thì về hạ hạ phẩm. Nếu ít
tán loạn thì về trung hạ phẩm. Nếu
không còn tán loạn thì về thượng hạ
phẩm. Nếu chứng tam muội sự thì về
ba phẩm trung. Chứng niệm Phật tam
muội lý thì về ba phẩm thượng”
. Tổ còn
dạy: “ Được sinh cùng chăng toàn do tín
nguyện có hay không. Về phẩm thất
cao là do niệm Phật sâu hay cạn”
. Lời
dạy này của tổ Tri Húc đã được Tổ Ấn Quang
khẳng định “Đây là luận án thép, nghìn
Phật ra đời cũng không thay đổi”.

Vậy người tu pháp môn niệm Phật
phải gắng sức nhiếp tâm niệm Phật để có
được nhiều câu niệm Phật là tha lực niệm
Phật, mới chuyển được tâm đầy tán loạn
xuống còn nhiều tán loạn. Có thế mới có
thể giữ được chính niệm là tín và nguyện
để được Chư Phật Mười Phương hộ niệm
cho đến trước khi lâm chung là 2 điều
kiện cần phải có để đến khi lâm chung
được Phật A Di Đà hiện ra tiếp dẫn về Tây
Phương Cực Lạc.
f) Người tu pháp môn niệm Phật giữ
được chính niệm (tín, nguyện) cho
đến trước khi lâm chung. Đến khi lâm
chung được Phật A Di Đà cùng Thánh
chúng tiếp dẫn về Tây Phương Cực
Lạc

Theo kinh Phật, lúc lâm chung thân ngũ
uẩn gồm sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn, thức uẩn. Sắc uẩn là thân thịt xương
máu mủ, bốn uẩn còn lại là thần kinh hệ,
đang bị phân ly và liệt hoại làm cho thân
thể bị đau đớn. Còn tâm thì hiện ra ấm cảnh
(cuốn phim cuộc đời) làm cho điên đảo. Ấm
cảnh là gì? Ấm cảnh là cảnh giới của lục đạo
luân hồi do nghiệp nhân thiện ác mà con
người gây ra khi còn sống và một số nghiệp
nhân quá khứ tạo nên. Đến sát na lâm chung
là một loáng thời gian trước khi chết, ấm
cảnh hay cảnh giới nào mạnh sẽ lôi kéo thần
thức và thân ngũ ấm người chết đó vào cảnh
giới tương ứng của lục đạo luân hồi.
Từ đặc điểm trên của khi lâm chung, liên
hệ với Kinh A Di Đà “Chỉ có những người
một lòng chuyên niệm danh hiệu của
Phật A Di Đà… Người ấy khi nào lâm
chung Phật cùng Thánh chúng hiện
ra trước mặt, tâm không điên đảo,
người ấy liền sinh sang nước Cực
Lạc của Phật A Di Đà”.
Như vậy thì chỉ
có những người tu Pháp môn niệm Phật
giữ được chính niệm (tin, nguyện) cho đến
trước khi lâm chung. Vì chính niệm (tin,
nguyện)
đồng với Đại nguyện tiếp dẫn của
Phật thì khi lâm chung Phật cùng Thánh
chúng mới hiện ra trước mặt để tiếp dẫn.
Phật hiện nên ấm cảnh không hiện ra được,
vì thế tâm người niệm Phật mới không điên
đảo vẫn giữ được chính niệm (tin nguyện).
Trong niệm Phật Tông Yếu Tổ Pháp Nhiên
Thượng Nhân cũng dạy như vậy:
“Người niệm Phật có lòng cầu
vãng sinh và không nghi ngờ Di Đà
bản nguyện, khi lâm chung không bị
điên đảo. Sở dĩ được vậy là nhờ chư
Phật lai nghinh. Phật lai nghinh để
người tu niệm Phật cầu vãng sinh lúc
lâm chung được chính niệm, không
phải lúc lâm chung cần phải chính
niệm thì Phật mới lai nghinh. Người
không biết nghĩa này cho rằng lúc
lâm chung cần phải chính niệm niệm
Phật Phật mới lai nghinh. Kiến giải
như vậy là không tin vào Phật nguyện
và không hiểu kinh văn nữa”.
Nhưng chính niệm lúc lâm chung mới
chỉ là tâm chân thật của phàm phu tội
chướng, Phật chưa tiếp dẫn về Tịnh độ được.
Phải đợi đến khi tâm chân thật của phàm
phu trở thành tâm thanh tịnh, Phật mới
phóng quang tiếp dẫn về Tịnh độ của Phật.
Lời khuyên người niệm Phật của Tổ Thiện
Đạo trong Niệm Phật Cảnh làm rõ ý này.
Niệm Phật trước trừ tâm tham ái
Lâm chung tâm định thấy Di Đà
Tợ trăng sáng tỏ soi đầm biếc

Có trừ được tâm tham ái mới giữ được
chính niệm trước khi lâm chung. Còn khi
lâm chung tâm định mới thấy Di Đà. Tâm
có định mới sinh trí tuệ. Trí tuệ tâm Phật
chính là tâm thanh tịnh. Nhờ có con mắt trí
tuệ của tâm thanh tịnh mới thấy Di Đà, bởi
thân của Phật là thân năng lượng, giống như
hình hiện trên ti vi. Mắt của người không
thấy được.
Nhưng tâm định vào thời điểm nào của
khi lâm chung? Tâm định vào sát na lâm
chung, sát na lâm chung là một loáng thời
gian trước khi chết, trong một loáng thời gian
này, thân ngũ uẩn vừa liệt hoại xong (hơi
dứt mạng hết)
đột ngột không ngăn che trí
tuệ tâm Phật, ví như đèn hết dầu phụt sáng
trước khi tắt. Vậy sát na lâm chung tâm người
niệm Phật mới được thanh tịnh và Phật A Di
Đà tiếp dẫn họ vào thời điểm này. Tổ Pháp
Nhiên Thượng Nhân cũng xác định như vậy:
“Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ,
người ngoài không biết được, chỉ có
Phật và người niệm Phật biết được mà
thôi” (Trích Niệm Phật Tông Yếu).

Còn những người tu pháp môn niệm
phật không giữ được chính niệm (tin
nguyện)
cho đến trước khi lâm chung. Khi
lâm chung ấm cảnh hiện, làm cho tâm điên
đảo. Đến sát na lâm chung, ấm cảnh hay
cảnh giới nào mạnh liền lôi kéo thần thức
(sắc thân) những người đó vào cảnh giới
tương ưng của lục đạo luân hồi. Vì thế tổ
Thiện Đạo có lời khuyên dạy như sau:
“Việc luân hồi sinh tử rất lớn lao,
phải tự mình gắng sức mới được. Nếu
một niệm sai lầm để luống qua thì
nhiều kiếp chịu khổ. Có ai thay thế
cho mình! Nên suy nghĩ kỹ, nên suy
nghĩ kỹ”.
g) Sơ đồ Nhân Duyên Quả của Pháp
môn Niệm Phật

4.jpg


2. Trong thời kỳ Mạt Pháp chỉ có pháp
môn niệm Phật là pháp môn duy nhất,
Phật độ chúng sinh phàm phu giải
thoát khỏi biển khổ luân hồi sinh tử và
tu tiếp thành Phật

Xin trích dẫn kinh Phật và lời Tổ để
làm rõ ý này:
a) Kinh Pháp Hoa có đoạn:
Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có pháp Nhất thừa
Không Hai cũng không Ba
Trừ Phật phương tiện nói”

Pháp Nhất thừa là pháp tu thẳng
thành Phật. Pháp Môn Niệm Phật có nhân
tu là tha lực niệm Phật, quả tu là vãng sinh
Cực Lạc. Trong kinh Niệm Phật Ba la mật
Phật Thích Ca xác quyết “Vãng sinh là
thành Phật”.
Thế nên Pháp Môn Niệm
Phật là pháp môn tu thẳng thành Phật, cũng
chính là pháp Nhất thừa vậy.
Không Hai là không có Nhị thừa gồm
Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa.
Không Ba là không có Tam thừa là
Bồ Tát thừa.

Vì chúng sinh chấp tướng, nên Phật
phải nói ra các pháp Nhị thừa, Tam thừa
làm phương tiện cho chúng sinh căn cơ bậc
thượng tu hành trong thời kỳ chỉnh pháp và
Tượng pháp đó thôi.
b) Kinh Đại tập Phật dạy: “Thời
kỳ Mạt pháp muôn ức người tu hành
không có lấy một người giải thoát.
Phải nương vào Pháp Môn Niệm Phật
mà ra khỏi luân hồi”.
Tổ Pháp Nhiên
Thượng Nhân sơ tổ Tịnh tông Nhật Bản là hóa
thân của Bồ tát Đại Thế Chí đã làm rõ đoạn
kinh này bằng lời dạy sau: “Thánh đạo môn
(gồm Luật tông, Giáo tông, Thiền tông,
Mật tông), tuy thâm diệu, nhưng thời
điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh
độ môn hình như nông cạn, nhưng thời
điểm và căn cơ đều tương ứng. Thời
Mạt pháp một vạn năm, các kinh điển
khác đều bị tiêu diệt, chỉ còn Pháp Môn
Niệm Phật để cứu độ chúng sinh”.

c) Kinh Tịnh Độ Quyết Nghi Phật
chỉ rõ:
“Sau khi Phật diệt độ năm trăm
năm, trong thời kỳ chính pháp, Trì
giới được thành tựu. Một nghìn năm
thời Tượng pháp, Thiền định được
thành tựu. Một vạn năm thời Mạt
pháp Niệm Phật được thành tựu”.

Hiện nay đã vào thời kỳ Mạt pháp được hơn
một nghìn năm.
d) Lời Phật dạy trong Kinh Pháp
cú:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành
Thanh tịnh tâm ý minh
Là lời chư Phật dạy”

Con người luôn phải chịu tám khổ từ
vô thủy kiếp đến nay mà chưa từng biết. Tám
khổ là: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử
khổ, yêu nhau mà phải xa nhau khổ,
oán ghét nhau mà phải sống chung
khổ, cầu không được khổ, ngũ ấm si
thịnh khổ. Bởi thế Phật mới giáng sinh để
mở đường diệt khổ cho chúng sinh. Giúp
chúng sinh giải thoát khỏi sự trói buộc giam
hãm trong biển khổ luân hồi, từ vô thủy kiếp
đến nay. Đức Phật trụ thế 49 năm dạy chúng
sinh. Cuối cùng Phật nói: “Ta chỉ dạy một
điều khổ và diệt khổ”.

Phật dạy con người “Không làm
những việc ác. Nên làm những việc
lành”
để khi chết được sinh lại làm người,
khỏi phải đọa lạc vào ác đạo. Nhưng làm
lành lánh ác trong thời kỳ Mạt pháp đâu
có dễ dàng, vì tâm chúng sinh quá mê lầm
sinh ra phiền não tham sân, thúc đẩy thân
khẩu gây quá nhiều ác nghiệp, làm sao mà
tránh khỏi đọa lạc được. Trong Niệm Phật
Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy
“Làm lành lánh ác là lời răn chung
của chư Phật. Nhưng hạng phàm phu
thời Mạt pháp chúng ta thường làm
ngược lại! Nếu tự mình không nương
vào Di Đà Bản nguyện thì e rằng khó
ra khỏi luân hồi sinh tử”
. Ngài còn dạy:
“Tất cả Phật Pháp dùng để chế phục
điều ác. Vì hạng phàm phu ngu si
không dễ gì làm được, nên khuyên
niệm Phật để diệt tội”.

Cho dù “Không làm những việc ác.
Nên làm những việc lành”
được đi nữa
cũng chỉ có chút phúc báo sinh lại làm người.
Nhưng vẫn bị trói buộc mãi trong biển khổ
luân hồi sinh tử mà thôi.
Vậy chúng sinh phàm phu muốn giải
thoát khỏi biển khổ luân hồi sinh tử trong
thời kỳ Mạt pháp này thì phải thực hiện lời
dạy của Phật: “Thanh tịnh tâm ý mình”.
Muốn thanh tịnh tâm ý mình thì phải sinh
về cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà.
Muốn sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A Di
Đà thì phải tu Pháp Môn Niệm Phật là
pháp tha lực.
Y vào kinh Phật và lời Tổ đã trích
dẫn ở trên, rút ra kết luận:
- Trong thời kỳ Mạt pháp, Pháp môn
Niệm Phật là pháp môn duy nhất, Phật độ
chúng sinh phàm phu thoát khỏi biển khổ
luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật.
- Pháp môn niệm Phật lại là pháp môn
khoa học hiện đại về hào quang năng lượng
trí tuệ Phật nên hợp thời, hợp với căn cơ
của chúng sinh trong thời kỳ khoa học kỹ
thuật hiện đại phát triển như hiện nay và
sau này.
Vì thế Pháp Môn Niệm Phật chính
là con đường tu hành thành Phật của
chúng sinh. Cho nên trong kinh Nguyệt
Đăng Tam Muội Phật Thích Ca nói: “Tất
cả chư Phật quá khứ, vị lai và hiện
tại, trong mười phương ba đời đều y
Pháp Môn Niệm Phật mà chứng được
đạo Giác Ngộ Vô Thượng’’
là như vậy.
Với tâm nguyện tha thiết, muốn được
chia sẻ với bạn đồng tu về Pháp môn Niệm
Phật và những độc giả có nhân duyên với
Phật Pháp. Tôi mạnh dạn biên soạn bài
này. Đề tài thì quá lớn mà khả năng về kiến
thức khoa học và nhận thức về Phật pháp
của tôi còn yếu kém. Nhờ vận dụng những
điểm thuộc phần khế lý trong kinh Phật và
chuyên cần tha lực niệm Phật mới có thể
viết được như vậy. Mong các bạn đồng tu
và quý độc giả góp ý kiến để tôi đính chính
lại những điểm còn thiếu sót. Hy vọng có
thêm nhiều bài viết về đề tài này để cho mọi
người hiểu về đức Phật, Đạo Phật và
Pháp môn Niệm Phật. Phát tâm cùng tu
hành để cùng sinh về cõi Tịnh độ tức Tây
phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Đó là
điều mong muốn tha thiết nhất của tôi vậy.
Nếu có được chút công đức biên soạn,
xin đem hồi hướng cho bốn ân, ba cõi,
nguyện cùng pháp giới chúng sinh, đồng
sinh về Tây phương Cực Lạc.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế
giới, đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A Di
Đà Phật.
Cư sĩ Như Trụ kính biên soạn
Thế danh: Dương Nguyễn Thạch
Địa chỉ: 110 dãy B khu tập thể 3 tầng
Phố Lê Hồng Phong - Quận Hà Đông - TP Hà Nội
ĐT: (04)33511553
Phần đã in:
Trang 71
So sánh đối chiếu giữa
sáu vầng hào quang từ vầng
1 đến vầng 6 bao quanh
cơ thể con người ...............
Cùng với sự giống nhau giữa
đặc trưng của sáu vầng với
đặc trưng của 5 lớp mê năm
ấm. Rút ra kết luận: sáu
vầng hào quang từ 1 đến
6 chính là 5 lớp mê năm
ấm.
Trang 73
Năng lượng thần thức
..................bức xạ ra ngoài
qua 6 luân xa lớn từ 1-6
trên mặt da của xác thân
(sắc uẩn) thành 6 vầng hào
quang 5 ấm (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức ấm)
. Con người
đã nhận đặc trưng của 6
vầng hào quang năm ấm là
tâm tính của mình: ...
- Thân này là tôi, của
tôi là đặc trưng của vầng
hào quang cảm giác, sắc
ấm (qua LX1)
Đính chính:
Trang 71
So sánh đối chiếu giữa
năm vầng hào quang từ vầng
2 đến vầng 6 bao quanh cơ
thể con người ........... Cùng
với sự giống nhau giữa đặc
trưng của năm vầng hào
quang với đặc trưng của
5 lớp mê năm ấm. Rút ra
kết luận: năm vầng hào
quang từ 2 đến 6 chính
là 5 lớp mê năm ấm.
Trang 73
Năng lượng thần thức
................. bức xạ ra ngoài
qua 5 luân xa lớn từ 2-6
trên mặt da của xác thân
(sắc uẩn) thành 5 vầng hào
quang 5 ấm (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức ấm)
. Con người
đã nhận đặc trưng của 5
vầng hào quang năm ấm là
tâm tính của mình: ...
- Thân này là tôi, của
tôi là đặc trưng của vầng
hào quang cảm xúc sắc ấm
(qua LX2)
PHẦN ĐÍNH CHÍNH
5.jpg


Tế bào thần kinh
Thức uẩnn
Vầng hào quang thượng giới
Hệ
Thần kinh
Qua LX 6
Thứcc ấm
Tế bào thần kinh
Hành uẩn
Vầng hào quang hình thái bổ sung
Qua LX 5
Hành ấm
Tế bào thần kinh
Tưởng uẩn
Qua LX
Qua LX
Vầng hào quang tinh tú 4
Vầng hào quang tâm thần 3
Tưởng ấm
Tế bào thần kinh
Thọ uẩn
Bức xạ
Qua LX
Qua LX
Vầng hào quang cảm xúc 2
Vầng hào quang cảm giác 1
Thọ
Bức xạ
Bức xạ
Bức xạ
Bức x
ấm
Sắcấm
Bức xạ
Thân năm
uẩn
Sắc uẩn
Đính chính
Cảnh giới địa ngục
(trang 93)
Khi chết thần thức
và vầng hào quang cảm
giác và vầng hào quang
nhân quả có vỏ bọc dầy nhất
1,3 cm bao bọc bên ngoài.
Rồi rời khỏi sắc thân.
Cảnh giới ngạ quỷ
(trang 94)

Khi chết thần thức
và vầng hào quang cảm
giác, cùng với vầng hào
quang cảm xúc thọ ấm, vầng
hào quang tâm thần tưởng
ấm và vầng hào quang nhân
quả có vỏ bọc dày nhất bao
bọc bên ngoài. Rồi rời khỏi
xác thân.
Phần đã in
Cảnh giới địa ngục
(trang 93)

Khi chết thần thức
nhận vầng hào quang
cảm giác sắc ấm làm
thân (thân sắc ấm)
vầng hào quang nhân quả
có vỏ bọc dầy nhất 1,3 cm
bao bọc bên ngoài. Rồi rời
khỏi sắc thân.
Cảnh giới ngạ quỷ
(trang 94)

Khi chết thần thức
nhận vầng hào quang
cảm giác sắc ấm làm
thân, cùng với vầng hào
quang cảm xúc thọ ấm, vầng
hào quang tâm thần tưởng
ấm và vầng hào quang nhân
quả có vỏ bọc dày nhất bao
bọc bên ngoài. Rồi rời khỏi
xác thân.
Do có phần đính chính ở trên và phần bổ sung nên
trong mục b/2 từ trang 93 đến trang 98 viết về cảnh giới,
ngạ quỷ, súc sinh và con người sẽ đính chính như sau:
Cảnh giới súc sinh
(trang 96)

Khi chết thần thức của
họ nhận vầng hào quang
sắc ấm làm thân cùng với
4 vầng hào quang là vầng
hào quang cảm giác thọ ấm,
vầng hào quang tâm thần
tưởng ấm, vầng hào quang
tinh tú tưởng ấm, vầng hào
quang hình thái bổ sung
hành ấm và vầng hào quang
nhân quả có vỏ bọc mỏng
hơn 1,3cm một chút bao bọc
bên ngoài. Rồi rời khỏi sắc
thân.
Cảnh giới con người
(trang 98)
Cảnh giới tâm đủ bảy
vầng hào quang, sau khi
chết thần thức nhận vầng
hào quang cảm giác sắc
ấm làm thân, rời khỏi xác
thân cùng với năm vầng hào
quang bốn ấm, bị vầng hào
quang nhân quả bao bọc
dẫn đi tìm duyên cha mẹ để
đầu thai vào thân mới.
Cảnh giới súc sinh
(trang 96)
Khi chết thần thức của
họ và vầng hào quang
cảm giác cùng với 4 vầng
hào quang là vầng hào
quang cảm giác thọ ấm,
vầng hào quang tâm thần
tưởng ấm, vầng hào quang
tinh tú tưởng ấm, vầng hào
quang hình thái bổ sung
hành ấm và vầng hào quang
nhân quả có vỏ bọc mỏng
hơn 1,3cm một chút bao bọc
bên ngoài. Rồi rời khỏi sắc
thân.
Cảnh giới con người
(trang 98)
Cảnh giới tâm đủ bảy
vầng hào quang, sau khi
chết thần thức và vầng
hào quang cảm giác, rời
khỏi xác thân cùng với năm
vầng hào quang bốn ấm, bị
vầng hào quang nhân quả
bao bọc dẫn đi tìm duyên
cha mẹ để đầu thai vào thân
mới.
BỔ SUNG ĐỂ HIỂU VỀ
THÂN PHẬT VỐN CÓ CỦA CON NGƯỜI

Năng lượng thần thức tiềm ẩn trong
nhóm tế bào thần kinh thọ uẩn của hệ thần
kinh, bức xạ qua luân xa 2 thành vầng hào
quang cảm xúc cảm nghĩ, chính là 2 lớp mê
sắc ấm và thọ ấm.
Còn vầng hào quang cảm giác từ da ra
2,5 cm bao sát thân thể, có hình dáng như
thân thể. Giữ vai trò như một cái khung,
gồm những vạch năng lượng để tế bào dựa
vào tồn tại và sinh sôi phát triển, liên quan
đến luân xa1. Có nguồn gốc từ năng lượng
nào vậy?
Xin lý giải như sau: Trong kinh Phật
dạy, sắc uẩn hay thân thịt da xương máu
mủ, nó là thân sinh diệt, nên là giả thân hay
giả tướng. Còn thật tướng là vô tướng. Thật
tướng là thân chân thật hay thân Phật vốn có
của con người, còn vô tướng là thân không
có hình tướng, nên là thân năng lượng của
con người.
Vậy vầng hào quang cảm giác bao
quanh thân thể, có bề dày 2.5 cm, có hình
dáng như thân thể. Chính là thân năng lượng
của con người, nên là thật tướng, là thân chân
thật hay thân Phật vốn có của con người. Và
là thân Phật thì vầng hào quang cảm giác
liên quan đến luân xa1 phải là năng lượng
có nguồn gốc từ năng lượng của ba bản thể
notron, *** và electron vậy.
Năng lượng thần thức là tâm Phật của
con người bị các tế bào thần kinh của hệ
thần kinh ngăn che ở bên trong, lại còn vầng
hào quang cảm giác là thân Phật của con
người bao ở bên ngoài và cả hai đều bị vầng
hào quang nhân quả là năng lượng nghiệp
nhân thiện ác do tâm mê của con người thúc
đẩy thân khẩu gây ra, bao bọc (trói buộc).
Là nguyên nhân khiến cho con người bị trôi
lăn mãi trong biển khổ luân hồi từ vô thủy
kiếp đến nay vậy.
ĐẠO PHẬT
VÀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI

Cư sỹ Như Trụ (biên soạn)
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
53 Tràng Thi - Hoàn kiếm - Hà Nội
ĐT: 04-37822845 - Fax: (04).37822841
Email: nhaxuatbantongiao@gmail.com
Chịu trách nhiệm xuất bản
Giám đốc - Tổng biên tập
Nguyễn Công Oánh
Biên tập: Lê Hồng Sơn
Trình bày: Văn Chiến
Sửa bản in: Cư sỹ Như Trụ
Đơn vị liên kết: Ông Dương Nguyễn Thạch
Địa chỉ: Số nhà 110 dãy B khu tập thể 3 tầng phố Lê Hồng Phong,
quận Hà Đông Hà Nội.
Số lượng in 1000 bản, khổ 14.5x20.5cm.
Tại Công ty TNHH In - TM&DV Nguyễn Lâm, 352 Giải Phóng, Thanh Xuân, Hà Nội.
Số ĐKXB: 2047-2015/CXBIPH/07-251/TG. Mã ISBN: 978-604-61-2625-6
QĐXB số: 551/QĐ-NXBTG ngày 19 tháng 8 năm 2015.
In xong và nộp lưu chiểu quý III năm 2015.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nhuphong

Registered
Phật tử
Tham gia
11 Thg 8 2014
Bài viết
41
Điểm tương tác
0
Điểm
6
sửa lại
“ Được sinh cùng chăng toàn do tín nguyện có hay không. Về phẩm thấp cao là do niệm Phật sâu hay cạn”
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên