Giải đáp nhiều thắc mắc từ Kinh Niệm Phật Ba La Mật

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,664
Điểm tương tác
715
Điểm
113
VNBN xin phép nói sơ lược những điều rất hay ở Kinh này. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Nhị Vị Bồ Tát (Phổ Hiền Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát) cùng nhau thuyết giảng, giải thích về pháp môn niệm Phật (cho hành giả theo con đường Bồ Tát, Phật đạo).

Kinh niệm Phật Ba La Mật có 7 phẩm.

Phẩm 1. DUYÊN KHỞI - KHẲNG ĐỊNH PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

Diệu Nguyệt cư sĩ tại gia, trong pháp hội bước ra phân tích thời kì mạt pháp khi chúng sanh căn tánh suy thoái, nghiệp chướng nhiều, trái đất ác nhiều thiện ít,.... và thưa thỉnh Đức Phật chỉ cho pháp môn thực hành để giải thoát.

Đức Phật giải thích một chút xíu về sự đọa lạc chìm nổi của chúng sanh theo tình tưởng trong họ và khẳng định:
Diệu-Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất-thối-chuyển. Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập-địa, chứng Vô-thượng-giác


Phần 2. MƯỜI THỨ TÂM THÙ THẮNG

Câu hỏi. Diệu Nguyệt cư sĩ thắc mắc:
Bạch đức Thế-Tôn, con thường tin và nghĩ rằng Niệm Phật tức là thành Phật ngay trong đời nầy. Thế thì tại sao hôm nay đức Thế-Tôn lại ân cần khuyên bảo chúng con phải phát nguyện vãng sanh Cực-Lạc quốc độ ở Tây phương ?"


Để trả lời câu hỏi này, Đức Phật đã chỉ ra cái "tâm thể" là cái tâm chân thật vốn có, vốn bất hoại không hình tướng, không ngoài các pháp nhưng cũng không chịu sự ảnh hưởng của các pháp. Tâm thể này tùy theo duyên tương tác với bên ngoài mà sanh ra vật, duyên nơi cái ác thì sanh ra cảnh giới ác, nơi các điều lành thì sanh cảnh giới lành, rồi do duyên vào Tam Bảo mà sanh ra các quả vị giải thoát từ nhị thừa đến Phật thừa.

Phật dạy là: đem tâm thể đó duyên với danh hiệu Phật A DI ĐÀ thì sẽ sanh ra các cảnh giới thanh tịnh tương ứng.

Pháp môn Niệm Phật chính là là chuyển biến cái Tâm-thể của chúng sanh, bằng cách không để cho Tâm-thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v... Mà chỉ đem Tâm-thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc cảm ứng với nguyện lực của đức A-Di-Đà, thấy mình sanh vào cõi nước Cực-Lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ-Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh ...


Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào duyên vào danh hiệu mà đạt sự giải thoát thì chưa đủ, thế nên nếu không vãng sanh thì vẫn còn luân hồi.


Lại nữa Diệu-Nguyệt, nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm-thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ-phần Pháp-thân, âm thầm ứng hợp với BI TRÍ TRANG NGHIÊM của Phật - nhưng chưa thể đắc Tam-minh, Lục-thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô lượng Tam-muội, nhẫn đến chưa thể đắc Nhất-thiết Chủng-trí, chẳng thể đồng đẳng với chư Phật được mà chỉ thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như-Thật-Đạo.

Thí dụ như làm gạch để xây nhà vậy. Tuy đã nhào trộn đất sét, bỏ vô khuôn và đã đúc ra hình dạng của viên gạch. Nhưng muốn viên gạch được bền lâu, chắc chắn, không hư rã, chịu được nắng chói mưa sa, thì cần phải đưa vào lò lửa nung đốt một hạn kỳ. Người niệm Phật cũng lại như thế. Tuy công phu niệm Phật trong hiện kiếp đã đặt nền tảng vững vàng cho sự nghiệp giải thoát, nhưng sau đó phải vãng sanh Tịnh-độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh-chúng cho tới khi thành tựu Vô-sanh Pháp-nhẫn. Sau đó, mới đủ năng lực hiện thân khắp mười phương hành Bồ-Tát đạo, ra vào sanh tử mà không trói buộc, trở lại chốn ác trược mà chẳng nhiễm ô, cứu độ chúng sanh không có hạn lượng.


Đặc biệt, Đức Phật khẳng định, ý nghĩa rất lớn của việc vãng sanh và tính đặc thù của pháp môn niệm Phật:

Diệu-Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng được vãng sanh Cực-Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ Trí-lực, mười tám pháp Bất-cộng, năm nhãn, sáu thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô số Tam-muội, thần thông du hí, biện tài vô ngại ... đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của Đại Bồ-Tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà Ta, Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng : VÃNG SANH ĐỔNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT.

Muốn vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy
. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực ... không thể nghĩ bàn".


Tiếp theo Diệu Nguyệt cư sĩ, hỏi muốn thành tựu nhanh, tự mình biết chắc sự vãng sanh thì được Đức Phật thuyết giảng: hành giả nếu khởi 10 thứ tâm thù thắng, đúng pháp thì tự mình biết chắc sự vãng sanh.
1. Tín Tâm
2. Thâm Trọng Tâm
3. Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4. Xả Ly Tâm
5. An Ồn Tâm
6. Đà Ra Ni Tâm
7. Hộ Giới Tâm
8. Ba La Mật Tâm
9. Bình Đẳng Tâm
10. Phổ Hiền Tâm


Mười thứ tâm này chính là sở học, sở hành,... về Phật pháp Đại Thừa nói chung và đối với Cực Lạc nói riêng. VNBN thấy rằng ai có đủ mười thứ tâm này thì đúng là bậc rõ biết chân tu-ngụy tu, tri kiến sâu sắc, .... nắm chắc pháp môn trong tầm tay nên sẽ chăc chắn vãng sanh.

Tuy nhiên đến đây chúng ta sẽ thắc mắc: 10 thứ tâm này với bậc hạ, bình dân, ... thì làm sao có được? Điều này, được trả lời trong Phẩm thứ 3 sau đây.



Phẩm 3. NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC.

Đức Phổ Hiền Bồ Tát sau khi nghe Phật nói 10 thứ tâm thù thắng liền nhập vào cảnh giới tam muội hiển bày cảnh giới Cực Lạc vi diệu thù thắng và bản thân ở trong đại định....

Bồ Tát Phổ Hiền giải thích:

"Tam-muội nầy gọi là Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh còn gọi là Niệm Phật Tam Muội. Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc là kết quả tự nhiên của mười tâm thù thắng.
Nầy Phật tử, nay tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạn lượng của đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả Xưng Tán của sự chấp trì danh hiệu Phật.

Mười thứ tâm thù thắng ấy, thật ra vừa là nhân vừa là quả. Nhân cùng quả thì không bao giờ rời nhau. Người tu môn niệm Phật thì phải đề khởi mười thứ tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập Niệm Phật Tam-muội, hiện bày cảnh giới Cực-Lạc.
Hoặc ngược lại, người đặt trọn tín tâm nơi Bản-nguyện và cả đời chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi vào Niệm Phật Tam-muội, tự nhiên thành tựu mười thứ tâm thù thắng nói trên.

Đến đây chúng ta thấy có con đường mở ra: người đặt trọn tín tâm nơi Bản-nguyện và cả đời chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi vào Niệm Phật Tam-muội, tự nhiên thành tựu mười thứ tâm thù thắng nói trên. Nghĩa là chỉ cần nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thì dần dần tự nhiên sẽ thành tựu 10 thứ tâm thù thắng, rồi tự biết chắc mình vãng sanh. Hiểu một cách đơn giản là: chuyên niệm danh hiệu Phật thì mình sẽ tự mình dần dần trở nên trong sạch, tâm trí thường ở trong định, rồi lại nhiếp tâm để càng ngày càng định, trí tuệ tự nhiên khai mở lúc nào chả hay, tư đó không còn bị các duyên tạp làm quên câu niệm Phật nữa, tất nhiên mạng chung sống với Phật hiệu thôi mà vãng sanh.

Bồ Tát Phổ Hiền giải thích cho chúng ta rõ hơn tại sao xưng tán Phật hiệu A Di Đà tại sao có công năng chuyển hóa lớn như vậy. Phần giải thích các vị tự tìm đọc. VNBN hiểu là "danh hiệu Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT" là danh hiệu của một Đức Phật, mà công đức của Phật thì sao? Thì là bậc nhất rồi, là chỗ tâm thể vô tướng thể tịch chiếu mười phương, đặc biệt là với danh hiệu Phật A Di Đà có 48 đại nguyện nữa, độ trì hết thảy chung sanh có duyên đều vào Phật đạo, chúng sanh bền bỉ niệm thì tất thảy đều được chuyển hóa sanh tử đến Niết Bàn thông qua đạo tràng Cực Lạc.


Phẩm 4. XƯNG TÁN DANH HIỆU PHẬT

Bây giờ người thưa hỏi không phải Diệu Nguyệt cư sĩc mà là Vy Đề Hy (vị cư sĩ duyên khởi cho Kinh Vô Lượng Thọ Phật).
Quốc mẫu hỏi Phổ Hiền Bồ Tát như sau:
"Kính bạch Đại-sĩ, con thường nghe chư vị trưởng lão từng tham dự những buổi thuyết pháp đầu tiên của đức Thế-Tôn tại vườn Lộc-Uyển, dạy rằng hoặc niệm Phật, hoặc niệm Pháp, hoặc niệm Tăng để được hiện tại lạc trú. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Cứu cánh của môn niệm Phật có phải chăng là để được như vậy hay không ? Ngưỡng mong Đại-sĩ từ bi chỉ dạy, ngõ hầu các chúng sanh thời Mạt pháp khỏi rơi vào mê lầm, thác ngộ".


Câu hỏi của quốc mẫu quá hay, Bà ấy thắc mắc: Lúc mới mở đạo, Đức Phật dạy "hiện tại lạc trú" chứng đắc thánh quả trong hiện tại này; như vậy pháp môn niệm danh hiệu Phật A Di Đà này có cùng ý nghĩa với các pháp "hiện tại lạc trú" đó không?
Phổ-Hiền Bồ-Tát bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện tiền, mà dạy rằng :
"Nầy Phật tử, khi đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo họ kinh nghi ... Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại pháp. Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn, Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy hiện tại lạc trú.

Riêng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm nhập Như-Lai tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại.

........

Lại nữa, Bồ-Tát sơ phát tâm muốn xoay cái vọng tưởng hư dối sanh diệt trở lại với chân tâm thanh tịnh thường trụ thì phải dùng pháp gì, nếu không là danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để chặt đứt gốc rễ phiền não, nếu không sử dụng lực vô úy của danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để diệt trừ sạch hết sáu tên giặc khác trần nếu không hiển thị công năng nhiệm mầu đệ nhất của danh hiệu Như-Lai ?

Nầy Phật tử, cõi Diêm-phù-đề nầy vốn lấy âm thanh làm thể. Dó đó, nhiều chúng sanh có thể nương nơi âm thanh viên mãn mà chứng viên thông. Như vậy, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật chính là âm thanh tối thắng, đưa chúng sanh thâm nhập Như-Lai tạng diệu chân như tánh. Vì thật tướng của danh hiệu là vô tướng, không đọa vào nhân duyên, không lạc vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng phi hòa hợp. Luôn vắng lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.



Rồi Đức Phổ Hiền tiếp tục thuyết giảng công đức xưng niệm danh hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật".
Theo như lời đó, "Danh hiệu A Di Đà Phật" là diệu tánh vốn có của chúng sanh mà nay hiển lộ ở Đức Phật A Di Đà, chúng sanh tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy nhiều diệu dụng tương ứng. Tuy nhiên xin nhắc lại, tuy có nhiều diệu dụng nhưng hành giả phải luôn giữ lấy tâm nguyện vãng sanh thì mới có ý nghĩa đối với sự nghiệp tu tập của mình như ở phần duyên khởi Phật đã chỉ dạy.

Nghĩa là hành giả chưa phải Phật thì phải luôn luôn trưỡng dưỡng tu tập, nhíp tâm càng chuyên nhất càng tốt: chỗ niệm và tánh thể của mình càng gần nhau càng tốt, càng gần nhau thì sự vãng sanh càng thêm vững chắc, nhất tâm bất loạn thì đương nhiên chắc chắn.

Việc tu tập pháp môn niệm Phật để thành tựu chắc chắn, Quán Âm Bồ Tát dạy cho chúng ta cách "Niệm Phật viên thông"


Phẩm 5. NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG

Lúc bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh

- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân, do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"


Quốc mẫu, đặt câu hỏi: cũng giống như câu hỏi đầu tiên của Bà ấy nhưng cụ thể hơn, là pháp tứ niệm xứ là con đường độc nhất giúp chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn nhưng giờ với pháp môn niệm Phật này thì cái nào là chân thật? Thời mạt pháp tu cái nào?

Mặc dù đã giải thích ở trên nhưng Quốc mẫu vẫn còn thắc mắc. Thế nên Đức Phật mỉm cười im lặng, Đức Phổ Hiền nhập định. Ngài Quán Thế Âm đứng ra thuyết giảng vì đây cũng là pháp sở trường của Ngài (âm thanh). Ngài nói:

Đúng như ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của nhị thừa. Tại sao vậy ?

Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và đắc A-la-hán.

Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.



Như vậy, không có gì mâu thuẫn ở đây cả. Tất cả đều do thời thế và căn tánh của chúng sanh. Tuy nhiên, Bồ đề là tối thượng, rất cần trong đời mạt pháp, vừa tự cứu mình vừa giúp người, rất là khế hợp vậy.

Sau đó, Ngài Quán Thế Âm, chỉ cách niệm Phật viên thông và giảng thêm công năng chuyển hóa của việc xưng niệm danh hiệu Phật. Nói chung, niệm Phật chăm chú vào câu Phật niệm: Tâm mình niệm, tâm mình nghe, dần dần không còn phân biệt tâm niệm và phật hiệu, đó là nhất tâm bất loạn theo lý đại thừa.


Phẩm 6. NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA DANH HIỆU PHẬT

Ngài Quán Thế Âm tiếp tục giảng nói rộng thêm về năng lực của Phật hiệu và công năng chuyển hóa khi hành giả chấp trì

Mục đích là mở mang tri kiến của chúng ta về năng lực Phật hiệu, không có chỗ dừng, do đó hành giả niệm Phật cũng phải niệm không có chỗ dừng, tức là không thấy có chứng đắc trong đó, mãi niệm chuyên tâm, cho đến khi được vãng sanh.


Phẩm 7. KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT VÀ ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN

Phần này, Phồ Hiền Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát, mỗi vị giới thiệu 1 chân ngôn diệt các tội tứ trọng, thập ác, hủy báng chánh pháp làm trợ lực thêm.

Thưa Thế-Tôn, con nay vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều, kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm Phật thần chú Đà-ra-ni nầy, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về Cực-Lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

Người niệm Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều phải thanh khiết. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng hai mươi mốt biến. Như vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, và hủy báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A-Di-Đà hiện trên đỉnh đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng đến ba chục muôn biến, liền thấy Phật ngay trước mặt mình.

Bấy giờ, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát bước ra trước Phật, bạch rằng:

- Nay con nương uy thần của đức A-Di-Đà, mà ban cho chúng sanh quyết chí niệm Phật thời Mạt pháp, một chân ngôn gọi là: Vô Lượng Thọ Như-Lai Chân Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A-Di-Đà, ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lỡ phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến liền trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt biến, tiêu diệt các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác và tất cả chướng ngại trên bước tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được sự nhiếp thọ của vô lượng Như-Lai. Tụng một muôn biến, tâm Bồ-đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả niệm Phật liền thấy Phật A-Di-Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ-Tát vây quanh, an ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sanh về Thượng phẩm ở Cực-Lạc.

- Sau đây, con xin tuyên đọc Vô-Lượng-Thọ Như-Lai chân ngôn:

- Na mô rát na tờ gia gia gia, na mắc a ry gia, a mi ta pha gia, ta tha ga ta gia, a rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia, ta đi gia tha: om a mờ rật tê, a mờ rật tô đờ pha vê, a mờ rật ta sam pha vê, a mờ rật ta ga ri phê, a mờ rật ta sít đê, a mờ rật ta tê rê, a mờ rật ta vi hờ rim tê, a mờ rật ta vi hờ rim ta, ga mi nê, a mờ rật ta ga ga na, ki ti ka rê, a mờ rật ta đun đa phi sờ va rê, sạc va rờ tha sa đa nê, sạc va kác ma, ka lê sa, ka sa, giam ka lê sờ va ha.


Cuối cùng là các lời khuyên của Đức Phật đối với chúng ta:

Nầy Diệu-Nguyệt, trong thời Mạt-pháp, các kinh điển Đại-thừa đều diệt tận. Nơi cõi Nam Diêm-phù-đề nầy chỉ có kinh này tồn tại. Đức Phật A-Di-Đà cùng Ta, đều rộng lòng từ bi mà lưu trụ kinh này thêm mười năm nữa. Hai vị Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm và Phổ-Hiền đồng phát nguyện thủ hộ kinh nầy, và che chở những người niệm Phật, khiến những kẻ chống trái và các ác ma không thể làm nhiễu loạn bức hại được.


Nghĩa là kinh Niệm Phật Ba La Mật sẽ được truyền dạy thêm 10 năm khi tất cả các kinh điển khác dường như ẩn mất.

Cuối cùng là lời động viên, khen ngợi cho những ai lưu truyền kinh này.

Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn nhìn chúng hội đạo tràng, mà bảo rằng:

Nầy đại chúng, nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, suy gẫm, biên chép Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, thì các ngươi phải biết người ấy trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa đã từng gặp gở, thân cận, cúng dường tôn trọng chư Phật. Người ấy vốn thật sự từ Bát Nhã Trí sanh ra, đời đời thực hành giáo pháp Như-Lai vô tận tạng.

Nầy đại chúng, nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào thoáng nghe qua Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, mà phát khởi tín tâm chắc thật, chẳng nghi sợ thì các ngươi phải biết người ấy ở trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa từng dũng mãnh phát Bồ-đề tâm, tu Bồ-Tát hạnh, không mỏi nhọc, và nơi chư Phật từng gieo trồng Giải-thoát-đức, Bát-nhã-đức, Pháp-thân-đức chẳng thể tính đếm, thí dục được.

Nầy đại chúng ! Nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người nào tin nhận, ghi nhớ rõ ràng nghĩa thú của Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, rồi nương theo đó xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Dẫu một niệm, hai niệm, cho tới mười niệm hoặc nhiều lần của mười niệm thì các ngươi phải biết người ấy chắc chắn được Phật thọ ký, hiển phát năng lực của tánh không, tỏ ngộ tri kiến Như-Lai, và bước thẳng vào cảnh giới Thánh Trí tự chứng.

Nầy đại chúng, nếu các ngươi thấy người nào thọ trì kinh này, và thường xuyên niệm Phật, thì phải khởi lòng tôn trọng y như kính ngưỡng chư Phật vậy. Chớ nên móng tâm ngăn trở người thọ trì kinh nầy, chẳng được phơi bày lỗi lầm, sai trái của người niệm Phật.
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên