Học Tham Thiền & đọc tham thiền

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Có ai giám vứt bỏ tất cả mọi tri thức , hiểu biết từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay. sẵn sàng là bắt đầu như một đứa trẻ mới sinh ra? Tôi sẽ là bạn với người ấy. Còn cứ lý luận hoài thì tôi đành tạm chia tay với mọi người trên diễn đàn. và một điều nữa ai quyết tử đi đến giải thoát như lời đức Phật chỉ dạy, thì cùng tôi trò chuyện. bằng không, chỉ cầu phước... thì tôi xin chịu. coi như tôi là người ngoại đạo. xin đừng bàn đến nữa. nếu diễn đàn chấp nhận, hãy cho tôi một chuyên mục riêng để trò chuyện . hãy hiểu lời chân thật của một người học Phật

Cung kính Đạo Hữu phamvandung57.


Chúng con những người học tu Chùa Phước Thành. Cũng có chút tâm thành "quyết tử đi đến giải thoát như lời đức Phật chỉ dạy". Kính mong Đạo Hữu có thể chỉ giáo cho.

Chúng con lại nghĩ.- Ở Diễn Đàn, Trên thì Thầy Admin, Ban cố Vấn, Ban Đại Biểu, Ban Tổng Quản , Ban Điều hành và tất cả các Thành Viên đều không thấy nói sẽ hạn chế Đạo Hữu đóng góp những bài viết đúng với chuyên mục. Do vậy chúng con nghĩ "Mình không cần tự hạn chế mình".

Nhưng nếu Đạo hữu thấy vui khi được dành riêng nơi trò chuyện. Chúng con mạn phép Kính mời Đạo hữu hãy vào chuyên mục .- VƯỜN HOA GIAO LƯU. ở mục TÂM SỰ - VƯỜN TAO NGỘ. Chúng ta sẽ thảo luận với tinh thần hòa hợp và nâng đở nhau. Đạo hữu thấy sao ?

Rất mong đợi.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

P

phamvandung57

Guest
cám ơn chùa Phước Thành

Cung kính Đạo Hữu phamvandung57.


Chúng con những người học tu Chùa Phước Thành. Cũng có chút tâm thành "quyết tử đi đến giải thoát như lời đức Phật chỉ dạy". Kính mong Đạo Hữu có thể chỉ giáo cho.

Chúng con lại nghĩ.- Ở Diễn Đàn, Trên thì Thầy Admin, Ban cố Vấn, Ban Đại Biểu, Ban Tổng Quản , Ban Điều hành và tất cả các Thành Viên đều không thấy nói sẽ hạn chế Đạo Hữu đóng góp những bài viết đúng với chuyên mục. Do vậy chúng con nghĩ "Mình không cần tự hạn chế mình".

Nhưng nếu Đạo hữu thấy vui khi được dành riêng nơi trò chuyện. Chúng con mạn phép Kính mời Đạo hữu hãy vào chuyên mục .- VƯỜN HOA GIAO LƯU. ở mục TÂM SỰ - VƯỜN TAO NGỘ. Chúng ta sẽ thảo luận với tinh thần hòa hợp và nâng đở nhau. Đạo hữu thấy sao ?

Rất mong đợi.

Nếu nói Giao Lưu - Tâm Sự - Tao Ngộ thì lâu nay chúng ta chẳng đã là Giao Lưu - Tâm Sự - Tao Ngộ rồi sao? Bạn chưa hiểu ý mình rồi. nhưng rất cám ơn bạn có tình thân hữu chia sẻ. Trước khi bạn muốn bày tỏ chia sẻ cùng tôi , mong bạn tham khảo tài liệu bên blogs của tôi. hãy đặt câu hỏi tại sao tôi làm việc này? liệu tôi có biết gì về nó ? Tôi tham gia diễn đàn là để làm gì, có đúng với tinh thần của người lập ra blogs ? Kính mong Bạn và mọi người hãy hiểu những gì tôi muốn chia sẻ. chúng ta không còn nhiều thời gian cho những tranh luận không đâu. Tôi thiết nghĩ ở đây không ai theo học Tham Thiền, chỉ có đọc về Tham Thiền thôi.
 

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Thế nào là Thiền ?

Kính Đạo Hữu phamvandung57

Vừa qua (ở trên) chúng con rất cảm phục ĐH đã có tinh thần của Đệ tứ Thiền ( Xã Niệm) qua câu nói :


phamvandung57: Có ai giám vứt bỏ tất cả mọi tri thức , hiểu biết từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay. sẵn sàng là bắt đầu như một đứa trẻ mới sinh ra?

Vâng ! Người xưa có nói: "Hành trình ngàn dặm, khởi đầu từ một bước chân..."

Chúng con nghĩ: Hay là chúng ta sẽ xã bỏ hết những khái niệm, những tri thức, những blog đã ghi nhớ v.v... mà hãy trao đổi bằng sự uyên nguyên của nguồn Tâm Chơn Như nguyên thỉ.

Kính thưa ĐH. Nếu hoan hỷ, thì ĐH vui lòng nói cho chúng con biết theo ĐH :

+ THIỀN là gì ?

+ Có mấy loại Thiền ?

+ Học Thiền khởi đầu từ đâu ?

+ Mục đích của thiền là gì ?

+ v.v... và v.v...

Rất mong được thọ giáo.

KÍNH.
 
P

phamvandung57

Guest
Trả lời Chùa Phước Thành

Kính Đạo Hữu phamvandung57

Vừa qua (ở trên) chúng con rất cảm phục ĐH đã có tinh thần của Đệ tứ Thiền ( Xã Niệm) qua câu nói :




Vâng ! Người xưa có nói: "Hành trình ngàn dặm, khởi đầu từ một bước chân..."

Chúng con nghĩ: Hay là chúng ta sẽ xã bỏ hết những khái niệm, những tri thức, những blog đã ghi nhớ v.v... mà hãy trao đổi bằng sự uyên nguyên của nguồn Tâm Chơn Như nguyên thỉ.

Kính thưa ĐH. Nếu hoan hỷ, thì ĐH vui lòng nói cho chúng con biết theo ĐH :

+ THIỀN là gì ?

+ Có mấy loại Thiền ?

+ Học Thiền khởi đầu từ đâu ?

+ Mục đích của thiền là gì ?

+ v.v... và v.v...

Rất mong được thọ giáo.

KÍNH.

Trước hết xin đừng xưng hô với nhau như thế, chúng ta là đạo hữu, có thể sai lệch nhau về tuổi đời nhưng xin được gọi là bạn để gần gũi và thân thiết. nếu không được thế thì tôi xin làm em út trong nhà .
Bây giờ đi vào vấn đề cụ thể mà Chùa Phước Thành đưa ra nhé. nếu sai chỗ nào xin chỉ dạy.
- Đừng bao giờ cố định nghĩa Thiền là gì
- Nếu nói có bao nhiêu loại Thiền: kể ra thì không hết
- Nếu có chỗ khởi thì không gọi là Thiền nữa
- Nếu có mục đích của Thiền thì lại càng không phải
Nay chỉ tạm đưa ra một vài ý kiến :
Thiền (Tổ Sư Thiền) là giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. là chỉ thẳng tâm mình xưa nay vốn là Phật... điều này muốn rõ hơn thì đọc tài liệu, dù tôi có nói bao nhiêu thì cũng không thể vượt ra ngoài ngữ nghĩa của chư tổ, cho nên không cần nói
chẳng hạn " Như Lai Thiền dùng sự biết để tu, biết bao nhiêu mới tu bấy nhiêu. Ví như Giáo môn thuộc Như Lai Thiền, ở Trung Quốc gồm bốn tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức. Nay trong Phật học viện cũng còn dạy Duy thức, nhưng Duy Thức Quán Thiền lại chẳng có ai tu.

Ở Việt Nam còn pháp Chỉ Quán thiền của tông Thiên Thai, gồm tam chỉ tam quán, gọi là Không, Giả, Trung. Người tu chỉ ngưng nghỉ quán xét, ban đầu quán Giả, ví như quán cái tách này không thật, cái bàn này không thật, cho là giả, quán đến cuối cùng thì giả cũng chẳng phải thật giả, lại quán Không, đến cuối cùng thì Không cũng chẳng phải thật không. Chẳng phải thật giả, chẳng phải thật không, là cái gì? Phải quán Trung, cũng như Không với Giả là hai đầu, Trung là ở giữa. Hai đầu đã không thành lập thì ở giữa làm sao thành? Vậy chẳng phải giả, chẳng phải không, chẳng phải trung, là cái gì? Từ đó mới phát lên nghi tình như tham thiền vậy.

CHỈ là ngưng nghỉ, có ba cấp:

1/ Hệ duyên chỉ: Tâm mình như con khỉ chẳng chịu ngưng nghỉ, nay đem buộc lại ở dưới rốn không cho phan duyên, gọi là Hệ duyên chỉ.

2/ Tiến thêm một bước, gọi là Tùy duyên chỉ, ví như ham thích cái này, nay không còn ham thích nữa; ghét cái này từ nay không ghét nữa, tùy duyên ngưng nghỉ là chỉ.

3/ Cuối cùng phán xét ba thứ Không, Giả, Trung đều chẳng phải, vậy là cái gì? Phát khởi nghi tình, gọi là Thể chơn chỉ. Thể là thể cứu, thể cứu chơn thật, sau cùng phát nghi rồi đến ngộ.

Ví như người tu Tịnh độ muốn sanh cõi Cực Lạc, vì tin tham thiền không nỗi, nên chỉ tu pháp Tịnh độ tới Bất thối Địa tức không lui sụt, đến Cõi Cực Lạc rồi do Phật A Di Đà dạy tham thiền, phát nghi rồi đến ngộ.

Pháp môn nào cũng vậy, cuối cùng là từ nghi đến ngộ, cuối cùng cũng thành Phật, nhưng phải trải qua con đường xa hơn, còn tham Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp, thẳng tắt hơn."
Nay tạm trả lời như thế về mấy câu hỏi về THIỀN mà Phước thành đưa ra. lần sau có câu hỏi xin đừng trùng lặp lại. chủ yếu là về Tham thiền nhé. tôi biết đến đâu nói đến đó
Kính chào
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn chùa Phước Thành,
Chào bạn phamvandung57,

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--> d/đ tham gia chủ đề này vì d/đ là người không từng _ trải nghiệm pháp tu Thiền. Nên từ trước đến giờ d/đ có nhiều thắc mắc về Thiền - nhưng chưa có dịp giải bày. Nay nghe bạn chùa Phước Thành nói :

“Chúng ta sẽ xã bỏ những khái niệm, những tri thức… đã ghi nhớ _ trao đổi với nhau”.
Nên d/đ muốn tham gia - để nói lên chỗ hiểu của mình về sự tu Thiền. Mong Bạn hoan hỷ.

Theo d/đ hiểu thì Thiền là trạng thái tĩnh lặng của tâm. Và chỉ có Tâm Chơn Như mới có được sự tĩnh lặng này. Còn nói về pháp tu Thiền - thì d/đ thấy Phật đạo hay Ngoại đạo cũng đều có.

Và theo như d/đ - thì tu tập dứt trừ tham, sân, si theo đúng lời Phật Thích Ca dạy _ là bước khởi đầu của pháp tu Thiền Phật đạo. Vì khi chúng ta dứt trừ được tham, sân, si - thì tâm chúng ta sẽ ở trạng thái tĩnh lặng.

Còn nếu như chúng ta tìm cách buộc cái tâm - ví như khỉ vượn không cho nó chạy lung tung. Thì vì chỉ có Tâm Vọng mới chạy lung tung. Mà tâm Vọng _ chỉ là cái bóng của Tâm Chơn Như - nên không thật có. Do đó, khi chúng ta tìm cách buộc Tâm Vọng thì khác nào chúng ta nhận giả làm chơn _ như hàng ngoại đạo. Vả lại, Tâm Vọng không thật có - thì cũng ví như hoa đốm. Như vậy, thì sao chúng ta lại tìm cách buộc hoa đốm đứng dừng.

Và theo chỗ hiểu của d/đ - thì sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ. Điều này, d/đ thấy Tổ Huệ Năng giảng nói trong kinh Pháp Bảo Đàn.

Đây là điều đã làm cho d/đ ưu tư từ bấy lâu nay. Xin được trao đổi.
Thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Thiền Nghĩa

Chúng con kính cảm ơn Cô dieuduc và ĐH phamvandung57 , đã giải đáp:

Vâng chúng con xin cô đọng lại các ý trên. Xin chư vị Thiện Tri thức xem có đúng không ?


* Câu 1 . Định Nghĩa về Thiền:

+ Cô dieuduc chỉ ra.-

Thiền là trạng thái tĩnh lặng của tâm. Và chỉ có Tâm Chơn Như mới có được sự tĩnh lặng này.

+ ĐH phamvandung57 giải đáp: Đừng bao giờ cố định nghĩa Thiền là gì. và đưa ra khái niệm về Thiền .-

Thiền (Tổ Sư Thiền) là giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. là chỉ thẳng tâm mình xưa nay vốn là Phật...

@/. Vâng. Với câu này thì chúng con thấy trong Hương Hải Thiền Sư ngữ lục có dạy:

Nhật dụng vô phi đạo,

Tâm an tức thị thiền.

U thê vân hác để,

Mộng mị tuyết bồng biên.

Dịch:

Đạo tức hằng ngày dụng,

Tâm an đó là thiền.

Dừng nghỉ đáy hang mây,

Nằm mơ bên lều tuyết.


* câu 2. Có mấy loại Thiền ?

+ ĐH phamvandung57 giải đáp: Nếu nói có bao nhiêu loại Thiền: kể ra thì không hết.

+ Cô dieuduc giải đáp: Có hai loại Thiền.

1. Thiền Ngoại Đạo.
2. Thiền Phật giáo.

1/. Thiền Ngoại Đạo thì: tìm cách buộc cái tâm - ví như khỉ vượn không cho nó chạy lung tung. Thì vì chỉ có Tâm Vọng mới chạy lung tung. Mà tâm Vọng _ chỉ là cái bóng của Tâm Chơn Như - nên không thật có. Do đó, khi chúng ta tìm cách buộc Tâm Vọng thì khác nào chúng ta nhận giả làm chơn _ như hàng ngoại đạo.

2/. Thiền Phật Giáo: Là phương pháp Thể nhập Tâm Chơn Như . Nhập chân Như mới có được sự tĩnh lặng này ( Niết bàn).


* Câu 3. Học Thiền khởi đầu từ đâu ?

+ ĐH phamvandung57 giải đáp: Nếu có chỗ khởi thì không gọi là Thiền nữa.

+ Cô dieuduc giải đáp: tu tập dứt trừ tham, sân, si theo đúng lời Phật Thích Ca dạy _ là bước khởi đầu của pháp tu Thiền Phật đạo. Vì khi chúng ta dứt trừ được tham, sân, si - thì tâm chúng ta sẽ ở trạng thái tĩnh lặng.

@ /. Về điển này, chúng con thấy Kinh Lăng nghiêm quyển 6 (Đại 19, 131 hạ) nói: Nhiếp tâm là giới, nhân giới sinh định, do định phát tuệ, cho nên gọi là Tam vô lậu học.
Như vậy Phật dạy. khởi đầu tu thiền ( định), trước phải tu giới ( trừ tham, sân, si) như cô dieuduc đã nói.

* Câu 4. Mục đích của thiền là gì ?

+ ĐH phamvandung57 giải đáp: Nếu có mục đích của Thiền thì lại càng không phải, (nhưng cũng đưa ra viễn cảnh) :pháp môn nào cũng vậy, cuối cùng là từ nghi đến ngộ, cuối cùng cũng thành Phật, nhưng phải trải qua con đường xa hơn, còn tham Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp, thẳng tắt hơn.

+ Cô dieuduc giải đáp: Mục đích THIỀN là trở về TÂM CHƠN NHƯ.

Thưa các Vị. CHÚNG CON HIỂU NHƯ VẬY CÓ ĐÚNG KHÔNG Ạ ?
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
@/. Vâng. Với câu này thì chúng con thấy trong Hương Hải Thiền Sư ngữ lục có dạy:

Nhật dụng vô phi đạo,

Tâm an tức thị thiền.

U thê vân hác để,

Mộng mị tuyết bồng biên.

Dịch:

Đạo tức hằng ngày dụng,

Tâm an đó là thiền.

Dừng nghỉ đáy hang mây,

Nằm mơ bên lều tuyết.

Đọc bài thơ ở trên, tôi cũng đã có lúc viết một bài kệ thuộc lòng từ lâu mà không rõ ai là tác giả. Nay nhờ nó mà tôi mới hiểu ra ý nghĩa của thiền do Hương Hải thiền sư đã dạy. Nó như thế này:
Đạo là công việc hằng ngày
Thiền là những lúc trong lòng ta yên
Mơ màng chi chuyện đảo điên
Trên mây những tưởng lập nên lầu đài.
Cám ơn các đạo hữu ở chùa Phước Thành! Xin hỏi chùa Phước Thành thuộc tỉnh nào ở Việt Nam?
 

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Cảm ơn Đạo Hữu Tuấn Tú.

Xin cảm ơn ĐH Tuấn Tú đã cho một bài kệ rất hay và thăm hỏi. :khi43:

Thưa bài kệ rất hay:

Đạo là công việc hằng ngày
Thiền là những lúc trong lòng ta yên
Mơ màng chi chuyện đảo điên
Trên mây những tưởng lập nên lầu đài.

Cũng như Tổ Trúc Lâm có dạy:

“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.

Bản dịch:

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.


Chúng con, ở Chùa Phước Thành. rất hân hoan chào đón quý Thiện Hữu Tri Thức, quan lâm.

Địa chỉ: Chùa PHƯỚC THÀNH.
Ấp Thạnh Trung, Xã Thạnh Tân, Huyện Tân biên. Tỉnh Tây Ninh.
 

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Mục đích của Thiền ?

Kính thưa cô dieuduc, ĐH phamvandung57, và quý Thiện Tri thức:

về câu trả lời 4. Chúng con cảm thấy chưa được thông suốt lăm ! Kính mong các vị vui lòng chỉ giáo thêm ...

* Câu 4. Mục đích của thiền là gì ?

+ ĐH phamvandung57 giải đáp: Nếu có mục đích của Thiền thì lại càng không phải, (nhưng cũng đưa ra viễn cảnh) :pháp môn nào cũng vậy, cuối cùng là từ nghi đến ngộ, cuối cùng cũng thành Phật, nhưng phải trải qua con đường xa hơn, còn tham Tổ Sư Thiền là pháp thiền trực tiếp, thẳng tắt hơn.

+ Cô dieuduc giải đáp: Mục đích THIỀN là trở về TÂM CHƠN NHƯ.

Kính các vị :
+ Theo ĐH phamvandung57 giải đáp: Thiền (Tổ Sư Thiền) là giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. là chỉ thẳng tâm mình xưa nay vốn là Phật...

@ Câu này chúng con vô cùng tán thành. Vì chúng con có được nghe. HT Pháp Sư Thích Từ Thông, dạy trong kinh viên giác trực chỉ đề cương rằng:

Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, hành giả chợt thấy rằng
mình chẳng có tu và cũng chẳng có thành tựu. Vì lẽ trong Viên Giác thanh tịnh không có tướng hai. Bấy giờ thấy rõ trăm ngàn
muôn ức a tăng kỳ, bất khả thuyết hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn
diệt, bất tức, bất ly… và chợt thấy rõ rằng :

"CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT".
"SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA".



@ Nhưng nếu đã chúng sanh xưa nay vốn là Phật ... Thì nay TU THIỀN ĐỂ CẦU THÀNH PHẬT ? Đây là điều khó hiểu ạ !!! Vì Phật mà cầu thành Phật thì là sao ạ ? :eek:nion44:

+ Cô dieuduc giải đáp: Và theo chỗ hiểu của d/đ - thì sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ.

@ Chúng con xin phép hỏi thêm cô dieuduc . sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ. - ĐỂ LÀM GÌ Ạ ?

Kính mong chờ...
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
"CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT".
"SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA".


@ Chúng con xin phép hỏi thêm cô dieuduc . sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ. - ĐỂ LÀM GÌ Ạ ?

Kính mong chờ...

Câu hỏi của vị đại diện chùa Phước Thành thật là hay! Đúng là gặp phải người có thực học, thực tu!
Tôi xin trả lời câu hỏi: "Tu Định Huệ - "để làm gì ạ?" Là để được giác ngộ như Phật Thích Ca, vì nghĩa chữ Phật là "giác" (giác ngộ) ngay trong hiện kiếp này, còn thành Phật thì phải tu vô lượng a tăng kỳ kiếp mới thành Phật được ạ! Còn nếu có hỏi "giác" cái gì thì tự mình biết lấy, mà biết lấy thì là hết "vô minh"! (hi, hi!)
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Thành tựu NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ, hành giả chợt thấy rằng
mình chẳng có tu và cũng chẳng có thành tựu. Vì lẽ trong Viên Giác thanh tịnh không có tướng hai. Bấy giờ thấy rõ trăm ngàn
muôn ức a tăng kỳ, bất khả thuyết hằng hà sa thế giới chư Phật trong mười phương như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn
diệt, bất tức, bất ly… và chợt thấy rõ rằng :

"CHÚNG SANH XƯA NAY LÀ PHẬT".
"SANH TỬ NIẾT BÀN NHƯ GIẤC MỘNG ĐÊM QUA

Kính tất cả
Theo spl thì câu này là nói đến Tâm Bình Đẳng , của Phật , Đại Bồ tát , như không có phân biệt Ngã , Nhân , Thọ giả , Chúng sinh, không có phân biệt mình là Phật , Bồ tát , kia là chúng sinh .Cho nên chư Phật Bồ tát thấy chúng sinh cũng là Phật hay Bồ tát như mình .Nhưng người đã tỉnh mộng là đã thấy Tánh , là Phật Bồ tát thì có lòng từ bi nên vẫn ra tay cứu vớt chúng sinh khổ .Do đó kinh Pháp Bảo Đàn nói Tánh mình là tánh Phật nếu tâm mình không tham sân si.Ngược lại , tâm mình tham sân si thì tánh mình là Tánh chúng sanh
Còn chúng ta thì tự thấy chúng ta như thế nào , có cần tu thành Phật hay không tự chúng ta biết .
Lời vụng xin đừng chấp bẻ ,
KÍNH
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
@ Nhưng nếu đã chúng sanh xưa nay vốn là Phật ... Thì nay TU THIỀN ĐỂ CẦU THÀNH PHẬT ? Đây là điều khó hiểu ạ !!! Vì Phật mà cầu thành Phật thì là sao ạ ? :eek:nion44:

+ Cô dieuduc giải đáp: Và theo chỗ hiểu của d/đ - thì sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ.

@ Chúng con xin phép hỏi thêm cô dieuduc . sau khi tâm chúng ta ở trạng thái tĩnh lặng _ gọi là Thiền rồi. Sau đó chúng ta mới tu Định Huệ. - ĐỂ LÀM GÌ Ạ ?

Kính mong chờ...


Chào các bạn chùa Phước Thành,
Chào bác Tuấn Tú,
Chào tất cả các Bạn,

d/đ cảm ơn bác Tuấn Tú đã trả lời giúp d/đ. Riêng câu các bạn chùa Phước Thành dẫn chứng : “Chúng sanh XƯA NAY LÀ PHẬT”.
Thì theo như chỗ d/đ nghe biết - đức Phật Thích Ca nói : “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Nghĩa là chúng sanh chỉ mới có “chủng tử Phật” - chứ không phải “xưa nay chúng sanh vốn đã là Phật”. Do đó, d/đ không có thắc mắc - vì sao chúng ta tu học Phật đạo để mong cầu đạt quả Phật.

Vả lại, d/đ có nghe trong kinh Đại Bát Niết Bàn - đức Phật Thích Ca giảng về nghĩa Vô Tướng - là không có mười tướng : sắc, thanh, hương, vị, thành, trụ, hoại, diệt, nam, nữ. Tức là không có những tướng huyễn hóa và thân nam, nữ giả hợp _ nơi thế gian ; chứ không phải Vô Tướng - là hư không, không có tướng nào cả .

Cho nên, d/đ tin có quả Phật - có Đại Niết Bàn. Và khi chúng ta tu đạt thành quả Phật - thì chúng ta thấy được thật tướng như người thức giấc - lìa khỏi cảnh mộng mị trong giấc chiêm bao - nhìn thấy cảnh mình đang sống vậy.

Xin trao đổi…
Thân kính
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 
P

phamvandung57

Guest
Chào tất cả mọi người

Vậy là đã qua hai ngày cho một chủ đề mới. ( chủ đề về Tham Thiền ). Tôi đã đọc tất cả bài viết ở đây, thấy hình như bắt đầu xa lêch chủ đề trên. Hơn nữa vấn đề mọi người đưa ra chủ yếu là Học Tham Thiền chứ không phải tranh luận về kinh điển.Tôi tự nghĩ không còn cách nào hơn, vậy xin chia sẻ một phần tài liệu về tham thiền để cùng nhau tham khảo, xong rồi mỗi người cho ý kiến riêng rồi cùng học tập.
Trích Ngữ Lục của Hòa Thượng Thích Duy Lực:
"Hỏi: Vì sao Thầy trở thành Tu sĩ ?

Đáp: Thuở xưa khi bà nội tôi mất , tôi tự nghĩ tại sao lại có sự chết ? Đến khi ba tôi mất thì tôi mới nghĩ “sau này tôi cũng phải chết”. Từ đó tôi thường nghĩ rằng sự chết đó có thể giải quyết được không ? Sau đó xem kinh Phật, mới biết việc này có thể giải quyết. Tôi bèn phát tâm xuất gia, và bây giờ tôi phát hiện được sanh tử vốn là không! Như tôi đã nói ở trên: Chủ sinh mạng là tâm linh, tâm linh không có sanh tử.

Hỏi: Lúc Thầy xuất gia còn thân phụ thân mẫu không ?

Đáp: Tôi còn một người mẹ nhưng không phải mẹ ruột, bà nuôi tôi từ lúc tôi bốn tuổi, mới chết cách đây mấy tháng, còn người mẹ ruột thì mất lúc tôi chưa đầy một tuổi.

Hỏi: Thế thì Thầy cảm thấy an lạc không? Cảm thấy có gì là quan trọng không ?

Đáp: Chẳng có an lạc hay không an lạc, vì vốn là trống rỗng chẳng có gì cả, thành ra tôi đi đến đâu cũng như vậy thôi. Nếu có cái gì quan trọng thì chẳng phải Tổ sư thiền; luôn cả Tổ sư thiền cũng không phải Tổ sư thiền. Hễ có mục đích là có sở trụ, là chướng ngại. (Sư phụ dùng cánh tay dụ cho tâm linh vô sở trụ, lược qua.)

Hỏi: Sư phụ tự nói là chỉ được giải ngộ, chưa chứng ngộ thì làm sao giải đáp được ?

Đáp: Đã giải ngộ thì tất cả đều giải được.

Hỏi: Con thừa nhận Sư phụ nói về tánh thấy tánh nghe là đúng, sự thấy nghe của mình có lúc không hoàn toàn, nhưng đó chỉ đúng theo logic thôi ?

Đáp: Logic chỉ có thể dùng trong không gian ba chiều, có vật thể, thông qua tai mắt. Còn tâm linh là siêu logic, logic chẳng thể biện chứng được; vì logic chỉ có thể chứng tỏ không gian, chẳng thể chứng tỏ thời gian.

Hỏi: Xin Sư phụ kể qua vài nét của ngài Nguyệt Khê ?

Đáp: Ngài Nguyệt Khê tốt nghiệp tại trường đại học ở Thượng Hải, rất giỏi về ngoại ngữ Anh, Pháp và thông thạo triết học Đông, Tây phương .

Người biên tập cuốn Nguyệt Khê Ngữ Lục và các tác phẩm của ngài, đem gom lại thành quyển Cội nguồn Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì của Thiền Tông. Tôi rất tiếc vì những đệ tử của ngài sau này trong việc xuất bản, lấy ý mình xen vào , nhiều người đọc không biết, nhưng khi tôi đọc thì biết sự khác nhau: Vì lời nói của người chưa kiến tánh với người đã kiến tánh khác nhau, mà người thường không thể phân biệt được.

Cũng như Kinh Pháp Hoa, do người trứ tác chấp thật có Bồ tát Quán Thế Âm tại núi Phổ Đà, nên trong Phẩm Phổ Môn, người ta in thêm mười hai đại nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, rồi chấp thật có một vị Bồ tát Quán Thế Âm ngồi trên chiếc thuyền tuần tra nơi biển, hễ gặp ai cầu cứu thì hiện thân đến cứu giúp, mà chẳng biết là do tự tánh Quán Âm tự cứu, chỉ vì mọi người tin không nỗi thôi.

Hỏi: Người thời nay có phương tiện đầy đủ, đáng lẽ dễ kiến tánh hơn, tại sao lại khó hơn đời xưa ?

Đáp: Do người thời nay trí thức logic quá mạnh, cái gì cũng phải hợp logic, nhưng tâm linh thì chẳng thể hợp với logic, vì logic là nghịch với tâm linh, chướng ngại tâm linh hiển hiện. Tức là : Hiển thịnh thì ẩn suy; thời nay do hiển quá thịnh nên ẩn phải suy.

Hỏi: Ở nước Mỹ, người ta cảm thấy đi đến Đạo Phật chẳng thể giải thoát ?

Đáp: Đạo Phật thời nay rất phức tạp, nhiều người dùng chủ quan của mình để giải thích Phật pháp, ấy đều nghịch với giáo pháp của Phật Thích Ca. Bởi vì Phật Thích Ca chẳng kiến lập chơn lý, vừa nói ra liền phủ nhận, nay các nhà Phật học lại cho lời nói của Đức Phật là chơn lý, nói thế giống như ngoại đạo rồi.

Hỏi: Trên đường tu hành, chúng con khi thì hăng hái, khi thì giải đãi, làm thế nào để khắc phục cái vọng tri của mình ?

Đáp: Lỗi tại có tri giác. Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri giác nãi chúng sanh.” Nay hãy nhìn qua thế giới vạn hữu, con người cho con cọp, beo, sư tử là ác thú, nhưng họ không bao giờ giết hại đồng loại, và chỉ giết hại loài vật khác khi lúc đói, khi ăn no rồi thì không. Còn con người, ngày thường thì giết hại loài khác như gà, vịt, cá, heo … ngoài ra còn giết hại đồng loại, như trong lúc chiến tranh. Ấy đều là hành động theo sự hiểu biết của mình, rồi lập ra chủ trương của mình, tức dùng bộ não làm chủ.

Bộ não phải nhờ ngũ giác quan : Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; con mắt thì muốn nhìn đẹp, chê xấu; lỗ tai thì thích tiếng khen, ghét tiếng chê; lỗ mũi thì muốn ngữi cái thơm, không chịu cái thúi; lưỡi thì muốn ăn cái ngon, chê cái dỡ, tất cả đều theo bộ não mà thỏa mãn dục vọng của mình, đến khi không thể thỏa mãn thì giết hại.

Đức Phật là muốn cho Phật tánh làm chủ, chấm dứt chủ quyền của bộ não. Tu hành đạt đến mục đích cuối cùng, là để Phật tánh làm chủ. Đối với những người chẳng phải vì mục đích này, hoặc chỉ do hứng thú thì lúc có hứng thì siêng năng, hết hứng thì giải đãi, có khi do bị ngoại cảnh lôi kéo khiến giải đãi v.v… nên phải tập dần dần.

Hỏi: Trong quyển Trung Phong Pháp Ngữ đề ra bốn điều dễ và bốn điều khó, nói bốn điều dễ là để cho nhập đạo, bốn điều khó để cho tiến lên con đường đạo, là như thế nào ?

Đáp: Bốn điều dễ là để tạo lòng tin, có lòng tin mới có thể nhập đạo. Vì TIN là mẹ của công đức. Nhưng hễ chấp vào chỗ đó thì bốn điều dễ sẽ đưa mình xuống địa ngục! Phải giải quyết bốn điều khó rồi thì bốn điều dễ này là dễ, nếu không thì bốn điều dễ này là dễ xuống địa ngục vậy.

Hỏi: Tại sao đã có Thiền tông rồi lại còn có Mật tông ?

Đáp: Mật tông lúc ban đầu kỳ thật là của ngoại đạo, sau khi Phật nhập Niết bàn mấy trăm năm, do ngài Long Thọ, Tổ thứ 14 của Thiền tông chỉnh sửa lại, khiến những ngoại đạo đương thời trở về chánh pháp, nên ngài làm Tổ cho sáu môn phái.

Hỏi: Thế nào là bình thường tâm?

Đáp: Bình thường tâm tức tâm như hư không chẳng dính mắc, là nói người đã kiến tánh, dù cho bom nguyên tử làm nổ tung trái đất này, tất cả đều tiêu tan, nó vẫn bình thường. Chứ không phải trong cuộc sống hằng ngày trải qua một cách bình thường gọi là bình thường tâm. Tâm của con người chưa kiến tánh thì chẳng thể bình thường được, ấy là điên đảo.

Hỏi: Có người hỏi Thiền sư Nam Tuyền :”Dưới pháp hội của Ngũ Tổ có năm trăm vị, người nào cũng thông thái và giỏi pháp lý. Vậy tại sao ngài chẳng truyền y bát cho người khác, mà lại truyền cho Lục Tổ Huệ Năng ?”

Ngài Nam Tuyền đáp: “Sở dĩ truyền cho Huệ Năng, vì ngài không biết Phật pháp, nhưng biết đạo.” Nghĩa này là thế nào ?

Đáp: Đức Phật trong Kinh Kim Cang nói: ”Chẳng có pháp gọi là Phật pháp.”, “Pháp, phi pháp, phi phi pháp.”, “ Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật.”, “Vô pháp khả thuyết, gọi là thuyết pháp”… Không có pháp thì làm sao biết Phật pháp? Vì ngộ được vốn là chẳng có pháp, nhưng chẳng phải phủ định tất cả pháp, pháp nào cũng y như cũ; cái tách vẫn là tách, quả cam vẫn là cam, chứ không có ý của cá nhân xen vào.

Hỏi: Vậy thế nào là đạo?

Đáp: Cũng vậy thôi. Thiền tông là hiểu thiền, hiểu đạo cũng không cho. Đạo là đường đi, muốn ngộ đến cuối cùng thì phải đi đúng đường lối; ví như tham Tổ sư thiền, đường lối thực hành tức là đạo.

Đạo khả đạo, phi thường đạo. Đạo mà có thể nói được thì chẳng phải là đạo, vì không có nhất định. Tất cả nói được đều chỉ là phương tiện, là cơ xảo. Tám mươi bốn ngàn pháp môn là tám mươi bốn ngàn con đường; đạo của Tịnh độ khác, đạo của Thiền tông khác…Dù đường đi mỗi mỗi khác nhau, chỗ đến thì chẳng khác.

Hỏi: Ngoài công án ra, có cách nào cho người thời nay tu hành được thích hợp không ?

Đáp: Công án không bị thời gian, không gian hạn chế, khác hơn khoa học. Khoa học dần dần tiến bộ, còn công án là để phát hiện Phật tánh, Phật tánh thì không thể tiến bộ, vì hễ có tiến bộ là pháp sanh diệt.

Ví như công án “uống trà” của Tổ Triệu Châu:

Có người đến gặp Triệu Châu, ngài hỏi:

- Trước kia đã có đến đây chưa ?

- Dạ chưa.

- Uống trà đi !

Người khác đến, ngài lại hỏi:

- Trước kia đã đến lần nào chưa ?

- Dạ, có.

- Uống trà đi !

Viện chủ hỏi: Sao người nào ngài cũng bảo đi uống trà ?

Ngài nói : Viện chủ !

- Dạ ?

- Uống trà đi.

Bất kể thời xưa, thời nay, thuyết pháp phải tùy cơ, trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ; phù hợp ý Phật chẳng có tiến bộ, khế hợp đương cơ cũng chẳng có tiến bộ.

Hỏi: Đường lối tham thiền chỉ có một, nhưng trong lúc công phu, vì căn cơ khác nhau, mỗi người đi một lối rẻ, vậy là thế nào ?

Đáp: Thoại đầu dù có muôn ngàn, nhưng đều chỉ là một cái không biết; tất cả đều là tác dụng kích thích cái không biết, và khán thoại đầu chỉ là nhìn vào chỗ không biết mà thôi.

Hỏi: Người tu Tổ sư thiền có thọ Bồ tát giới không ?

Đáp: Có. Đại thừa và Tối thượng thừa đều có thọ giới Bồ tát. Vì Đại thừa là Bồ tát thừa, Tu sĩ Đại thừa phải thọ giới Bồ tát, nếu không thì chưa phải Đại thừa. Cư sĩ thì thọ hay không thọ cũng được. Còn Tiểu thừa (Thanh văn thừa) thì không thọ giới Bồ tát, chỉ thọ giới Tỳ-kheo mà thôi.

Hỏi: Người kiến tánh rồi còn sanh tử không ?

Đáp: Thiền sư Pháp Diễn là thầy của ngài Đại Huệ và Viên Ngộ. Lúc đó ba huynh đệ Viên Ngộ đều tưởng mình đã ngộ, nhưng thầy lắc đầu không ấn chứng. Ba huynh đệ rất tức giận, xin ra đi. Thiền sư Pháp Diễn nói :”Sau này bệnh nặng mới biết ý của thầy.”

Vì hễ ngộ thì giải thoát được sanh tử, chưa ngộ triệt để, đến khi bệnh nặng, dùng sự ngộ đối trị không nỗi, lúc đó mới nhớ lại lời của thầy rồi quay trở về. Ngài Viên Ngộ quay về được một tháng thì kiến tánh triệt để.

Hỏi: Tại sao Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi đạo tràng mà chẳng thành Phật đạo ?

Đáp: Đại Thông Trí Thắng Phật là Bích Chi Phật, tu theo Trung thừa, vì chấp ngồi nên chẳng thể thành Phật, chỉ chứng quả viên giác.

Hỏi : Hành giả tham Tổ sư thiền có phải gấp rút đề câu thoại để thúc đẩy nghi tình không ?

Đáp: Không có lấy ý mình để thúc đẩy gì cả, chỉ cần đừng nổi lên một niệm nào thì đã đủ rồi. Bất cứ nỗi lên niệm gì đều là tâm trộm cắp, ngài Ẩn Am gọi đó là “Dụng tâm sai lầm”. Tổ nói :

- Người tham thiền rất kỵ dụng tâm sai lầm: Minh tâm kiến tánh là dụng tâm sai lầm, thành Phật thành Tổ là dụng tâm sai lầm; xem kinh giảng giáo là dụng tâm sai lầm, đi đứng nằm ngồi là dụng tâm sai lầm, ăn cơm ăn cháo là dụng tâm sai lầm, đại tiện tiểu tiện là dụng tâm sai lầm, nhất động nhất tịnh, nhất vãng nhất lai là dụng tâm sai lầm. Lại còn có một chỗ là dụng tâm sai lầm mà tôi không dám nói trắng ra. Tại sao? “ Nhất tự nhập công môn, cửu ngưu xe bất xuất”, ý nói bất cứ nổi lên niệm gì, đều là dụng tâm sai lầm. Đến chỗ nhất tâm không nổi lên, vẫn còn là vô thỉ vô minh ! Nhưng công phu đến chỗ thoại đầu là sắp kiến tánh, mà nếu ngồi tại chỗ vô tâm đó thì còn xa lắm.


Hỏi: Thế nào là Phật giáo, Phật pháp, Phật học ?

Đáp: Phật giáo là giáo lý của Phật, Phật pháp là pháp thực hành giáo lý của Phật, để đưa mình đạt đến giải thoát tất cả khổ. Phật pháp mặc dù giúp cho sự giải thoát, nhưng phải học, nên gọi Phật học.

Hỏi: Thế trí biện thông có phải là một trong Bát nhã?

Đáp: Thế trí biện thông là chướng ngại cho sự kiến tánh, vì người thế trí biện thông chấp vào thế trí của chính mình, cho là cao nhất mà không buông bỏ được, nên thành chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là vạn pháp quy tâm?

Đáp: Ấy là người có tư tưởng chấp thật mới nói như vậy. Bản lai diện mục của bản tâm không có tương đối, Vạn pháp là tâm, tâm là vạn pháp, vạn pháp với tâm không phải có hai. Nếu tâm là tâm, vạn pháp là vạn pháp, tức có hai, là tương đối.

Cho nên, Phật nói tất cả đều do tâm tạo. Vì tâm khắp không gian, khắp thời gian thì vạn pháp đều ở trong tâm, không có cái nào ở ngoài tâm, nên nói: “Ngoài tâm chẳng có pháp.” Vậy tại sao còn nói ‘vạn pháp quy tâm’? Những người nói ‘vạn pháp quy tâm’ là tư tưởng chấp thật, còn nằm trong tương đối.

Hỏi: Tại sao Phật nói nhiều kinh?

Đáp: Vì muốn phá cái biết của bộ não, chư Tổ cũng vậy. Cái biết của bản tâm luôn luôn ứng dụng, nhưng không phải cái biết và không biết của bộ óc (ý thức). Vì cái biết và không biết của ý thức làm chướng ngại cái biết của bản tâm. Cho nên, sát na lìa ý thức là bản tâm hiện ra.

Người tham học mới vào cửa, Lâm Tế liền hét, người tham học mới vào cửa, Đức Sơn liền đánh., những hành động của Tổ là muốn chặn ngang nguồn suối ý thức. Nếu lúc đó lìa được ý thức thì ngay đó kiến tánh. Còn lìa ý thức chưa được thì phải phát nghi (không hiểu), như Lâm Tế bị Hoàng Bá đánh ba lần phát đại nghi, rồi sau này ngộ triệt để. Tất cả công án, thoại đầu của chư Phật chư Tổ đều vậy. Ngộ là hiện lên bản tâm của mình, chứ không phải ngộ đáp án của câu thoại hay công án.

Hỏi: Chánh biến tri và vô sư trí là như thế nào?

Đáp: Chánh biến tri là trí Bát Nhã, vô sư trí là trí không do ai dạy, Phật Thích Ca nói là Pháp Bản Trụ, nó tự như vậy, không phải do thầy truyền cho.

Hỏi: Ngũ thời, bát giáo là gì?

Đáp: Ngũ giáo ở Trung Quốc có 5 hệ phái :Tổ Sư thiền, Giáo môn, Tịnh Độ, Mật tông, Luật tông.

Phật thuyết pháp chia ra làm ba giáo thời:

-Giáo thời thứ nhất: Khi Phật mới thành đạo, vì muốm phá chấp của Phàm phu và ngoại đạo, nên nói các pháp tứ đại ngũ uẩn để sáng tỏ không thật, gồm những bộ kinh Tứ A Hàm: Tăng Nhất A Hàm, Trường A Hàm, Trung A Hàm và Tạp A Hàm (Tiểu thừa).

-Giáo thời thứ hai: Phật vì phá chấp pháp của Tiểu thừa, nên thuyết tất cả pháp đều không thật, là những bộ kinh Bát Nhã.

-Giáo thời thứ ba: Phật vì phá sự chấp có của Tiểu thừa, và phá chấp không của Đại thừa, nên thuyết pháp chẳng có chẳng không, để sáng tỏ nghĩa bất nhị của trung đạo, như những bộ kinh Thâm Mật, Pháp Hoa,…

Đây là theo thời gian mà chia ra làm ba thời.

Còn 3 loại khác biệt:

- Giải thích các pháp có là đệ nhất thời.

- Giải thích các pháp không là đệ nhị thời.

- Giải thích giáo pháp trung đạo bất nhị là đệ tam thời.

Ba thời này không phải y theo thời gian, chẳng kể thời gian trước hay sau, mà chỉ phân theo nghĩa loại, gọi là 3 thời giáo.
Không có bát giáo, bát khổ thì có, từ tam khổ cho đến vô lượng khổ.

Hỏi: Phiền não có hai:

- Nhuận nghiệp vô minh, nhuận là thấm nhuần, là phiền não quá khứ.

-Nhuận sanh vô minh là đi đầu thai nơi tình thức, sanh khởi yêu ghét đối với cha mẹ.

Hai phiền não này vốn không có tự tánh, nếu ngộ được tự tánh thì chẳng có việc gì, tức là ngay đó không tịch thì ai còn có phiền não?

Đáp: Không phải chỉ có hai pháp này không có tự tánh, mà tất cả pháp đều không có tự tánh; chúng sanh và Phật cũng không có tự tánh. Tức là chẳng pháp nào mà có tự tánh! Vì tự tánh vô sở hữu, tất cả pháp đều là tâm, tâm đã vô sở hữu thì các pháp đều vô sở hữu.

-Thiền Sư Bổn Tịnh họ Trương, quê Hán Châu, xuất gia lúc còn nhỏ, được Lục Tổ ấn chứng nơi Tào Khê, rồi ẩn ở núi Tư Phong. Sau này, được nhà vua mời vào hoàng cung đàm luận với các vị cao Tăng.

Thiền Sư Viễn hỏi: Ý của Thiền sư cho thế nào là đạo?

Sư nói: Vô tâm là đạo.

Viễn nói: Đạo vì tâm mới có, đâu thể nói vô tâm là đạo?

Sư nói: Đạo vốn vô sanh, bởi tâm mới gọi là đạo. Tâm chỉ là tên gọi, nếu tâm thật có thì đạo cũng thật có. Tâm đã không tìm ra thì đạo do đâu mà lập? Cả hai đều hư vọng, thảy là giả danh.

Viễn nói: Thiền sư thấy có thân tâm là đạo hay không?

Sư nói: Thân tâm của sơn Tăng vốn là đạo.

Viễn nói: Vừa mới nói vô tâm là đạo, nay lại nói thân tâm vốn là đạo, há chẳng phải ngược nhau ư!

Sư nói: Vô tâm là đạo, tâm diệt, đạo vô; tâm và đạo nhất như. Nếu nói vô tâm là đạo, thân tâm vốn là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm; thân tâm vốn là không thì tìm cội nguồn của đạo cũng chẳng có.

Viễn nói: Thấy hình tướng bề ngoài của Thiền sư rất nhỏ bé mà lại hiểu lý này.

Sư nói: Đại đức chỉ thấy tướng của sơn Tăng, chẳng thấy vô tướng của sơn Tăng, kẻ thấy tướng là Đại đức cảm thấy. Kinh nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nếu thấy tướng phi tướng tức là thấy đạo. Nếu cho tướng là thật, cũng chẳng thể thấy đạo.

Viễn nói: Nay Thiền sư ở nơi tướng mà thuyết vô tướng ư!

Sư nói: Kinh Duy Ma Cật nói: “Tứ đại vô chủ, thân cũng vô ngã thì sở thấy cùng đạo tương ưng. Đại đức! Nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu có ngã kiến thì suốt kiếp chẳng ngộ đạo vậy.

Viễn nghe xong tâm chẳng còn thắc mắc. Sư có kệ rằng:

Tứ đại vô chủ, lại như thủy,
Gặp cong gặp thẳng chẳng bỉ thử.
Hai chỗ tịnh uế chẳng sanh tâm,
Thông nhãn đâu từng có ý khác.
Gặp cảnh chỉ như thủy vô tâm,
Tung hoành trên đời có việc gì?

Thiền sư Trí Minh hỏi: Nếu vô tâm là đạo thì ngói đá vô tâm cũng là đạo, lại nói thân tâm vốn là đạo, thế thì tứ sanh thập loại có thân tâm cũng là đạo?
Sư nói: Nếu hiểu theo kiến, văn, giác tri thì càng xa với đạo, là kẻ cầu kiến, văn, giác tri, chứ chẳng phải kẻ cầu đạo. Kinh nói: “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý”, lục căn còn không thì kiến, văn, giác tri do đâu mà kiến lập? Tìm nguồn đã chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Đâu thể đồng với cây cỏ ngói đá!

Trí Minh bịt miệng.

Sư có kệ rằng:

Kiến, văn, giác tri vô chướng ngại,
Thanh, hương, vị, xúc thường tam muội.
Như ở nơi ‘không’ đều sanh ra,
Chẳng lấy chẳng xả chẳng yêu ghét.
Nếu nơi tiếp xúc vốn vô tâm,
Mới được gọi là Quán Tự Tại.

Thiền sư Chân hỏi : Đạo đã vô tâm, vậy Phật có tâm chăng? Phật với đạo là một hay là hai?

Sư đáp: Chẳng một cũng chẳng hai.

Hỏi: Phật độ chúng sanh là có tâm, đạo chẳng độ người là vô tâm; một độ một chẳng độ thì đâu thể chẳng hai?

Sư đáp: Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo thì chẳng độ, ấy là Đại Đức vọng sanh nhị kiến, còn sơn Tăng không phải vậy! Phật là hư danh, đạo cũng vọng lập, cả hai đều chẳng thật, thảy đều là vọng sanh. Trong một cái giả làm sao phân ra làm hai?

Hỏi: Phật với đạo tuy là giả danh, thì giả danh này ai lập? Nếu có kẻ lập thì đâu thể nói không?

Sư đáp: Phật với đạo bởi tâm mà lập, tuy lập nhưng tâm vẫn là không, tâm đã là không, liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn thì ngộ vốn không, cưỡng lập hai tên thật với giả, ấy là kiến giải của Nhị thừa.

Do đó, Sư thuyết kệ vô tu vô tác rằng:

Thấy đạo mới tu đạo,
Chẳng thấy làm sao tu?
Tánh đạo như hư không,
Hư không lấy gì tu?
Quán khắp người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt nước.
Thấy xem hát múa rối,
Dây đứt hết cả thôi.

Thiền sư Pháp Không hỏi: Phật với đạo đều là giả danh, vậy mười hai phần giáo cũng không phải thật. Tại sao các tôn túc xưa kia đều nói tu đạo?
Sư đáp: Đại Đức hiểu lầm ý người xưa rồi, đạo vốn vô tu, mà Đại Đức cưỡng tu! Đạo vốn vô tác, mà Đại Đức cưỡng tác! Đạo vốn vô sự, mà lại cưỡng sanh nhiều sự, đạo vốn vô tri, mà cưỡng sanh nhiều tri. Kiến giải như thế, trái ngược với đạo. Các tôn túc xưa chẳng phải như thế, chỉ vì Đại đức không hiểu thôi, suy nghĩ kỹ xem!

Sư có kệ rằng:

Đạo thể vốn vô tu,
Vô tu tự hợp đạo.
Nếu khởi tâm tu đạo,
Người ấy chẳng hiểu đạo.
Bỏ mất tánh nhất chân,
Lại vào chỗ náo nhiệt.
Bổng gặp người tu đạo,
Tốt nhất chớ hướng đạo.

Thiền sư Am hỏi: Đạo đã giả danh, Phật cũng vọng lập, mười hai phần giáo dùng để thuyết Pháp độ sanh, tất cả đều vọng thì lấy gì độ sanh?

Sư đáp: Vì có vọng nên mới lập chân để đối trị cái vọng, nay truy tìm tánh vọng vốn không thì chân cũng đâu có? Nên biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị với nhau nên chẳng thật thể. Suy tìm cội gốc thì tất cả đều không.

Hỏi: Đã nói tất cả đều vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng chẳng khác, vậy là vật gì?

Sư đáp: Nếu nói vật gì thì vật gì cũng vọng, khi nói không tương tự chẳng so sánh, đường ngôn ngữ dứt, như chim bay trên hư không, chẳng có dấu vết.

Thiền sư Am cảm thấy hổ thẹn kính phục. Sư có kệ rằng:

Suy chân chân vô tướng,
Tìm vọng vọng giả danh.
Ngộ đạo cũng như thế,
Rốt cuộc chỉ là vậy.

Thiền sư Đại Tánh hỏi: Lời Thiền sư rất vi diệu, chân vọng đều diệt, Phật đạo đồng quy, tu hành tánh không, nên tướng chẳng thật. Thế giới như huyễn, tất cả giả danh, lúc hiểu theo như thế, chẳng phải đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh ư?

Sư đáp: Hai gốc thiện ác bởi tâm mới có, tìm tâm có thì gốc mới có, suy tâm đã không thì gốc do đâu mà lập? Kinh nói: “Pháp thiện và pháp bất thiện từ nơi tâm hóa sanh, thiện ác nghiệp duyên vốn chẳng có thật.”

Sư có kệ rằng:

Thiện cũng từ tâm sanh,
Ác cũng chẳng lìa tâm.
Thiện ác là ngoại duyên,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác về chỗ nào?
Lấy kiến để ai giữ?
Than ôi! Người giữ kiến,
Phan duyên chạy hai đầu.
Nếu ngộ tâm vốn không,
Mới biết trước lỗi lầm.

Có Đại thần hỏi: Thân này từ đâu đến, trăm năm sau đi về đâu?

Sư đáp: Như người lúc mơ từ đâu đến, lúc thức tỉnh đi về đâu?

Hỏi: Lúc mơ chẳng thể nói không, lúc thức tỉnh chẳng thể nói có. Dù có nhưng vô vãng lai, mà chẳng xứ sở.

Sư đáp: Thân của sơn Tăng này cũng giống như mộng.

Khai thị kệ rằng:

Đời người như trong mộng,
Trong mộng thật náo nhiệt.
Bổng giác vạn sự như,
Đồng như người mới thức,
Người trí ngộ việc mộng.
Kẻ mê tin mộng thật,
Tỉnh mộng như là hai.
Khế ngộ thì chẳng khác,
Phú quí với bần tiện,
Chẳng có đường phân biệt.

Năm thứ 2 niên hiệu Thượng Nguyên nhà Đường. Sư viên tịch, vua ban hiệu Đại Hiển Thiền Sư.

Hỏi: Nếu người ta chỉ dạy người khác tin cõi Phật Di Đà và khuyến khích niệm danh hiệu Phật A Di Đà, không còn pháp nào khác nữa. Vậy thì như thế nào?

Đáp: Phật có quy định cho người thuyết pháp là đại khai duyên giải, tức giải ngộ tất cả các pháp đều không có khác, nếu không thì lọt vào một bên, gọi là biên kiến ở trong 5 năm thứ ác kiến. Nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không biết. Nên Ngài Bá Trượng nói: “Nếu Pháp sư thuyết pháp chỉ giảng được một câu hay hai câu, là nằm trong tương đối, thì Pháp sư đó bị tội địa ngục, nếu giảng thấu ba câu, mà người nghe hiểu lầm là lỗi của người nghe, không dính dáng với Pháp sư”.

Đức Phật trong kinh Pháp Hoa quy định tư cách pháp sư giảng kinh: Nếu Pháp sư không biết mà giảng bậy bạ, gọi là cuồng vọng thuyết pháp, bị tội địa ngục. Như Pháp sư thuyết pháp không người nào tin thì pháp sư đó không có tội, vì không hại đến ai. Ngược lại, người tin nhiều chừng nào thì pháp sư bị tội lớn chừng nấy.

Hỏi: Có chỗ nói bát giáo là: Tạng Giáo, Thông Giáo, biệt Giáo, Viên Giáo, Bí mật Giáo, Tiệm Giáo, Đốn Giáo, Bất Định Giáo. Vậy những thứ này như thế nào?

Đáp: Những thứ này là do tông đó chia ra như vậy, chứ Phật Giáo không chia. Như trong kinh Lăng Già có chia theo căn tánh của chúng sanh, gồm có: Thanh Văn chủng tánh, Duyên Giác chủng tánh, Bồ Tát chủng tánh, Bất định chủng tánh, Ngoại đạo chủng tánh.
Vừa rồi nói giáo pháp tam thời do có nghĩa khác biệt mới chia làm tam thời theo thời gian, đó là người đời sau chia ra tổng quát, để các tông phái nào cũng đều thích hợp.

“Đốn, tiệm, biệt (thiên), viên”, những thứ này có thể còn có nghĩa, kỳ thật không có nghĩa để kiến lập. Kinh liễu nghĩa đều bao gồm“Đốn, tiệm, biệt, viên”, như năm quyển trước của kinh Lăng Nghiêm tiếp người thượng căn, gần như pháp đốn; còn năm quyển sau tiếp người trung, hạ căn. Mà bao gồm hết gọi là viên, nghiêng về mê gọi là biệt, tiệm tu và đốn ngộ gọi là đốn tiệm. Bất cứ quyển kinh liễu nghĩa nào cũng bao gồm đầy đủ.
Tạng pali của Tiểu thừa không có Đại thừa, mà lại không nhìn nhận có Đại thừa.

Kinh Hoa Nghiêm bao gồm lục tướng (đồng, dị, tổng, biệt, thành, hoại). Ở trong lục tướng chia ra làm 2: -Sai biệt và bình đẳng. Tướng thành, tướng đồng và tổng tướng thuộc về bình đẳng; còn tướng biệt, tướng dị và tướng hoại thuộc về sai biệt.

Hỏi: “Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa”, lối chia này của người Tối Thượng thừa. Như vậy người Tiểu thừa có công nhận lối chia này không?

Đáp: Lối chia này không phải do Phật Thích Ca chia, mà là do người đời sau. Phật Thích Ca ban đầu thuyết liễu nghĩa, nhưng người nghe không chấp nhận được, nên phải thuyết bất liễu nghĩa, rồi mới thuyết liễu nghĩa.

Tam thừa giáo là đối tượng khác nhau, ban đầu phá chấp của phàm phu và ngoại đạo, thời thứ nhì phá chấp của Tiểu thừa, giáo thời thứ ba phá chấp Đại thừa.

Phật thuyết pháp là để khế hợp với căn cơ, chứ không phải có chia. Những việc này là những giai đoạn, Đại thừa không phải thật, vì Phật cũng phủ định.

Nên Phật nói: “Ta 49 năm thuyết pháp, chưa từng nói một chữ”.

Tất cả lời của Phật nói ra liền phủ định, những người dịch kinh chấp có pháp thật, là vì không hiểu căn bản Phật pháp, cũng có ý của mình xen vào.


Như tông Thiên Thai, đến Tổ thứ ba là Trí Giả đại sư mới hoàn thành đầy đủ giáo lý của tông Thiên Thai. Trí Giả đại sư ở trên núi Thiên Thai, nên người ta gọi là tông Thiên Thai. Tông Hoa Nghiêm cũng vậy, đến đời Hiền Thủ đại sư mới hoàn thành giáo lý của tông Hoa Nghiêm, vì Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm là Hiền Thủ, nên người ta gọi là tông Hiền Thủ.

Tông Thiên Thai căn cứ kinh Pháp Hoa để tu , cũng gọi là Pháp Hoa Tông. Tông Hiền Thủ căn cứ kinh Hoa Nghiêm, cũng gọi là Hoa Nghiêm tông, đều là kinh liễu nghĩa. Nói về giáo lý đầy đủ phong phu,ù thì kinh Hoa Nghiêm hơn kinh Pháp Hoa.

Hỏi: Tổ Sư thiền có câu thoại đầu làm phương tiện, tông Hiền Thủ có kinh Hoa Nghiêm để tu, vậy nên bỏ và lấy cái nào? Cái nào hơn?

Đáp: Chẳng có bỏ và lấy cái nào cả, cũng chẳng có cái nào hơn cái nào. Pháp thiền của tông Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới Quán Thiền, chia làm 4 loại: -Lý pháp giới –Sự pháp giới –Lý sự vô ngại pháp giới – Sự sự vô ngại pháp giới.

Sau 49 năm thuyết pháp, trong hội Linh Sơn, Đức Phật đưa lên cành hoa, Ngài Ma ha Ca diếp mỉm cười, lúc đó Thiền tông ra đời, còn gọi là pháp thiền trực tiếp, cũng gọi pháp Tổ Sư thiền.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma đem Tổ Sư thiền qua Trung Quốc truyền cho Huệ Khả,… sau Lục Tổ Huệ Năng mới có năm phái thiền, đều là Tổ Sư thiền, nhưng mỗi gia phong có khác, mà ngộ đạo thì không khác. Như Lâm Tế dạy người tham học, vô cửa liền hét, Đức Sơn vô cửa liền đánh, với mục đích niêm hoa thị chúng của Phật và gia phong của chư Tổ đều không khác.

Hỏi: Trung thừa dùng kinh nào để tu?

Đáp: Trung thừa dùng Thập Nhị Nhân Duyên, nên gọi là Duyên Giác, vì do nhân duyên mà được ngộ đạo. Lúc họ ngộ đạo mà không có Phật thì gọi là Độc Giác, họ không cần kinh điển, quán vũ trụ vạn hữu có thành, trụ, hoại, không hay sanh, trụ, dị, diệt.

Hỏi: Thập Nhị Nhân Duyên ở trong kinh nào?

Đáp: Thập Nhị Nhân Duyên không ghi ở trong kinh nào, nhưng tất cả kinh nào cũng có, vì đó là nhân duyên. Phật pháp là do nhân duyên hòa hợp nên sanh, nhân duyên tan thì diệt. Phật pháp nói đến nhân duyên, nhưng nhân duyên là tánh không, là phương tiện để phá chấp của ngoại đạo và Tiểu thừa.

Ngưỡng Sơn thí dụ: Lục căn như căn nhà có sáu cửa sổ, giữa nhà thắp một cây đèn, ánh sáng rọi ra sáu cửa sổ ra ngoài. Tiểu thừa đem màng đen che sáu cửa sổ, để cho ánh sáng khỏi tiếp xúc cảnh ngoài, có khi cũng có thể ánh sáng lọt ra ngoài. Tối Thượng thừa khỏi cần che cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn là xong, thì đâu còn ánh sáng để tiếp xúc bên ngoài. Cửa sổ vẫn y nguyên, và ánh sáng trong nhà và ánh sáng ngoài nhà đều giống nhau.

Hỏi: Nói là từ chỗ không có bắt đầu, rồi đến chỗ không cuối cùng. Nhưng Phật Giáo chia ra nhiều thừa (Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối Thượng thừa). Như vậy việc ấy như thế nào?

Đáp: Phật thuyết pháp vừa xong liền phủ định không có thừa nào cả. Thiền Sư Bổn Tịnh nói: “Phật còn không có, Tâm cũng không”. Giáo pháp là để hiển bày tâm, nếu tâm còn không thì hiển bày cái gì?

Hỏi: Sư Phụ nói: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, chỉ có Tối Thượng thừa tham thoại đầu, công án… mà sao con thấy cái nào cũng giống nhau, phải không?

Đáp: Phải, cuối cùng cái nào cũng đều giống nhau. Vì hỏi sự khác biệt của các thừa, nên Phật dùng phương tiện để giải thích, cuối cùng Phật đã phủ định. Nếu đến chỗ cuối cùng thì chẳng có cái gì, như hư không vô sở hữu mà dung nạp tất cả, dùng hư không để thí dụ tâm mình cũng vô sở hữu. Tâm đã vô sở hữu thì lấy cái gì để lập ra giai cấp?

Ông đã có tư tưởng chấp thật, tôi giải thích chỗ cuối cùng là vô tu vô chứng, Bồ Đề viên mãn thì không tu không chứng. Không tu làm sao có giai cấp, có bậc Trung thừa, Đại thừa? Làm sao có tu chứng?

Hỏi: Trong kinh nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn để tu, sao Thầy chỉ dạy một pháp môn?

Đáp: Một pháp môn cũng bao gồm tất cả pháp môn. Pháp môn nào cũng đều muốn hiển bày cái Tâm, Tổ Sư thiền là pháp thiền trực tiếp, đi con đường thẳng, những pháp kia là đi con đường gián tiếp, nhưng cuối cùng cũng từ nghi đến ngộ. Cho đến Tịnh Độ và các pháp thiền Đại thừa cũng vậy. Còn thiền Tiểu thừa chưa ngộ triệt để, vì họ ngộ rồi còn chấp cái ngộ, nên gọi là Niết Bàn Tiểu thừa.

Nói tám mươi bốn ngàn pháp môn chỉ là ước số, chứ không phải thật nhất định có tám mươi bốn ngàn pháp môn. Ở Trung Quốc gồm năm phái :Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, Mật.

Hỏi: Như Xã hội văn minh và xã hội kém văn minh thì pháp môn Tối Thượng thừa thích hợp cho xã hội nào?

Đáp: Đa số người phương Tây thích tìm hiểu, người phương Đông cũng vậy. Không những các nhà triết học, khoa hoa học tìm hiểu, những người hoằng dương Tổ Sư thiền, phần nhiều cũng dạy người ta tìm hiểu. Cho nên, tìm một người ngộ đạo thật khó. Tuy thật khó, nhưng đời nào cũng có người ngộ đạo.
Giáo Môn của Trung Quốc, Đại thừa có 4 tông: Thiên thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức.

Tông Thiên Thai có Trí Giả đại sư ngộ đạo, nhưng chính Trí Giả đại sư nói: “Tôi chỉ ngộ được ngũ phẩm, nếu tôi không dẫn chúng tu hành thì có thể ngộ cao hơn”. Sau Trí Giả đại sư là không thấy có ai ngộ. Pháp sư tông Thiên Thai giảng kinh thuyết pháp bây giờ vẫn còn, nhưng dù giảng theo giáo lý Thiên Thai, lại quy về Tịnh Độ. Như Pháp sư Đế Nhàn giảng giáo lý Thiên Thai, nhưng thực hành Tịnh Độ.

Bây giờ ở Việt Nam cũng có Thiên Thai Giáo Quán Tông. Quán Tông Tự của Ngài Đế Nhàn ở Tỉnh Triết Giang Trung Quốc. Bên này cũng nói là Thiên Thai Giáo Quán Tông, nhưng đối với giáo lý Thiên Thai thì không biết.

Tông Duy Thức là do Pháp sư Huyền Trang từ Ấn Độ truyền qua, dịch kinh thì nhiều, nhưng không có nghe ai chứng quả.

Tổ của Tam Luận Tông là Ngài Long Thọ, sau này không nghe ai chứng quả nữa.

Trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 Tổ kiến tánh, đều có ghi rõ họ tên, sự truyền thừa và nhân duyên được ngộ. Như có người thấy con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở mà ngộ, có người đi bị vấp té mà ngộ, có người bị bạt tai mà ngộ, có người nghe hát mà ngộ,…

Ví như Hòa Thượng Thủy Lão là một cao Tăng, đến yết kiến Mã Tổ. Mã Tổ bảo đảnh lễ, Thủy Lão vừa quỳ xuống thì bị Mã Tổ đá nhào xuống đất liền ngộ.
Đệ tử của Thiền sư Đạo Lâm tên là Hội Thông, muốn từ giả đi nơi khác, Đạo Lâm hỏi: Ông muốn đi chỗ nào?

Hội Thông nói: Con xuất gia là muốn giải thoát, Thầy không dạy Phật pháp thì làm sao giải thoát?

Thầy nói: Nếu Phật pháp thì ở đây tôi cũng có chút đỉnh vậy.

Hỏi: Thế nào là Phật pháp của Hòa Thượng?

Đạo Lam nhổ lông áo dài thổi trước mặt Hội Thông, Hội Thông liền ngộ.

Công án như vậy ở trong Thiền Tông rất nhiều. Những người thông thạo giáo lý mà ngộ cũng có, như Nam Tuyền,… người không biết giáo lý ngộ cũng có.
Tiểu thừa cho là người nữ không thể ngộ, nên các nước Tiểu thừa không cho người nữ xuất gia. Còn trong Thiền tông có nhiều người nữ ngộ đạo. Trong
Đường Lối Thực Hành Tham Thiền đề ra ba đứa bé gái (8 tuổi,13 tuổi,15 tuổi) ngộ đạo.

Đức Phật là muốn chúng ta ngộ, chứ không phải muốn chúng ta hiểu. Nếu đuổi theo cái hiểu đó thì không bao giờ ngộ được.

Cô Trịnh 13, lúc 12 tuổi, theo một vị Sư cô đi tham vấn Quy Sơn. Sư cô ấy đuổi theo lời nói, Trịnh 13 tuổi ngộ mà tự mình không biết.

Trưởng lão Bảo Phước hỏi: Có phải Trịnh 13 gặp Quy Sơn không?

Trịnh 13 đáp: Phải.

Bảo Phước hỏi: Quy Sơn tịch rồi sẽ đi về đâu?

Trịnh 13 không trả lời, đứng một bên thiền sàng.

Trưởng lão khác hỏi: Ngày bình thường miệng nói như suốt chảy, sao hôm nay lại không nói?

Trịnh 13 nói: Nhúc nhích hai miếng da này làm được gì?

Trưởng lão nói: Vậy không dùng hai miếng da thì làm được cái gì?

Trịnh 13 nói: Bịt miệng con chó lại.

Trịnh 13 theo đến Quy Sơn lễ bái rồi đứng dậy, Quy Sơn hỏi: Sư cô này ở đâu?

Sư cô nói: Ở bờ sông Nam Đài.

Quy Sơn liền hét đuổi ra, rồi hỏi: người đứng sau lưng Sư cô ở đâu?

Trịnh 13 lại gần.

Quy Sơn hỏi lại lần nữa.

Trịnh 13 nói: Đã trình cho Hòa Thượng rồi!

Quy Sơn bảo Trịnh 13 và Sư cô đi xuống Pháp Đường. Sư cô nói: Bình thường Trịnh 13 nói chuyện như kiếm bén, tại sao Đại Sư hỏi lại không trả lời được?

Trịnh 13 nói: Khổ thay! Khổ thay! Uổng công lâu nay phải đi hành cước, nên cởi áo xuất gia cho tôi mặc đi!

Sau này đem chuyện kể cho Thiền sư La Sơn (Thiền Sư đã ngộ, có danh tiếng): Tôi tham kiến Quy Sơn và trả lời như vậy được không?

La Sơn nói: Chẳng những không lỗi!

Sư cô nói: Lỗi ở chỗ nào?

La Sơn nạt một tiếng.

Trịnh 13 nói: Như gấm thêu hoa.

Hỏi: Sư phụ nói trong sách lịch sử Thiền Tông Trung Hoa có 7.000 người đã ngộ, khi một người được ghi là ngộ, ấy là do chính người đó nói là tôi ngộ, hay do người khác xác nhận người đó ngộ, mới được ghi vào sử ? Ví dụ nhớ lại Phật Thích Ca tự nói ta ngộ, chứ đâu có ai xác nhận Phật đã ngộ? Những quyển sách của người Trung Hoa hay của người Nhật Bản nói: Các đệ tử tham thoại đầu hay tham công án, rồi vào gặp Thầy trình sở đắc của mình. Đầu tiên, Thầy nói chưa ngộ gì hết. Lần thứ hai có thể gần, lần thứ ba cũng chưa, lần thứ tư nói là ngộ. Vậy chuyện trong sách do người Thầy nói đã ngộ, hay người đệ tử nói chính tôi ngộ rồi? Ai xác nhận ?

Đáp: Không phải ai nói, trong Pháp Bảo Đàn, có người hỏi Lục Tổ: Ngài ngộ chưa?
Lục Tổ nói: Tôi chưa ngộ.

Trong Nam Tuyền Ngữ Lục có kể công án về ông Quan hỏi Ngũ Tổ:

- Tại sao 500 Tăng chỉ có Lục Tổ được truyền y bát, còn những người kia không được truyền?

Ngũ Tổ nói: 499 người kia đều biết Phật pháp, chỉ có Huệ Năng là siêu việt, nên mới được truyền.

Ai xác nhận đâu! Ngày xưa, lời nói của chư Tổ không cho đệ tử ghi, nhưng do tánh con người ham biết mới ghi lén, mới thành Truyền Đăng Lục, lúc ấy vua niên hiệu là Cảnh Đức, nên gọi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Trong đó ghi 1700 công án, những người ngộ này có thầy ấn chứng, nhưng sự ấn chứng không nói ra. Như Quy Sơn và La Sơn ấn chứng Trịnh 13 đã ngộ, nhưng không nói đã ngộ.

Hỏi: Nếu người đã kiến tánh mà không có thầy ấn chứng thì người đó có thể tự biết không?

Đáp: Thì người đó tự biết, mà cái biết đó không phải là cái biết của bộ não. Như Trịnh 13 đã ngộ thì tự biết, còn Sư cô chẳng biết gì. Vì sự hiểu biết của người thế gian là cần có cái gì để chứng minh, nhất là dùng logic để chứng minh. Logic chỉ chứng minh được những việc tương đối; còn kiến tánh là phủ nhận tương đối, dùng logic không thể chứng minh được, và người thường cũng không thể lấy cái gì để chứng minh, chỉ có người ngộ với người ngộ tự biết. Nhưng nói với người chưa ngộ thì không được.

Hỏi: Người tham thiền chỉ một ngày chết phải đi đầu thai, còn người tu Tịnh Độ, sau khi chết có vị nào đó đến hướng dẫn thần thức đi đầu thai đến chỗ tốt. Như vậy là thế nào?

Đáp: Diệu Cao Thiền Sư tham thiền rất dũng mãnh, nhưng ngồi tham thiền lại buồn ngủ. Ngài lên ngồi trên tảng đá, phía dưới là vực thẳm, lúc ngồi tham thiền cũng buồn ngủ rồi té xuống vực thẳm, nhưng lại có người đỡ. Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy?

Đáp: Hộ pháp Vi Đà.

Thấy có người cứu bèn nổi ý kiêu căng, mừng thầm và nghĩ : Khắp thiên hạ có ai bằng như tôi!

Hộ pháp Vi Đà nói: Ông nổi niệm kiêu căng, nên 20 năm tôi không hộ pháp cho ông nữa.

Diệu Cao nghĩ “lần này hễ té xuống mà không ai cứu thì phải chết, nhưng chẳng thà chết cũng ngồi nữa”. Ngài đã tự sám hối, rồi ngồi tham thiền. Lúc ngồi tham thiền lại buồn ngủ té xuống vực thẳm, rớt chưa tới đất đã có người đỡ lên.

Ngài hỏi: Ai cứu tôi vậy?

Đáp: Hộ Pháp Vi Đà.

Ngài nói: Vừa rồi ông nói 20 năm không hộ tôi, mà tại sao bây giờ lại hộ?

-Hộ Pháp Vi Đà nói: Ông khởi lên một niệm sám hối thì đã hơn 20 năm.

Một niệm sám hối đã hơn 20 năm, vì thời gian tánh không.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị 2 đoạn văn của Ngài trung Phong dạy đồ chúng:

-Trong suốt ngày đêm chỉ muốn niệm niệm chẳng quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống, đứng dậy, đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật, cho đến khốn khổ, hoạn nạn, hiểm nguy cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si , như say; nghe tiếng, thấy sắc như điếc, như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào một chỗ, lơ đãng một chút ắt chuột chạy mất. Như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm này là một điều khó.

-Tham thiền chẳng linh nghiệm, thường chỉ là tâm trộm cắp chưa chết. Vì thế năm tháng trôi suông, chứ không có bệnh nào khác. Nếu tâm trộm cắp nay chết ở ngày hôm nay thì ngày hôm nay liền tương ưng, chết ở ngày mai thì ngày mai bèn tương ưng.

Cái gì là tâm trộm cắp?

Hễ lià câu thoại đầu sở tham ra, riêng thấy có tự kỷ là tâm trộm cắp. Ở ngoài cái tự kỷ bị thấy ra, riêng thấy có nhân, có ngã là tâm trộm cắp. Lúc tham được thuần thục biết thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc tham thiền chẳng thuần thục biết chẳng thuần thục, ấy là tâm trộm cắp. Lúc chẳng thấy có hôn trầm, tán loạn, chỉ có câu thoại đầu sở tham cùng nghi tình giao kết chẳng gián đoạn, ấy là tâm trộm cắp. Hễ ở chỗ khán thoại đầu chợt sanh một niệm, bất luận là phàm, là Thánh, là chân, là ngụy, nói chung đều là tâm trộm cắp.

Bỗng có người linh lợi hướng vào chỗ tôi nói đều chẳng dính dáng, riêng giúp cho một con đường là đạo, là lý, là kiến, là văn, đây gọi là tâm trộm cắp trong tâm trộm cắp. Phật chẳng thể cứu chữa, chỉ cần hết những tâm trộm cắp, chỉ thế ấy y bổn phận nắm chắc câu thoại đầu sở tham như tượng gỗ, tượng đất, như người chết có hơi thở, ngoài chẳng thấy có đại chúng, trong chẳng thấy có tự kỷ, lạnh băng băng, tuyệt kiến văn, như vậy giữ đi, lâu ngày sẽ được tâm không thi đậu về.

Đáp: Nói tóm lại hai đoạn trên: Tánh của con người ham nghiên cứu lý và cầu hiểu biết, nhất là người phương Tây. Nhưng bây giờ người phương Đông cũng vậy. Tổ Sư thiền thì phải lìa lý, lìa hiểu biết, phải ngược lại. Khoa học phải nghiên cứu lý để tìm hiểu cho biết. Trong Phật pháp, phàm có biết một chút gì đều gọi là sở tri ngu, hiểu biết rất vi tế cũng gọi là cực vi tế sở tri ngu, là tâm trộm cắp.

Nếu có lý cao siêu về lời Phật cũng là tâm trộm cắp, Pháp sư giảng kinh có lý rất hay, cũng lọt vào tâm trộm cắp… Muốn lìa lý lìa hiểu biết rất khó, vì cuộc sống hằng ngày người ta cần hiểu biết, nếu không hiểu biết thành khờ ngốc sao?

Nếu thấy cái gì cũng như mù, nghe cái gì cũng như điếc, thì không bị ngoại cảnh lôi kéo. Hễ muốn đến chỗ vắng lặng để tu hay nhập thất, việc ấy rất là có hại, vì không thấy cảnh thì không khởi tâm động niệm, nhưng nhập thất một thời gian rồi ra thì thấy tâm còn động thêm nhiều. Theo Thiền Tông khi ngộ rồi mới nhập thất để bảo nhiệm.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị thêm đoạn văn của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng dưới đây:

-Người học đạo có linh nghiệm là tâm trộm cắp chết hết. Tâm trộm cắp còn một mảy lông chết chẳng hết, thì muôn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trộm cắp thì học được một phần đạo. Chết được tâm trộm cắp năm phần thì học được năm phần đạo. Tâm trộm cắp hoàn toàn không thì toàn thể là đạo. Bởi vì sự chướng đạo của tâm trộm cắp giống như bụi bặm che mất ánh sáng của gương.

Người thời nay chỉ biết có đạo để thành, mà chẳng biết có tâm trộm cắp nên hết. Hoặc tâm trộm cắp chưa hết mà muốn đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn đừng ướt, xưa nay trong thiên hạ không có lẽ đó.

Thuở xưa, Hòa Thượng Vĩnh Minh thống thiết nói: “Tình sanh trí cách, tưởng biến thể thù”, nghĩa là: Tình nổi dậy thì trí huệ bị che lấp, tư tưởng biến đổi thì thân thể cũng theo đó mà biến dạng, khiến công án sẵn sàng, của báu gia truyền chẳng được thọ dụng. Tình sanh tưởng biến là biệt danh của tâm trộm cắp mà tôi vừa nói.

Muốn bất cứ lúc nào tình chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tưởng chẳng biến, thì cần phải thật đem việc lớn sanh tử để ở trong lòng, lấp bít ý căn, tình vừa muốn sanh thì bị nó ngăn, tưởng toan muốn biến liền bị nó đoạt. Ông nếu chẳng vì việc lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết cầu ngộ chứng, mà chỉ là một bề đè nén cho tình tưởng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người đã chết mà muốn thở ra hít vô để làm gì?

Người xưa có nói: “Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết”. Lời này thật thông suốt cả ba đời, là cội gốc lớn của sự học đạo. Ví như chẳng lấy sanh tử vô thường làm trách nhiệm nặng nề của mình, nằng nặc muốn hiểu thiền hiểu đạo mà tham cứu việc này, thì giống như bảo người tịch cốc (những người suốt đời không biết đói, không cần ăn), đi cấy trồng mà chẳng biết đó chẳng phải là việc của họ (vì họ không cần ăn thì cấy cày để làm gì?).

Đáp: Nếu mình lấy ý thức để tìm hiểu giáo lý cao siêu của Phật Thích Ca, cũng là tâm trộm cắp, còn gọi là sở tri ngu.

Hỏi: Kính xin Sư Phụ khai thị đoạn văn kế tiếp của Ngài Trung Phong dạy đồ chúng:

-Bậc tiền bối ba mươi năm, năm mươi năm chí càng bền, niệm càng thiết, hạnh càng siêng và chẳng chịu có chút gián đoạn, chẳng phải do thầy bạn cảnh sách, tòng lâm khuyến khích, ngôn thuyết chỉ bày, phương tiện khuyến tấn mà được như vậy. Mà bởi cội gốc của các Ngài chỉ là một cái nguyện thống niệm sanh tử chưa giải quyết xong. Giả sử đời này chẳng xong thì đời nào mới xong? Niệm tấn đạo nếu tự chẳng chân thật thiết tha, dẫu Phật Tổ có thầân dị đổi phàm thành Thánh, khiến A La Hán khởi tham sân si, tuy cố làm đó, quyết chẳng thể lâu được.

Có người vì muốn hiểu đạo mà học đạo, mà không chiếu phá được cảnh phù huyễn nổi trước mắt, lại bị cảnh duyên đó làm cho vọng niệm khởi lên chẳng dừng. Vọng niệm đã khởi thì dầu sức học đạo như núi gò, sẽ thấy có ngày bị vọng niệm làm hại. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Cuồng tâm chưa ngưng nghĩ, ngưng nghĩ tức Bồ Đề”. Cái gì là cuồng tâm? Hễ ngoài việc thống niệm sanh tử, đề câu thoại đầu sở tham ra, dù có làm trăm ngàn điều siêu việt thế gian, đều chẳng khỏi chê là cuồng tâm.

Tổ Thiếu Lâm nói: “Ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách, có thể vào đạo”. Nhưng vào đạo gác lại chẳng hỏi. Tâm này có từng như tường vách hay chưa? Nếu chưa mà muốn mong nhập đạo, đó là điều chẳng tự xét.

Tham thiền cả một đời chẳng ngộ, học đạo cả một đời chẳng rõ, chỉ cần chẳng dể dàng buông bỏ cái chánh niệm này, để tham để học, thì chắc chắn có ngày đến chỗ cùng tột. Nếu bỏ chánh niệm này, vọng đem thức tình xuyên tạc, lấy lời người khác làm kiến giải của mình, dẫu hiểu hết cổ kim, tọa đoạn Phật Tổ, cũng đều là dối trình cuồng kiến, tự mang tội lỗi, chẳng phải là điều của người chân thật học đạo làm.

Đáp: Nói nhiều cũng giống như ý trên, người ta chỉ biết có chánh niệm, rồi bỏ tà niệm giữ chánh niệm! Ngài Trung Phong nói: “Tà niệm là nhiễm, chánh niệm là tịnh, mà nổi lên niệm nhiễm là tâm trộm cắp, nổi lên niệm tịnh cũng là tâm trộm cắp”. Người ta bỏ tà niệm còn khó, huống là bỏ chánh niệm! Cho nên, khỏi cần bỏ, vì không có cái gì để bỏ, mà bỏ cái gì? Chỉ cần có lòng tin tự tâm, như Ngài Long thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, chỉ cần tin vô sở hữu mà mình đang dùng. Tất cả đều ở trong vô sở hữu này, như mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai,… đều ở trong vô sở hữu này. (Sư phụ dẫn dụ tâm như hư không vô sở hữu, lược qua.)

Cho nên, Phật nói những hiểu biết trước mắt của mình đều là sai lầm, không đúng với thật tế. Vì vậy mới gọi là tâm trộm cắp, làm chướng ngại cái thật tế. Thật tế là bản thể của Phật tánh, dẹp hết tất cả lý cao siêu của tâm trộm cắp thì bản thể Phật tánh tự động hiện lên. Nay tuy Bản thể Phật tánh chưa hiện lên, nhưng mình cũng đang dùng.

Hỏi: Ngày xưa các ngài khó hiểu biết, vì không có phương tiện nghe nhìn; còn ngày nay phương tiện nghe nhìn có nhiều, nên người tham học khỏi đi hành cước. Đáng lẽ, người nay phải ngộ nhiều hơn người xưa, tại sao ngược lại?

Đáp: Nghe hiểu nhiều chừng nào thì sự chứng quả ít chừng nấy. Nghiên cứu lý để tìm hiểu là chuyện thế gian, muốn tu pháp xuất thế gian thì phải lìa lý lìa hiểu. Cho nên, hiểu nhiều thì phải xa sự chứng ngộ.

Hỏi: Ngày xưa, Ngài Hám Sơn trong khi tu có Ngài Cao Phong giúp đỡ; ngày nay, chúng con cần phải học hỏi tìm hiểu, vậy có thể chứng ngộ không?

Đáp: Ngày nay người ta tôn trọng khoa học và triết học, nhưng khoa học và triết học hiện đại là phải cứu lý tìm hiểu. Phật pháp phải ngược lại lìa lý lìa tìm hiểu, Tiểu thừa chấm dứt lục căn, không cho lục căn tìm hiểu. Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu thừa là ngưng hoạt động của tâm, Trung thừa và Đại thừa cuối cùng cũng đình chỉ hoạt động của tâm. Đình chỉ tâm là mục đích đến chỗ kiến tánh, đến lúc kiến tánh thì không cần đình chỉ nữa. Vì bản thể tự tánh luôn luôn khắp không gian, khắp thời gian, không bao giờ ngưng.

Hỏi: Cách hành trì của Tiểu thừa, Trung thừa và Đại thừa như thế nào?

Đáp: Đại thừa gồm Tối thượng thừa, Tiểu thừa gồm Trung thừa. Có 5 thứ khác biệt:

1.Điểm xuất phát chẳng đồng:
a.Tiểu thừa: Bắt nguồn từ nhân sinh quan đắm khổ, nghiệp cảm duyên khởi, nhàm chán phiền não mà cầu nơi thanh tịnh.
b.Đại thừa: Từ nhân sinh quan từ bi, chân như tỏa ra, lấy hóa tha tự tại làm chí nghiệp.

2.Hành vi chẳng đồng:
a.Tiểu thừa: Tự lợi tự độ, chỉ được giải thoát theo tiêu cực, tức là lấy đoạn dứt phiền não làm Niết bàn và mục tiêu cuối cùng.
b.Đại thừa: Tự độ độ tha, lấy hoạt động tích cực làm hành vi, đắc đại tự tại làm tư tưởng chung cuộc.

3.Cảnh giới chẳng đồng:
a.Tiểu thừa: Ngừng nơi hiện tượng giới.
b.Đại thừa: Vào nơi thực tại giới.

4.Phương pháp chẳng đồng:
a.Tiểu thừa: Dứt lục căn, đoạn nhất niệm vô minh, vào nơi đoạn diệt, chủ nghĩa cấm dục.
b.Đại thừa: Phá vô thỉ vô minh, kiến Phật tánh, chủ nghĩa tự tại, chủ nghĩa thực tại (tức Chân Như), sắc tâm và pháp đều tồn tại vĩnh viễn.

5.Lý luận chẳng đồng:
a.Tiểu thừa: Tầm khảo sát ngưng nơi hiện tượng và cho rằng chủ khách thực tế tồn tại, là nhị nguyên luận. Ngoài ra dùng chủ nghĩa cảm giác phủ định những thực tại ngoài cảm giác.
b.Đại thừa: Siêu việt phạm vi nhận thức của bộ não, sự cùng tột của thực tại với hiện tượng giới chẳng khác, chủ khách như một, chân vọng hợp nhất, là nhất nguyên luận, là thực tại luận siêu việt Hình Nhi Thượng.

Triết học phương Tây chỉ có hai giai đoạn: Ngã chấp và pháp chấp, đều nằm trong phạm vi nhất niệm vô minh, tức tư duy và lý niệm. Nhưng tư duy và lý niệm đều là hóa thân của nhất niệm vô minh, cũng là tác dụng của bộ não.

Mục đích triết học phương Tây là nghiên cứu lý luận để tìm hiểu, nên chẳng chịu rời bỏ nhất niệm vô minh. Bởi vì nếu tiến vào phạm vi của vô thỉ vô minh thì cảm giác trống rỗng chẳng có lý luận để tuy cứu, cũng chẳng có gì để tìm hiểu, hoàn toàn trái ngược với mục đích của họ.

Cho nên, xưa nay các nhà triết học phương Tây chưa ai từng đi vào cảnh giới vô thỉ vô minh, hễ chưa vào cảnh giới vô thỉ vô minh thì chẳng thể đột phá cái chấp không, cũng chẳng vào được tuyệt đối. Phá được cái chấp không là kiến tánh, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn.

Mục đích của nhà triết học phương Tây là truy lý cầu tri, còn mục đích tu trì Phật pháp là liễu thoát sanh tử; triết học phương Tây chú trọng lý luận, Phật pháp thì chú trọng thực tiễn, tức là từ nhất niệm vô minh tiến thẳng vào tuyệt đối vậy.

Hỏi: Lý do gì sự ngộ của Thiền tông không cần kinh điển?

Đáp: Kinh chỉ là trợ duyên, công phu đến mức thì gặp cái gì cũng ngộ, cũng như có người gặp con khỉ leo cây mà ngộ, có người thấy hoa đào nở thì ngộ, có người đi bị vấp té lại ngộ, có người bị bạt tai ngộ, có người nghe hát ngộ, có người đi ngang chỗ bán thịt, nghe nói “bán cho tôi một cân thịt nạt”, người bán chặt mạnh con dao xuống bàn và nói lớn “chỗ nào không phải là thịt nạt?”, người ấy liền ngộ. Đâu phải chỉ xem kinh mới ngộ? Cũng có người xem kinh mà ngộ.

Như có người tham kiến Mã Tổ, Mã tổ nói: Hãy đảnh lễ đi.

Người đó mới lạy xuống thì Mã Tổ đá một cái ngả xuống đất liền ngộ. Nghe kinh ngộ chỉ một phần ít, cái ngộ là do nghi tình đến mức bùng nổ, lúc đó muốn không ngộ cũng không được.

Hỏi: Các giới luật có ảnh hưởng đến tu Tổ Sư thiền không?

Đáp: Tổ Sư thiền cũng phải giữ giới. A Nan hỏi Phật:

- Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì chúng con lấy ai làm thầy?

Phật nói: Lấy giới luật làm thầy.

Hỏi: Có phải Thiền tông không tin vào kinh điển không?

Đáp: Sao nói là Thiền tông không tin kinh điển! Thiền tông tự nhiên ăn khớp với kinh điển, chứ không phải không tin kinh điển, chỉ là không chấp kinh điển.

Hỏi : Xin Thầy nói rõ: Không tin và không chấp?

Đáp: Nếu giải thích triệt để thì Phật nói: “Phàm có lời nói đều chẳng có nghĩa thật”. Bây giờ nói không chấp là đã chấp rồi, tại có chấp nên mới nói không chấp, vì còn nằm trong tương đối. Nếu chấp vào một bên, là nằm trong một của 5 thứ ác kiến:

Chấp nhất định có Phật cũng lọt vào biên kiến, chấp nhất định không có Phật cũng lọt vào biên kiến. Cho nên nói: “Lấy vô Trụ làm gốc”, tức là không trụ bên nào, có trụ là không được.

Hỏi: Sư phụ đã giải thích cho mọi người thì kiến thức của thầy đã cản trở hay giúp thầy trên đường tu tập?

Đáp: Cản trở trên đường tu tập. Tôi là người đầu tiên hoằng dương Tổ Sư thiền ở Việt Nam, cũng là người đầu tiên đả thiền thất ở Việt Nam. Mọi người đã quen biết Giáo môn và Tịnh Độ, còn đối với Tổ Sư thiền thì người ta lại khó tin, nên tôi phải biết, như thế họ mới tin tôi. Rồi từ từ người tham Tổ Sư thiền ngày càng đông. Nếu hỏi tôi không trả lời được thì có ai chịu học Tổ Sư thiền đâu!

Hỏi: Ngài Nam Tuyền chém mèo có coi là lậu tận giới không?

Đáp: Người ta cứ dùng tập khí bộ óc lâu đời để suy nghĩ . Như Phật nói trong kinh Kim Cang: “Chúng sanh, tức phi chúng sanh, thị danh chúng sanh”, chúng sanh là giả danh, như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Vô lão tử diệc vô lão tử tận”, nếu không có sanh tử, làm sao có việc chém chết?

Một Thiền sư đưa cây phất trần lên hỏi: Cây phất trần với việc Nam Tuyền chém mèo có khác hay không khác? Rồi tự mình làm bài kệ, câu thứ tư là:
“Phất trần với chém mèo đâu có khác!”. Vì mình đuổi theo cảnh hay lời nói thì bị cảnh lôi kéo.

-Có người nói: Lục Tổ ăn rau bên cạnh thịt thì tôi cũng ăn được, vậy đâu cần phải ăn chay?

-Người ngộ đạo ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, thì không có nhân quả, vì tâm không có tạo. Người ngộ đã nhảy ra ngoài chiêm bao, không dính líu chiêm bao. Tổ nói: “Tình sanh trí cách”, có người chưa kiến tánh nói “tôi chẳng nổi tình cảm gì hết, chẳng dính dáng đến tình cảm”, nhưng rồi cũng bị người kiến tánh chê.

“Chẳng dính dáng đến tình cảm” vẫn còn ở trong nghĩa ba câu của Bá Trượng, tức còn có tri giải. Các vị tin pháp môn Tổ Sư thiền và tin tự tâm được 100%, tức Phật tánh của mình và Phật tánh của Phật Thích Ca chẳng khác biệt chút nào cả. Như vậy thực hành rất dễ, rất đơn giản, chỉ là giữ được nghi tình thì tất cả sẽ tự động giải quyết xong.

Nhưng bây giờ các nhà sách bán nhiều sách thiền, cũng nói Tổ Sư thiền và giải thích nghĩa lý Tổ Sư thiền; giải thích công án thì lọt vào ý thức phân biệt, nên không bao giờ ngộ.

Mục đích Tổ Sư thiền là muốn chấm dứt ý thức phân biệt, nên sát na lìa ý thức liền kiến tánh. Còn bây giờ không lìa ý thức, mà lại dùng ý thức để giải thích phân biệt để tìm hiểu đáp án. Cho nên, giải công án là sai lầm và nghịch với Tổ Sư thiền, vì vậy chư Tổ nói là phỉ báng Tổ, cũng là phỉ báng pháp.

Hỏi: Xã hội ngày nay khoa học tiến bộ, con người không được rảnh rang như người xưa, nên không để ý sự tu, nhất là tu Tổ Sư thiền rất khó, vậy có phải không?

Đáp: Do hiểu theo người thế gian, như nhà triết học, nhà khoa học,… thì sự tu của họ lại khó. Vì cuộc sống hằng ngày đều phải dùng bộ óc để nghiên cứu triết học hay nghiên cứu khoa học, bất cứ nghiên cứu cái gì đều nhờ bộ óc. Nếu bây giờ chấm dứt hoạt động của bộ óc thì người ta phản đối, họ cho “đồ khùng”. Phải rồi, vì theo tư tưởng thế gian là vậy.

Cho nên, thiền giải đáp công án ở Nhật Bản dễ truyền khắp thế giới. Hiện nay người Trung Quốc cũng đi học thiền giải công án, rồi về dạy cho người Hoa. Chùa Cao Mân là Tổ đình của Thiền Tông, nhưng cũng lọt vào kiến giải. Ngày xưa Ngài Lai Quả không cho người ta giảng công án, khi tôi ở đó thấy đêm nào cũng có vị Trưởng lão giảng công án.

Hỏi: Những pháp thiền của các tôn giáo khác là để ngưng hoạt động của bộ óc hay để im lặng, vậy có khác với cách tu của Tổ Sư thiền không?

Đáp: Các thiền của tôn giáo khác là mục đích bỏ nhiễm duyên lấy cái tịnh duyên cho là ngộ. Tịnh duyên đối với nhiễm duyên thì tốt, còn đối với bản thể Phật tánh là chướng ngại. Bởi vì đối với nhiễm nên mới nói tịnh, còn nằm trong tương đối, tức những thứ ấy có thể dùng bộ óc để giải thích được.

Tổ Sư thiền không thể giải thích, tại bộ óc không thể tiếp xúc được, phải ngộ mới biết, cái biết của Phật tánh gọi là Bát Nhã. Hễ ngộ là Phật tánh hiện lên, chứ không phải có năng ngộ sở ngộ. Nếu có năng ngộ sở ngộ thì không được, vì còn có tứ tướng (ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng).

Hỏi: Sư phụ nói những thức nào khi thân chết nó vẫn còn tồn tại?

Đáp: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức đều tồn tại vĩnh viễn, không phải các căn. Tức Tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh xúc, tánh nếm, tánh biết tồn tại vĩnh viễn không mất, cùng khắp không gian và thời gian, nên không có đi và ở. Nếu có đi đâu thì chẳng phải cùng khắp.

Hỏi: Thần thức đi đầu thai là sao?

Đáp: Thần thức đi đầu thai là chưa nhảy ra ngoài chiêm bao, từ chiêm bao này qua chiêm bao khác chưa thức tỉnh, phải kiến tánh rồi mới thức tỉnh. Còn chưa kiến tánh, thức thứ bảy cứ ôm A-lại-da thức cho là ta, đã có ta rồi làm sao cùng khắp được? Nhưng bản thể cùng khắp, nên năng lượng của Phật tánh cùng khắp. Bây giờ máy vi tính có thể chứng tỏ cùng khắp, nhưng nhà khoa học không chịu tin. Tất cả chủng tử thiện, ác, vô ký đều ở trong A-lại-da thức mang theo.

Hỏi: Thiền sư Đạo Nguyên nói với thầy của ngài làø Nghĩa Tịnh: “Con nay buông xả được thân tâm”, hai thầy trò đối đáp nhau, cuối cùng Nghĩa Tịnh ấn chứng cho Đạo Nguyên được kiến tánh. Vậy như thế nào?

Đáp: Ngài Đại Huệ khiến cho những người đó được kiến tánh triệt để, nhưng trước khi chưa gặp Đại Huệ, họ tự cho mình đã kiến tánh, rồi ra hoằng pháp, cũng được nhiều người ấn chứng. Ban đầu họ không phục Đại Huệ, sau này mới phục, nên được kiến tánh.

Quá trình ngộ của Đại Huệ đến mấy lần, cách ngộ rất khó khăn. Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng cho Đại Huệ và nói:

- “Ông ngộ đến mức này cũng hiếm có, nhưng chưa rốt ráo”.

Ngài phải qua mấy lần rồi mới ngộ triệt để. Khi chưa qua những giai đoạn đó, cũng có nhiều Thiền sư ấn chứng Ngài đã kiến tánh, nhưng Ngài vẫn còn có cái nghi.

Ngài nghĩ: “Nếu gặp Thiền sư Viên Ngộ ấn chứng mình kiến tánh giống như các Thiền sư kia, thì sẽ về viết bài: “Vô Thiền Luận”.

Viên Ngộ nói với Đại Huệ rằng: Ông nói cũng được, làm bài tụng cũng được, nhưng ông còn thiếu một tiếng ồ!

Lúc ấy, Đại Huệ mới theo Viên Ngộ, như ban đầu nghe: “Gió mát từ phương nam” cho là ngộ, rồi gặp Viên Ngộ ấn chứng Ngài được ngộ, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo.

Ngài trải qua mấy lần ngộ cực khổ, Viên Ngộ nói: “Khi vào phòng của tôi thì được, nhưng ra thì không được; lúc ông ngồi giải đáp cho người ta được, nhưng đứng dậy thì không được.”

Tại sao? Vì chưa ngộ triệt để. Lúc ngộ triệt để rồi, Ngài nói:

- Nếu có thật ngộ cũng không được lấy sở ngộ của mình để dạy người. Ngộ rồi phải rõ đại pháp, mới có sức đại cơ đại dụng để khiến cho người khác ngộ, còn lấy sở ngộ của mình để dạy người, là thiền ngâm nước chết.

Hỏi : Tại sao học Phật pháp có thể thành tà đạo ?

Đáp: Trên thực tế, người hiểu giáo lý nhiều dễ trở thành tà đạo, vì chấp thật sự hiểu biết của mình, dùng sự hiểu biết của bộ não kiến lập tri kiến, mà chẳng biết sự hiểu biết đó sai lầm.

Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn.”Họ chẳng những lọt vào tà đạo, lại còn hoằng dương tà đạo, cho lời nói của Phật là Phật pháp của mình để dạy người, tạo tội địa ngục mà chẳng tự biết, cứ tự cho là thuyết pháp theo lời Phật dạy. Nên Trí Giả đại sư nói là :” Học Phật pháp thành ngoại đạo, sau này tiêu diệt Phật pháp là bọn người này.” Tức là chỉ có con cháu của nhà Phật mới tiêu diệt Phật giáo, chứ chẳng phải tôn giáo khác. Đối với hạng người đó, chẳng cách nào vãng hồi, đành phải chịu thôi.

Hỏi : Những người như thế, sau một thời gian tham thiền, có thể quầy đầu lại không ?

Đáp: Có người tham thiền càng nhiều ngã chấp càng lớn, vì không phá ngã chấp, chỉ tin theo sự hiểu biết của bộ não, cho hiểu biết nhiều là hay, chẵng biết đó là mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, nên Phật dạy chúng ta phải dẹp bỏ những hiểu biết đó.

Hỏi : Sư phụ nói là chuyển thức thành trí thì năng lượng lìa vật chất, nhưng bản lai vô nhất vật, thì lấy cái gì lìa cái gì ?

Đáp: Hãy trở về xem lại kinh Lăng Già, vì thầy chưa hiểu, vẫn còn chấp theo lời nói của Phật cho là Phật pháp của mình, mà chẳng biết tất cả lời nói của chư Phật chỉ là phương tiện, chẳng phải thật, không được chấp theo. Nên Phật nói xong liền phủ nhận, vì hễ nói được là tương đối, là nhị, còn Phật pháp là bất nhị.

Hỏi : Thông thường, người đệ tử nhìn vào sự tu hành của người thầy có chứng đắc hay không, ví dụ : Con là người tu hành, sau này con chết rồi, đem đi thiêu, nếu có xá lợi thì mọi người nói là con đắc đạo; nếu không thì mọi người cho là con không có tu. Quan niệm của Thầy ra sao?

Đáp: Tôi chẳng có cái đó. chữ Phật nghĩa là giác ngộ, nếu tu đến giác ngộ thì biết không có sanh tử, tức liễu thoát sanh tử . Tại có sanh tử mới có xá lợi của xương, sanh tử đã không thì những cái kia cũng là thừa.

Tâm Kinh nói “Vô lão tử diệc vô lão tử tận,” bây giờ có xá lợi đâu có ích lợi gì ! Những thứ đó do chấp sanh tử mới có, người không chấp sanh tử thì có hay không chẳng vấn đề, có cũng được, không có cũng được, tất cả hiện tượng mình thấy đều là vọng tưởng, do vọng tâm tạo. Trong kinh Lăng Nghiêm giải thích rất kỹ.

Hỏi: Khi xưa Đức Phật sau khi trà tỳ, được xá lợi vô vàng, để phân chia khắp nơi. Tại sao thời nay chẳng thể noi theo gương đó ?

Đáp: “Tất cả đều là vọng tưởng”, ấy là lời của Phật nói. Nay chúng ta thấy sum la vạn tượng, nhà cửa cây cối… đều do tập khí vọng tưởng của mình, với cộng nghiệp của tất cả chúng sanh, nên cùng thấy như thế, nhưng trong cộng nghiệp có biệt nghiệp của cá nhân .

Sự thật thì chẳng phải như thế : Nếu ở trong thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng thì gọi là pháp thế gian, hễ không sanh ra trước tưởng, thì gọi là pháp xuất thế gian, gọi là Phật pháp. Đó là trong kinh Đại Niết Bàn.

Còn ở trong Yếu chỉ Trung Quán Luận thì tất cả đều phá; Như Lai cũng phá, Niết bàn cũng phá… phàm do bộ não nhận biết được, do văn tự lời nói diễn tả được, có sự tương đối đều phải phá.Vì hễ dùng lời nói , phải tương đối mới nói ra được, văn tự là thay cho lời nói, cũng vậy. Cho nên, kinh Lăng Già nói “Pháp phải lìa văn tự”, vì văn tự chẳng thể nói. Nhưng người ta không hiểu, tưởng là có thể nói, có thể diễn tả, có thể cho là đúng hay sai, ấy là lọt vào biên kiến mà tự chẳng hay biết.

Hỏi : Vậy thế nào là hành đúng theo chánh pháp?

Đáp: Không chấp thật, lại phá chấp thật là chánh; không chấp ngã, lại phá chấp ngã là chánh.

Hỏi: Tại sao tất cả các kinh đều bắt đầu từ hai chữ “Như thị” ?

Đáp: Hai chữ này nghĩa là “đúng như vậy”. Vì thời Phật thuyết pháp không ai ghi chép, sau khi Phật nhập diệt, đệ tử của Phật tập họp lại , mời Thị giả của Đức Phật là A Nan ghi nhớ và đọc lại, nên cuốn kinh nào cũng khởi đầu bằng “Tôi nghe như vầy”, nếu năm trăm vị A la hán đều cho là đúng thì ghi nhận.

Hỏi: Có phải hễ có khởi niệm là lọt vào tương đối?

Đáp: Không phải. Nếu chỉ có thế lưu bố tưởng, không sanh ra trước tưởng thì không có tương đối. Cũng như bậc thánh nói “có”ù cũng được, nói “không” cũng được, vì không sanh ra trước tưởng. Nay chúng ta dù hiểu được nhưng làm không được, vì còn ngã chấp chưa dứt sạch, ví như chưa ra khỏi luân hồi, dùng tri kiến muốn tìm Viên giác thì Viên giác ấy cũng thành luân hồi.

Hỏi: Một số các thầy giảng về câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc”, rằng sắc chẳng tự có, mà từ nhân duyên, từ cái không này nhờ duyên mà ra, nên nói “Sắc bất dị không”. đến chừng duyên hết rồi, như tứ đại tan rã, thì gọi là “Không bất dị sắc”. Giải thích như vậy có đúng không?

Đáp: Đó là vì chấp nhân duyên cho là thật. Trong quyển Lăng Nghiêm Tông Thông có đoạn phá chấp nhân duyên bởi bài kệ của ngài Long Thọ :

Các pháp chẳng tự sanh,
Cũng chẳng từ tha sanh.
Chẳng cộng chẳng vô nhân,
Cho nên nói vô sanh.

Vì nó chẳng phải là tự sanh, cũng phải phải tha sanh, hễ nói tha cũng là tự. Cũng chẳng phải tự và tha cộng sanh, chẳng phải không có nhân sanh , ví như cây lý sanh ra cây lý, cây đào sanh cây đào, chứ chẳng phải vô nhân mà sanh được. Đủ thứ nghĩa lý đều chẳng thành lập, nên nói vô sanh.

Tại sao nói là các pháp chẳng tự sanh? Vì phải nhờ nhân duyên mới sanh khởi. Còn nói chẳng từ tha sanh, vì mỗi duyên chẳng tự tánh. Nói “chẳng cộng sanh” vì tự với tha còn không có thì lấy gì để cộng? Chẳng vô nhân sanh: Như bây giờ muốn giác ngộ thì phải tu mới giác ngộ được, chứ đâu phải mình không tu mà được giác ngộ!

Từ ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), lục nhập (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý), thập nhị xứ (lục căn đối với lục trần ), thập bát giới (lục căn đối với lục trần sanh ra lục thức), cho đến thất đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) đều muốn giảng rõ ý này.

Nếu ngộ biết vốn chẳng sanh khởi, thì giống như con mắt sáng to, vốn là không có hoa đốm trong hư không. Nếu dụi con mắt, thình lình bị bệnh thì thấy hư không có hoa đốm, như nay thấy đủ thứ, đều là hoa đốm. Ấy là do con mắt mỏi mệt mới thấy. Tức là bỏ cái thật mà lại thấy cái vọng nên thấy hoa đốm. Hoa đốm chẳng thật, chỉ là ảo tượng, đâu phải từ chỗ nào đến! Vì con mắt bệnh mới thấy.

Trên thực tế, nếu con mắt chẳng bệnh thì thấy hư không sáng tỏ chẳng hoa đốm, nên biết chẳng phải tự sanh, chẳng phải từ nhân duyên sanh.
Sắc ấm như thế thì thọ, tưởng, hành thức đều như thế; ngũ uẩn đã như thế thì lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới đều như thế.

Hỏi: Kinh nghiệm mình hiểu và mình tìm hiểu có khác nhau không?

Đáp: Hễ tìm hiểu là càng tìm càng xa. Có công án của Tổ Pháp Nhãn:

Thiền tông có 5 phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng. Tổ đầu tiên của tông Pháp Nhãn là Thiền sư Văn Ích, sao khi được thầy ấn chứng là ngộ đạo, vì là người cao nhất trong các huynh đệ, nên ngài dẫn đầu đi tham học.

Ngày xưa người kiến tánh rồi vẫn còn đi tham học. Khi đi ngang chỗ Thiền hội của Thiền sư Quế Sâm, gặp bão tuyết chẳng thể đi tiếp, nên ghé lại nơi này để tránh tuyết. Lúc trò chuyện với Thiền sư Quế Sâm, nói đến “trời đất với ta cùng một nguồn gốc” của Triệu Luận, Quế Sâm hỏi:

- Trời đất với Thượng tọa đồng hay khác?

Văn Ích đáp: Đồng.

Quế Sâm không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay (ý nói là nhị. Vì chơn tâm bất nhị, đã ngộ rồi tại sao còn nhị pháp? )

Các người đi cùng thấy vậy thì trả lời: Khác.

Quế Sâm vẫn không nói mà chỉ đưa 2 ngón tay.

Theo sự hiểu biết của mọi người đều cho “đồng” là một, khác mới là nhị. Mà chẳng biết đồng cũng là nhị, vì có hai vật trở lên mới có thể so sánh là đồng hay dị.

Quế Sâm biết những người này chưa kiến tánh, nhưng cũng công phu cũng sắp chín muồi. Khi tuyết đã dừng, Văn Ích và những người đi cùng từ giả đi tiếp, Thiền sư đưa ra ngoài cửa gặp một tảng đá.

Quế Sâm hỏi: Bình thường Thượng tọa cho là vạn pháp duy tâm. Vậy tảng đá này ở trong tâm hay ở ngoài tâm?
Văn Ích đáp: Ở trong tâm.

Quế Sâm cười: Sao Thượng tọa đi hành cước lại để tảng đá trong tâm vậy?
Văn Ích đỏ bừng mặt, không đi tiếp nữa, trở vào xin ở lại. Mỗi ngày trình kiến giải đều bị Quế Sâm lắc đầu. Trải qua một tháng, Văn Ích nói:

- Nay con tất cả đều sạch, chẳng còn lý gì để trình (lúc đó công phu đã chín muồi).

Quế Sâm nói: Nếu nói Phật pháp thì tất cả đều sẵn sàng.

Văn Ích liền ngộ triệt để, và nối pháp của Quế Sâm, trở thành tông sư của phái Pháp Nhãn tông.

Thời nay, người tu học hay tìm hiểu, nhiều người xem Phật pháp như một loại văn hóa để tìm hiểu, lại giải thích từng danh từ, từng chư,õ nên càng tìm càng xa.

Hỏi : Nếu không giải thích thì làm sao hiểu?

Đáp: Là giải thích cái lý, chứ chẳng phải giải thích theo chữ. Tại pháp lìa văn tự, phàm có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật, nên phải phù hợp với ý của Phật. Nếu y văn giải nghĩa thì là tam thế Phật oan.

Hỏi: Tác dụng đọc 50 thứ ma ngũ ấm để là gì?

Đáp: Để nhắc nhở, để ý mình có lọt vào những cảnh giới đó không? Nếu thấy mình có chứng đắc thì rất nguy hiểm, chớ tưởng là tốt. Phật dạên A Nan luôn nhắc nhở người đời sau: “Tu hành không được để lọt vào 50 thứ ma ngũ ấm”.

Hỏi: Sư phụ nói người kiến tánh rồi dễ dứt tập khí hơn, vậy còn người giải ngộ thì sao? Có dứt được tập khí không?

Đáp: Không, nó còn có thể tăng thêm tập khí nữa, vì ôm chấp cái ngộ.

Hỏi: Thế nào là giải ngộ? Thế nào là chứng ngộ?

Đáp: Giải ngộ là cái nhận biết của bộ não, còn chứng ngộ là dẹp hết cái biết của bộ não, lúc đó chơn tâm hiện lên, chẳng phải sự hiểu hay không hiểu.

Hỏi : Trong tháng vừa rồi xảy ra ba trận động đất, vậy có phải do nhân quả của loài người không?

Đáp: Phải. Đó cũng là trong kinh nói về cộng nghiệp và biệt nghiệp, trong cộng nghiệp cũng riêng có biệt nghiệp, ví như trong trận động đất đó có người bị chết, có người thì được sống sót, ấy là biệt nghiệp vậy.

Hỏi : Làm sao hết được nhân quả, chấm dứt cái biết?

Đáp: Ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh thì hết. Trên xã hội ngày nay là người nào hiểu biết nhiều chừng nào cao chừng nấy, là bậc tri thức. Còn Phật pháp thì ngược lại, biết nhiều chừng nào, sở tri chướng ngại nhiều chừng nấy, cho nên làm sao chấm dứt được cái tìm hiểu biết? Không chấm dứt thì chẳng thể ngộ, chẳng thể thức tỉnh từ mở mắt chiêm bao. Như thế cứ từ chiêm bao này qua chiêm bao khác; nay là chiêm bao con người, sau này có thể là chiêm bao con heo, con chó, con mèo…

Nay tham thiền là muốn dẹp những cái che khuất cho mau thức tỉnh, Che khuất đó là : Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ, nên phải dùng cái không biết để chấm dứt."
 

minhđịnh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
18 Thg 10 2011
Bài viết
1,036
Điểm tương tác
255
Điểm
63
Có câu : Đạo cao 1 thước ma cao 1 trượng

lại nhớ đến Ma Ba Tuần của cô Diệu Đức.

Đọc xong bài của bạn Dũng là loạn chưởng luôn.:Wink:

bàn đến những vấn đề mà tâm mình chưa đạt tới đúng là nhức đầu:icon_confused:

Dài dòng cũng chỉ có 1 chữ Tâm
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
656
Điểm tương tác
586
Điểm
93
Đồng cảm với Bạn minhđinh

Có câu : Đạo cao 1 thước ma cao 1 trượng

lại nhớ đến Ma Ba Tuần của cô Diệu Đức.

Đọc xong bài của bạn Dũng là loạn chưởng luôn.:Wink:

bàn đến những vấn đề mà tâm mình chưa đạt tới đúng là nhức đầu:icon_confused:

Dài dòng cũng chỉ có 1 chữ Tâm

Kính chào các bạn.
Thu tử cũng có cảm giác giống như bạn minhđinh vậy.

Thu tử có sưu tầm câu chuyện Thiền này. kính lên các bạn:

Một Tách Trà

Nan-In, một thiền sư Nhật Bản vào thời Minh Trị (1868 - 1912), tiếp một ông giáo sư đại học đến tìm hiểu về Thiền.

Nan-In mời dùng trà. Ông đã rót đầy vào tách của khách và vẫn tiếp tục rót thêm.

Ông giáo sư nhìn nước tràn cho đến khi tự mình không nhịn được thêm nữa. "Tách đã đầy tràn rồi. Không thêm vào được nữa đâu!"

"Giống như cái tách này" Nan-In nói, "ông mang đầy ý kiến và suy đoán riêng của ông. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền trừ phi ông cạn cái tách của ông trước đã?"

Sưu tầm (Trích từ 101 câu chuyện Thiền)

Muốn có huệ thì cần có định, muốn có định cần giới, khi vọng tưởng hết thì trí huệ lộ bày
 

Chùa Phước Thành

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 6 2013
Bài viết
121
Điểm tương tác
58
Điểm
28
Giới- Định- Huệ

Chúng con xin vô cùng cảm ơn quý Thiện Tri Thức đã chia sẻ Pháp Thiền Định quý giá...

Vâng. Giờ thì chúng con hiểu ra được rằng :

THIỀN là một PHƯƠNG TIỆN thù thắng, một trong 3 Vô lậu học của nhà Phật.

Nhân Giới sanh Định (Thiền), nhân Định tỏ Huệ.

Huệ mới là mục đích cuối cùng của người con Phật. Vì Huệ mới chiếu phá được Vô minh. Hết vô minh mới biết được : Mình vốn xưa nay là Phật ( trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật).

Nhưng rõ ràng Thiền Đinh có hai loại là Tà Định (Ngoại đạo) và CHÁNH ĐỊNH (Phật Giáo).

Kính xin quý Thiện Tri Thức vui lòng dạy bảo cho chúng con :

* Thế nào là Tà Định? Tà định sẽ đưa chúng ta đến đâu ?

* Thế nào là Chánh Định ? Chánh Định có những đặc điểm gì ?

Xin muôn vàn cảm tạ.
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Kính tất cả
Kính bạn Chùa Phước Thành và Cô Diệu Đức
Kính xin phép bạn Chùa Phước Thành và Cô Diệu Đức cho spl được hỏi ĐH phamvandung một vài điều
Kính ĐH phamvandung
Cám ơn ĐH đã nhắc nhở về việc luận kinh trong chủ đề thiền là vô ích
Cám ơn ĐH đã chia sẻ pháp môn.Theo spl biết Thiền Tham Tổ Sư các bậc Thiền sư truyền trực tiếp cho đệ tử , tu pháp môn này phải có thầy trực tiếp hướng dẫn , và lấy tham thoại đầu làm phương tiện chứng nhập cái biết của trí giác , có phải như thế không .Và theo lời giải trên thì là cái biết của bộ não bị chê trách .Do đó mà spl muốn hỏi ĐH

Vì muốn phá cái biết của bộ não, chư Tổ cũng vậy. Cái biết của bản tâm luôn luôn ứng dụng, nhưng không phải cái biết và không biết của bộ óc (ý thức). Vì cái biết và không biết của ý thức làm chướng ngại cái biết của bản tâm. Cho nên, sát na lìa ý thức là bản tâm hiện ra.

Như vậy , như loài động vật cò bay cánh cựa , cái biết của bộ não của các loài ấy rất kém , nhưng chúng vẫn không hiện bản tâm .Nói như vậy là muốn nhấn mạnh đến khía cạnh ưu việt của cái biết của bộ não , vì theo mọi người biết nhờ vào cái biết này chúng ta học hỏi được các pháp ( mà ĐH đại khái nói là biết rồi bỏ ngay ).Nhưng nếu dùng trí phân biệt của cái biết này để khế hợp chân lý bằng "dùng phân biệt thức quán sát một cách liên tục , cho đến quán sát hết sức liên tục , ngay đến quán sát các hành vô thường , các pháp vô ngã , các pháp vô ngã , các pháp không tịch , quán sát nội tâm , Nên phân biệt thức phá trừ hư vọng của Phật giáo . Nó được dùng để làm phương tiện đầu tiên để phát sinh Thánh trí Vô phân Biệt ." Đây là tu vô tu .
Như hai cây gỗ ma sát nhau sinh ra lửa , lửa phát khởi cả hai cây gỗ đều bị thiêu hũy .Như uống thuốc trị bệnh , bệnh hết thuốc không còn ...
ĐH phamvandung có ý kiến gì về lối tu thiền này , có thể được không .

Kính cảm ơn bạn Chùa Phước Thành , Cô Diệu Đức ...và xin lỗi vì đã quấy rầy quý vị nhiều
Thành kính xin lỗi đã làm phiền
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Có câu : Đạo cao 1 thước ma cao 1 trượng

lại nhớ đến Ma Ba Tuần của cô Diệu Đức.

Đọc xong bài của bạn Dũng là loạn chưởng luôn.:Wink:

bàn đến những vấn đề mà tâm mình chưa đạt tới đúng là nhức đầu:icon_confused:

Dài dòng cũng chỉ có 1 chữ Tâm

Xin quý Thầy Cô cho phép hoatihon nói vài lời :

Bài trên là Ngữ Lục của Thiền Sư Duy Lực _ một cây tùng, cây bách của Phật Giáo Việt Nam trên đất Mỹ _ một kho tàng Phật Học uyên thâm _ chúng ta học được rất rất nhiều từ nơi T/S.

Tuy nhiên, không vì thế mà lời của Ngài hoàn toàn đúng, có những chỗ sai rất lộ liễu.
Anh Phamvandung57 vì "chỉ copy và paste" cho nên không nhận ra, xin đơn cử :

phamvandung57 đã viết:
Hỏi: Tại sao đã có Thiền tông rồi lại còn có Mật tông ?

Đáp
(T/s Duy Lực): Mật tông lúc ban đầu kỳ thật là của ngoại đạo, sau khi Phật nhập Niết bàn mấy trăm năm, do ngài Long Thọ, Tổ thứ 14 của Thiền tông chỉnh sửa lại, khiến những ngoại đạo đương thời trở về chánh pháp, nên ngài làm Tổ cho sáu môn phái.

Hỏi: Tại sao Đại Thông Trí Thắng Phật mười kiếp ngồi đạo tràng mà chẳng thành Phật đạo ?

Đáp
(T/s Duy Lực): Đại Thông Trí Thắng Phật là Bích Chi Phật, tu theo Trung thừa, vì chấp ngồi nên chẳng thể thành Phật, chỉ chứng quả viên giác.
Dĩ nhiên là còn có những chỗ sai khác nữa, nhưng có 2 điều phân vân :

1. sợ làm loãng chủ đề.
2. sợ ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của bậc bề trên.
cho nên lẻ ra không nói.

Nhưng hoatihon đành phải nói ngắn gọn :

1. để cảnh báo mọi người rằng "không phải là CÂY CỖ THỤ rồi nói gì cũng đúng".

2. Diễn đàn này không phải ai cũng "mù".


Xin lỗi "chùa Phước Thành", xin lỗi quý Thầy Cô, xin lỗi các bạn, hoatihon chỉ ngắn gọn như thế, mà không thể triễn khai gì thêm (vì sẽ lạc đề tuốt luốt).

Kính !
 
P

phamvandung57

Guest
HÃY TÌM HIỂU TỪ TỪ nhé

Tác giả: Thiền Sư Phổ Chiếu
Dịch giả: Thích Đắc Pháp

---o0o---
CHƠN TÂM TRỰC THUYẾT

1. Chánh tín Chơn Tâm
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của các công đức hay nuôi lớn tất cả căn lành”. Trong Duy Thức cũng nói: “Tín như hạt châu thủy thanh, hay làm cho nước dơ được sạch”. Cho nên, muôn điều thiện phát sanh là chữ tín dẫn đầu. Vì thế kinh Phật trước hết lập “như thị ngã văn” là cốt để sanh lòng tin vậy.
Hỏi: Chữ tín của Giáo môn (Kinh) và chữ tín của Tổ môn (Thiền) có gì sai khác?
Đáp: Có nhiều loại sai khác nhau: Giáo môn khiến người, trời tin ở nhơn quả. Như có người thích phước lạc, tin thập thiện là diệu nhơn, cõi người cõi trời là lạc quả. Có người thích không tịch, tin nhơn duyên sanh diệt làm chánh nhơn, khổ tập diệt đạo làm thánh quả. Có người thích Phật quả, tin ba kiếp sáu độ làm đại nhơn, bồ đề niết bàn làm chánh quả.
Tổ môn chánh tín chẳng đồng như trên. Tổ môn chẳng tin tất cả pháp hữu vi nhơn quả. Chỉ tin ở tự mình xưa nay là Phật, tự tánh thiên chơn người người đều đầy đủ. Diệu thể của niết bàn mỗi mỗi đều viên thành, chẳng nhờ cầu nơi người khác, từ xưa đến nay nó tự đầy đủ. Tam Tổ nói: “Tròn bằng thái hư, không thiếu không dư. Sở dĩ chẳng như, bởi do thủ xả”. Ngài Chí Công nói: “Trong thân có tướng là thân không tướng, trên đường vô minh là đường vô sanh”. Ngài Vĩnh Gia nói: “Thật tánh của vô minh là Phật tánh, thân huyễn hóa không thật tức pháp thân”. Cho nên, chúng sanh xưa nay là Phật.
Đã sanh chánh tín cần phải thêm hiểu biết nữa mới được. Ngài Vĩnh Minh nói: “Tin mà chẳng hiểu biết thì thêm lớn vô minh. Hiểu biết mà chẳng tin thì thêm lớn tà kiến”. Cho nên, tin hiểu gồm hai thì mau vào Đạo.
Hỏi: Mới phát lòng tin chưa được vào Đạo, có lợi ích chăng?
Đáp: Trong luận Khởi Tín nói: “Nếu nghe pháp này mà chẳng sanh khiếp nhược, thì nên biết, người này nhất định sẽ nối hạt giống Phật, và được chư Phật thọ ký cho. Thí như có người giáo hóa chúng sanh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, khiến họ hành thập thiện, chẳng bằng có người đối với pháp này khoảng một niệm chánh tư duy thì công đức cũng hơn người trước không thể thí dụ được”. Trong Kinh Bát Nhã nói: “Cho đến người chỉ sanh một niệm tịnh tín, Như Lai trọn thấy biết các chúng sanh này được vô lượng phước đức như vậy”. Cho nên muốn đi ngàn dặm, bước đầu cần phải chánh, bước đầu nếu sai ngàn dặm đều sai. Vào nước vô vi, niềm tin ban đầu đã mất, muôn thiện đều lui. Cho nên Tổ Sư nói: “Mảy may nếu sai, trời đất ngăn cách”. Đấy là lý này vậy.
2. Tên khác của Chơn Tâm
Hỏi: Đã sanh chánh tín, nhưng chưa biết thế nào gọi là chơn tâm?
Đáp: Lìa vọng gọi là chơn. Linh giám gọi là tâm. Trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói rõ tâm này.
Hỏi: Chỉ gọi chơn tâm thôi, hay có tên riêng khác nữa chăng?
Đáp: Phật dạy, Tổ dạy lập danh không đồng nhau. Phật dạy trong Bồ Tát Giới gọi là Tâm Địa, vì hay phát sanh muôn việc thiện. Kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề, vì lấy giác làm thể. Kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Giới, vì giao triệt và dung nhiếp. Kinh Kim Cang gọi là Như Lai, vì không từ đâu đến. Kinh Bát Nhã gọi là Niết Bàn, vì là chỗ qui hướng của chư Thánh. Kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như, vì chơn thường bất biến. Kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân, vì là chỗ nương của báo thân và hóa thân. Luận Khởi Tín gọi là Chơn Như, vì chẳng sanh chẳng diệt. Kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là bản thể của ba thân. Kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì, vì mọi công đức từ đó mà lưu xuất, Kinh Thắng Man gọi là Như Lai Tạng, vì ẩn phú và hàm nhiếp. Kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác, vì hay chiếu phá mờ tối.
Do đây nên Ngài Vĩnh Minh Thiền Sư trong Duy Tâm Quyết nói: “Một pháp có ngàn tên, tùy theo duyên mà lập hiệu”. Tất cả còn đầy đủ trong các Kinh, không thể kể ra hết được.

***
Hỏi: Phật dạy đã biết, Tổ dạy như thế nào?
Đáp: Cửa Tổ Sư dứt tuyệt danh ngôn, danh còn chẳng lập, sao lại có nhiều tên? Chỉ vì ứng theo cơ duyên nên tên cũng lắm. Có lúc gọi là Tự Kỷ, vì là bản tánh của chúng sanh. Có lúc gọi là Chánh Nhãn, vì hay soi tướng của muôn loài. Có lúc gọi là Diệu Tâm, vì hư linh và tịch chiếu. Có lúc gọi là Chủ Nhơn Ông, vì xưa nay từng gánh vác. Có lúc gọi là Đờn không dây, vì hiện nay ra điệu vận. Có lúc gọi là Vô tận đăng, vì hay chiếu phá mê tình. Có khi gọi là Cây không rễ, vì gốc rễ bền chắc. Có khi gọi là Suy mao kiếm, vì hay chặt đứt căn trần. Có lúc gọi là Nước vô vi, vì sóng êm bể lặng. Có lúc gọi là Mâu ni châu, vì hay giúp đỡ người nghèo khó. Có lúc gọi là Vô nhu tỏa, vì cửa sáu tình đóng. Cho đến nào là trâu đất, ngựa gỗ, tâm nguyên, tâm ấn, tâm cảnh, tâm nguyệt, tâm châu,v.v... nhiều tên khác nhau không thể ghi ra cho hết. Nết đạt được chơn tâm thì các tên đều hiểu cả. Bằng mê muội chơn tâm thì còn bị trệ nơi các tên. Cho nên đối với chơn tâm cần yếu nên xét kỹ.
3. Diệu thể của Chơn tâm
Hỏi: Chơn tâm đã biết, còn thể nó như thế nào?
Đáp: Trong Kinh Phóng Quang Bát Nhã nói: “Bát Nhã không có tướng có và tướng sanh diệt”. Luận Khởi tín nói: “Tự thể của chơn như, tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và chư Phật đều không thêm bớt, cũng chẳng phải trước sanh sau diệt mà rốt ráo thườngcòn. Từ xưa tới nay tánh nó tự đầy đủ tất cả công đức”.
Căn cứ theo các Kinh Luận thì bản thể chơn tâm siêu xuất nhơn quả, thông suốt cổ kim, chẳng lập phàm thánh và không có các đối đãi. Như hư không biến khắp tất cả. Diệu thể ngưng tịch, dứt hết các hí luận, chẳng sanh chẳng diệt, phi hữu phi vô, chẳng động chẳng lay, trạm nhiên thường trụ. Gọi là Chủ Nhơn Ông ngày xưa, là người ở mé kia của Phật Oai Âm, là Tự Kỷ của trước Không Kiếp. Một giống thường hằng không một mảy may tì vết, tất cả sơn hà đại địa, cỏ cây rừng bụi, vạn tượng sum la, các pháp nhiễm tịnh, đều từ trong ấy mà ra.
Cho nên KinhViên Giác nói: “Này các Thiện nam, Vô Thượng Pháp Vương có một pháp môn đại đà la ni gọi là Viên Giác, từ đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chơn Như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật, dạy dỗ cho các Bồ Tát”.
Ngài Khuê Phong nói: “Tâm ấy rỗng rang mà thuần diệu, rực rỡ mà mầu sáng, chẳng đến chẳng đi, thông suốt cả ba mé, chẳng phải trong ngoài, suốt khắp mười phương. Chẳng sanh chẳng diệt, bốn núi nào có thể hại. Lìa tánh lìa tướng, nào bị năm sắc làm mờ”.
Ngài Vĩnh Minh trong Duy Tâm Quyết nói: “Xét về tâm này là cái diệu trong lẽ mầu mà hội khắp, là vua của muôn pháp. Ba thừa năm tánh đều thầm về, hay là mẹ của nghìn bậc Thánh. Độc tôn độc quí không gì sánh bằng. Thật là nguồn của đại đạo, là chơn pháp yếu vậy. Tin tâm này, nên ba đời Bồ Tát đồng học là học tâm này. Ba đời Bồ Tát đồng chứng là chứng tâm này. Một đại tạng giáo giải rõ là hiển tâm này. Tất cả chúng sanh mê vọng là mê tâm này. Tất cả hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm này. Chư Tổ truyền nhau là truyền tâm này. Chư tăng trong thiên hạ đều tham học là tham học tâm này. Đạt tâm này thì mỗi mỗi đều phải, vật vật đều toàn bày. Mê tâm này thì nơi nơi đều điên đảo, niệm niệm đều si cuồng”.
Thể này là cái Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sanh, là căn nguồn phát sanh của tất cả thế giới. Cho nên Đức Thế Tôn ở ngọn Thứu Phong lặng thinh, Ngài Thiện Hiện dưới ngọn núi quên lời, Ngài Ðạt Ma nơi Thiếu Thất ngó vách, ông cư sĩ thành Tỳ Da ngậm miệng. Tất cả đều phát minh cái diệu thể của tâm này. Cho nên, người mới vào cửa Tổ, cần yếu trước tiên phải hiểu tâm thể này vậy.
4. Diệu dụng của Chơn tâm.
Hỏi: Diệu thể của chơn tâm đã biết. Diệu dụng của chơn tâm thế nào?
Ðáp: Người xưa nói: “Gió động cây tâm lay, mây sanh tánh dấy bụi. Nếu sáng, rõ việc hôm nay. Nếu mê, mất người xưa nay”. Ðấy là diệu thể khởi ra tác dụng vậy. Diệu thể của chơn tâm xưa nay chẳng động, yên tịnh chơn thường. Trên chơn thể diệu dụng hiện tiền, chẳng ngại mọi trường hợp đều được diệu. Cho nên trong bài tụng của Tổ Sư nói: “ Tâm tùy muôn cảnh chuyển, chỗ chuyển thật sâu xa, theo dòng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.
Cho nên trong tất cả thời, động dụng thi vi, đi đông đi tây, ăn cơm mặc áo v.v. đều là diệu dụng hiện tiền. Trái lại kẻ phàm phu mê lầm, khi mặc áo chỉ biết mặc áo, khi ăn cơm chỉ biết ăn cơm, tất cả sự nghiệp chỉ tùy tướng mà chuyển. Bởi dùng hằng ngày mà chẳng biết, ở trước mắt mà chẳng hay. Nếu người đuợc tánh thì động dụng thi vi chẳng từng mê. Cho nên Tổ Sư nói: “Trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe, ở mũi thì ngữi mùi, ở miệng thì đàm luận, ở tay thì nắm bắt, ở chân thì chạy nhảy. Khi biến hiện thì cùng khắp pháp giới, thu nhiếp lại thì chỉ trong hạt bụi. Người biết cho đó là Phật tánh, người chẳng biết gọi là tinh hồn”.
Thế nên Ðạo Ngô múa hốt, Thạch Củng dương cung, Bí Ma đập nạn, Câu Chi dơ ngón tay, Hân Châu đánh đất, Vân Nham sư tử. Ðấy là phát minh ra những đại dụng lớn vậy. Nếu việc hằng ngày chẳng mê thì tự nhiên tung hoành tự tại.
5. Thể đụng của Chơn tâm một hay khác?
Hỏi: Thể đụng của chơn tâm chưa biết là một hay khác?
Ðáp: Ðúng về mặt tướng thì chẳng phải một. Ðứng về mặt tánh thì chẳng phải khác. Cho nên thể dụng của tâm nầy chẳng phải một chẳng phải khác. Tại sao thế? Thử vì ông bàn đó:
Diệu thể thì bất động, dứt mọi đối dãi và lìa tất cả tướng. Người chưa đạt tánh khế chứng không thể lường được lý nầy.
Diệu dụng thì duyên ứng khắp muôn loài, vọng lập ra tướng hư, giống như có hình trạng. Nhằm vào hữu tướng, vô tướng này nên chẳng phải một.
Lại, dụng từ thể phát ra, dụng không lìa thể. Thể hay phát dụng, thể chẳng lìa dụng. Nhằm vào cái lý bất tương ly này, nên chẳng phải khác. Như nước lấy tánh ướt làm thể, thể thì không động. Sóng lấy động làm tướng, vì nhơn gió mà dấy khởi. Tánh nước, tướng sóng, động với chẳng động, nên chẳng phải một.
Nhưng ngoài nước không có sóng, ngoài sóng không có nước. Tánh ướt là một nên chẳng phải khác. Xét trên thể dụng một hay khác có thể biết vậy.
6. Chơn tâm trong mê.
Hỏi: Thể dụng của chơn tâm mọi người đều có đủ. Vì sao nơi thánh phàm chẳng đồng?
Ðáp: Nơi thánh phàm chơn tâm vốn đồng, vì phàm phu vọng tâm nhận vật, nên mất tự tánh thanh tịnh, do đây bị ngăn cách. Thế nên chơn tâm không được hiện tiền. Ví như bóng cây trong tối, dòng nước chảy ngầm dưới đất; có nhưng không biết.
Trong Kinh nói: “Nầy thiện nam tử! Như viên thanh tịnh bảo châu chiếu ra năm sắc, tùy chỗ mà hiện. Kẻ ngu si thấy ma ni châu kia thật có năm sắc. Thiện nam tử! Tánh viên giác hiện ở thân tâm, tùy loại mà có ứng hiện. Kẻ ngu si kia nói tánh tịnh viên giác thật có thân tâm như thế. Tự tánh cũng lại như vậy”.
Trong Triệu Luận nói: “Bên trong của càn khôn, khoảng giữa của vũ trụ, trong ấy có một vật báu ngầm dấu trong hình sơn”. Ðấy là chơn tâm tại triền vậy.
Lại Từ Ân nói: “Pháp thân sẵn có của chư Phật đều đồng. Phàm phu bị vọng che, nên có mà chẳng biết. Phiền não cột ở trong nên gọi Như Lai tàng”.
Bùi Hưu nói: “Suốt ngày viên giác mà chưa từng viên giác, ấy là phàm phu vậy”.
Cho nên, chơn tâm tuy ở trần lao mà không bị trần lao làm nhiễm. Như bạch ngọc ném vào bùn, màu sắc nó không đổi.
7. Chơn tâm và sự dứt vọng.
Hỏi: Chơn tâm nơi vọng là phàm phu. Vậy làm thế nào thoát vọng để thành Thánh?
Ðáp: Người xưa nói: “Vọng tâm không chỗ nơi tức là bồ đề, niết bàn và sanh tử vốn bình đẳng”.
Kinh nói: “Chúng sanh kia thân huyễn diệt, nên tâm huyễn cũng diệt. Tâm huyễn diệt, nên huyễn trần cũng diệt. Huyễn trần diệt, nên huyễn diệt cũng diệt. Huyễn diệt, diệt rồi, nên cái phi huyễn chẳng hề diệt. Ví như lau gương, bụi nhơ hết thì ánh sáng hiện”.
Ngài Vĩnh Gia nói: “Tâm là căn, pháp là trần. Cả hai như vết nhơ trên gương, vết nhơ hết, ánh sáng mới hiện. Tâm pháp đều quên, tánh ấy tức chơn”.
Ðây là ra khỏi vọng thì thành chơn.

***

Hỏi: Trang Sanh nói: “Tâm ấy nóng thì cháy lửa, lạnh thì đặc nước, mau thì khoảng cúi ngước, lại hay vỗ về ngoài bốn bể, chỗ ở của nó sâu mà tinh. Khi nó động thì huyền mà thiên. Đấy là chỉ cho tâm của con người vậy”.
Trang Sanh nói cái tâm của kẻ phàm phu không thể trị phục như thế. Chưa biết nhà Thiền dùng phương pháp gì để điều phục vọng tâm?
Ðáp: Lấy pháp vô tâm để trị vọng tâm.
Hỏi: Người vô tâm chẳng khác cây cỏ. Xin lập bày phương tiện về thuyết vô tâm.
Ðáp: Nay nói vô tâm ấy, chẳng phải thể của nó vô tâm mà gọi là vô tâm. Chỉ trong tâm không vật nên gọi là vô tâm. Thí như nói: bình không, là do trong bình không có vật gì, nên gọi là bình không. Chớ chẳng phải thể của bình là không nên gọi là bình không.
Cho nên Tổ Sư nói: “Người chỉ nơi tâm vô sự, ở nơi sự vô tâm, thì tự nhiên rỗng mà mầu, tịnh mà diệu”. Ðấy là yếu chỉ của tâm vậy.
Căn cứ đây mà xét thì không vọng tâm, chớ không phải không có chơn tâm diệu dụng. Từ xưa đến nay chư Tổ đã nói đến thực hành công phu vô tâm, chủng loại không đồng nhau. Nay đại khái tóm nêu ra mười loại:
1-Giác Sát: Nghĩa là khi hành công phu, bình thường phải dứt niệm và đề phòng niệm khởi. Một niệm vừa sanh liền dùng giác mà phá nó. Vọng niệm phá rồi, biết niệm sau chẳng sanh, cái giác trí này cũng không dùng tới nữa. Lúc ấy, vọng giác đều mất, nên gọi là vô tâm.
2-Hưu Kiệt: Nghĩa là khi hành công phu chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tâm vừa khởi liền thôi, gặp duyên liền dứt. Người xưa nói: “Một mảnh lụa trắng đi! Lạnh như đất đi! Lò hương trong miếu cổ đi! Thẳng đến chỗ dứt lìa không còn một mảy may phân biệt, như ngây như dại, mới có chút phần tương ưng”. Ðây là công phu hưu kiệt vọng tâm vậy.
3-Dẫn tâm tồn cảnh (tâm mất cảnh còn): Nghĩa là khi hành công phu, nên dứt hết tất cả vọng niệm. Chẳng đoái đến ngoại cảnh chỉ tự dứt tâm mình thôi. Vọng tâm đã dứt lo gì có cảnh. Ðây là pháp môn mà người xưa gọi là “Ðoạt nhơn bất đoạt cảnh”. Cho nên ngạn ngữ có câu: “Nơi đây đầy hoa thơm cỏ lạ mà người xưa không có”. Bàng Công nói: “Chỉ tự mình vô tâm với muôn vật, lo gì muôn vật thường khuấy phá”. Ðây là công phu dứt vọng “hết tâm còn cảnh”.
4-Dẫn cảnh tồn tâm (cảnh hết còn tâm): Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả cảnh trong, cảnh ngoài đều quán là không-tịch, chỉ còn lại một tâm độc lập một mình. Cho nên người xưa nói: “Chẳng cùng muôn pháp làm bạn, cũng chẳng cùng các trần đối đãi” (Bất dữ vạn pháp vi lữ, bất dữ chư trần tác đối). Tâm nếu chấp cảnh tức là vọng, nay đã không cảnh thì vọng nào có được? Ðấy là chơn tâm độc chiếu chẳng chướng ngại nơi đạo. Tức người xưa gọi là pháp môn “Ðoạt cảnh bất đoạt nhơn”. Cho nên có câu: “Vườn trên hoa đã rụng, xe ngựa vẫn còn đây”. Lại cũng có câu: “Ba ngàn kiếm khách nay đâu tá, chỉ kế Trang Châu định thái bình”. Ðây là công phu dứt vọng “hết cảnh còn tâm”.
5-Dẫn tâm dẫn cảnh (tâm hết cảnh hết): Nghĩa là khi hành công phu, trước quán ngoại cảnh đều không-tịch, kế đó diệt nội tâm. Khi nội tâm ngoại cảnh đều lặng thì vọng từ đâu mà có được. Cho nên Quán Khê nói: “Mười phương không vách đổ, bốn phía cũng không cửa, sạch trọi trơn, bày trơ trơ”. (Thập phương vô bích lạc, tứ diện diệc vô môn, tịnh khỏa khỏa, xích sái sái). Tức pháp môn mà người xưa gọi: “Nhơn cảnh lưỡng câu đoạt”. Cho nên có câu: “Mây tan nước trôi chảy, lặng lẽ trời đất không”. Lại có câu: “Người trâu đều chẳng thấy, chính là lúc vầng trăng trong”. Ðây là công phu dứt vọng “tâm dứt cảnh dứt”.
6-Tồn tâm tồn cảnh (còn tâm còn cảnh): Nghĩa là khi hành công phu, để tâm trụ trong vị trí của tâm, cảnh trụ vị trí của cảnh (tâm trụ tâm vị, cảnh trụ cảnh vị). Có khi tâm và cảnh đối nhau, thì tâm chẳng thủ cảnh, cảnh chẳng đến tâm, mỗi mỗi chẳng đến nhau, tự nhiên vọng niệm chẳng sanh, nơi đạo chẳng ngại. Cho nên Kinh nói: “Pháp ấy trụ nơi bản vị của nó. Tướng của thế gian thường trụ”. (Thị pháp trụ pháp vị, Thế gian tướng thường trụ). Tức là pháp môn “Nhơn cảnh câu bất đoạt” của Tổ Sư. Cho nên có câu: “Một mảnh trăng rộng chiếu, bao nhiêu người lên lầu”. Lại cũng có câu: “Hoa núi ngàn muôn đóa, khách lãng du chẳng biết về”. Ðây là công phu diệt vọng “còn tâm còn cảnh”.
7-Nội ngoại toàn thể: Nghĩa là khi hành công phu, quán thấy sơn hà đại địa, trời trăng sao, nội thân ngoại thân, tất cả các pháp đều đồng một thể chơn tâm trạm nhiên hư minh, không tý sai khác. Ðại thiên sa giới gồm thành một mảnh, lại ở chỗ nào khởi vọng tâm? Cho nên Triệu Pháp Sư nói: “Trời đất cùng ta đồng nguồn, muôn vật cùng ta đồng thể”. Ðây là công phu diệt vọng “nội ngoại toàn thể”.
8-Nội ngoại toàn dụng: Nghĩa là khi hành công phu, đem tất cả thân tâm trong ngoài, các pháp trong thế giới, và tất cả động dụng thi vi, trọn thấy là diệu dụng của chơn tâm. Tất cả tâm niệm vừa sanh là diệu dụng hiện tiền, vọng tâm chỗ nào mà an trí. Cho nên vĩnh Gia nói : “Thật tánh của vô minh là Phật tánh, thân không huyễn hóa tức pháp thân” (vô minh thật tánh tức phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân). Trong Chí Công Thập Nhị Thời Ca nói: “Thường buổi sớm, máy cuồng ẩn chứa Ðạo Nhơn thân, ngồi nằm chẳng biết nguyên là đạo, chỉ thế luống mà chịu đắng cay”. Ðây là công phu dứt vọng “nội ngoại toàn dụng”.
9-Tức thể tức dụng: Nghĩa là khi hành công phu, tuy thầm hợp với chơn thể, chỉ một vị không-tịch, nhưng mà nơi trong ẩn một cái linh minh, nên thể tức dụng. Trong cái linh minh ẩn cái không-tịch, nên dụng tức thể. Cho nên Vĩnh Gia nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng quấy. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, vô ký lặng lặng sai”. (Tỉnh tỉnh tịch tịch thị, tỉnh tỉnh vọng tưởng phi. Tịch tịch tỉnh tỉnh thị, tịch tịch vô ký phi). Ðã trong cái lặng lẽ không dung vô ký, trong cái tỉnh táo không dung loạn tưởng, thì vọng tâm làm sao sanh được? Ðây là công phu diệt vọng “tức thể tức dụng”.
10-Thấu xuất thể dụng: Nghĩa là khi hành công phu, chẳng phân trong ngoài, chẳng phân biệt đông tây, nam bắc. Ðem bốn phương tám mặt, chỉ làm một môn “đại giải thoát viên đà đà địa”. Thể dụng chẳng phân, không một mảy may rỉ lậu. Suốt thân gồm thành một mảnh, vọng kia chỗ nào khởi được? Người xưa nói: “Suốt thân không đường nứt, trên dưới đều tròn trịa”. Ðây là công phu diệt vọng “thấu xuất thể dụng”.
Các phương pháp công phu trên chẳng nên dùng cả, mà chỉ dùng một môn cho được thành tựu, thì cái vọng tâm kia tự nhiên tiêu diệt, chơn tâm hiện tiền. Tùy căn cơ đã huân tập từ trước, xem thích hợp với pháp nào, nên tập pháp đó.
Công phu ở đây là không công mà công, chẳng để tâm dụng sức. Cái pháp môn thôi dứt vọng tâm nầy rất tối trọng yếu. Pháp môn diệt vọng còn nhiều, sợ văn rườm nên chỉ lược thôi.
8. Chơn tâm với bốn oai nghi.
Hỏi: Trên đã nói cách dứt vọng, nhưng chưa biết chỉ ngồi tập hay thông cả bốn oai nghi?
Ðáp: Các kinh luận phần nhiều nói ngồi tập, vì ngồi dễ thành công hơn, nhưng cũng thông cả bốn oai nghi, tập lần lần rồi từ từ được thuần thục. Luận Khởi Tín nói: “Người tu CHỈ, nên ở chỗ tịnh ngồi ngay thẳng giữ ý chơn chánh. Chẳng nương tựa vào hơi thở, chẳng nương vào hình sắc, chẳng nương vào không, chẳng nương vào đất nước gió lửa. Cho đến chẳng nương vào thấy nghe hay biết. Tất cả các tưởng tùy niệm đều trừ, cũng nên dẹp luôn cái tưởng trừ, vì tất cả pháp xưa nay vốn vô tưởng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng chẳng đuợc tùy tâm niệm cảnh giới bên ngoài. Sau rốt lấy tâm trừ tâm, tâm nếu chạy rong liền kéo về trụ nơi chánh niệm. Chánh niệm là chỉ có tâm chớ không có cảnh giới bên ngoài. Lại tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có. Nếu từ ngồi, đứng, đi lại, tới lui, tất cả động tác thi vi, trong tất cả thời thường nhớ phương tiện tùy thuộc mà quán sát, tập lâu ngày được thuần thục thì tâm ấy được an trụ. Do tâm an trụ nên lần lần bén nhạy. Thuận theo đó mà được nhập vào “chơn như tam muội”. Dẹp sạch phiền nảo, lòng tin tăng trưởng, mau thành quả bất thối. Chỉ trừ hạng người nghi hoặc chẳng tin, bài báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, giải đãi. Những hạng người nầy chẳng đặng vào”.
Theo đây mà xét thì thông cả bốn oai nghi.
Kinh Viên Giác nói: “Trước nương theo hạnh Xa-ma-tha (Chỉ) của Như Lai, kiên trì cấm giới, yên ở trong đồ chúng, yên ngồi trong tịnh thất”. Ðấy là mới tập.
Vĩnh Gia nói: “Ði cũng thiền, ngồi cũng thiền. Nói nín động tịnh thể an nhiên”. Ðây là thông cả bốn oai nghi.
Tóm lại, dùng sức ngồi còn chẳng thể dứt được tâm, huống là đi đứng v.v... há hay vào đạo ư? Nếu là người dụng tâm thuần thục, thì ngàn thánh đi đến còn chẳng đứng dậy, muôn loài ma kéo lại còn chẳng thèm nhìn. Huống là trong đi đứng... chẳng hay hành công phu sao? Như người oán thù kẻ khác, nhẫn đến đi đứng, ngồi nằm, ăn uống... trong tất cả thời còn không thể quên được. Sự thương, mến kẻ khác cũng lại như thế. Vả lại, việc yêu ghét là việc hữu tâm, còn ở trong hữu tâm hiện tiền được. Nay hành việc công phu là việc vô tâm, lại nghi gì ở trong bốn oai nghi chẳng thường hiện tiền ư? Chỉ sợ chẳng tin chẳng làm, nếu làm nếu tin, thì trong các oai nghi đạo ắt hiện tiền.
9. Chỗ ở của chơn tâm.
Hỏi: Dứt vọng tâm thì chơn tâm hiện. Nói thế thì thể dụng của chơn tâm nay ở chỗ nào?
Ðáp: Diệu thể của chơn tâm khắp cả chỗ. Vĩnh Gia nói: “Chẳng rời hiện tại thường lặng lẽ. Còn tìm tức biết anh chưa thấy”. Kinh nói: “Tánh như hư không thường chẳng động, trong Như Lai Tạng chẳng khởi, chẳng diệt”. Ðại Pháp Nhãn nói: “Nơi nơi đường bồ đề, chốn chốn rừng công đức”. Ðấy là chỗ ở của thể.
Diệu dụng của chơn tâm tùy cảm tùy hiện, như vang theo tiếng. Pháp Ðăng nói: “Xưa nay theo chẳng rời, rõ ràng nơi trước mặt. Cụm mây sanh hang tối. Cô hạt đáp trời xa”.
Trong Hoa Nghiêm Sớ của Ngụy Phủ Nguyên nói: “Phật pháp ở chỗ việc hằng ngày, chỗ đi đứng ngồi nằm, chỗ ăn cơm uống trà, chỗ nói năng hỏi đáp. Các hành động ấy mà khởi tâm động niệrn thì không phải”.
Cho nên, thể thì biến khắp mọi nơi, trọn hay khởi dụng. Chỉ vì nhân duyên có, không chẳng nhứt định, cho nên diệu dụng cũng chẳng định, chớ chẳng phải không diệu dụng. Người tu tâm muốn vào biển vô vi độ các sanh tử, chớ mê lầm chỗ ở của thể dụng chơn tâm.
10. Chơn tâm và việc sanh tử.
Hỏi: Thường nghe người kiến tánh ra khỏi sanh tử, nhưng tù xưa chư Tổ là người kiến tánh sao đều có sanh tử? Nay hiện thấy người tu trong đời đều có chết sống. Thế sao nói rằng ra khỏi sanh tử?
Ðáp: Sanh tử vốn không, do vọng nên thấy có. Như người đau mắt thấy trong hư không có hoa đốm.Người không đau nói trong hư không chẳng có hoa. Người đau mắt không tin. Nếu mắt hết đau thì cái thấy hoa trong hư không cũng tự hết. Lúc ấy mới tin rằng hoa vốn không. Lúc hoa chưa diệt, hoa kia cũng không. Chỉ người bịnh vọng chấp là hoa, chớ chẳng phải thể nó thật có.
Như người vọng nhận sanh tử là có thật. Nếu người không sanh tứ bảo rằng “vốn không sanh tử”. Một mai người ấy vọng dứt, sanh tử tự trừ, mới biết việc sanh tử xưa nay vốn là không. Ngay lúc sanh tử chưa dứt cũng chẳng phải thật có. Do vọng nên nhận có sanh tử thôi.
Kinh nói : “Thiện nam tử, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều lớp. Như người mê bốn hướng, đổi chỗ. Vọng nhận tứ đại làm tướng của tự thân, sáu trần duyên bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người đau mắt thấy hoa giữa hư không. Cho đến các hoa đốm ấy diệt trong hư không. Không thể nói quyết rằng có chỗ diệt. Vì sao? Vì không chỗ sanh vậy. Tất cả chúng sanh nơi vô sanh vọng thấy có sanh diệt. Cho nên gọi là luân chuyển sanh tử”.
Cứ theo Kinh này tin biết rằng đạt ngộ chơn tâm vốn không sanh tử. Nay biết không sanh tử mà không thể thoát sanh tử, vì công phu không đến vậy. Cho nên trong Kinh nói: “Am bà nữ hỏi Văn Thù rằng: Rõ biết sanh là pháp chẳng sanh, vì sao lại bị sanh tử trôi đi? – Văn Thù đáp: Vì sức kia chưa đầy đủ”.
Sau này Tiến Sơn chủ hỏi Tu Sơn chủ rằng: “Rõ biết sanh là pháp chẳng sanh, vì sao lại bị sanh tủ trôi đi? Tu đáp: Măng trọn thành tre. Như nay khiến làm phên được”. Thế nên “Biết” không sanh tử, chẳng như “Thể” không sanh tử. Thể không sanh tử chẳng như “Khế” không sanh tử. Khế không sanh tử chẳng như “Dụng” không sanh tử. Người nay còn chẳng biết không sanh tử, huống là thể không sanh tử, khế không sanh tử, dụng không sanh tử? Người nhận sanh tử, không tin pháp không sanh tử cũng vậy.
11. Chơn tâm và chánh trợ.
Hỏi: Như truớc đã nói dứt vọng thì chơn tâm hiện tiền. Khi vọng chưa dứt, thì chỉ hành công phu vô tâm để hết vọng. Lại còn có pháp nào khác có thể đối trị các vọng không?
Ðáp: Có chánh tu và trợ tu sai khác nhau. Lấy vô tâm dứt vọng làm chánh, lấy các hành động lành làm trợ. Thí như gương sáng bị bụi che lấp, lấy sức tay lau chùi, nhưng cũng cần thêm thuốc để chùi thì ánh sáng mới dễ hiện. Bụi nhỏ là phiền não. Sức tay là vô tâm. Thuốc là các việc lành. Ánh sáng của gương là chơn tâm.
Trong Luận Khởi Tín nói: “Lại nữa, có người do lòng tin thành tựu mà phát tâm, lại phát tâm gì? Luợc có ba loại: một, trực tâm là pháp chánh niệm chơn như; hai, thâm tâm là gồm các lành; ba, đại bi tâm là muốn nhổ tất cả khổ não cho chúng sanh”.
Hỏi: Trên đã nói pháp giới một tướng, Phật thể không hai, cớ sao chỉ một niệm chơn như, mà lại nhờ cầu học các việc lành nữa?
Ðáp: Ví như có hạt ma ni báu lớn, sáng trong mà có lẫn quặng nhơ. Như người tuy biết nó có tánh quí mà chẳng dùng phương tiện để mài giũa, trọn không thể trong sáng được Vì nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả hạnh lành. Cũng như vậy, pháp chơn như thể tánh nó không-lặng mà có vô lượng phiền não nhiễm nhơ. Nếu người tuy niệm chơn như mà chẳng dùng các phương tiện để huân tập, cũng không được tịnh. Vì nhơ vô lượng khắp tất cả pháp, nên tu tất cả thiện hạnh để đối trị. Nếu người tu, hành tất cả pháp lành, thì tự nhiên qui thuận pháp chơn như”.
Theo đây mà xét, lấy thôi hết vọng tâm làm chánh, tu các pháp lành làm trợ. Nếu khi tu thiện nên cùng với vô tâm khế hợp nhau, chẳng chấp trước nhơn quả. Nếu chấp trước nhơn quả bèn rơi vào phàm phu, trong phước báo nhơn thiên, khó chứng chơn như, chẳng thoát sanh tử. Nếu cùng vô tâm tương ưng ấy là chứng chơn như. Ðây là thuật khéo làm phương tiện thoát sanh tử, lại gồm phước đức xộng rãi.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Tu Bồ Ðề, Bồ Tát không trụ tướng bố thí, thì phước đức vị ấy không thể nghĩ lường được”.
Nay thấy người đời có tham thiền học đạo. Vừa biết được cái bổn lai Phật tánh, bèn tự thị nơi thiên chơn chẳng tập làm các việc lành. Như vậy, đâu chỉ chẳng đạt chơn tâm, mà trở lại thành giải đãi, đường ác còn chẳng khỏi, huống là thoát sanh tử? Cái chấp này rất lầm to.
12. Công đức của chơn tâm.
Hỏi: Hữu tâm tu nhơn công đức chẳng còn nghi. Vô tâm tu nhơn công đức từ đâu đến?
Ðáp: Hữu tâm tu nhơn được quả hữu vi. Vô tâm tu nhơn được công đức hiển tánh. Các công đức này xưa nay tự đầy đủ, do vọng che cho nên không hiện, nay vọng đã trừ công đức hiện tiền. Cho nên Vĩnh Gia nói: “ Ba thân bốn trí tròn trong thể. Tám giải sáu thông ấn đất tâm”. Thế là trong thể tự nó đầy đủ tánh công đức. Trong cổ tụng có câu: “Nếu tịnh tọa một tý thôi, hơn tạo hằng sa tháp bảy báu. Tháp báu trọn lại hóa vi trần, một niệm tịnh tâm thành chánh giác”. Cho nên vô tâm công đúc lớn hơn hữu tâm.
Hòa Thượng Thủy Lạo ở Hồng Châu đến thăm Mã Tổ. Hỏi: Ý chỉ Tổ Sư từ Ấn sang như thế nào? Bị Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Bỗng nhiên phát ngộ. Ðứng dậy vỗ tay cười lớn nói rằng: lạ thay! Trăm ngàn tam muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ trên đầu một mảy lông. Liền một lúc hiểu được căn nguyên, bèn làm lễ rồi lui. Cứ theo đây thì công đức không từ ngoài đến, mà nó vốn tự đầy đủ.
Tứ Tổ bảo Lại Dung(1) Thiền Sư rằng: “Phàm trăm ngàn pháp môn chỉ đồng về trong gang tấc, công đức như hà sa gồm lại nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới định huệ thần thông biến hóa, trọn tự đủ chẳng lìa tâm ông”. Cứ theo lời Tổ Sư, vô tâm công đức rất nhiều. Chỉ có người thích công đức nơi sự tướng, nên công đức vô tâm họ không tự tin.
Chú thích:
(1) Lại Dung: Ngài hiệu là Pháp Dung, nhưng do say mê tọa thiền, có ai đến cũng không buồn chào hỏi, nên người đời gọi là Lại Dung; chữ Lại là lười biếng.
13. Kinh nghiệm chơn tâm.
Hỏi: Chơn tâm hiện tiền, thế nào biết chơn tâm được thành thục vô ngại?
Ðáp: Người học Ðạo khi đã được chơn tâm hiện tiền, nhưng tập khí chưa trừ, nếu gặp cảnh quen thuộc có lúc thất niệm. Như chăn trâu, tuy điều phục nó, dẫn dắt nó đến chỗ như ý rồi, mà còn chẳng dám buông giàm và roi. Ðợi đến tâm nó điều phục, bước đi ổn thỏa, dù chạy vào lúa mạ cũng không hại đến lúa mạ, lúc ấy mới dám buông tay. Ðến lúc nầy chú mục đồng không còn dùng giàm và roi nữa. Tự nhiên con trâu không hại đến lúa mạ.
Như đạo nhân sau khi nhận được chơn tâm, trước lại phải dụng công bảo dưỡng, đến khi có lực dụng lớn, mới có thể lợi sanh. Nếu muốn kinh nghiệm chơn tâm nầy, thì trước đem những cảnh mà bình thường mình yêu thích, luôn tưởng ở trước mặt. Nếu nương theo cảnh đó khởi tâm yêu ghét, thì tâm đạo chưa thuần thục. Nếu chẳng khởi tâm yêu ghét thì tâm đạo đã thuần thục. Tuy nhiên được thuần thục như vậy, mà còn chưa phải tự nhiên chẳng khởi yêu ghét. Lại phải kinh nghiệm một lần nữa. Như khi gặp cảnh yêu ghét, lúc ấy khởi tâm yêu ghét và khiến thủ cảnh yêu ghét ấy. Nếu tâm chẳng khởi là tâm vô ngại. Như trâu trắng nằm sờ sờ chẳng tổn hại lúa mạ.
Xưa có vị mắng Phật mạ Tổ, ấy là cùng tâm nầy tương ưng. Nay thấy có người mới vào Tông môn nầy, chưa biết đạo gần hay xa, liền học mắng Phật mạ Tổ. Thật tính ra quá sớm vậy.
14. Chơn tâm vô tri.
Hỏi: Chơn tâm cùng vọng tâm khi đối cảnh làm sao phân biệt chơn vọng?
Ðáp: Vọng tâm đối cảnh có biết, nhưng mà biết nơi cảnh thuận nghịch rồi khởi tâm tham sân. Lại ở trong đó chứa cảnh rồi khởi tâm si. Nơi cảnh khởi ba độc tham sân si, đủ rõ là vọng tâm. Tổ Sư nói: “ Nghịch thuận tranh nhau là tâm bệnh”. Cho nên, đối với cảnh, phải hay chẳng phải đều là vọng tâm cả.
Còn chơn tâm, không biết mà biết thường hằng, tròn chiếu nên khác với cây cỏ. Chẳng sanh yêu ghét nên khác với vọng tâm. Tức đối cảnh rỗng sáng, chẳng yêu chẳng ghét, chẳng biết mà biết ấy là chơn tâm.
Trong Triệu Luận nói: “ Thánh tâm ấy vi diệu vô tướng, nên chẳng có. Dụng nó thì đầy sự cần dùng nên chẳng thể là không. Cho đến, chẳng có, nên biết mà không biết; chẳng không, nên không biết mà biết. Vì thế nên không biết tức biết. Không nói khác với tâm của thánh nhơn vậy”.
Lại vọng tâm nơi hữu trước hữu, nơi vô trước vô, thường ở hai bên chẳng biết trung đạo. Vĩnh Gia nói: “Bỏ vọng tâm giữ chơn lý. Tâm lấy bỏ thành xảo ngụy. Người học chẳng rõ dụng tu hành. Lâu thành nhận giặc lấy làm con”. Nếu là chơn tâm thì dù ở trong hữu vô, mà không rơi vào hữu vô, thường ở trung đạo.
Tổ Sư nói: “Chẳng đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn, một giống thường hằng bỗng nhiên tự hết”.
Triệu Luận nói: “ Thánh nhân làm việc có mà chẳng có. Ở trong không mà chẳng không. Tuy không thủ hữu vô mà chẳng xả hữu vô. Hòa mình trong trần lao, dạo khắp ngũ thú, lặng lẽ mà đi rõ ràng mà đến, nhạt nhẽo không làm mà không gì chẳng làm (Ðiềm đạm vô vi nhi vô bất vi)”.
Ðây là nói bậc thánh nhơn duỗi tay vì người, đi khắp ngũ thú để tiếp dẫn giáo hóa chúng sanh. Tuy tới lui mà không ở trong tướng tới lui. Vọng tâm chẳng phải thế. Cho nên chơn tâm vọng tâm không đồng. Lại chơn tâm là tâm bình thường, vọng tâm là tâm bất bình thường.
***

Hỏi: Sao gọi là tâm bình thường?
Ðáp: Mọi người đều có đủ một điểm linh minh, trạm nhiên như hư không, biến khắp mọi nơi. Ðối với việc thế tục tạm gọi là lý tánh. Ðối với vọng thức quyền gọi là chơn tâm. Không một mảy may phân biệt, gặp duyên chẳng lầm. Không một niệm lấy, bỏ, chạm vật đều khắp, chẳng theo cảnh dời đổi. “Giả sử theo dòng được diệu. Chẳng lìa hiện tại lặng yên. Còn tìm tức biết anh chưa thấy”. Ðấy tức là chơn tâm vậy.
***

Hỏi: Sao gọi là tâm bất bình thường?
Ðáp: Cảnh có Thánh phàm, nhiễm tịnh, đoạn thường, lý sự, sanh diệt, khứ lai, hảo xú, thiện ác, nhơn quả... Nếu nhỏ nhặt mà kể ắt có ngàn sai muôn khác. Nay nêu ra mười đôi đều gọi là cảnh bất bình thường. Tâm theo cảnh bất bình thường này mà sinh, theo cảnh bất bình thường nầy mà diệt. Tâm cảnh bất bình thường đối với bình thường chơn tâm ở trước, nên gọi là bất bình thường vọng tâm. Chơn tâm vốn đủ, chẳng theo cảnh bất bình thường mà khởi các sự sai biệt. Cho nên gọi là bình thường chơn tâm.
***

Hỏi: Chơn tâm bình thường không có các nhơn khác, thế sao Phật nói nhơn quả thiện ác báo ứng?
Ðáp: Vọng tâm chạy theo các cảnh, nhưng chẳng rõ các cảnh, nên khởi các tâm. Phật nói các pháp nhơn quả để trị các vọng tâm, nên cần lập nhơn quả. Nếu chơn tâm này chẳng đuổi theo các cảnh, do đó chẳng khởi các tâm, Phật tức cũng chẳng nói các pháp, thì đâu có nhơn quả?
***

Hỏi: Chơn tâm bình thường chẳng sanh ư?
Ðáp: Chơn tâm có lúc khởi dụng, nhưng chẳng phải theo cảnh mà sanh, chỉ là diệu dụng du hí, chẳng lầm nhơn quả.
15. Chỗ trụ của chơn tâm.
Hỏi: Người chưa đạt chơn tâm, do mê chơn tâm nên làm nhơn thiện ác. Do làm thiện nhơn nên sanh trong thiện đạo. Do làm ác nhơn nên vào trong ác đạo, theo nghiệp thọ sanh, lý này chẳng nghi. Nếu người đạt chơn tâm, vọng tình cạn hết, khế chứng chơn tâm không nhơn thiện ác. Vậy điểm linh của thân sau gá nương vào chỗ nào?
Ðáp: Chớ bảo có chỗ gá nương là hơn không chỗ gá nương. Lại cũng chớ cho không chỗ gá nương, đồng với phiêu linh lãng tử ở thế gian, giống như loài quỉ, vô chủ cô hồn. Ðặc biệt nêu câu hỏi này là mong có sự gá nương chớ gì?
– Ðúng thế.
– Người đạt tánh thì chẳng đúng, tất cả chúng sanh do mê giác tánh nên vọng tình ái nhiễm kết nghiệp làm nhơn, sanh trong lục thú thọ quả báo thiện ác. Giả như thiện nghiệp là nhơn chỉ được có thiện quả. Trừ chỗ phù hợp với nghiệp mà sanh, ngoài ra chẳng được thọ dụng. Các cõi đều như thế. Ðã từ nghiệp kia nên chỗ phù hợp sanh cho là vui, chỗ chẳng phù hợp sanh cho là khổ. Bởi chỗ phù hợp sanh là chỗ tự mình gá nương, chỗ chẳng phù hợp là chỗ người khác gá nương. Cho nên có vọng tình thì có vọng nhơn, có vọng nhơn thì có vọng quả có vọng quả thì có gá nương. Có gá nương thì phân ra kia đây. Phân ra kia đây thì có thích hay không thích.
Nay đạt chơn tâm khế hợp với giác tánh không sanh diệt, khởi ra diệu dụng không sanh diệt. Diệu thể chơn thường vốn không sanh diệt, diệu dụng tùy duyên như có sanh diệt. Nhưng từ thể sanh ra dụng nên dụng ấy tức là thể. Có gì là sanh diệt? Người đạt đạo tức là chứng chơn thể, nên sự sanh diệt kia có can hệ gì? Như nước lấy tánh ướt làm thể, sóng mòi làm dụng. Tánh ướt nguyên không sanh diệt, nên sóng mòi trong tánh ướt nào sanh diệt ư? Nhưng sóng lìa tánh ướt cũng không riêng có, nên sóng cũng không sanh diệt. Người xưa nói: “Khắp cõi nước là mắt của Sa môn, khắp cả nước là già lam”. Khắp mọi nơi là chỗ an thân lập mệnh của người ngộ lý. Người đạt chơn tâm thì tử sanh lục đạo một chốc liền tiêu tan. Sơn hà đại địa đều là chơn tâm. Chẳng thể lìa chơn tâm nầy riêng có chỗ gá nương. Ðã không ba cõi làm vọng nhơn, ắt không có sáu thú làm vọng quả. Vọng quả đã không nói gì gá nương? Không gá nương ắt không bỉ thử, đã không bỉ thử thì có gì là thích hay không thích?
Mười phương thế giới chỉ một chơn tâm, toàn thân thọ dụng không riêng gá nương. Lại đối với môn thị hiện thì tùy ý qua lại mà không chướng ngại. Trong Truyền Ðăng có chép rằng: “Thượng Thơ Ôn Tháo hỏi Ngài Khuê Phong: Người ngộ lý một phen tuổi thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ cái linh minh giác tánh, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh nầy tức là pháp thân, vốn tự vô sanh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng muội, rõ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không chỗ đi. Chỉ lấy không-tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu dấy lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy, nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự do. Cõi người cõi trời tùy ý gởi nương. Ðây tức là chơn tâm truớc và chỗ đến của thân sau ấy vậy”.
 

Linhthoai

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Quản trị viên
Thượng toạ
Phật tử
Tham gia
21 Thg 4 2012
Bài viết
337
Điểm tương tác
168
Điểm
43
Nghi ngờ quá !

Chào các Bạn.

Linhthoai cũng theo dõi chủ đề này. Phát hiện ra một việc là Bạn phamvandung57 lâu lâu quăng vào một mớ hổn độn không đầu không đuôi, rồi bảo từ từ tìm hiểu . Làm gợi nhớ một câu chuyện về anh hề không biết hát. Khi lên sân khấu hát. -Anh ta mặc bộ đồ dân tộc thiểu số, bắt nhịp câu đầu Lửa bập bùng, bập bùng.... và anh ta chỉ bập bùng mãi mà không thêm được câu nào !!!

MC hỏi đến thì anh ta nói Ở trên núi của tôi lửa cháy bập bùng cả cây to này lâu hết lắm... Bó tay.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên