Ôn lại Kinh Lăng Nghiêm

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,411
Điểm tương tác
1,113
Điểm
113
ha ha ha [smile]

khi mà NGHĨA VÔ SỰ chẳng dính dáng gì tới PHÁP TÁNH --> TỐI ĐẠI .... NHÂN NGÃ TỐI CAO [smile] thì nghĩa VÔ SỰ đó [smile]

--> cũng chỉ là VÔ MINH NGHĨA [smile] .... nhứt là khi trong nghĩa VÔ SỰ ĐÓ chẳng có tâm .. chẳng có hiện tượng VẠN PHÁP .. chẳng có SANH TỬ .. chẳng có nghĩa HÓA [smile] .... và cứ thế là phải thế thôi [smile] ... NÓI VÔ SỰ LÀ THẤY thì nghĩa đó thế nào được [smile]

ờ mà đúng hông ? [smile]
 

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28
(Vì diễn đàn không có chức năng sao chép kinh văn. Các bạn chịu khó tìm ở Chánh Văn. Văn kiện này bị sai lệch)

LUÂN HIỆN TAY KHÔNG PHẢI LÀ HIỆN TƯỢNG GỞI TAI BAY. BỔ TRỢ NIẾT KIỆM KHÔNG PHẢI CẢNH GIỚI THIỆU SIÊU NHIÊN DO ĐÓNG SIÊU NHÂN NÀO TẶNG ( ^)

Phật bảo : A Nan ! Rằng tất cả chúng ta vô ích đến nay , điên đảo nhiều cách, giống nhau tự nhiên gắn bó với nhau như chùm nho chen chúc trái. Những người tu hành không thành vô thượng Bồ Đề mà trở lại thành ngoại đạo , chư thiên , ma vương hay Thanh Văn , Duyên Giác đều không biết hai thứ căn bản nên tu sai tập , chẳng khác nào nấu cát thành. cơm, dù trải qua nhiều kiếp như vi trần , cuối cùng vẫn không có kết quả.

Những gì là căn bản thứ hai ?

Một, là căn bản sanh tử vô thỉ. Như ông hiện nay và tất cả chúng tôi cũng thế , hằng ngày sử dụng cái tâm duyên mà thấy là tự tính của chính mình.

Hải, là căn bản Bồ Đề , Bản vô thỉ. Như ông hiện nay, cái tính thanh tịnh bản minh vốn có, nó nhậm vận chuyển tùy duyên , nhưng ông và tất cả chúng tôi sinh ra lại bỏ đi, cho nên cả ngày sống trong bản tính thanh tịnh mà không hay không . biết. Đành oan uổng trong lục đạo luân chuyển !
 

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28
LẠI GẠN HỎI CÁI TÂM(^)

Chánh văn:

Phật bảo: A Nan ! Ông muốn biết đường tu Xa ma tha để ra khỏi sống chết, ông hãy trả lời tôi.

Phật liền đưa cánh tay co năm ngón bảo A Nan rằng: Ông có thấy gì không?

Ông A Nan thưa: Tôi thấy Như Lai đưa cánh tay và co ngón tay lại thành cái nắm tay, nó phản ánh tác động vào tâm và con mắt của tôi. Tôi và đại chúng đều do con mắt mà thấy.

Phật bảo: A Nan ! Ông trả lời với tôi: Rằng: Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay, phản ánh tác động vào tâm và con mắt của ông. Con mắt của ông thì thấy việc đó tất nhiên. Còn ông lấy cái gì làm tâm để nhận biết cái nắm tay tôi ?

- Bạch Thế Tôn: Như Lai gạn hỏi tâm tôi, tôi dùng tâm suy nghĩ để trả lời Phật, thì rõ là cái suy nghĩ ấy là tâm tôi vậy.


(TÂM THÌ PHẢI CÓ THỂ TÁNH, KHÔNG THỂ TÁNH KHÔNG PHẢI LÀ TÂM)

Phật bảo: Sai rồi ! A Nan ! Cái suy nghĩ ấy không phải là tâm của ông.

Trong dáng vẻ kinh ngạc, ông A Nan đứng dậy chấp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn ! Cái suy nghĩ ấy không phải tâm tôi thì gọi nó là cái gì ?

Phật bảo: Đó là cái tưởng tượng tướng hư vọng của tiền trần. Chính cái đó làm mê lầm chân tánh của ông. Từ vô thỉ đến nay, ông nhận tên giặc ấy làm con, bỏ mất tâm tánh bản lai thường trú, nên phải chịu luân hồi.

++++++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Chúng sanh chấp Ý Thức, suy nghĩ, phân biệt làm Tâm, nên không thể biết được Chân Tâm Thường Trú. Vì Ý Thức là bóng đáng của Tâm có sanh có diệt không là Thường Trú.

Hành giả muốn đến Thiền Định PG để nhận chân được Chân Tâm thì lưu ý, không chấp mắc vào Ý Thức vọng tưởng mê lầm.
 

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28

Kinh văn:

Ông A Nan thưa: Tôi là em của Phật, vì tâm yêu thương Phật nên mới xuất gia. Tôi thẻ cào Phật phương pháp, trang trí thức thiện nguyện, phát tâm đại chiến, làm tất cả các phương pháp khó, đều sử dụng cái tâm đó. Giả sử có hủy báng Phật pháp, tiêu diệt căn hộ, bất kỳ bảo mật nào cũng được sử dụng đến cái tâm của nó. Nay Phật phát minh cái suy nghĩ đó không phải là tâm, thì tôi thành ra không có tâm, như gỗ, như đất. Bởi vì, ngoài cái suy nghĩ nhận biết anh ấy ra, tôi không còn gì nữa! Sao Như Lai lại bảo vệ cái đó không phải là tâm? Tôi kinh sợ quá! Và cả đại chúng ta đều không ai là không hoang mang dao động! Xin Phật lòng từ chỉ dạy cho chúng tôi, tôi chưa liễu ngộ?


Bấy giờ Thế Tôn rời sư tử, xoa đầu ông A Nan và bảo vệ:

- Nầy A Nan! Như Lai thường nói: Các method sanh ra duy tâm biến hiện. Tâm là cái của tất cả thế giới vi trần, của mọi nhân và kết quả…

A Nan! Tất cả các hiện tượng đều có trong thế giới, lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như lá cây ngọn cỏ… gạn xét căn nguyên đều có thể định tính. Cả đến hư không cũng có tên và kiểu dáng; cái gì chỉ sáng tỏ nhiệm vụ thanh tịnh, có thể định tính sự việc mà tự mình có thể định tính sao?

If ông ta quyết định cho cái tính hay biết, cái suy nghĩ phân biệt là tâm của ông thì cái tâm ấy rời sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó phải có độc lập của nó tồn tại. Hiện ông đang nghe tôi nói pháp, đó là nhân ngữ mà có phân biệt. If not a English, the parship of his not but. Giả sử dụng hết cái thấy, nghe, thao tác, xúc, biết, chỉ giữ cái nhàn lặng lẽ bên trong, đó cũng là sự phân biệt bóng kiểu trần mà thôi.

A Nan! Tôi phải bảo đảm ông ấy nhận cái phân biệt riêng biệt đó không phải là tâm, nhưng ông ấy phải suy nghĩ kỹ: Rời tiền trần mà vẫn có cái biết thì đó mới là tâm của ông ấy. Còn lại nếu tính năng rời khỏi tiền trần không thể tự do, thì nó chỉ là bóng dáng tiền trần phân biệt. Tiền trần không phải thường, khi thay đổi mất đi, thì cái tâm nương tiền trần cũng đồng như lông thỏ. Thế thì thân của ông ta cũng thành đoạn diệt, còn gì là nhẫn pháp vô sinh!


++++++++++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Cái Tư duy, phân biệt. Tức là Ý Thức cũng như 5 thức kia. - Sở dĩ chúng ta có thể làm được Căn duyên với Trần mà có thể sinh ra. Khi không đủ duyên, họ không thể có. Vì thế Phật dạy:

Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, ảnh.
Như sương sớm, như ánh sáng,
Phải quán sát như thế.
(Kinh Kim Cang Bát Nhã)

+ Pháp Hữu vi à các pháp làm nhân duyên mới có, vì vậy chúng ta không có thật, gọi là "Huyễn Vọng".

+ Cái "Tâm Ý Thức" làm duyên mới có, cái tâm rời sắc, thanh, hương, vị, xúc ra, nó không có tính độc lập của nó để tồn tại. Vì vậy, chúng tôi không có thật, được gọi là "Huyễn Tâm".

(văn bản bị xáo trộng sai lệch. Các Bạn chịu khó xem bản đúng tại Thư Viện Hoa Sen)

+ If the Hanh did not know that the use "Huyễn Tâm" làm nhân cho Tu hành, thì không thể có Chánh quả (Thành Phật) được. - Ví như lấy cát mà nấu thì không thể thành Cơm được.
 
Last edited:

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28
CỰC TRỰC

We sanh mà gọi là chúng sanh , sự thật chúng không phải là chúng sanh , Như Lai gọi là chúng sanh vậy thôi. Khi mê thì gọi là chúng sanh , hết mê thì mọi người đều là Phật. Mê thì vô minhh hiển thị, ẩn Phật chất. Giác, Phật chất lượng hiển thị ẩn minh và tự động hóa giải vong .

Căn bản Bồ Đề , Bàn từ vô thỉ , chúng sanh nào cũng có. Thế mà chúng ta sanh mãi luân hồi trong sanh tử khổ. Sự thật , luân hồi sanh tử không phải là hiện tượng gửi tai bay mà là sự vô minh bất giác của con người chiêu cảm , thông qua những bất thiện nghiệp của thân khẩu . Bồ Đề , Bàn không phải cảnh giới siêu tự nhiên Siêu nhân nào ban tặng , mà nó sẽ hiện hữu khi con người phải dọn dẹp hành động bất giác sai trái . Con người hoàn toàn có khả năng tạo ra những tư tưởng hành động của mình. Muốn vậy phải tu Thủ Lăng Nghiêm tam muội để tạo điều kiện cho chân tâm thường trú .
 

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28

Phần Thảo Luận:

* Thể- Tướng- Dụng.

Đức Phật dạy: "- Nầy A Nan ! Như Lai thường nói: Các pháp sanh ra duy tâm biến hiện. Tâm là cái THỂ của tất cả thế giới vi trần, của mọi nguyên nhân và kết quả…

A Nan ! Tất cả hiện tượng có trong thế giới, lớn như biển cả, núi cao, nhỏ như lá cây ngọn cỏ… gạn xét căn nguyên đều có thể tánh. Cả đến hư không cũng còn có tên và dáng mạo; huống chi cái tâm sáng suốt nhiệm mầu thanh tịnh, THỂ tánh của sự vật mà tự mình không có THỂ tánh sao ?"
(hết trích)

+ Phàm sự sự vật vật. khi xét kỷ sẽ thấy có 3 dạng: 1.Thể- 2.Tướng- 3.Dụng.

Thể là BẢN THỂ. Tướng là HÌNH TƯỚNG. Dụng là DIỆU DỤNG.
Ví dụ như: Chất vàng là Bản Thể, hình tướng là bông, dây, nhẫn v.v..., dụng là để trang sức và trao đổi.

+ Như vậy: Tâm là cái BẢN THỂ của tất cả thế giới vi trần, của mọi nguyên nhân và kết quả…

Suy ra: Ý thức là hình tướng, sự suy nghĩ phân biệt là diệu dụng. Tâm là Bản thể.- Các vật khác cũng như thế...

* Nói cách khác: TÂM và Ý THỨC không phải một mà không phải khác.- Đây là lý BẤT TỨC BẤT LY.
 

VQ6

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
25 Thg 3 2015
Bài viết
151
Điểm tương tác
45
Điểm
28
CÁI TÁNH THẤY CỦA MẮT CHỈ LÀ HIỆN TƯỢNG(^)

Kinh văn:

Ông A Nan và đại chúng chưa nhận rõ thế nào là chơn tâm thường trú, lòng còn bối rối ngẩn ngơ.

Phật bảo: A Nan ! Trong thế gian những người tu học tuy đã được chín thứ thiền định, nhưng không diệt hết được mê lầm chỉ thành A La Hớn đều do lầm chấp cái vọng tưởng tử sanh là chơn thật. Thế nên, ông nay tuy học rộng nghe nhiều mà không thành chánh quả.

Ông A Nan khóc lóc bạch Phật: Từ khi tôi phát tâm theo Phật xuất gia, thường ỷ lại lòng thương của Phật, tự nghĩ rằng rồi đây Như Lai sẽ ban cho tam muội, chia sớt đạo quả cho. Giờ đây mới biết: Thân tâm không ai có thể thay thế cho ai. Từ lâu tôi đã bỏ mất bản tâm của tôi rồi. Thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo. Như đứa con hoang cùng khổ, bỏ cha bỏ nhà ra đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều mà không tu hành, thì chẳng khác gì người không nghe, như nói ăn mà không ăn rốt cuộc không thể nào no được.

Kính Bạch Thế Tôn ! Chúng tôi hiện nay còn bị hai chướng buộc ràng, do vì không biết tâm tánh vắng lặng thường nhiên, xin Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát minh cho cái tâm nhiệm mầu, sáng suốt và khai mở con mắt đạo cho chúng tôi !
++++++++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Chú thích: 9 thứ Thiền Định là:
1. Sơ Thiền.
2. Nhị Thiền.
3. Tam Thiền.
4. Tứ Thiền.
5. Không Vô Biên Xứ Định.
6. Thức Vô Biên Xứ Định.
7. Vô Sở Hữu Xứ Định.
8. Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định.
9. Diệt Tận- Diệt Thọ Tưởng Định.

Tu Thiền Định nếu được 9 thứ Thiền Định này thì đắc quả A la Hán. Nhưng đối với Thủ Lăng Nghiêm Đại Định này, thì như thế vẫn chưa được Minh Tâm Kiến Tánh.
 

Quan Âm Các

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2014
Bài viết
264
Điểm tương tác
127
Điểm
43
(Xin phép các Bạn Quan Âm Các tạm viết thay VQ6 nha!)

+++++++++++++++++++

Kinh Văn:

Bấy giờ đức Như Lai từ tướng cát tường hải vân trước ngực phóng ra ánh sáng rực rỡ soi khắp thế giới chư Phật mười phương và chiếu khắp đảnh các Như Lai trong hằng sa cõi nước, rồi xoay về chiếu đến đảnh ông A Nan và đại chúng.

Phật bảo: A Nan ! Trước ông trả lời: rằng ông thấy cái nắm tay của tôi, vậy cái nắm tay do đâu mà có ? Và ông lấy cái gì để thấy ?

Bạch Thế Tôn ! Cái nắm tay có là do bàn tay Phật co các ngón tay lại. Tôi thấy nắm tay của Phật là do con mắt của tôi.

Phật bảo: Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay. Nếu không có con mắt (mắt bị đui) thì không có cái thấy. Hai sự việc đó có giống nhau chăng ?

Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy. Nếu không có bàn tay thì không có nắm tay; nếu không có con mắt thì không có cái thấy.

Phật bảo A Nan ! Ông nói như vậy là không đúng. Không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay, chứ không có con mắt (đui) không phải hoàn toàn không thấy. Ông thử hỏi những người đui xem họ có thấy gì không ? Chắc hẳn họ sẽ trả lời với ông: Rằng họ thấy tối đen trước mắt. Lấy nghĩa đó mà suy nghĩ tiền trần tự tối, chứ cái tánh thấy nào có hao kém gì ?

Bạch Thế Tôn ! Những người đui trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi rằng thấy ?

Phật bảo: Dù thấy tối đen cũng vẫn là thấy còn thấy sáng hay thấy tối là do tiền trần sáng tối, tánh thấy vẫn y nhiên. Nếu vì tối mà cho là không thấy, vậy thì khi người ta ngồi trong nhà tối không thấy gì hết, chỉ thấy trước mắt tối đen, bỗng nhiên được đèn sáng thấy rõ các vật, chẳng lẽ ông bảo đó là cái đèn thấy hay sao ? Vậy nên suy biết: đèn làm tỏ rõ các vật, nhưng thấy như vậy là mắt chứ không phải đèn. Mắt làm tỏ các sắc, nhưng thấy là tâm, chứ không phải là mắt.

+++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Đến đây Đức Phật khai thị TÁNH THẤY (NGHE, HAY, BIẾT) CHÚNG THƯỜNG HẰNG KHÔNG SANH DIỆT
(Nhưng vẫn là "Tướng" của TÂM, đã gần giống với Chân Tâm Thường Trú. Nói cách khác: TÂM là cái hình, mà Tánh Thấy là cái bóng của Tâm)
 

Quan Âm Các

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2014
Bài viết
264
Điểm tương tác
127
Điểm
43
TRỰC CHỈ

Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì sự tu hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được. Có giúp đỡ chăng chỉ làm tăng thượng duyên, mà nhân duyên phải là tự lực của chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên, người trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là chân lý. Chân lý đó, nói lên cái chân lý Nhân quả của thế gian và xuất thế gian. Nó bao trùm xuyên suốt hết nền giáo lý Phật. Ông A Nan nói lên lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông thoát nạn trở về: Rằng sự tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là Như Lai Thế Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự ân sủng, ban cho hay tặng thưởng trong tiến trình tiến lên đạo quả giải thoát giác ngộ. Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng, ban cho là tự trái với chân lý, mâu thuẫn với quy luật nhân quả khách quan của vũ trụ vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.

Học Phật cốt ở thực hành. Học không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no được.

Ánh sáng là biểu trưng cho trí tuệ. Ánh sáng soi khắp hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư Như Lai trong cõi nước mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên đảnh ông A Nan và đại chúng. Sự kiện nầy, nói lên ý nghĩa: Dùng trí huệ giác mà nhìn vũ trụ vạn hữu, thì vũ trụ vạn hữu trở thành thế giới đại đồng, thành nhất chân pháp giới. Trí tuệ giác xóa bỏ hết ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách bởi ý thức hệ vô minh: Tham, sân, si, mạn… Phật và hằng hà sa chư Phật trong mười phương, cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu rực rỡ, lung linh màu sắc, trong đó có ông A Nan và đại chúng cũng có phần thụ hưởng của phần mình, trong bầu thế giới đại đồng, nhất chân huy hoàng ấy. Qua bài học thậm thâm đó, Phật tử chúng ta hãy tự cảnh tỉnh lòng mình:

Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm sơn…

Ánh sáng mặt trời lúc nào cũng có, chỉ vì mù trong bụng mẹ nên không thưởng thức được cảnh trúc biếc, mai vàng, thông xanh, mây bạc, thường xuyên phô diễn dưới ánh sáng của gầm trời.

Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái thấy là mắt hay là tâm, làm cho người đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, không thể không phân vân, kiểm tra lập trường nhận thức của mình. Ông A Nan mệnh danh là con người đa văn đệ nhất, thế mà còn lúng túng chưa ngã ngũ được bằng nhận thức của mình huống hồ Phật tử chúng ta chẳng mấy tí đa văn, giải quyết sự kiện ấy còn khó khăn vạn bội. Phật tử đừng xem thường vấn đề thấy, nghe, ngửi, nếm… và vấn đề tâm vật trong đời sống hằng ngày.

Bảo rằng con mắt thấy thì sai lầm, vì thiển cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn ngô nghê. Bảo rằng tâm thấy, thì đó là phương tiện của Như Lai chứ chưa hẳn vậy. Bởi vì: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khẳ đắc, vị lai tâm bất khả đắc". Vậy thì tâm thấy là cái tâm nào ?

Nói rằng tâm thấy, là ý Phật muốn dạy cho ông A Nan biết về "ngũ câu ý thức" về hiện tượng, tỷ lượng và phi lượng của bát thức tâm vương, nói theo thuật ngữ của duy thức học. Tiền ngũ thức, nhãn thức là một, tiếp xúc với ngũ trần, chỉ thông qua hiện lượng. Hiện lượng là sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na nghĩa là chưa qua tư duy phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức, giống như sự tiếp thu hình ảnh và âm thanh của chiếc máy quay phim màu. Hình ảnh, màu sắc và âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì bình đẳng tiếp thu không mảy may phân biệt. Vậy mà ông A Nan cho rằng mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ tiếp thu làm tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có ý thức tâm vương cộng vào.

Nghĩa là: Nhãn thức cộng với ý thức tâm vương thành nhãn câu ý thức. Đử ngần ấy điều kiện mới thành cái thấy biết của mắt. Vì vậy Như lai nói: Mắt không phải thấy mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho tâm vương ý thức vậy.

Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của mắt, chỉ là hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ yếu tố để gọi là mắt thấy. Vì vậy:

Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là Như Lai phương tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ là hiện lượng !

++++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Đến đây chúng ta cần nhận thức: CHÂN TÂM, Ý Thức TÂM VƯƠNG và Thấy, nghe, hay, biết.

+ CHÂN TÂM là cái Thể của Tâm.

+ Ý Thức TÂM VƯƠNG là cái Tướng của Tâm.

+ Thấy, nghe, hay, biết là Cái Dụng của Tâm.
 

Quan Âm Các

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2014
Bài viết
264
Điểm tương tác
127
Điểm
43
GẠN HỎI NGHĨA KHÁCH TRẦN NHẰM CHỈ RÕ HIỆN TƯỢNG VỌNG TƯỞNG DIỆT SANH.

VÍ DỤ CHỦ VÀ HƯ KHÔNG ĐỂ KHAI THỊ BẢN THỂ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ(^)

Kinh văn:

Bấy giờ đức Thế Tôn giơ cánh tay mềm mại lên, bảo ông A Nan và đại chúng: Sau khi thành đạo, lần đầu tiên ở Lộc Giả Uyển, tôi có dạy cho nhóm ông A Nhã Kiều Trần Như rằng tất cả chúng sanh không thành Vô thượng Bồ Đề và A La Hớn, do vì phiền não khách trần làm mê hoặc. Thuở đó, bọn ông do đâu mà tỏ ngộ, hiện nay được thành chánh quả ?

Ông Kiều Trần Như đứng dậy thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi đã già ở trong đại chúng, tôi được cái tên Giải, là do thuở đó tôi tỏ ngộ được ý nghĩa hai chữ khách trần. Khách là người đi đường, khi cần, họ vào quán trọ thuê phòng hoặc ở, hoặc ngủ, hoặc ăn. Ăn ngủ xong xếp hành lý lên đường, không ở luôn được, còn người chủ thì ở vĩnh viễn không phải đi đâu nữa. Từ suy nghĩ đó, tôi hiểu ra rằng: Khách có đến, đi; còn chủ thì ở luôn không đi đâu hết.

Về nghĩa chữ trần, thì vào lúc mặt trời mới lên, ánh sáng xuyên vào các kẽ hở, lỗ thủng của mái nhà, nhìn theo làn ánh sáng trong khoảng hư không yên lặng ấy, tôi thấy vô số bụi trần li ti loạn động, cuồn cuộn tuôn bay. Do đó tôi nhận ra được nghĩa chữ trần: Trần thì lay động, còn hư không thì yên lặng tuyệt nhiên !

Phật bảo: Đúng vậy.

Đoạn, Phật đưa tay lên, co năm ngón tay lại rồi mở ra và hỏi:

- A Nan ! Ông thấy gì ?

- Tôi thấy bàn tay Phật, nắm lại rồi mở ra. A Nan đáp.

- Ông thấy tay tôi có nắm có mở hay cái thấy của ông có nắm có mở ?

- Thưa ! Tay Phật có nắm có mở, chứ cái thấy của tôi làm sao có nắm mở được !

- Cái gì động ? Cái gì tĩnh ? Phật hỏi.

- Thưa ! Bàn tay của Phật không yên, chứ cái thấy của tôi còn không có tĩnh thì làm chi có động !

Phật bảo: đúng vậy.

Bấy giờ Phật dùng tay phát ra một luồng ánh sáng, chiếu qua phía bên phải của ông A Nan. Ông A Nan quay nhìn qua bên phải. Phật lại phát qua phía trái, ông A Nan quay đầu nhìn qua phía trái.

Phật bảo: A Nan ! Hôm nay vì sao đầu ông động lay qua lại như thế ?

- Bạch Thế Tôn ! Tôi vì thấy hào quang của Phật phóng ra bên phải và bên trái của tôi. Đầu tôi lay động bởi ngó theo hào quang của Phật.

- Đầu ông lay động quay bên phải bên trái. Vậy cái đầu ông động mà cái thấy của ông có động chăng ?

- Bạch Thế Tôn ! Đầu tôi tự lay động, chứ cái thấy còn không biết nó ở chỗ nào, thì lấy gì mà lay động !

Phật bảo: Đúng vậy.

Bấy giờ, Phật bảo ông A Nan và đại chúng: Rằng mọi người ai cũng có thể nhận biết: Không ở luôn là khách, chủ thì vĩnh viễn không đi đâu. Bụi trần thì lay động còn hư không yên lặng tuyệt nhiên. Có nắm có mở là tay, cái thấy thì không có nắm mở. Quay qua quay lại là đầu, tánh thấy thì không hề xoay chuyển.

Vậy mà, các ông hiện nay lấy cái động làm thân, cái động làm tâm, lấy cái động làm cảnh, bỏ mất đi tâm tánh chơn thường, bất động, yên lặng nó thường ở luôn với mình. Hằng ngày làm những việc trái ngược, nhận vật làm thân, nhận vọng tưởng làm tâm, xoay vần trong đó, tự nhận lấy sự trôi lăn trong sáu nẻo !
 

Quan Âm Các

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2014
Bài viết
264
Điểm tương tác
127
Điểm
43
TRỰC CHỈ

Đọc đến đoạn kinh nầy, người đệ tử Phật có tư duy tu tập, thiền định ít nhiều, có thể bừng tỉnh ngộ: Rằng thường trú chơn tâm không phải ở đâu xa xôi cách trở, cần phải tìm kiếm hay cầu khẩn van xin mới có. Tìm thường trú chơn tâm cũng không cần ở ngay chánh điện của ngôi chùa đồ sộ nguy nga có tượng Phật to, có đại hồng chung lớn. Tìm chơn tâm thường trú cũng không cần đóng cửa trong một vuông phòng kín và ngồi thờ thẩn với đôi mắt lim dim. Thường trú chơn tâm muốn tìm nó chỉ cần có chất liệu thiền tư. Thiền tư hay thiền định với nghĩa tư duy quán chiếu. Người đệ tử nào muốn đi trên đường Bồ Đề, Niết Bàn chỉ cần tu tập tư duy quán chiếu thân tâm, cảnh giới quanh cuộc sống hằng ngày của bản thân mình. Đức Phật đã dạy quá rõ ràng. Rằng cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc, cái biết, nói chung là những tác dụng nhận thức của sáu giác quan, Phật bảo chúng không phải chơn tâm, nhưng chúng cũng không rời ngoài chơn tâm mà có. Biết sử dụng, trong vọng tâm ta tìm thấy chơn tâm thường trú. Không biết sử dụng chỉ có toàn vọng tưởng, bóng dáng của tiền trần; cũng như nước thanh bình thạnh trị thì mọi người công dân trong nước là tôi hiền con thảo. Khi thượng bất chánh thì… cũng những công dân ấy trở thành tôi loàn con giặc. Tiền trần luôn luôn thay đổi lúc có lúc không, thì sự hồi tưởng lại cái tướng của tiền trần cũng lúc sanh lúc diệt. Vì vậy, Phật gọi sự hồi tưởng bóng dáng tiền trần vào trong ký ức phân biệt chỉ là vọng tâm, là những phiền não khách trần. Vì là khách cho nên không ở được luôn. Vì là trần nên không có phút giây yên lặng. Phật dạy cho người đệ tử phương pháp tu học để sống với sự an lành, yên lặng, như hư không và quay về với vai trò người chủ, không đi đâu nữa. Vì ngoài người khách đến đi, còn có chủ không đi, ở lại. Trong sự loạn động cuồn cuộn tuôn bay của trần, còn có hư không yên lặng không hề lay chuyển. Trước sự nắm mở duỗi co qua nắm tay của Phật, còn có cái không duỗi co nắm mở đó là cái thấy của ông A Nan. Thế thì, sự nhận thức của sáu giác quan, luôn luôn thay đổi từng sát na, từng phút từng giờ, nhưng ngoài sự thay đổi luôn luôn ấy, con người còn một cái. Cái đó là gì ?… Là chơn tâm thường trú.
 

Bantoioi

Active Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
16 Thg 3 2020
Bài viết
470
Điểm tương tác
140
Điểm
43
Phần Thảo luận:

Đến đây chúng ta cần nhận thức: CHÂN TÂM, Ý Thức TÂM VƯƠNG và Thấy, nghe, hay, biết.

+ CHÂN TÂM là cái Thể của Tâm.

+ Ý Thức TÂM VƯƠNG là cái Tướng của Tâm.

+ Thấy, nghe, hay, biết là Cái Dụng của Tâm.

Đoạn chốt hạ này, sao chẳng thấy bạn nào thảo luận vậy nhỉ..??
 

Quan Âm Các

Active Member
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2014
Bài viết
264
Điểm tương tác
127
Điểm
43
Trực chỉ:

Theo lời Phật dạy thì chân tâm thường trú có thể biểu hiện ở mọi con người, khi trí tuệ con người có khả năng nhận thức được vọng tâm. Nhận được vọng tâm cũng nhận thức được gì là vô minh phiền não khách trần để rồi hóa giải chúng đến độ hoàn toàn sạch bóng.

Sự bác bỏ của Phật đối với ông A Nan về vấn đề tâm thấy hay mắt thấy, sự thật chẳng có gì quan trọng giữa hai thầy trò. Nhằm mục đích giáo dục chúng sanh, Phật bày ra cuộc vấn đáp cho lý cùng trí tận vậy thôi. Giải quyết vấn đề đó, khó khăn gì đối với người đệ tử tinh tấn, đa văn như ông A Nan ấy !

Cái gì thấy ? Mắt có thấy được không ? Thấy cách nào ? Cần bao nhiêu điều kiện để thấy ? Sao gọi là tâm thấy ? Tâm thấy cách sao ? Tâm ở đâu ?… Bao nhiêu câu hỏi đó, ông A Nan đem pháp tướng học ra giải quyết, dễ như người ta thò tay vô túi mà lấy… tiền tiêu, chẳng có gì khó khăn cả.

++++++++++++++++
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 8 2010
Bài viết
3,658
Điểm tương tác
715
Điểm
113
TRỰC CHỈ

Ai ăn nấy no, ai ngủ nấy khỏe, thì sự tu hành, ai tu nấy chứng, không ai tu thế giúp đỡ cho ai được. Có giúp đỡ chăng chỉ làm tăng thượng duyên, mà nhân duyên phải là tự lực của chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên, người trí không ai có thể phủ nhận. Vì đó là chân lý. Chân lý đó, nói lên cái chân lý Nhân quả của thế gian và xuất thế gian. Nó bao trùm xuyên suốt hết nền giáo lý Phật. Ông A Nan nói lên lần nầy là lần thứ hai, sau khi ông thoát nạn trở về: Rằng sự tu hành không thể ỷ lại tha nhân, dù tha nhân đó là Như Lai Thế Tôn Vô thượng. Càng không thể có sự ân sủng, ban cho hay tặng thưởng trong tiến trình tiến lên đạo quả giải thoát giác ngộ. Nếu ai đó làm cái việc tặng thưởng, ban cho là tự trái với chân lý, mâu thuẫn với quy luật nhân quả khách quan của vũ trụ vạn hữu, người trí không tin có việc đó xảy ra.

Học Phật cốt ở thực hành. Học không hành chẳng khác nào nói ăn mà không ăn, thì không thể no được.

Ánh sáng là biểu trưng cho trí tuệ. Ánh sáng soi khắp hằng sa cõi nước Phật và chiếu khắp đảnh chư Như Lai trong cõi nước mười phương; sau đó, xoay về chiếu lên đảnh ông A Nan và đại chúng. Sự kiện nầy, nói lên ý nghĩa: Dùng trí huệ giác mà nhìn vũ trụ vạn hữu, thì vũ trụ vạn hữu trở thành thế giới đại đồng, thành nhất chân pháp giới. Trí tuệ giác xóa bỏ hết ranh giới, cõi nước đất đai ngăn cách bởi ý thức hệ vô minh: Tham, sân, si, mạn… Phật và hằng hà sa chư Phật trong mười phương, cùng chung thọ dụng một ánh sáng báu rực rỡ, lung linh màu sắc, trong đó có ông A Nan và đại chúng cũng có phần thụ hưởng của phần mình, trong bầu thế giới đại đồng, nhất chân huy hoàng ấy. Qua bài học thậm thâm đó, Phật tử chúng ta hãy tự cảnh tỉnh lòng mình:

Thân tại hải trung hưu mích thủy
Nhật hành lảnh thượng mạc tầm sơn…

Ánh sáng mặt trời lúc nào cũng có, chỉ vì mù trong bụng mẹ nên không thưởng thức được cảnh trúc biếc, mai vàng, thông xanh, mây bạc, thường xuyên phô diễn dưới ánh sáng của gầm trời.

Vấn đề nắm tay và cái thấy; cái thấy là mắt hay là tâm, làm cho người đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, không thể không phân vân, kiểm tra lập trường nhận thức của mình. Ông A Nan mệnh danh là con người đa văn đệ nhất, thế mà còn lúng túng chưa ngã ngũ được bằng nhận thức của mình huống hồ Phật tử chúng ta chẳng mấy tí đa văn, giải quyết sự kiện ấy còn khó khăn vạn bội. Phật tử đừng xem thường vấn đề thấy, nghe, ngửi, nếm… và vấn đề tâm vật trong đời sống hằng ngày.

Bảo rằng con mắt thấy thì sai lầm, vì thiển cận. Bảo rằng không phải con mắt thấy, càng ngớ ngẩn ngô nghê. Bảo rằng tâm thấy, thì đó là phương tiện của Như Lai chứ chưa hẳn vậy. Bởi vì: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khẳ đắc, vị lai tâm bất khả đắc". Vậy thì tâm thấy là cái tâm nào ?

Nói rằng tâm thấy, là ý Phật muốn dạy cho ông A Nan biết về "ngũ câu ý thức" về hiện tượng, tỷ lượng và phi lượng của bát thức tâm vương, nói theo thuật ngữ của duy thức học. Tiền ngũ thức, nhãn thức là một, tiếp xúc với ngũ trần, chỉ thông qua hiện lượng. Hiện lượng là sự lượng biết còn trong đệ nhất sát na nghĩa là chưa qua tư duy phân biệt. Sự tiếp thu tiền cảnh của tiền ngũ thức, giống như sự tiếp thu hình ảnh và âm thanh của chiếc máy quay phim màu. Hình ảnh, màu sắc và âm thanh có đủ, nhưng cuồn phim, chiếc máy, thì bình đẳng tiếp thu không mảy may phân biệt. Vậy mà ông A Nan cho rằng mắt thấy thì làm sao không bị Phật quở rầy ! Mắt, chỉ tiếp thu làm tỏ rõ các vật sắc, mà thấy biết là phải có ý thức tâm vương cộng vào.

Nghĩa là: Nhãn thức cộng với ý thức tâm vương thành nhãn câu ý thức. Đử ngần ấy điều kiện mới thành cái thấy biết của mắt. Vì vậy Như lai nói: Mắt không phải thấy mà thấy là do tâm. Tâm ở đây, chỉ cho tâm vương ý thức vậy.

Do đó, ta thấy rõ: Cái thấy của mắt, chỉ là hiện lượng thôi, cho nên chưa đầy đủ yếu tố để gọi là mắt thấy. Vì vậy:

Nói mắt thấy đã sai
Nói không phải mắt thấy càng sai
Nói tâm thấy, chỉ là Như Lai phương tiện !
Mà phải nói: cái thấy của mắt chỉ là hiện lượng !

++++++++++++++++++

Phần Thảo luận:

Đến đây chúng ta cần nhận thức: CHÂN TÂM, Ý Thức TÂM VƯƠNG và Thấy, nghe, hay, biết.

+ CHÂN TÂM là cái Thể của Tâm.

+ Ý Thức TÂM VƯƠNG là cái Tướng của Tâm.

+ Thấy, nghe, hay, biết là Cái Dụng của Tâm.
+ TÂM ấy chính là Chân tâm là cái thực thể chân thật của mỗi chúng sanh, không bao giờ bị hư hoại. Tâm vốn vô tướng nên không thể nói "ý thức và tâm vương là tướng tâm". Tướng do tâm phát dụng mà sanh ra.
+ Tâm vương và lục thức, sự không biết đều là dụng của tâm do tiếp xúc với các pháp mà sản sanh ra.

Từ cỏ cây, đất đá, loài con trùng, loài động vật, loài người, thánh nhân, Bồ Tát, Phật đều là dụng của Tâm mà sanh ra.
Đối pháp không biết gì thì là cỏ cây, đất đá.
Đối pháp biết nhưng lầm nhận thì loài hữu tình.
Đối pháp không tham đắm sở hữu thì là Thánh Nhân, Bồ Tát.

Đối pháp vô ngại, rỗng không tĩnh lặng mà thấu suốt mọi nguồn cơn thì là Phật.
 

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên