Này Đại Huệ ! Ta nói Như Lai không phải là vô pháp, lại không phải là nhiếp thủ (thâu nhận) các pháp bất sinh bất diệt; cũng không đối đãi nhân duyên, cũng không phải là vô nghĩa.
Ta nói vô sinh tức là một tên khác cho "phân thân do ý sinh" của Như Lai.
Hết thảy ngoại đạo, Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát Thất địa không rõ nghĩa ấy.
Đại Huệ ! Thí như Đế thích, đất, hư không, cho đến chân tay; tùy theo mỗi vật , mỗi thứ đều có nhiều tên.
Không phải vì có nhiều tên mà thành ra có nhiều thể, hay thành vô thể.
Đại Huệ ! Ta cũng như thế, ở nơi thế giới Ta Bà này, có ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, những kẻ phàm ngu tuy nghe tuy nói mà không biết đấy là tên khác của Như Lai.
Trong thế giới này cùng các thế giới khác, có những kẻ biết ta như trăng trong nước không vào không ra, nhưng hạng phàm ngu tâm bị chìm đắm nơi nhị biên, không thể hiểu thấu, không khéo giải danh tự cú nghĩa, chấp ngôn giáo, mê muội đối với lẽ chân thật, cho rằng vô sinh vô diệt tức là không thể tính, mà không biết đấy là một danh hiệu khác của Phật.
Vì tin nơi ngôn giáo, mê muội chân thật, ở hết thảy pháp đều y theo lời mà nắm ý nghĩa, nên kẻ phàm ngu kia nói: "Nghĩa chính là lời; nghĩa và lời không khác".
Vì sao ? Vì nghĩa không có thể tánh. Kẻ ấy không hiểu rõ tự tánh của ngôn âm; cho rằng ngôn tức là nghĩa, không thể tinh riêng biệt cho nghĩa.
Đại Huệ ! Kẻ kia ngu si không biết rằng ngôn thuyết thì có sinh diệt, còn nghĩa thì không sinh diệt.
Đại Huệ ! Hết thảy ngôn thuyết đều sa vào văn tự, còn nghĩa thì lìa có và không.
Đại Huệ ! Như Lai không nói pháp sa vào văn tự, vì hữu và vô của văn tự đều bất khả đắc.
Đại Huệ ! Nếu có người nói những pháp sa vào văn tự, ấy là pháp hư dối.
Vì sao ? Vì tự tính của các pháp lìa văn tự.
Cho nên, này Đại Huệ ! Trong Kinh ta nói:" Ta cùng chư Phật và Bồ Tát không nói một chữ, không đáp một tiếng nào. Vì sao ? Vì hết thảy pháp lìa văn tự.
Nhưng không phải là Ta không thuận theo nghĩa mà phân biệt nói.
Đại Huệ ! Nếu không nói thì giáo pháp phải dứt đoạn, giáo pháp đoạn dứt thì không có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật.
Nếu tất cả đều không thì ai nói pháp và nói cho ai ?
Bởi thế Đại Huệ ! Bồ tát đại hữu tình không nên chấp trước nơi văn tự, mà phải tùy nghi thuyết pháp.
Ta cùng chư Phật đều tùy những thứ phiền não, ưa muốn và hiểu biết không đồng của chúng sinh mà khai diễn; khiến chúng sanh biết các pháp đều do tâm hiện, không có cảnh ngoài, xả bỏ hai phân biệt, chuyển hóa tâm ý thức.
Chứ không phải vì chúng sanh mà nói pháp do Thánh trí tự chứng.
Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên theo nghĩa, chớ theo văn tự, theo văn tự thì đọa vào ác kiến; chấp trước chủ trương của mình, mà khởi ngôn thuyết, không thể hiểu rõ các pháp tướng văn từ chương cú, đã tự hại còn hại người, không thể khiến tâm người khai ngộ.
Nếu khéo biết rõ hết thảy pháp tướng, văn từ cú nghĩa đều thông, thì có thể khiến tự mình thọ cái vui vô tướng, mà còn giúp người an trú Đại thừa.
Nếu khiến được người an trú Đại thừa thì liền được hết thảy chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác, cùng chư Bồ Tát thâu nhận.
Nếu được chư Phật, Bồ Tát...thâu nhận thì có thể thâu nhận hết thảy chúng sanh, có thể thâu nhận hết thẩy chánh pháp.
Nếu nhiếp thọ được hết thảy chánh pháp thì không làm dứt đoạn hạt giống Phật.
Nếu không đoạn giống Phật thì được chỗ thù thắng tốt đẹp.
Đại Huệ ! Bồ tát đại hữu tình sinh chỗ tốt đẹp thù thắng, muốn chúng sinh an trú Đại thừa, dùng mười lực tự tại hiện các tướng, tùy căn cơ của họ mà nói Pháp chân thật.
Pháp chân thật ấy là không hai, không phân biệt, không đến không đi, hết thảy hí luận đều bặt dứt.
Cho nên, này Đại Huệ ! Thiện nam, thiện nữ không nên y lời mà chấp nghĩa.
Vì sao ? Vì pháp chân thật lìa văn tự.
Đại Huệ ! Thí dụ có người dùng ngón tay chỉ sự vật, đứa bé con chỉ nhìn ngón tay ngôn thuyết mà sinh chấp trước, thậm chí đến chết cũng không xả bỏ được ngón tay văn tự, để năm Đệ nhất nghĩa.
Đại Huệ ! Thí như con nít mới sinh đáng phải ăn đồ chín, có người không biết rành cách nấu chín, mà cho nó ăn đồ sống, tất phát cuồng loạn.
Bất sinh bất diệt cũng thế, không khéo tu phương tiện tất là không tốt.
Vì thế nên khéo tu phương tiện, chớ theo ngôn thuyết như nhìn đầu ngón tay.
Đại Huệ ! Nghĩa chân thật vốn vi diệu tịch tịnh, ấy là nhân của Niết Bàn.
Ngôn thuyết thì cùng với vọng tưởng mà khiến người trôi lăn trong sinh tử.
Đại Huệ ! Thật nghĩa là do nghe nhiều mà được, nghe nhiều là rành nghĩa không phải rành lời.
Người rành nghĩa không theo ác kiến ngoại đạo, tự mình không theo, cũng khiến người không theo. Ấy gọi là nghe nhiều nơi nghĩa.
Kẻ muốn cầu nghĩa nên gần gũi hạng người này và xa lìa những kẻ chấp trước văn tự.