<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">48. <B>LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT ĐƯỢC KINH PHẬT CHÂN, NGỤY?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vấn đề kinh Phật chân ngụy có thể phân thành hai phương hướng. Một là trên lịch sử phiên dịch không thể nào khảo chứng được thời đại và tác giả phiên dịch. Hai là những kinh Phật do đàn cơ hay cơ đồng mượn danh thần Phật thác mộng truyền thọ. Loại thứ nhứt là kinh điển chính thức, không trái với Phật pháp. Loại thứ hai là kinh điển giả mạo. mà thực chất là sản vật của tín ngưỡng dân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các học giả lịch sư Phật giáo Âsn Độ thời kỳ đầu đã có luận điệu Đại thừa không phải là Phật nói. Do vì kinh điển Đại thừa xuất hiện và lưu truyền vào khoảng mấy trăn năm sau đức Phật Niết Bàn. Nhưng Phật pháp Đại thừa cũng căn cứ trên Phật giáo Nguyên thủy, chẳng qua nâng cao bình diện tư tưởng, triết học hóa nó, khiến Phật pháp có thể rộng lớn hơn, tinh thâm hơn, huyền diệu hơn từ nhân gian mở rộng đến vô hạn. Cho nên nói, kinh điển Nguyên thủy lấy nhân gian làm đối tượng, còn kinh điển Đại thừa lấy Bồ tát làm đối tượng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng kinh điển Đại thừa tuyệt đối không rời nguyên tắc cơ bản của Phật pháp Nguyên thủy. Nó căn cứ trên pháp nhân duyên mà nói <B>không, vô, thật tướng vô tướng</B>, căn cứ trên nhân quả mà nói <B>có, chân hữu, diệu hữu</B>. Thực ra đều là hai mặt của cùng một thể, <B>không</B> và <B>hữu</B> vốn chẳng lìa xa. Đây là đưa pháp tắc nhân duyên, nhân quả cơ bản lên đến tột đỉnh. Cho nên Phật pháp Đại thừa không luận có phải do Phật nói hay không, hoặc là Bồ tát nói, hoặc là chúng sinh khác nói, đều không thể dùng chân ngụy để quyết định chọn lựa, chỉ cần phù hợp với nguyên tắc Phật pháp là được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> Còn như loại thứ hai, sản vật của tín ngưỡng dân gian, là do quỉ thần dựa vào Phật pháp truyền thọ. Quỉ thần lợi dụng lúc có người đang tu hành, hay nơi nhất định của quỉ thần nào đó, mà hóa hiện ra hình Phật, Bồ tát, dùng lời nói mà đại chúng trong dân gian nghe quen thuộc, nói ra những bộ kinh ngắn như <B>Cao Vương Quán Thế Âm Kinh, Huyết Bồn Kinh, Thái Âm Kinh, Thái Thượng Cảm Ứng Kinh</B> v.v... Có một số thì gần với Phật, có một số thì gần với Đạo giáo, và cũng có một số hợp lưu của tam giáo Nho, Thích, Đạo. Nó dùng tiêuchuẩn đạo đức nhân gian để khuyến hóa, dạy người hành thiện, hiếu thảo, sống có ân nghĩa, nên có tác dụng nhất định. Cho nên, tuy không phải là kinh Phật chân chính, song tín đồ Phật giáo trong dân gian đã truyền nhau đọc tụng, mà không có hậu quả tai hại nào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra còn có chi lưu của loại thứ hai. Nó tuy gọi là kinh Phật, do Phật nói, song nội dung lại trái với nguyên tắc nhân quả và quan điểm nhân duyên, khi nó nói không thì phủ nhận nhân quả; còn khi nói có, lại đam luyến thế gian, đem Phạt, Bô ftát và thần đạo xentạp với nhau, coi như bình đẳng. Đó là luân lý ngũ giáo hợp lưu, tam giáo bình đẳng, Phật Phật đạo đồng, đạo đạo tương thông v.v... Thực ra, nó không phải là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và cũng không phải là Gia tô giáo, Hồi giáo. Nó sử dụng kinh Phật, cũng giải thích kinh Phật, song đều có <B>chân kinh</B> riêng do thần linh huấn thị làm căn bản. Loại sách giả mạo kinh Phật này, đương nhiên không phải là kinh Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn có một loại, do những người tu mù luyện quán được một chút ít kinh nghiệm thần bí, hoặc cảm ứng với ma đạo giáng xuống, hay quỉ thàn nhập xác nói ra. Họ vì muốn lập ra căn cứ cho việc truyền đạo của mình, đạt được mục đích chiêu tập đồ chúng, cho nên cũng xem kinh Phật, giải sách Phật. Song họ dùng kiến giải cá nhân, hoặc dựa vào định cảnh sai lầm, hoặc là quỉ thần của ma đạo chỉ thị, mà dùng ngôn ngữ, ý tứ riêng, tùy tiện giải thích văn nghĩa kinh Phật. Những sách vở thuộc loại như vậy, tuy cũng lấy tên là chú giải kinh Phật, song mục đích là kinh phản đạo, hủy báng chánh pháp, tổn thương tuệ mạng. Đây là một lệ chứng cho lời Tổ sư xưa nay nói: <I>"Lìa kinh một chữ tức đồng ma thuyết".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo sự phán đoán này, nếu gọi là kinh Phật mà ta không có cách gì xác định đúng là kinh Phật hay không, tốt hết nên tra cứu đối chiếu với mục lục trong <B>Đại Tạng Kinh</B>. Nếu có ghi trong mục lục ở phần <I>nghi ngụy</I>, vẫn có thể tin, có thể đọc. Còn như không có trong <B>Kinh Lục</B>, thì phải xét xem nó có trái nvới nguyên tắc căn bản của Phật pháp hay không. Lại nữa, ngoài những kinh sách dùng giáo nghĩa Phật pháp để giải thích kinh Phật có tên kinh rõ ràng, và sách thuật lại phát minh của cổ đức với thái dộ <I>thuật nhi bất tác</I><SUP><B>(1)</B></SUP> như Khổng Tử đã nói. Tóm lại, tốt nhất không nên xem những kinh sách còn chưa xác định ró là chân hay ngụy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B<>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Thuật nhi bất tác: <I>Có nghĩa chỉ noi theo ý của cổ nhân rồi thuật lại mà không sáng tác theo ý riêng mình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">49. <B>PHẬT GIÁO LÀM CÁCH NÀO ĐỂ THÍCH ỨNG VỚI YÊU CẦU TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín ngưỡng dân gian là hành vi tôn giáo cóliên quan đến phong tục dân tộc, cũng là hiện tượng tôn giáo mang hình thái nguyên thủy. Từ khi có văn hóa nhân loại đến nay tín ngưỡng dân gian đã tồn tại một cách phổ biến trong các dân tộc. Đây là vì nhân loại cần phải giải tỏa phiền não trong tâm, sự tranh chấp ở gia đình và ngoài xã hội, áp lực của hoàn cảnh tự nhiên. Trong một thời gian ngắn, họ không cách gì dùng thể năng, trí năng của con người để giải quyết những vấn đề trên, nên chỉ có cách cầu thần minh chỉ dẫn, gíup đỡ, cứu tế, bảo hộ. Họ lợi dụng phương thức xin thẻ, bói toán, cầu hồn, lên cơ, cúng tế, hứa nguyện<SUP><B>(1)</B></SUP> để mong liên lạc cảm thông được với quỉ thần. Hành vi này, theo nhất thần giáo là mê tín dị đoan và tà thuật. Phật giáo cũng không chủ trương có hành vi như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong tín ngưỡng dân gian, các loại thần linh xen tạp với nhau. Từ đời Tống về sau đã có xu thế tam giáo hợp lưu, gồm thâu thần, tiên, Phật, Bồ tát vào một nhà. Cuối đời Thanh, đầu năm Dân Quốc đến nay, cộng thêm thờ cả Gia tô và Hồi giáo, trở thành tôn giáo nhân gian, mà người ta gọi là ngũ giáo đông nguyên. Dân gian thông qua linh môi, thuật sĩ, đàn cơ, cơ đồng, cũng như những đạo cụ như thẻ xăm, đồng âm dương để thỉnh những quỉ thần vô danh giả xưng là thần gì đó, Phật gì đó v.v... giảng kinh. Những quỉ thần này sẽ chỉ điểm, quyết nghi, thỏa mãn, yêu cầu cho dân chúng. Lần lần Phật giáo cũng mở cửa phương tiện, để thích ứng với yêu cầu của tín ngưỡng dân gian. Điều khác nhau là, Phật giáo dùng lý trí để giải tỏa, qui hướng về chánh pháp, dùng việc tu thiện tích phước, sám hối tụng kinh, để đạt được mục đích cầu nguyện. Còn tín ngưỡng dân gian chỉ dùng hành vi mua chuộc thần Thánh để đạt thành hy vọng của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín ngưỡng dân gian coi giáo chủ các tôn giáo khác là thần, nên cũng sùng bái. Điểm khác nhau là các tôn giáo lớn đều có giáo chủ, giáo sử, giáo lý, giáo ng i, giáo đoàn truyền thừa. Còn tín ngưỡng dân gian lại lấy đầu này, gom đầu kia, sùng bái đủ mọi thần linh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ sự khảo sát lịch sử văn hóa nhân loại, tín ngưỡng dân gian thuộc hình thái tôn giáo dân tộc nguyên thủy, lại cần thiết cho nhược điểm thân tâm của nhân loại. Trong xã hội Âu Mỹ, Cơ đôc giáo đã gần hai ngàn năm thanh lý đa thần giáo, thế mà hiện nay vẫn còn dấu vết của tín ngưỡng dân gian hoạt động khắp nơi. Cho nên theo lập trường Phật giáo, cũng nên có sự khoan nhượng ở mức độ thích đáng nào đó. Song nếu vì đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian, mà hạ cấp tín ngưỡng Phật giáo, thậm chí đưa các laọi quỉ thần của tín ngưỡng dân gian lên thành hóa thân quyền hiện của Phật và Bồ tát, thì sẽ đem lại vận mệnh <B>còn danh song mất chất</B> cho Phật giáo, đồng thời, cũng bị phê bình và chỉ trích từ những người trí thức hiểu biết. Cho nên chùa Phật giáo chánh thống không nên để bàn xin xâm, đàn cơ, đồng âm dương, và cũng không nên thờ cúng các tượng thần địa phương, để tránh bị mang màu sắc tín ngưỡng dân gian, khiến người ta hiểu lầm Phật giáo sùng bái đa thần, là chi lưu của tín ngưỡng dân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo làm thế nào để thích ứng với xã hội đại chúng, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng dân gian? Phải nên chú trọng đề xướng công năng tín ngưỡng Phật giáo và Bồ tát, hoặc xiển dương sự hiệu nghiệm của kinh chú thường dùng. Ví dụ như sự linh nghiệm có cầu tất ứng, quảng đại vô biên của Quán Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát. Quán Thế Âm Bồ tát được xưng là Quảng Đại Linh Cảm, Cứu Khổ Cứu Nạn, Đại Từ Đại Bi; A Di Đà Phật được xưng là Vô Thượng Y Vương, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Những vị Phật và Bồ tát này khiến cho người ta có cầu tất ứng, cầu trường thọ được trường thọ, cầu trí tuệ được trí tuệ. Đức Phật Thích Ca là một trong ngàn trăn ức hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, Ngài là vị giáo chủ cõi Ta Bà, đạo sư của trời người, đèn sáng trong đêm dài, thuyền từ nơi biên khổ. Tất cả chư Phật đều có khả năng cứu giúp bất cứ chúng sinh nào trong mọi luc mọi nơi. Tất cả chư Phật và đại Bồ tát đều có đủ sáu loại thần thông, tùy thời, tùy xứ, tùy loại nhiếp hóa, đáp ứng những nhu cầu hợp lý của chúng sinh. Vậy thì mọi người chỉ cần chọn một vị Phật, Bồ tát tu niệm, hay một pháp môn, kinh chú nào đó hành trì, sẽ dễ dàng đạt được mục đích mà tín ngưỡng dân gian yêu cầu. Huống chi còn có thể tiến thêm bước nữa, từ tầng bậc tôn giáo tín ngưỡng dân gian, tiến vào cảnh giới giải thoát tự tại, tự lợi lợi tha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mật giáo trong Phật giáo có nhiều pháp tu luyện với mục đích và tầng bậc khác nhau. Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông của Trung Quốc cũng biên tập nhiều nghi thức lễ sám và tu chứng. Nếu y theo pháp môn tu trì mà các kinh nói, thì đã khác với sùng bái đa thần của tín ngướng dân gian. Chỉ có điều, nếu truy đến ngọn nguồn Phật pháp, thì không có nghi quĩ đa dạng như vậy. Phật nói vô lượng pháp môn, chỉ cần chọn một trong những pháp môn đó rồi chuyên tâm tu trì, đều có thể trở thành tổng trì tất cả pháp. Cho nên kinh <B>Lăng Nghiêm</B> có hai mươi lăm pháp môn viên thông, đầy đủ công dụng của tất cả pháp môn. Kinh <B>Duy Ma Cật</B> còn khai thị ra pháp môn bất nhị. Nếu không y cứ vào kinh Phật làm tiêu chuẩn tu trì, sẽ dễ dàng lẫn lộn với tín ngưỡng dân gian, hợp lưu với đa thần giáo, để cho người ta có ấn tượng thần Phật như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói sâu hơn một mức nữa, là một tín đồ Phật giáo, nếu vì muốn thỏa mãn những nguyện vọng khác nhau, mà thường thay đổi phương pháp tu hành và đối tượng sùng bái, thì sẽ mất đi mục tỉêu trung tâm. Tín đồ Phật giáo chánh tín, tín ngưỡng Tam Bảo là học Phật, tu Pháp. Học Phật là học theo từ bi, trí tuệ của ngài, tu Pháp là theo sự chỉ đạo đúng đắn của chánh pháp, mà chuyên tu một pháp môn, để đạt thành mục tiêu nhất quán là trì giới, tụ định và phát tuệ. Chỉ cần không lìa nguyên tắc Tam Bảo, ngày ngày lấy việc xem kinh, làm Phật sự, trì giới, bố thí, lễ tụng, sám hối làm thời khóa tu hành, cho dù không cầu lợi ích hiện đời, cũng tự nhiên chiêu cảm phước lành trong hiện tại.</P>
</span></span>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">48. <B>LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT ĐƯỢC KINH PHẬT CHÂN, NGỤY?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vấn đề kinh Phật chân ngụy có thể phân thành hai phương hướng. Một là trên lịch sử phiên dịch không thể nào khảo chứng được thời đại và tác giả phiên dịch. Hai là những kinh Phật do đàn cơ hay cơ đồng mượn danh thần Phật thác mộng truyền thọ. Loại thứ nhứt là kinh điển chính thức, không trái với Phật pháp. Loại thứ hai là kinh điển giả mạo. mà thực chất là sản vật của tín ngưỡng dân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các học giả lịch sư Phật giáo Âsn Độ thời kỳ đầu đã có luận điệu Đại thừa không phải là Phật nói. Do vì kinh điển Đại thừa xuất hiện và lưu truyền vào khoảng mấy trăn năm sau đức Phật Niết Bàn. Nhưng Phật pháp Đại thừa cũng căn cứ trên Phật giáo Nguyên thủy, chẳng qua nâng cao bình diện tư tưởng, triết học hóa nó, khiến Phật pháp có thể rộng lớn hơn, tinh thâm hơn, huyền diệu hơn từ nhân gian mở rộng đến vô hạn. Cho nên nói, kinh điển Nguyên thủy lấy nhân gian làm đối tượng, còn kinh điển Đại thừa lấy Bồ tát làm đối tượng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng kinh điển Đại thừa tuyệt đối không rời nguyên tắc cơ bản của Phật pháp Nguyên thủy. Nó căn cứ trên pháp nhân duyên mà nói <B>không, vô, thật tướng vô tướng</B>, căn cứ trên nhân quả mà nói <B>có, chân hữu, diệu hữu</B>. Thực ra đều là hai mặt của cùng một thể, <B>không</B> và <B>hữu</B> vốn chẳng lìa xa. Đây là đưa pháp tắc nhân duyên, nhân quả cơ bản lên đến tột đỉnh. Cho nên Phật pháp Đại thừa không luận có phải do Phật nói hay không, hoặc là Bồ tát nói, hoặc là chúng sinh khác nói, đều không thể dùng chân ngụy để quyết định chọn lựa, chỉ cần phù hợp với nguyên tắc Phật pháp là được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> Còn như loại thứ hai, sản vật của tín ngưỡng dân gian, là do quỉ thần dựa vào Phật pháp truyền thọ. Quỉ thần lợi dụng lúc có người đang tu hành, hay nơi nhất định của quỉ thần nào đó, mà hóa hiện ra hình Phật, Bồ tát, dùng lời nói mà đại chúng trong dân gian nghe quen thuộc, nói ra những bộ kinh ngắn như <B>Cao Vương Quán Thế Âm Kinh, Huyết Bồn Kinh, Thái Âm Kinh, Thái Thượng Cảm Ứng Kinh</B> v.v... Có một số thì gần với Phật, có một số thì gần với Đạo giáo, và cũng có một số hợp lưu của tam giáo Nho, Thích, Đạo. Nó dùng tiêuchuẩn đạo đức nhân gian để khuyến hóa, dạy người hành thiện, hiếu thảo, sống có ân nghĩa, nên có tác dụng nhất định. Cho nên, tuy không phải là kinh Phật chân chính, song tín đồ Phật giáo trong dân gian đã truyền nhau đọc tụng, mà không có hậu quả tai hại nào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra còn có chi lưu của loại thứ hai. Nó tuy gọi là kinh Phật, do Phật nói, song nội dung lại trái với nguyên tắc nhân quả và quan điểm nhân duyên, khi nó nói không thì phủ nhận nhân quả; còn khi nói có, lại đam luyến thế gian, đem Phạt, Bô ftát và thần đạo xentạp với nhau, coi như bình đẳng. Đó là luân lý ngũ giáo hợp lưu, tam giáo bình đẳng, Phật Phật đạo đồng, đạo đạo tương thông v.v... Thực ra, nó không phải là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và cũng không phải là Gia tô giáo, Hồi giáo. Nó sử dụng kinh Phật, cũng giải thích kinh Phật, song đều có <B>chân kinh</B> riêng do thần linh huấn thị làm căn bản. Loại sách giả mạo kinh Phật này, đương nhiên không phải là kinh Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn có một loại, do những người tu mù luyện quán được một chút ít kinh nghiệm thần bí, hoặc cảm ứng với ma đạo giáng xuống, hay quỉ thàn nhập xác nói ra. Họ vì muốn lập ra căn cứ cho việc truyền đạo của mình, đạt được mục đích chiêu tập đồ chúng, cho nên cũng xem kinh Phật, giải sách Phật. Song họ dùng kiến giải cá nhân, hoặc dựa vào định cảnh sai lầm, hoặc là quỉ thần của ma đạo chỉ thị, mà dùng ngôn ngữ, ý tứ riêng, tùy tiện giải thích văn nghĩa kinh Phật. Những sách vở thuộc loại như vậy, tuy cũng lấy tên là chú giải kinh Phật, song mục đích là kinh phản đạo, hủy báng chánh pháp, tổn thương tuệ mạng. Đây là một lệ chứng cho lời Tổ sư xưa nay nói: <I>"Lìa kinh một chữ tức đồng ma thuyết".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo sự phán đoán này, nếu gọi là kinh Phật mà ta không có cách gì xác định đúng là kinh Phật hay không, tốt hết nên tra cứu đối chiếu với mục lục trong <B>Đại Tạng Kinh</B>. Nếu có ghi trong mục lục ở phần <I>nghi ngụy</I>, vẫn có thể tin, có thể đọc. Còn như không có trong <B>Kinh Lục</B>, thì phải xét xem nó có trái nvới nguyên tắc căn bản của Phật pháp hay không. Lại nữa, ngoài những kinh sách dùng giáo nghĩa Phật pháp để giải thích kinh Phật có tên kinh rõ ràng, và sách thuật lại phát minh của cổ đức với thái dộ <I>thuật nhi bất tác</I><SUP><B>(1)</B></SUP> như Khổng Tử đã nói. Tóm lại, tốt nhất không nên xem những kinh sách còn chưa xác định ró là chân hay ngụy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B<>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Thuật nhi bất tác: <I>Có nghĩa chỉ noi theo ý của cổ nhân rồi thuật lại mà không sáng tác theo ý riêng mình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">49. <B>PHẬT GIÁO LÀM CÁCH NÀO ĐỂ THÍCH ỨNG VỚI YÊU CẦU TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín ngưỡng dân gian là hành vi tôn giáo cóliên quan đến phong tục dân tộc, cũng là hiện tượng tôn giáo mang hình thái nguyên thủy. Từ khi có văn hóa nhân loại đến nay tín ngưỡng dân gian đã tồn tại một cách phổ biến trong các dân tộc. Đây là vì nhân loại cần phải giải tỏa phiền não trong tâm, sự tranh chấp ở gia đình và ngoài xã hội, áp lực của hoàn cảnh tự nhiên. Trong một thời gian ngắn, họ không cách gì dùng thể năng, trí năng của con người để giải quyết những vấn đề trên, nên chỉ có cách cầu thần minh chỉ dẫn, gíup đỡ, cứu tế, bảo hộ. Họ lợi dụng phương thức xin thẻ, bói toán, cầu hồn, lên cơ, cúng tế, hứa nguyện<SUP><B>(1)</B></SUP> để mong liên lạc cảm thông được với quỉ thần. Hành vi này, theo nhất thần giáo là mê tín dị đoan và tà thuật. Phật giáo cũng không chủ trương có hành vi như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong tín ngưỡng dân gian, các loại thần linh xen tạp với nhau. Từ đời Tống về sau đã có xu thế tam giáo hợp lưu, gồm thâu thần, tiên, Phật, Bồ tát vào một nhà. Cuối đời Thanh, đầu năm Dân Quốc đến nay, cộng thêm thờ cả Gia tô và Hồi giáo, trở thành tôn giáo nhân gian, mà người ta gọi là ngũ giáo đông nguyên. Dân gian thông qua linh môi, thuật sĩ, đàn cơ, cơ đồng, cũng như những đạo cụ như thẻ xăm, đồng âm dương để thỉnh những quỉ thần vô danh giả xưng là thần gì đó, Phật gì đó v.v... giảng kinh. Những quỉ thần này sẽ chỉ điểm, quyết nghi, thỏa mãn, yêu cầu cho dân chúng. Lần lần Phật giáo cũng mở cửa phương tiện, để thích ứng với yêu cầu của tín ngưỡng dân gian. Điều khác nhau là, Phật giáo dùng lý trí để giải tỏa, qui hướng về chánh pháp, dùng việc tu thiện tích phước, sám hối tụng kinh, để đạt được mục đích cầu nguyện. Còn tín ngưỡng dân gian chỉ dùng hành vi mua chuộc thần Thánh để đạt thành hy vọng của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín ngưỡng dân gian coi giáo chủ các tôn giáo khác là thần, nên cũng sùng bái. Điểm khác nhau là các tôn giáo lớn đều có giáo chủ, giáo sử, giáo lý, giáo ng i, giáo đoàn truyền thừa. Còn tín ngưỡng dân gian lại lấy đầu này, gom đầu kia, sùng bái đủ mọi thần linh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ sự khảo sát lịch sử văn hóa nhân loại, tín ngưỡng dân gian thuộc hình thái tôn giáo dân tộc nguyên thủy, lại cần thiết cho nhược điểm thân tâm của nhân loại. Trong xã hội Âu Mỹ, Cơ đôc giáo đã gần hai ngàn năm thanh lý đa thần giáo, thế mà hiện nay vẫn còn dấu vết của tín ngưỡng dân gian hoạt động khắp nơi. Cho nên theo lập trường Phật giáo, cũng nên có sự khoan nhượng ở mức độ thích đáng nào đó. Song nếu vì đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng dân gian, mà hạ cấp tín ngưỡng Phật giáo, thậm chí đưa các laọi quỉ thần của tín ngưỡng dân gian lên thành hóa thân quyền hiện của Phật và Bồ tát, thì sẽ đem lại vận mệnh <B>còn danh song mất chất</B> cho Phật giáo, đồng thời, cũng bị phê bình và chỉ trích từ những người trí thức hiểu biết. Cho nên chùa Phật giáo chánh thống không nên để bàn xin xâm, đàn cơ, đồng âm dương, và cũng không nên thờ cúng các tượng thần địa phương, để tránh bị mang màu sắc tín ngưỡng dân gian, khiến người ta hiểu lầm Phật giáo sùng bái đa thần, là chi lưu của tín ngưỡng dân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo làm thế nào để thích ứng với xã hội đại chúng, thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng dân gian? Phải nên chú trọng đề xướng công năng tín ngưỡng Phật giáo và Bồ tát, hoặc xiển dương sự hiệu nghiệm của kinh chú thường dùng. Ví dụ như sự linh nghiệm có cầu tất ứng, quảng đại vô biên của Quán Thế Âm Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát. Quán Thế Âm Bồ tát được xưng là Quảng Đại Linh Cảm, Cứu Khổ Cứu Nạn, Đại Từ Đại Bi; A Di Đà Phật được xưng là Vô Thượng Y Vương, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Những vị Phật và Bồ tát này khiến cho người ta có cầu tất ứng, cầu trường thọ được trường thọ, cầu trí tuệ được trí tuệ. Đức Phật Thích Ca là một trong ngàn trăn ức hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, Ngài là vị giáo chủ cõi Ta Bà, đạo sư của trời người, đèn sáng trong đêm dài, thuyền từ nơi biên khổ. Tất cả chư Phật đều có khả năng cứu giúp bất cứ chúng sinh nào trong mọi luc mọi nơi. Tất cả chư Phật và đại Bồ tát đều có đủ sáu loại thần thông, tùy thời, tùy xứ, tùy loại nhiếp hóa, đáp ứng những nhu cầu hợp lý của chúng sinh. Vậy thì mọi người chỉ cần chọn một vị Phật, Bồ tát tu niệm, hay một pháp môn, kinh chú nào đó hành trì, sẽ dễ dàng đạt được mục đích mà tín ngưỡng dân gian yêu cầu. Huống chi còn có thể tiến thêm bước nữa, từ tầng bậc tôn giáo tín ngưỡng dân gian, tiến vào cảnh giới giải thoát tự tại, tự lợi lợi tha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mật giáo trong Phật giáo có nhiều pháp tu luyện với mục đích và tầng bậc khác nhau. Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông của Trung Quốc cũng biên tập nhiều nghi thức lễ sám và tu chứng. Nếu y theo pháp môn tu trì mà các kinh nói, thì đã khác với sùng bái đa thần của tín ngướng dân gian. Chỉ có điều, nếu truy đến ngọn nguồn Phật pháp, thì không có nghi quĩ đa dạng như vậy. Phật nói vô lượng pháp môn, chỉ cần chọn một trong những pháp môn đó rồi chuyên tâm tu trì, đều có thể trở thành tổng trì tất cả pháp. Cho nên kinh <B>Lăng Nghiêm</B> có hai mươi lăm pháp môn viên thông, đầy đủ công dụng của tất cả pháp môn. Kinh <B>Duy Ma Cật</B> còn khai thị ra pháp môn bất nhị. Nếu không y cứ vào kinh Phật làm tiêu chuẩn tu trì, sẽ dễ dàng lẫn lộn với tín ngưỡng dân gian, hợp lưu với đa thần giáo, để cho người ta có ấn tượng thần Phật như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói sâu hơn một mức nữa, là một tín đồ Phật giáo, nếu vì muốn thỏa mãn những nguyện vọng khác nhau, mà thường thay đổi phương pháp tu hành và đối tượng sùng bái, thì sẽ mất đi mục tỉêu trung tâm. Tín đồ Phật giáo chánh tín, tín ngưỡng Tam Bảo là học Phật, tu Pháp. Học Phật là học theo từ bi, trí tuệ của ngài, tu Pháp là theo sự chỉ đạo đúng đắn của chánh pháp, mà chuyên tu một pháp môn, để đạt thành mục tiêu nhất quán là trì giới, tụ định và phát tuệ. Chỉ cần không lìa nguyên tắc Tam Bảo, ngày ngày lấy việc xem kinh, làm Phật sự, trì giới, bố thí, lễ tụng, sám hối làm thời khóa tu hành, cho dù không cầu lợi ích hiện đời, cũng tự nhiên chiêu cảm phước lành trong hiện tại.</P>
</span></span>