Phật Học Quần Nghi

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">20. <B>PHẬT GIÁO CÓ TIN THUYẾT KIẾP SỐ KHÓ TRÁNH KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo không chấp nhận thuyết định mệnh, nhưng tin thuyết nhân quả. Nhân quả có thể thay đổi. Nhân trong quá khứ nếu chúng ta thêm vào những duyên hiện tại sẽ làm thay đổi kết quả. Nhưng Phật nói: <I>Định nghiệp không thể chuyển, trọng nghiệp không thể cứu</I>. Định nghiệp là tạo các nghiệp ác cực nặng, như ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết La hán, phá Tăng, làm thân Phật chảy máu.. Lại các nghiệp như: Hủy báng Tam Bảo, giết người, cướp của, đốt nhà phá đê, cưỡng hiếp phụ nữ v.v... đều là hành vi phạm tội nặng, không thể cải đổi. Bởi vì những nghiệp này không những khiến người khác mất mạng, mà còn làm ảnh hưởng lâu dài đến sự an định xã hội, cho nên phải gánh chịu quả báo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người xưa từng nói:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Muốn biết chiến tranh từ đâu có
Hãy nghe đồ tể sát sinh đêm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sát sinh quá nhiều sẽ không tránh khỏi dẫn đến chiến tranh. Chiến tranh tàn sát lẫn nhau là tác nhân gây ra cảnh binh lửa mịt mờ, nhà tan cửa nát, dân chúng lưu lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Kiếp</B> có nghĩa là thời gian hay thời hạn. Nhân ác nếu chất chứa đến một mức độ nào đó, sẽ gây ra tai nạn. Tai nạn này có khi xảy ra trong một vùng, một nước, và đôi khi lan tràn trên toàn thế giới. Nó được quyết định bởi số người tạo nghiệp nhiều ít và là nghiệp nặng hay nhẹ. Đời nay tạo nghiệp không nhất định đời nay thọ báo. Trong đời quá khứ nếu mỗi người gây tạo nghiệp ác cùng loại, trong những nơi khác nhau, sẽ chịu lấy quả báo giống nhau tring cùng một thời đại, hoàn cảnh ở tương lai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Số</B> không phải là danh từ Phật học. Khuất Nguyên trong <B>Sở Từ</B> bài <I>Bốc Cư</I> có câu: <I>Số có cái không thể đoán được, thần có điều không thể biết được</I>. Số ở đây là chỉ thuật số trong bói toán. <B>Kinh Thư</B> trong bài <I>Đại Vũ Mô</I> nói: <I>"Lịch số của trời ở nơi ngươi"</I>. Cho đến bài <I>Dữ Tào Trường Tư Thư</I> do Ứng Cừ soạn được ghi trong <B>Văn Tuyển</B> có câu: <I>Vật sinh ra ở mùa xuân thì xanh tươi, đến mùa thu thì héo úa, đó là số tự nhiên, có gì phải ân hận</I>. Đây là những lý thuyết nói về thiên lý, mệnh vận hay khí vận. Đem kiếp của Phật giáo ghép với từ số này, thành ra <B>kiếp số</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Kiếp</B> trong Phật giáo dịch âm từ tiếng Phạn Kalpa (kiếp bà). Đây là chỉ quá trình thời gian dài vô cùng, có ba loại: Đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp. Dùng tỷ lệ để thuyết minh cho tiểu kiếp: Nếu tuổi thọ nhân loại dài nhất có thể đạt đến tám vạn bốn ngàn tuổi, tuổi thọ ngắn nhất là mười tuổi, thì bắt đầu từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi một trăm năm tuổi thọ con người lại giảm đi một tuổi, giảm đến còn mười tuổi. Lại từ mười tuổi, cứ một trăm năm con người lại tăng thêm một tuổi, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Quá trình thời gian tăng giảm này gọi là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Thế gian mà chúng sinh ở chia làm bốn giai đoạn: <B>thành, trụ, hoại, không</B>. Mỗi một giai đoạn là một trung kiếp. Bốn trung kiếp thành một vòng tuần hoàn: <B>thành, trụ,hoại, không</B> gọi là một đại kiếp<SUP><B>(1)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Phật nói, chỉ giai đoạn "trụ" mới có chúng sinh hoạt động trong thế gian này. Ba giai đoạn kia chúng sinh dời đến thế gian khác. Trong khi chưa dời đi, trong giai đoạn "hoại" sẽ có các tai biến phát sinh như nạn lửa lớn, nước lớn, gió lớn gọi là <B>kiếp nạn</B>. Kiếp nạn này có thể khiến thế giới vật chất cho đến thế giới thiền định bị hủy hoại. Chúng sinh còn trong thế giới đó sẽ không thoát khỏi kiếp nạn này. Sau kiếp nạn, nếu nghiệp báo chưa dứt, nghiệp thức sẽ chuyển sinh vào thế giới khác tiếp tục thọ báo. Nếu nghiệp báo đã hết. thì chưa đợi kiếp nạn đến đã vãng sinh về cõi Tịnh Độ. Chúng sinh từ đó ra khỏi ba cõi, vĩnh viễn không còn chịu kiếp nạn, gọi là <B>ra khỏi biển khổ</B>. Tất nhiên nếu không tu trì Phật pháp mà muốn ra khỏi kiếp nạn là điều không bao giờ có.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong dân gian nói chuyện kiếp số tuy có liên quan đến Phật pháp, song họ không biết ý nghĩa chính xác của từ này; họ chỉ biết khó tránh được kiếp số, song không biết cách nào để vượt qua kiếp số. Trong dân gian khi trải qua một giai đoạn thái bình, nhân tâm sẽ lơ là, không còn cảnh giác nữa. Cuộc sống từ đó trở nên xa hoa phóng túng, đạo đức suy đồi, tư tưởng hủ bại... Lúc ấy có một số lời dự đoán xuất hiện cảnh báo mọi người, nào là thiên tai giặc giả sắp phát sinh, nào là sẽ có bao nhiêu người chết v.v... Thậm chí còn phóng đại người còn sống sót sau cơn tai nạn như cá lọt lưới không có bao nhiêu. Trong đó có một số lời tuyên đoán rằng tai nạn không sao cứu được (tận thế), song cũng có một số lời tuyên đoán kêu gọi xã hội đại chúng hãy kịp thời tu tâm dưỡng tánh, cải ác làm lành, tỉnh ngộ hồi đầu để tránh qua tai kiếp. Những lời tiên đoán này có lẽ do các vị hữu tâm thuộc tín ngưỡng dân gian nói ra, đôi khi cũng do các Phật giáo đồ phương tiện khuyến hóa thế gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu chúng sinh bị những thiên tai như nước, lửa, gió làm cho mất mạng, thì đó là do tạo nghiệp bị báo ứng tự nhiên, không phải do sức ma vương, hay ý muốn của bất cứ thế lực ác nào. Phật giáo không tán thành thuyết ma vương ra đời gây tai họa giết hại chúng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sinh muốn tránh khỏi kiếp số cần phải tu học Phật pháp. Tu ngũ giới, thập thiện sẽ tránh được khổ nạn trong ba đường dữ, tức khổ vì đao binh, nước lửa, và địa ngục; tu thiền định có thể tạm thời thoát khổi nỗi khổ phiền não trong tâm; nếu khai ngộ, đắc trí tuệ thì giải thoát được khổ đau trong tam giới. Nếu mình không có tín tâm tu trì thành tựu ngũ giới, thập thiện và thiền định trí tuệ, thì cũng nên thường niệm Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sinh về thế giới Cực Lạc, cũng được ra khỏi biển khổ sinh tử. Đáng tiếc là chúng sinh chỉ sợ quả khổ không biết tránh nhân ác. Thật ra cách tránh quả khổ tốt nhất là bỏ ác làm lánh, gieo trồng cội phúc, tu học Phật pháp, phát Bồ đề tâm, cầu thành Phật đạo. Như vậy mới có thể tránh được kiếp số ở tương lai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Đại kiếp: <I>Theo Phật Quang Đại Từ Điển dẫn Du Già Sư Địa Luận quyển 2 (Đại Tạng 30, 285c): "Thế gian này hai mươi trung kiếp sẽ "hoại", hai mươi trung kiếp trong giai đoạn "không", hai mươi trung kiếp trong giai đoan "thành", và hai mươi trung kiếp trong giai đoạn "trụ". Vậy bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không là một đại kiếp tức tám mươi trung kiếp.</I></P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">21. <B>LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGƯỜI TA TIN NHÂN QUẢ BA ĐỜI?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường thì người ta cho rằng nếu muốn biết được nhân quả ba đời, cần phải nhờ vào túc mệnh thông, dùng thiên nhãn thông để biết vị lai, mới có thể tự mình thấy được nhân quả ba đời. Thực ra, đây là quan niệm mới nghe chừng như đúng mà xét lại thì không phải.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói ba đời là chỉ thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai. Thời gian này có thể dài có thể ngắn, có thể gần có thể xa. Nếu thời gian dài có thể lấy a tăng kỳ kiếp<SUP><B>(1)</B></SUP> để tính, như a tăng kỳ kiếp đời quá khứ, a tăng kỳ kiếp đời hiện tại, a tăng kỳ kiếp đời vị lai. Ví dụ như kinh nói chúng sinh phát tâm tu hành phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Kế đó là lấy đại kiếp làm đơn vị đo thời gian. Ví dụ như nói: Kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai<SUP><B>(2)</B></SUP>. Lại kế nữa lấy sự sinh tử của sinh mạng để tính, như nói: Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Đơn vị thời gian ngắn nhất là sát na, còn ngắn hơn cả một cái chớp mắt. Ví dụ như nói: Sát na quá khứ, sát na hiện tại, sát na vị lai. Tất cả chúng sinh nếu không ra khỏi sinh tử đều luân chuyển mãi trong thời gian ba đời vô cùng tận này. Nếu cho rằng chỉ có đời trước, đời nay và đời sau là nhân quả ba đời thì không khỏi có phần cạn cợt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người ta đã biết được nhân quả ba đời ngay trong đời hiện tại, thì nhất định sẽ suy ra nhân quả ba đời vô tận. Ta có thể dựa vào ký ức, kinh nghiệm để tin tưởng, chấp nhận nhân quả trong đời hiện tại. Song vấn đề ở chỗ, do sự việc và quan hệ nhân quả trong đời trước và đời sau cơ hồ vượt ra phạm vi ký ức của tế bào não, cho nên khó mà tin và chấp nhận được. Vì vậy người ta mới cầu đến quỷ thần và thần thông trợ giúp, đợi khi tự thân thấy được dòng sinh mệnh trong quá khứ, hiện tại, vị lai mới thực sự tin chắc không nghi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thần thông và sức quỷ thần là điều có thật, song vô cùng giới hạn. Nó có thể khiến người ta biết được quá khứ, hiện tại, vị lai, song chỉ trong phạm vi hết sức hạn hẹp, làm sao biết được mọi chuyện trong khoảng thời gian vô cùng? Cho nên người ta đối với nhân quả ba đời vẫn hoài nghi không sao giải quyết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cách giải quyết triệt để vấn đề này của Phật pháp không dựa trên thần thông và sức quỷ thần. Phật pháp dạy chúng ta: <I>Muốn biết việc quá khứ hãy xem quả hiện tại; muốn biết việc vị lai, hãy xem nhân hiện tại</I>. Đời này chính là vị lai của quá khứ, đời nay cũng chính là quá khứ của vị lai. Cho nên ta phải hiểu rõ, nắm vững giờ phút hiện tại, tức là đã bao quát cả nhân quả ba đời. Nếu không cứ truy tìm mãi, ngoài việc tăng thêm phiền nhiễu và lãng phí thời gian hiện tại ra, không ích lợi gì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện tại gặp điều may mắn, nhất định là nhờ nghiệp nhân tốt trong quá khứ; hiện tại gặp phải vận xấu, nhất định là do ác nghiệp quá khứ tạo thành. Vận may ở tương lai là nhờ vào nghiệp lành quá khứ cộng thêm nỗ lực hiện tại; vận xấu ở tương lai cũng là do nghiệp ác quá khứ cộng thêm hiện tại giải đãi tạo thành. Vận mệnh được quyết định dựa trên hành vi thiện ác trong ba đời, nhưng quan trọng nhất vẫn là hiện tại. Tùy thuộc vào hiện tại siêng năng hay giải đãi, làm lành hay tạo ác mà có thể cải đổi vận xấu, hay làm mất đi vận tốt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một số người do không thể thấy quá khứ, vị lai nên không tin sự tồn tại của quá khứ, vị lai. Thực ra, nếu nói không thấy sẽ không tin, thì ngay trong cuộc sống này chúng ta sẽ không tin nhiều việc. Ví dụ như: Những sự tích của tổ tiên được ghi lại trong lịch sử dân tộc, gia phả dòng họ đều là những điều ta không thể tận mắt trông thấy. Song tuy không trông thấy được tổ tiên của mình, nhưng không thể do đó mà phủ nhận sự tồn tại của tổ tiên. Vì vậy, thân thể hiện nay là di truyền của tổ tông, và cũng có thể di truyền cho con cháu của ta ở vạn đời sau. Đó chính là nhân quả ba đời của nhục thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước và sau đời hiện tại tất nhiên có quá khứ vô thủy và tương lai vô cùng. Ngoài nhục thể vật chất này ra, quyết nhiên có sinh mệnh tinh thần, mà Phật giáo gọi là thần thức lưu chuyển. Theo quan niệm duy vật, người chết như đèn tắt đi, ngoài vật chất ra không có tinh thần. Luận điệu này khiến người ta có thái độ vô trách nhiệm đối với hành vi của mình, thậm chí còn dẫn đến hành vi tàn sát, tranh đấu. Người ta sẽ vì lợi ích cá nhân hay giai cấp của mình, mà không từ bất cứ thủ đoạn nào để tước đoạt tài sản và sinh mệnh của những cá nhân, giai cấp, dân tộc khác. Cho nên nếu muốn có chỗ nương về chắc chắn, xác định rõ phương hướng tương lai để nỗ lực, thì tin nhân quả ba đời là điều an toàn xác đáng nhất. Nếu toàn thể nhân loại có thể tin nhân quả trong ba đời, thì sẽ tạo nên cảnh sống chung hạnh phúc trong sự tôn trọng, giúp đỡ, thông cảm với nhau. Nếu không, gây nhân nào sẽ gặt quả nấy. Không phân thiện ác, chỉ thấy lợi hại sẽ tạo nên sự bất an, loạn động trong thế giới tương lai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) A tăng kỳ; <I>Tức vô số. Kinh Phật thường dùng a tăng kỳ kiếp để chỉ vô số kiếp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2): <I>Khái niệm kiếp và đời khác nhau. Về khái niệm kiếp, xin tham khảo ở bài 20 và phần chú thích. Ở Việt Nam thường cho rằng đời và kiếp là một, ví dụ nói kiếp trước tức đời trước, kiếp sau tức đời sau. Như Nguyễn Công Trứ nói:
<p style="padding-left: 30px;">Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đứng trên quan điểm Phật học nói, chúng ta nên phân biệt hai khái niệm này và dùng từ thích đáng.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">22. <B>QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI TƯỚNG MỆNH VÀ PHONG THỦY</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tướng mệnh, chiêm tinh và địa lý phong thủy có rất sớm trong lịch sử nhân loại. Theo truyền thuyết của những nhà tướng mệnh, chiêm tinh trước đời thái cổ khi trời đất mới thành hình, vốn đã có những nguyên lý của thuật này rồi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo quan điểm của Phật giáo, không phủ nhận song cũng không khẳng định, vì những thuật này tuy có những đạo lý nhất định, song không phải là chân lý tuyệt đối. Cho nên, nếu tin thì cũng không nên quá mê tín, nếu không tin thì cũng không có tai hại gì cả. Cho nên, đức Phật Thích Ca Mâu Ni răn cấm các đệ tử không cho làm các việc như xem tướng, chiêm tinh, phong thủy, bói toán, song cũng không phủ định sự tồn tại của những thuật này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuật chiêm tinh nói về mối quan hệ giữa sự vận hành thiên thể với vị trí trái đất. Giữa thiên thể và trái đất có một quĩ đạo nhất định, tạo nên sự thay đổi thời tiết khí hậu, sự phối trí hành thái dịa lý và hoàn cảnh sống của con người, sinh vật trên đó. Nếu phối hợp với ngày, giờ, tháng, năm sinh rồi cộng trừ nhân chia tìm ra nguyên tắc mệnh lý của mỗi người. Ví dụ tuổi con ngựa sinh vào phương bắc mùa đông là mệnh không tốt, bởi con ngựa ở mùa đông phương bắc không có cỏ ăn. Nếu tuổi con thỏ<SUP><B>(1)</B></SUP> sinh vào mùa xuân phương nam, do gần núi gần nước nên mệnh sẽ tốt. Nhưng lập trường của Phật giáo: Họa phúc kiết hung của mỗi người đều là kết quả nghiệp nhân thiện ác quá khứ chiêu cảm. Song nghiệp nhân quá khứ đó còn tùy thuộc vào hiện tại cố gắng hay giải đãi, sẽ làm thay đổi hay ảnh hưởng đến mệnh vận hiện đời. Đây là nhân tố thiên tiên cộng thêm điều kiện hậu thiên để tạo nên cái gọi là vận mệnh tốt xấu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do quá khứ tạo nên những nghiệp nhân khác nhau, cho nên chiêu cảm ra hoàn cảnh đời nay cũng khác nhau. Nói hoàn cảnh là bao gồm di truyền của cha mẹ, bối cảnh văn hóa và văn minh, dưỡng dục và giáo dục, cho đến anh em, thân thích, sư trưởng, bè bạn, đồng sự... cũng đều ảnh hưởng đến vận mệnh tốt xấu. Chỉ cần chú ý trau dồi nội tâm, rèn luyện thân thể, tăng trưởng trí thức và khai mở trí tuệ thì sẽ có thể cải đổi vận mệnh sẵn có. Cho nên nếu chỉ căn cứ theo ngày, giờ, tháng, năm sinh để phán đoán vận mệnh của một đời người thì chỉ đúng một phần đối với người bình thường, còn bậc trung thượng trở lên thì không chính xác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xem số và xem tướng nên nói riêng ra. Xem số là dựa trên ngày, giờ và năm tháng sinh thuộc cái có sẵn. Xem tướng là tổn ghợp từ khi sinh ra, một mặt thừa tiếp di truyền của cha mẹ, bao gồm tướng mặt, tướng xương, tướng giọng nói, tướng tay; một mặt là tự mình rèn luyện hay buông thả, khỏe mạnh hay tàn phế, cho đến tâm lý có được cân bằng hay không, khiến cho thân tướng không ngừng biến đổi theo quá trình sinh mệnh. Cho nên mệnh lý tính theo ngày, tháng, năm sinh là cái không thể thay đổi, còn tướng lý thì luôn thay đổi. Do đó tướng không có dịnh tướng, mệnh không có định mệnh. Đương nhiên có thể tin một phần hay không tin cũng được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn phong thủy, địa lý là dựa trên phương vị thiên thể và địa thế để quyết định nó đối với con người có ảnh hưởng lợi hại như thế nào. Những điều này thuộc về tự nhiên và thường thức. Thuận với tự nhiên thì sẽ được lợi ích của thiên thời, sông núi; còn trái với tự nhiên sẽ có điều bất lợi. Nói theo triết học, đây thuộc về triết học ứng dụng hình nhi hạ, hay khoa học tự nhiên. Gần đây người ta dùng y cứ khoa học từ trường, từ lực để thuyết minh nguyên lý phong thủy: Thuận phương vị với từ trường và ngay điểm tập trung của từ lực thì có ích đối với thân thể và trợ giúp cho tâm tính con người. Nếu không kết quả sẽ trái lại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phong là không khí, là sức sống đến từ không trung; thủy là sức sống đến từ đất, thứ cần thiết cho muôn vật phát triển. Có sự phối hợp của hai sức sống này, thêm vào sự hấp thụ ánh sáng đầy đủ theo vị trí địa lý, như vậy thật gần giống với ba yếu tố sinh mệnh mà hiện nay người ta nói: Ánh nắng, không khí và nước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Lý Dị Nông, nhà địa lý học nổi tiếng mà tôi quen thân nói: Phải có ba điều kiện phối hợp:
<p style="padding-left: 30px;"><B>1. Tích lũy công đức.
2. Ngày giờ năm tháng sinh.
3. Địa lý phong thủy.</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thì mới được giàu sang trường thọ. Ngày, giờ, năm, tháng sinh là mệnh lý tiên thiên, tích lũy công đức là nỗ lực tu dưỡng, còn địa lý phong thủy chỉ chiếm một phần ba trong đó. Nếu mệnh lý xấu, lại thêm tâm ác, hành vi bất chính sẽ tìm không ra phong thủy tốt. Cho dù tìm ra phong thủy tốt cũng bị những tai biến tự nhiên như lụt lội, động đất phá hoại đi. Ông ta còn bảo: <I>Phong thủy ba phần, ra sức bảy phần</I>, nghĩa là phong thủy cần phải cộng thêm sự nỗ lực của con người để cải thiện hoàn cảnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xưa nay các vị tổ sư đều ở nơi núi cao rừng sâu, phát hoang dã, lập tòng lâm, nuôi chúng tu học, trở thành nơi danh sơn sau này. Đã là nơi danh sơn tất nhiên địa lý phong thủy phải tốt, trải qua cả ngàn năm, muôn đời vẫn không suy bại. Tuy có dịa lý phong thủy tốt như thế, nhưng những vị đại sư không phải là những người có tri thức chuyên nghiệp về phong thủy. Có khi không cần nhân công mà có hiện tượng thay đổi dịa lý một cách tự nhiên. Như năm 1936, đại lão hòa thượng Hư Vân lúc trùng tu chùa Nam Hoa, là chốn tổ đình Tào Khê, thì có hiện tượng mưa lớn tạo nên bờ đê tự nhiên, nước sông thay đổi dòng chảy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra, khi tìm chỗ mới cho Trung Hoa Phật giáo Văn Hóa Quán ở Bắc Đầu, tôi chỉ tự mình xem hoàn cảnh địa lý tự nhiên, thấy thuận thế và có cảm giác thư thới liền quyết định chọn nơi này. Sau đó các nhà địa lý chuyên nghiệp đến xem đều bảo rất tốt. Tôi là người không biết chút gì về tri thức địa lý phong thủy, chỉ biết nguyên lý của tự nhiên, cho rằng nguyên lý phong thủy cũng tương thông với nguyên lý này. Do đó tôi vừa tin và vừa không tin. Nếu như cá nhân tôi thì không cần phải tin, còn như tùy tục, khiến mọi người an tâm, mời chuyên gia đến xem lấy ý kiến tham khảo thì cũng không sao. Nói tham khảo nghĩa là chỉ xem xét thế nào, không thể mù quáng tin nghe theo lời họ, nếu không sẽ tạo nên khốn nhiễu về mặt tâm lý và sự bất tiện trong cuộc sống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét ra, trên thực tế những nhà địa lý chuyên nghiệp, nổi tiếng rất ít khi tìm ra được phong thủy địa lý tốt cho mình; cũng ít có nhà chiêm tinh nào có thể dùng học lý và kinh nghiệm để cải đổi vận mệnh tự thân. Do đó người Phật tử phải lấy sự tu học Phật pháp làm căn bản, người xuất gia phải lấy Phật pháp giáo hóa khai đạo cho chúng sinh làm chánh nghiệp. Còn như lấy mệnh lý, tinh tướng, phong thủy làm nghề chuyên môn thì đó là điên đảo gốc ngọn! Người trí lực bậc thượng có thể tìm hiểu xem, người bậc trung hạ nếu nghiên cứu những tạp thư ngoại thuật này sẽ làm lãng phí thì giờ, trở ngại việc tu học, cần phải ngăn cấm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1): <I>Trong mười hai con giáp, con giáp thứ tư là mão, tức con thỏ theo người Trung Quốc, và là con mèo theo Việt Nam.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">23. <B>NIỆM PHẬT MỘT TIẾNG TIÊU TỘI HẰNG HÀ SA CÓ ĐÚNG KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đây là câu trong kinh <B>Pháp Hoa</B>, đứng trên quan điểm phát tâm mà nói.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật cứu độ chúng sinh nghĩ là dạy bảo, khiến họ hiểu được chân lý rồi tự mình bỏ ác làm lành, lại từ nghiệp hữu lậu tiến đến nghiệp thiện vô lậu. Nói cách khác, ban đầu dạy họ tránh điều ác để khỏi đọa vào ba đường dữ, kế đó tiếp tục nỗ lực tu tập phước báo cõi trời, thành tựu nghiệp thiện hữu lậu; sau cùng tu Bồ tát đạo cho đến Phật đạo để thành tựu nghiệp thiện vô lậu. Đây mới chính là diệt tội một cách triệt để.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh nói: <I>Tội bản tính không do tâm tạo, nếu tâm diệt rồi tội cũng không</I>. Tội do nơi gây tao nghiệp ác kết thành, lại gọi là tạo phiền não cấu hay tội cấu. Tạo tội phải có đủ ba điều kiện: Có tâm phạm tội, biế́t là phạm tội và xác định đã phạm tội. Nếu thiếu một trong ba điều kiện đó sẽ không thành trọng tội hay không phạm tội. Trong đó quan trọng nhất là ý niệm. Nếu giết người mà không có một dự mưu, cũng không biết là giết người, thì cũng không phạm giới giết người. Ví dụ như người tâm ý cuồng loạn. mất đi lý trí, tuy giết người song không phạm tội giết người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người niệm Phật tâm hướng về Phật, chỉ một niệm này đã siêu vượt tam giới. Nếu niệm thứ hai lại quên niệm Phật thì vẫn ở trong tam giới. Tâm niệm Phật khế hiệp với Phật tướng sẽ viễn ly vô lượng tội nghiệp. Mỗi niệm đều niệm Phật, thì mỗi niệm xa lìa vô lượng tội nghiệp. Vĩnh viễn niệm Phật sẽ không chịu quả báo trong ba cõi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Diệt tội có hai ý: Thứ nhất là xa lìa nghiệp nhân tội ác; thứ hai là không thọ quả báo của nghiệp tội. Nói không thọ quả báo cũng có hai ý nghĩa. Thứ nhất là người đã giải thoát tuy thọ thân trong tam giới<SUP><B>(1)</B></SUP> nhưng không thấy là khổ, nên cũng như không có quả báo. Thứ hai là hạt giống nghiệp tội đã lâu không có cơ hội thọ báo, giống như hạt giống thực vật bỏ trên tảng đá, phơi nắng lâu ngày sẽ tự nhiên mất đi khả năng nảy mầm, sinh trưởng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Tam giới (ba cõi): <I>Là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới là thế giới nặng lòng dục, nhất là sắc dục và thực dục, gồm trên từ sáu cõi trời dục giới, dưới đến cõi người, địa ngục v.v... Sắc giới là chỉ thế giới sắc tướng xinh đẹp thuộc các cõi trời sắc giới. Vô sắc giới là thế giới không còn dục tâm, hình sắc nữa, chỉ là cảnh giới thiền định phi tưởng phi phi tưởng xứ v.v..., song vi tế phiền não vẫn còn. Ba cõi này là cảnh giới của phàm phu và ngoại đạo, nằm trong vòng sinh diệt vô thường. Nên Kinh Pháp Hoa nói: "Ba cõi không an, dường như nhà lửa"</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">24. <B>MANG NGHIỆP VÃNG SANH CÓ PHẢI LÀ TRỐN NỢ KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mang nghiệp vãng sanh là quan niệm của người tu pháp môn Tịnh Độ. Song trong kinh điển không có danh từ này. Cho nên vài năm trước đây từng xảy ra cuộc tranh luận giữa người tu Du già Mật giáo và hành giả Tịnh Độ Hiển giáo về vấn đề <B>tiêu nghiệp vãng sinh</B> hay <B>mang nghiệp vãng sinh</B>. Song xét kinh <B>Quán Vô Lượng Thọ</B> và kinh <B>Vô Lượng Thọ</B> đều có nói: <I> Phàm phu trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nương vào sức đại thệ nguyện của ngài, tuy đã từng tạo nghiệp ác lớn cũng vẫn có thể vãng sinh về cõi Cực Lạc</I>. Cho nên người tu Tịnh Độ ở Trung Quốc đề xướng thuyết <B>mang nghiệp vãng sinh</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói theo cách thông thường, Bồ tát đến thế gian cứu độ chúng sinh là nhờ vào nguyện lực; còn phàm phu thọ báo trong thế gian là do nghiệp lực. Khi chúng sinh thọ quả báo đồng thời cũng gây tạo thêm nghiệp, không luận là gây tạo nghiệp nhân thiện hay ác đều không thể ra khỏi ba cõi. Nếu gây nghiệp ác nặng phải đọa trong ba đường dữ chịu khổ; nếu tạo nghiệp thiện lớn sẽ sinh lên cõi trời hưởng phước. Còn như tạo nghiệp thiện đồng thời cũng gây nghiệp ác thì sinh vào nhân gian hay thần đạo, vừa hưởng phước báo vừa chịu khổ báo, song vui ít khổ nhiều. Chỉ có nghiệp giải thoát tu hành thanh tịnh, cũng chính là ngoài năm giới, thập thiện ra, cộng thêm tu tập dịnh huệ, cho đến khi đoạn trừ phièn não, mới có thể ra khỏi sinh tử, thoát hẳn ba cõi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ là phương tiện thù thắng, có thể nhờ vào sức thệ nguyện của Phật A Di Đà mà vượt ngang ba cõi. Phàm người có lòng tin sâu chắc và thiết tha phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc, thì dù có sinh tử trọng tội, vô số ác nghiệp cũng có thể vãng sinh. Vị ấy ở đó sẽ tiếp tục tu học, huân tập Phật pháp, tăng trưởng Bồ đề. Do hoàn cảnh cõi Tịnh Độ thù thắng, nên chẳng những không có cơ hội tạo nghiệ̣p ác, mà còn khiến cho những chủng tử ác nghiệp gây tạo từ trước cũng lần lần mất đi khả năng sinh trưởng, do đó tránh được thọ báo. Đây chính là lý luận <B>mang nghiệp vãng sinh</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tất nhiên nơi cõi Tịnh Độ Tây phương, hành giả sau khi tu chứng thánh quả, đạt đến quả vị bất thoái sẽ trở lại Ta Bà, hiện đủ thân tướng, hoặc nhờ thai sinh ra, hoặc là biến hóa hóa sinh để độ thoát mọi loài. Nếu nhờ thai sinh ra sẽ có thân thể và hoàn cảnh giống như phàm phu, cũng chịu đựng những khổ não bức bách như người bình thường. Đối với chúng sinh phàm phu thì đây là nghiệp báo. Song đối với Thánh giả nương nghiệp lực xuất thế, tuy thọ báo song không có đau khổ. Cho nên tuy mang nghiệp vãng sinh song không phải là trốn nợ, tuy thân thọ quả báo song khác xa với phàm phu chúng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như vậy có thể thấy, nếu không vãng sinh Tịnh Độ sẽ vĩnh viễn trôi nổi trong biển khổ sinh tử, không ngừng tạo nghiệp thọ báo, thọ báo tạo nghiệp, tuần hoàn không dứt gọi là lưu chuyển. Nếu có thể vãng sinh Tịnh Độ, mang nghiệp ra đi, tiêu nghiệp trở lại, đến thế gian thọ báo đối với những vị đó không có thực chất chịu quả khổ, chỉ tương tự như hiện tượng quả báo. Do đó chúng ta cũng nên tin quan niệm <B>mang nghiệp vãng sinh</B> và <B>tiêu nghiệp thọ báo</B>. Song phải chú ý điều này khác xa với <B>tạo nghiệp thọ báo</B> của phàm phu chúng sinh. Bởi vì một đàng là tự chủ, nương vào nguyện lực cứu độ chúng sinh; một đàng là bị nghiệp lực trói buộc, không tự chủ, trong vòng tuần hoàn quanh quẩn của quả khổ và nhân khổ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song Mật giáo có lý luận của họ, cho rằng có thể tu trì Mậ̣t pháp, hay dựa vào sức gia trì của một vị đại tu hành nào đó, khiến cho tức thân tiêu trừ tất cả nghiệp chướng, vãng sinh cõi Phật với thân tâm thanh tịnh không chướng ngại. Nghe ra thật hết sức hấp dẫn, thực chất lại tương tự với quan niệm thần lực chuộc tội, thay tội, tiêu tội, miễn tội của nhất thần giáo, không khế hợp với quan niệm nhân quả trong Phật pháp.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">25. <B>SAO GỌI LÀ NIỆM PHẬT ĐẾN NHẤT TÂM BẤT LOẠN?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm bất loạn có xuất xứ từ kinh <B>A Di Đà</B>. Trong kinh <B>Di Giáo</B> cũng có câu: <I>"Chế tâm một chỗ không việc gì là không xong"</I>. Nhất tâm bất loạn là một trong những pháp môn tu tịnh, còn gọi là <I>Niệm Phật Tam Muội</I> hay <I>Nhất Hạnh Tam Muội</I>. Trong phẩm <I>Nhập Pháp Giới</I> quyển 46 của kinh <B>Hoa Nghiêm</B> đời Tấn dịch có nêu ra hai mươi mốt loại <I>Niệm Phật Tam Muội</I>. Kinh <B>A Di Đà</B> nói nếu từ một ngày cho đến bảy ngày chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn, thì khi mạng chung sẽ vãng sinh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất tâm là đối với tán tâm mà nói. Nếu miệng niệm danh hiệu Phật, trong tâm lại vọng tưởng đủ thứ, đó chính là tán tâm niệm Phật. Nếu niệm Phật đạt đến tâm và miệng tương ưng, không có vọng tưởng tạp loạn, chỉ có danh hiệu Phật tương tục không chút gián cách, không niệm mà tự niệm, thì đã đạt đến trình độ công phu như kinh <B>Lăng Nghiêm</B> nói: <I>"Tịnh niệm tương kế"</I> (Tịnh niệm tương tục không gián cách).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo đại sư Liên Trì cuối đời Minh trong quyển <B>A Di Đà Sớ Sao</B> nói: <I>Nhất tâm có thể phân thành sự nhất tâm và lý nhất tâm. Sự nhất tâm là tâm không tạp niệm, tâm và miệng tương ưng, mỗi niệm đều là Phật hiệu</I>. Tự mình biết rằng đang niệm Phật và có danh hiệu Phật đang niệm thì đó là nhất tâm niệm Phật hay toàn tâm niệm Phật. Do nơi chuyên tâm niệm Phật có thể thành đạt trình độ mà Thiền tông gọi là <B>công phu thành phiến</B>. Sâu hơn mức nữa là mới là tam muội hay chánh định, cũng chính là cảnh giới vô ngã giác thọ hiện tiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lý nhất tâm là tương ưng với lý, đích thân trông thấy pháp thân Phật A Di Đà. Phật A Di Đà tức là tự tánh, cõi Tây phương không khác tâm ta. Đó chính là cảnh giới hiện tiền <B>tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ</B>. Sự nhất tâm thuộc về thiền quán, thiền định; lý nhất tâm thuộc về thiền ngộ. Đây là kết quả của Thiền Tịnh song tu. Lấy niệm Phật làm nhập môn, đạt thành mục đích tam muội, liễu ngộ, giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thông thường nói nhất tâm bất loạn là chỉ sự chuyên tâm nhất ý. Khi niệm Phật tâm buộc vào hiệu Phật, miệng trì niệm danh Phật, tai lắng nghe tiếng niệm Phật. tâm không dùng vào hai việc, thì khi mạng chung sẽ được vãng sinh.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">26. <B>NGƯỜI NIỆM PHẬT TRÔNG THẤY TƯỚNG LÀNH PHẢI LÀM SAO?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn niệm Phật thuộc hữu tướng. Kinh <B>Quán Vô Lượng Thọ</B> được nói ra với nhân duyên: Vào thời đức Phật, ác vương A Xà Thế sau khi soán ngôi đã cầm tù vua cha là Tần Bà Sa La và mẹ là hoàng hậu Vi Đề Hi. Hoàng hậu trong chốn lãnh cung cầu nguyện đức Phật Thích Ca đến an ủi thuyết pháp. Đức Phật cảm ứng lòng thành, dùng thần thông khiến các cõi nước Phật thanh tịnh vi diệu ở mười phương hiện ra trước mặt bà. Hoàng hậu đã chọn thế giới Cực Lạc phương Tây của Phật A Di Đà. Đức Phật kế đó giảng cho bà nghe mười sáu pháp môn tu tập vãng sinh về thế giới đó. Nghe xong, hoàng hậu cùng năm trăm thị nữ đều chứng Vô sanh pháp nhẫn, cùng được vãng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh này nói vãng sinh Tịnh Độ phương Tây có phân ra chín bậc cao thấp. Khi lâm chung không luận vãng sinh thuộc thứ bậc nào cũng đều thấy được tướng lành như Phật, Bồ tát, hoa sen, đài báu hiện ra trước mắt. Cho nên trong quá trình niệm Phật, nếu thấy chư Phật, Bồ tát thị hiện ra các tướng lành, hay cõi Tịnh Độ y báo, chánh báo trang nghiêm cũng là việc bình thường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <B>Địa Tạng</B> kể lại tiền thân Bồ tát Địa Tạng trong đời quá khứ là nàng Quang Mục. Nàng nhờ niệm danh hiệu đức Liên Hoa Mục Như Lai và lập tượng cúng dường, nên nằm mơ thấy Phật phóng quang khai thị, lại đích thân nghe Phật dạy bảo. Lại trong đời quá khứ khác, Bồ tát Địa Tạng là một cô gái Bà la môn, vì cứu độ mẹ mà cúng dường tượng đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Lúc đó, nàng nghe từ không trung có tiếng đức Phật ấy bảo nàng hãy trở về nhà ngồi ngay thẳng tư duy, hệ niệm danh hiệu ngài, trải qua một ngày một đêm được đích thân đến chốn địa ngục. Đây cũng là nói, do nơi sám hối tội lỗi được thấy đức Giác Hoa Dịnh Tự Tại Vương Như lai, chính là tướng lành diệt tội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu lúc bình thường niệm Phật không cầu thấy tướng lành mà tướng lành tự hiện, thì có thể là tốt mà cũng có thể không tốt. Nếu chỉ vì cầu thấy tướng lành mà niệm Phật, thì tâm niệm Phật không thanh tịnh thuần nhất. Như vậy nếu có tướng lành xuất hiện cũng là do tinh thần hoang tưởng mà ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong tình trạng mong cầu linh nghiệm, tâm lý bị kích thích, đầu óc mệt mỏi, hay mong cầu khẩn thiết rất dễ sinh ra huyễn tướng. Nếu nhẹ thành ra bệnh thần kinh chất<SUP><B>(1)</B></SUP>, nếu nặng sẽ trở nên ma chướng cuồng loạn. Lúc đó phải hết sức cẩn thận mới được. Lại do tâm chí thành cảm ứng, hay tâm chí thiết kỳ cầu, cũng có thể xuất hiện tướng lành huyễn hóa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó, theo Phật giáo chánh tín, mục đích niệm Phật không phải cầu tướng lành hiện tiền. Nếu thấy hào quang, thấy hoa, ngửi được mùi thơm, nghe thấy âm thanh, ví dụ như thấy thánh cảnh Tịnh Độ, chư Phật, Bồ tát, chỉ cần tâm không tham luyến, ý không điên đảo, nhất tâm niệm Phật là cách an toàn nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại lúc lâm chung thấy tướng lành mà không phải do tưởng tượng, chỉ tự nhiên chiêu cảm ra, sẽ bàn đến trong bài kế tiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như khi niệm Phật thường xuất hiện tướng lành thì không phải là điều tốt. Vì như vậy sẽ khiến người niệm Phật không thể chuyên tâm trì niệm, thậm chí dẫn dắt hành giả lầm đường lạc lối, xa lìa Phật pháp, thành ra công cụ để quỉ thần biểu hiện khả năng đặc dị, tuyên truyền tư tưởng ngoại đạo. Nếu tự mình không cách nào phân biện tà chánh, thì đừng để ý đến nó, chỉ luôn chú tâm vào câu Phật hiệu, tướng lành liền tự ẩn mất. Nếu như bị nó bám theo không sao dứt được, tốt nhất nên trình thưa với các bậc cao tăng, đại đức cư sĩ. Các vị ấy sẽ dựa vào pháp nghĩa chánh tín chỉ bảo cho.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1): <I>Người bệnh thần kinh chất, tâm thần không ổn định, dễ bị hoang mang, lo lắng, khẩn trương, do thần kinh quá sức mẫn cảm.</I> </P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">27. <B>LÚC LÂM CHUNG THẤY TƯỚNG LÀNH CÓ PHẢI CHỨNG TỎ LÀ GIẢI THOÁT KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể là giải thoát, song phần lớn là không phải. Nói tướng lành hiện ra khi lâm chung là chỉ hương thơm lan tỏa khắp nhà, nhạc trời vang trên hư không, hào quang xuất hiện, Phật và Bồ tát hiện hình, chim thú cùng nhau kêu vang, hoa chợt nở rộ, cỏ cây đổi màu, gió mây thay đổi, sấm chớp ngang trời, di thể mềm mại, cho đến sau khi trà tỳ có xá lợi. Đây là tướng phúc đức do tu thiện tích đức. Khi sanh tiền làm người chánh trực, thường hay bố thí, lúc lâm chung có thể xuất hiện tướng lành, sau khi chết thành vị quỉ thần đại phước đức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu tội phước đều có, song phước nhiều hơn tội, tham sân chưa trừ, thì trở thành đại lực quỉ; nếu tham sân nhẹ, phước đức dồi dào sẽ sinh lên cõi trời dục giới; còn như tu hành Phật pháp, giới định tuệ đầy đủ, cho dù không ra khỏi tam giới, cũng sẽ sinh vào cõi trời Đao Lợi ở dục giới hay trời Ngũ Tịnh Cư ở sắc giới. Sau khi sinh thiên, cũng có thể thấy Phật nghe pháp, cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương, thường cùng các vị đại Bồ tát tập hội một chỗ, lần lần ra khỏi tam giới, giải thoát sinh tử. Nếu thọ trì tam quy ngũ giới, tinh tấn niệm Phật, nhất tâm muốn vãng sinh về thế giới Cực Lạc, khi mệnh chung sẽ được vãng sinh. Đương nhiên, có vô lượng thế giới chư Phật trong mười phương, tùy ý nguyện vãng sinh thảy đều được cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó có thể thấy, chỉ cần ở nhân gian tích phước, tu thiện thì sẽ không đọa xuống ba đường dữ, sinh vào cõi người, cõi trời. Lúc lâm chung những vị đó cũng có ít nhiều tướng lành hiện ra. Có một số tướng lành chỉ đương sự lúc lâm chung thấy được, có tướng lành nhiều người trông thấy hay mọi người đều thấy, thậm chí có thể dùng máy chụp hình, thu âm ghi lại. Như vậy càng khiến người ta phát khởi tín tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như thân thể mềm mại, sắc mặt tươi như lúc sống, đương nhiên cũng là thuộc tướng lành có thể sinh lên cõi trời; song cũng có thể là đại lực quỉ thần mượn đó để tỏ sự thần dị của mình mà chẳng phải do công đức bản thân người chết. Mục đích chủ yếu của họ là biểu hiện thần lực của mình để hấp dẫn càng nhiều tín đồ đến sùng bái, kính ngưỡng. Còn như các tướng lành khác cũng có thể dựa vào đây suy ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo nguyên tắc, tướng lành không phải là việc xấu. Nó có thể khích lệ người ta bỏ ác làm lành, song không có nghĩa như vậy là được giải thoát. Kinh <B>Kim Cang</B> nói: <I>Phàm những gì có tướng đều là hư vọng</I>. Giải thoát là ly tướng, không chấp trước vào tướng. Trong tâm đã vô tướng, thì bên ngoài có tướng lành hay không đều không quan trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song cũng không thể nói, khi lâm chung khiến mọi người trông thấy tướng lành là chứng tỏ người đó chưa giải thoát. Ví dụ như đức Phật Thích Ca lúc nhập Niết bàn có nhiều loại tướng lành xuất hiện. Khi các vị cao tăng, đại đức các trong các đời viên tịch thường cũng có tướng lành. Đây không phải là bản thân họ biểu hiện, mà do Hộ pháp Long thiên tỏ ra hoan hỷ hay buồn thương. Hoan hỷ vì có người giải thoát và buồn thương vì người ấy lại ra đi. Tướng lành xuất hiện phần lớn do thần lực của chư thần, tuy có quan hệ với người mất, nhưng không quan trọng. Nó tuy có tác dụng khích lệ và khiến người khác khởi lòng tin, nhưng không thể khẳng định đây là biểu trưng của sự giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trái lại, khi lâm chung hiện ra tướng dữ, cũng không nhất định chứng minh là người đó không được giải thoát. Ví dụ các đại A la hán như Mục Kiền Liên, Ưu Đà Di, Liên Hoa Sắc v.v... bị người đánh chết, có trường hợp bị ném vào hầm phân. Đây là do nghiệp báo đời quá khứ khiến như vậy, không có liên quan gì đến việc giải thoát đời này.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">28. <B>LÀM CÁCH NÀO BIỆN MINH KHI LÂM CHUNG LÀ MA CẢNH HAY PHẬT ĐẾN TIẾP DẪN?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu nói theo kinh <B>Kim Cang</B>: <I>"Phàm những gì có tướng đều là hư vọng</I>". Bởi vì thật tướng là vô tướng, nên Tịnh Độ có tướng đều nằm trong tam giới, chính là nhân gian Tịnh Độ hay Tịnh Độ cõi trời, mà không phải là báo độ cõi Phật ngoài tam giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên từ xưa đã có cao tăng, đại đức cho rằng cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà là <I>cõi phương tiện</I>, hay <I>cõi phàm Thánh đồng cư</I>, mà không phải là <I>cõi Thật báo </I> của Phật. Nhưng đại sư Thiện Đạo đời Đường cho rằng cõi Cực Lạc Tây phương là do sức thệ nguyện xưa của Phật A Di Đà tạo thành, thuộc Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Phàm phu nếu không thể từ hữu tướng tu hành thực chứng vô tướng, tiến vào Thật Báo độ, thì cũng có thể dựa vào nguyện lực đức Phật A Di Đà mang nghiệp vãng sinh về cõi Thật Báo đó. Chỉ có điều nếu chưa chứng nhập thật tướng mà vãng sinh về cõi Thật Báo của Phật A Di Đà, thì không thể trông thấy báo thân Phật, chỉ trông thấy hóa thân của ngài. Đây cũng có nghĩa là cõi Thật Báo vô tướng, không ngại gì có hóa thân hữu tướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật và Bồ tát tiếp dẫn nhất định thuộc về hữu tướng. Đã là hữu tướng tất nhiên hư vọng. Như vậy sao lại nguyện cầu vãng sinh? Đó là vì nếu không vãng sinh Tịnh Độ, trong cõi uế độ khó bảo đảm không tạo nghiệp ác. Hoàn cảnh cõi uế độ xấu ác hạ liệt, việc ác đầy dẫy, điều thiện ít ỏi. Ví như mẹ của Mạnh Tử ba lần dời nhà, là vì tìm cho con một hoàn cảnh giáo dục hướng thượng. Đạo lý vãng sinh Tịnh Độ cũng giống như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Làm cách nào để biết đó là ma cảnh quấy nhiễu hay Phật, Bồ tát đến tiếp dẫn? Điều này được quyết định không phải do quan sát và nhận biết lúc lâm chung, mà là dựa vào nguyện tâm và sự tu hành lúc bình thời. Lúc bình thời nếu nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, nguyện sinh thế giới Cực Lạc Tây phương, đồng thời tu thiện, tích phước, trì giới, tu định và nghe pháp, tăng trưởng sức mạnh căn lành, thì khi lâm chung, tự nhiên cảm được hóa thân của Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm, Thế Chí đến tiếp dẫn. Trái lại, nếu lầm nhận thế giới Cực Lạc là nơi dung nạp cấu uế, cho rằng Phật A Di Đà là quỷ thần che đậy, bênh vực kẻ xấu, đem tâm tham cầu sinh Tây phương, cho tâm sân nhàm chán Ta Bà, vì tâm si mê, tham luyến hiện đời vợ con, cha mẹ, quyến thuộc, cho đến tài sản, sự nghiệp, danh vị v.v..., thì người như thế khi lâm chung dù cầu vãng sinh, song do bản ý trái với bản nguyện của Phật A Di Đà, nên rất có thể bị ma quỷ hiện hình Phật, Bồ tát đến quấy nhiễu. Lúc đó, cách bổ cứu duy nhất là thỉnh một vị đại thiện tri thức hữu duyên đến khai thị, khiến người sắp mạng chung buông xả muôn duyên, nhất tâm quy hướng cõi Phật thanh tịnh, thì có thể chuyển ma cảnh thành tướng thanh tịnh.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">29. <B>THÂN TRUNG ẤM LÀ GÌ?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Trung ấm</B> còn gọi là <B>trung uẩn</B> hay <B>trung hữu</B>. Ấm hay uẩn tức là chỉ ngũ ấm hay ngũ uẩn, là năm yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tổ hợp nên sinh mệnh chúng sinh trong tam giới. Chữ ấm là cựu dịch trước đời Đường, còn chữ uẩn là tân dịch sau đời Đường. Chúng sinh trong tam giới chia làm hai mươi lăm loại, gọi là nhị thập ngũ hữu. Hữu (có) là chỉ có ngũ uẩn, không ra khỏi tam giới, bị ngũ uẩn trói buộc; giải thoát sinh tử tức là ra khỏi tam giới ngũ uẩn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhân gian Trung Quốc có câu: <I>"Nhảy ra khỏi tam giới, không ở trong ngũ hành"</I>. Đó chính là đem ngũ uẩn của Phật giáo đổi thành ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ theo tư tưởng Trung Quốc. Thực ra ngũ hành tương sinh tương khắc chỉ thuộc thế giới vật chất. Sắc uẩn trong ngũ uẩn đã bao hàm toàn bộ ngũ hành trong đó. Bốn uẩn còn lại thuộc về thế giới tinh thần. Sự kết hợp giữa vật chất và tinh thần tạo nên hiện tượng hoạt động của chúng sinh trong tam giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo <B>Câu Xá Luận</B> quyển 10, thân trung ấm có năm tên gọi: <B>ý sinh thân, cầu sinh, thực hương, trung hữu</B> và <B>khởi</B>. Đây là căn cứ theo tính chất của nó mà có tên gọi khác nhau. Như do ý mong cầu sinh mà được tái sinh nên gọi là ý sinh thân. Do thường thích tìm xét chỗ sắp tái sinh, nên gọi là cầu sinh (cầu có nghĩa là tìm kiếm). Do dựa vào các mùi ưa thích để duy trì và bồi dưỡng thân thể, nên gọi là thực hương. Do trong thời kỳ thân trước đã hoại, đời sau lại chưa tái sinh, nên gọi là trung hữu. Nó có thể sinh khởi một thân thể khác trong vòng sinh mệnh, song bản thân lại không nhờ vào các nhân duyên cha mẹ v.v... mà có thể tự nhiên sinh ra, do dó gọi là khởi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thân trung ấm có phước báo lấy hương thơm làm thức ăn để bồi dưỡng. Trong khi đó, thân trung ấm vô phước lại lấy mùi xú uế làm thức ăn. Thân trung ấm đều có thần thông, có thể trông thấy những thứ mà mắt thường không trông thấy được. Giai đoạn thân trung ấm kéo dài trong bao lâu? Vấn đề này có nhiều cách giải thích khác nhau. Có người nói thân trung ấm kéo dài đến khi tái sinh, không có thời gian nhất định. Có người nói sinh mệnh thân trung ấm chỉ có bảy ngày. Nó chết rồi sống lại, sống lại rồi chết, mỗi lần chết sống với thời gian bảy ngày như vậy là thân trung ấm. Song từ xưa đến nay, giới Phật giáo phần nhiều đều căn cứ vào <B>Đại Tỳ Bà Sa Luận</B>, tin rằng người mất trong bốn mươi chín ngày là thân trung ấm. Cho nên có các Phật sự như thiết trai cúng dường, tạo phước bố thí, cầu nguyện ơn trên gia hộ, siêu độ vong linh trong thất thất trai tuần. Điều này nối truyền mãi đến nay, tạo thành một hình thái tín ngưỡng Phật giáo trong đại chúng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực ra, người ta sau khi chết và trước khi có thọ sinh đời sau gọi là thân trung ấm. Chúng sinh trong ba cõi sáu đường, mất đây sinh kia đều trải qua giai đoạn thân trung ấm. Song chúng sinh trong cõi vô sắc là cảnh giới thiền định, không có sắc uẩn, cho nên không có thân trung ấm. Theo kinh <B>Đại Bảo Tích</B>, quyển 56 <I>Nhập Thai Tạng</I> nói: <I>Thân trung ấm từ chúng sinh ở địa ngục chuyển sinh có dung mạo xấu xí, như cây khô bị thiêu cháy; thân trung ấm từ bàng sinh chuyển sinh có màu như khói; thân trung ấm từ ngạ quỷ chuyển sinh có màu như nước; thân trung ấm của người cõi dục và chư thiên có sắc hoàng kim; thân trung ấm của chúng sinh trong sắc giới hình sắc trắng tinh. Do đó thân trung ấm có hình dáng hai tay, hai chân, bốn chân nhiều chân, hoặc là không có chân đều tùy theo thân tướng khác nhau lúc sinh tiền mà hiện ra giống vậy.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại căn cứ <B>Câu Xá Luận</B> quyển 9 nói: <I>Thân trung ấm của người trong cõi dục giống như thân của đứa bé năm sáu tuổi; thân trung ấm của Bồ tát trong cõi dục, giống như tướng mạo trang nghiêm của người tráng niên, lúc sắp nhập thai ắt có ánh sáng chiếu soi. Thân trung ấm của chư thiên cõi sắc, có thân tướng viên mãn, giống như thân họ lúc sinh tiền.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Căn cứ <B>Đại Thừa Nghĩa Chương</B> quyển 8 nói: <I>Chúng sinh trong cõi dục, cõi sắc đều có thân trung ấm; chỉ có chúng sinh bậc thượng thiện, sau khi chết lập tức vãng sinh về Tịnh Độ hay cõi lành, và hạng cực ác đọa thẳng vào địa ngục hay ngạ quỷ, là không có thân trung ấm. Theo nghiệp cảm nói, chỉ có chúng sinh cực ác, tạo tội ngũ nghịch<SUP><B>(1)</B></SUP> mới không có thân trung ấm.</I>
Lại căn cứ <B>Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận</B> quyển 2 cũng có hai kiến giải khác nhau. Một thuyết nói, vãng sinh Tịnh Độ không trải qua thân trung ấm và khi mệnh chung liền sinh trong hoa sen, cho nên không có thân trung ấm. Một thuyết khác nói, người vãng sinh Tịnh Độ là từ uế độ sinh về Tịnh Độ, tức là mất ở đây rồi sinh ở kia. Trong khoảng thời gian đó đương nhiên có thân trung ấm. Song thời gian trải qua mười vạn ức cõi Phật<SUP><B>(2)</B></SUP> chỉ trong khoảng khảy móng tay, trên đường đi lấy mùi hương của cơm thơm các cõi nước Phật để nuôi thân trung ấm. Những cách nói trên tuy khác nhau, song đều cho thấy sự tồn tại của thân trung ấm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ những tư liệu trong kinh Luận trên cho thấy, phàm còn là chúng sinh trong cõi dục, cõi sắc, ngoài những nghiệp cực thiện và cực ác sau khi chết lập tức siêu thăng hay đọa lạc ra, đều phải trải qua giai đoạn thân trung ấm. Thân trung ấm không thuộc vào bất cứ đường nào trong sáu đường. Khi nhân duyên thọ sinh chín muồi, nó sẽ dùng phương thức đầu thai hay hóa sinh để xác định loài chúng sinh mà nó sẽ sinh vào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước khi thọ sinh, có thể có phương pháp làm thay đổi loài thọ sinh. Ví dụ như hương linh được nghe Phật pháp, hay quyến thuộc biết làm các việc Phật sự như cúng dường, làm phước để hồi hướng, thì có thể giúp cho hương linh được sinh về cảnh giới lành. Nếu như còn mang lòng oán hận, lại thêm sự quấy rối của quyến thuộc hay oan gia, cũng sẽ khiến thân trung ấm đọa vào trong đường dữ. Cho nên Mật giáo Tây Tang rất coi trọng pháp cứu độ thân trung ấm. Ngay cả Hiển giáo cũng chủ trương trợ niệm lúc lâm chúng và siêu độ trong bảy thất bốn mươi chín ngày sau khi mất. Dùng Phật pháp để cứu độ thân trung ấm, đó là triệu thỉnh thân trung ấm đến nghe chánh pháp, hóa giải oán kết, giảm nhẹ phiền não. Đây cũng là nhờ sức Phật pháp khiến quỉ thần có duyên hoan hỷ, và đem công đức kết duyên lành này nhằm đạt đến hiệu quả siêu độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn những nguyên nhân người cực ác hay cực thiện không có thân trung ấm, là vì họ không cần đợi nhân duyên thọ sinh. Điều này cũng giống như sinh viên đại học tuy chưa tốt nghiệp, xong đã làm xong thủ tục xuất ngoại nên vừa tốt nghiệp liền đi du học hay được các công ty, hãng xưởng, cơ quan mời trước, nên sau khi tốt nghiệp không cần phải chờ việc làm, hay vất vả tìm việc khắp nơi. Điều này có được là do hoàn cảnh gia đình khá giả hay nhờ vào thành tích học tập xuất sắc của một số sinh viên. Ngược lại, nếu đầu thai vào loài gia súc làm heo bò, trâu dê v.v..., rõ ràng là sau khi sinh ra đã quyết định sẽ bị giết, làm món ăn cho người. Do vậy, nếu tinh tấn tu tập, nỗ lực hành thiện, tín tâm sâu chắc, nguyện lực kiên cố, thì sẽ không đọa vào ba đường dữ. Chỉ cần dùng sức tín nguyện và tu hành để tự lợi lợi tha, trên cầu Phật đạo dưới độ chúng sinh, thì có thể nương vào tín tâm vãng sinh về Tịnh Độ, nương theo hạnh nguyện tâm hành Bồ tát đạo. Không luận là sinh về cõi Phật, hay sinh lại Ta Bà, đều lui tới tự tại, không quanh quẩn, đợi chờ. Cho nên đối với người đệ tử Phật có đầy đủ tín nguyện mà nói, thì sẽ không trải qua thân trung ấm, cũng không cần người khác siêu độ cho thân trung ấm
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Tội ngũ nghịch: <I>Là năm tội nặng, nếu chúng sinh vi phạm phải đọa vào địa ngục vô gián. Năm tội nặng đó là:
<p style="padding-left: 30px;">1. Giết cha.
2. Giết mẹ.
3. Giết A la hán.
4. Ác tâm làm thân Phật chảy máu.
5. Phá hòa hợp Tăng.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Kinh A Di Đà nói: <I>"Từ đây về hướng Tây vượt qua mười vạn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực Lạc".</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">30. <B>THUYẾT VONG LINH HÀI NHI QUẤY RỐI CÓ CĂN CỨ KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mấy năm gần đây ở Đài Loan cho đến khu vực có người Hoa các nơi đang lan tràn tín ngưỡng vong linh hài nhi. Vong linh hài nhi chỉ là vong linh của những trẻ con bị hư thai, hay sinh ra chẳng bao lâu liền yểu mệnh. Theo lời đồn đãi, nếu không được siêu độ, chúng sẽ dùng mọi hình thức, hiện tượng để làm hại thân thuộc hay người thù oán. Điều này đã gây nên tình trạng gia đình bất an, xã hội khủng hoảng. Đây là gánh nặng tinh thần do xu thế xã hội ngày càng có nhiều người hạn chế sinh sản, có thai trước khi lập gia đình, hay mang thai ngoài hôn nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó có người liên tục đăng báo, rầm rộ quảng cáo việc <I>cúng dường vong linh hài nhi</I>. Họ tuyên bố có thể siêu độ vong linh hài nhi cho mọi người, giải quyết được vấn đề quấy rối của chúng, đồng thời dẫn <B>Trường Thọ Kinh</B> để chứng minh. Lại có người tuyên truyền, họ có thể dùng bùa chú luyện chúng thành âm binh chuyên thám thính việc riêng tư, truyền báo tin tức, thậm chí có thể sai đi giết người ngoài ngàn dặm mà không lưu lại mọi dấu vết gì. Những truyền thuyết đại loại như vậy đương nhiên không phải là chủ trương của Phật giáo, cũng không phải là tín ngưỡng từng lưu hành trong một khu vực hay thời đại lịch sử nào đó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực ra theo quan điểm Phật pháp, chúng sinh vốn bình đẳng, sinh mệnh của con người có dài ngắn khác nhau, song sau khi mất đều như nhau không khác. Người lớn sau khi chết là thân trung ấm, hài nhi sau khi chết cũng là thân trung ấm. Trong vòng bốn mươi chín ngày chúng đã chuyển sinh, hoặc sinh vào cõi nhân thiên, hoặc sinh làm quỷ thần, hay đọa vào địa ngục, mà không có chuyện ở mãi trong nhân gian trong dạng vong linh để quấy rối!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong thực tế, có người do sợ hãi và tưởng tượng quá đáng, cho rằng họ phát hiện ra vong linh hài nhi nhập vào người, oan hồn níu kéo, không chịu buông tha. Song đây phần lớn là do yếu tố tâm lý. Cho dù quả thực có lực lượng quỉ thần bên ngoài quấy nhiễu, cũng không phải là do vong linh loại đó gây ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người ta khủng hoảng trước thuyết vong linh hài nhi, có lẽ do quan niệm của họ về trạng thái tâm lý trẻ con mà có. Ví dụ như có một số trẻ tánh tình không sao hiểu được, đối với hài nhi lại càng không biết chúng đang nghĩ gì. Cho nên khi chúng khóc la không dứt, cha mẹ chỉ biết dỗ chúng mà thôi. Nhất là gặp phải những kẻ khó nuôi, suốt ngày khóc la, cả đêm không ngủ, nếu không phải bụng dói, thân thể khó chịu, thì cũng là muốn có người bên cạnh chú ý, chăm sóc. Do đó khi họ cho rằng bị vong linh hài nhi quấy rối, cũng bó tay chịu trận, vì nghĩ rằng dù tụng kinh, thuyết pháp thì chúng cũng nghe không hiểu, không thể nào cảm hóa được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nắm được tâm lý này, bọn cơ hội trục lợi tuyên truyền ầm ỉ rằng họ có thể dùng sức mạnh pháp thuật, hay cách siêu độ nào đó để giải quyết vấn đề quấy rối này. Song căn cứ theo kinh Phật, thân trung ấm của chúng sinh tương đồng với hình thái khi sinh tiền song nhỏ hơn. Hài nhi đã không biết gì thì thân trung ấm của nó không thể nào tìm thù báo oán được. Cho dù chúng qua giai đoạn thân trung ấm, chuyển sinh vào loại quỷ thần, thì do có thần thông, không còn thân thể nặng nề và sáu căn ràng buộc, nên vô cùng dễ dàng tiếp nhận sự cảm ứng và cảm hóa. Cho nên quyết không thể xem hài nhi sau khi chết như hung thần ác quỷ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo thường thức Phật giáo, không luận là trẻ con hay người lớn, tuổi trẻ hay tuổi già, khi mất đi gia đình đều lo việc siêu độ cho họ. Tức là đem công đức tụng kinh, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo hồi hướng cho vong linh, cầu nguyện cho họ được âm phước, siêu sinh vào cõi lành, cho đến vãng sinh về cõi Phật. Cho nên bảo rằng phải có pháp môn siêu độ riêng cho vong linh chết lúc trong thai, hay khi còn trẻ con là điều mà Phật giáo xưa nay không có.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như <B>Phật Thuyết Trường Thọ Kinh</B> (hiện được thu ở phần Bổ Di Loại trong Tục Tạng Kinh) ghi lại việc đức Phật thuyết pháp cho một người phụ nữ tên Điên Đảo. Vị phụ nữ này từng vì vấn đề gia đình đã giết đi đứa con tám tháng trong bào thai. Đức Phật răn dạy cô ta: <I>"Tội giết đứa bé còn trong bào thai cùng với tội giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, năm việc này gọi là năm tội nghịch đều nặng như nhau"</I>. Cách diệt tội chính là thọ trì, đọc tụng, biên chép Kinh Trường Thọ này, hoặc tự mình chép, hoặc nhờ người khác chép, thì sẽ thoát được tội báo, sinh lên Phạm thiên. Trong kinh này không thấy có nói đến pháp siêu độ vong linh hài nhi. Kinh này nhấn mạnh đến việc hộ thai, xem việc phá thai là phạm vào một trong năm tội nghịch. Điều này khác với năm tội nghịch mà kinh Phật thường nói đến: giết cha, giết mẹ, giết thánh nhân, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, nên không lưu hành trong giới Phật giáo Trung Quốc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra có người bảo rằng: Nhật Bản có thuyết vong linh hài nhi cầu Bồ tát Địa Tạng. Điều này không phù hợp với sử liệu tín ngưỡng Địa Tạng. Tín ngưỡng Địa Tạng trong dân gian Nhật Bản, theo nghiên cứu bắt đầu từ thế kỷ thứ XI trở đi mới ghi chép việc tạo tượng Địa Tạng để trừ bệnh diên thọ. Sau đó dân gian Nhật Bản lần lần biến Bồ tát Địa Tạng thành vị thần bảo hộ hài nhi, rồi mới có tín ngưỡng <I>thủ tử</I> (bảo vệ con), <I>an tử</I> (làm con an ổn), <I>dục tử</I> (nuôi dưỡng con), <I>trì tử</I> (giữ gìn con) v.v... Tín ngưỡng này vốn đã cầu nguyện Địa Tạng bảo hộ thai nhi được an ổn sinh ra, đứa bé được bình an trưởng thành, không có liên quan gì đến việc vong linh hài nhi quấy rối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày nay có số ít người tuyên truyền việc vong linh hài nhi quấy rối và cổ súy phong trào siêu độ cho chúng. Điều này không luận xuất phát từ tâm tốt tín ngưỡng, hay do động cơ trục lợi, điều trái vưới tín ngưỡng Phật giáo chính thống, vô cùng rõ ràng như đã trình bày ở trên.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">31. <B>PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI LINH MÔI<SUP>(1)</SUP> CÓ CÁCH NHÌN NHƯ THẾ NÀO?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Linh môi thời xưa gọi là ông hay bà phù thủy (nam: Wizard, nữ: Witch). Tôn giáo học gọi là thầy phù phép (sorcerer), thầy mo (medicine man), thuật sĩ (magician). Những vùng như Siberi, bắc Á Châu thì gọi là Shamans. Đây là chỉ một số người lấy việc thỉnh ý quỉ thần để giúp đỡ cho ai đó, chỉ dẫn họ làm cách nào để khắc phục mọi khó khăn, cho dến thỏa mãn những dục vọng của con người trong cuộc sống hiện thực.. Do nhược điểm về mặt tâm lý, sinh lý của nhân loại, nên linh môi có quan hệ cung cầu mang tính tất nhiên với con người. Từ khi có nhân loại, là có dấu vết hoạt động của họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những linh môi cao cấp được xưng là tế sư, tiên tri, thiên sứ hay thánh giả, trở thành trung tâm tín ngưỡng của những tín đồ tôn giáo nói chung. Còn những linh môi binh thường không có lực lượng tín đồi ủng hộ đông đảo, thì bị thế lực Cơ đốc giáo sau khi khuếch trương ở Châu Âu tiêu diệt hầu hết. Ở Trung Quốc, đồng cốt thường luôn trở thành nguồn gốc tai họa, tuyên truyền nhảm nhí nhằm mê hoặc dân chúng. Cho nên Khổng Tử chủ trương không nói đến việc <I>quái, lực, loạn, thần</I><SUP><B>(12)</B></SUP>. Sao gọi linh môi là quái, lực, loạn, thần? Bởi vì họ có được sức linh rất vô lý, những thế giới quỉ thần đó cũng không có trật tự và tiêu chuẩn đạo đức nhất định. Họ tuy cũng thường khuyên người làm thiện, song khi có sự xung đột quyền lợi, hay mẫu thuẫn với bản thân mình, thì họ sẽ tung ra tin đồn, điên đảo phải trái, mê loạn nhân tâm. Cho nên từ xưa đến nay, tín ngưỡng linh môi trong tôn giáo dân gian Trung Quốc tuy có lúc thịnh lúc suy, song vẫn không thể phát triển thành một tôn giáo hoàn chỉnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo quan niệm Phật giáo, trì giới, bố thí, gieo trồng công dức thì sẽ được phước báo ỏ cõi nhân thiên. Đứng về mặt nhân quả nói, tự mình làm lànhlánh dữ và khuyến hóa người khác làm theo sẽ được thiện báo; còn như gây tạo nhân ác, phải chịu ác báo. Nếu gặp phải tai nạn, bịnh tật, nghèo khổ..., cách tốt nhất là nên sám hối, làm công đức, tâm khởi thiện niệm, miệng nói lời lành, thân làm việc tốt thì sẽ được tai qua nạn khỏi. Người ta thường bảo: <I>Người lành tự nhiên có trời giúp"</I><SUP><B>(3)</B></SUP>. Đây là nói, do tự mình tu thiện, cảm được Hộ pháp, Long thần cho đến chư Phật, Bồ tát gia hộ, mà không cần thông qua linh môi, mời quỉ thần chân chánh, hiền thiện đến xua đuổi quỉ thần tà ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Linh môi không phải thực sự giải quyết được vấn đề. Điều này giống như khoét thịt đắp vào vết thương, sau đó lại phải tiếp tục khoét qua đắp lại, vết thương không bao giờ lành cả. Cầu linh môi giúp đỡ, nhì sơ qua dường như đã giải quyết được vấn đề, song thực chất là vấn đề này lại nảy sinh ra vấn đề khác, càng lúc càng nghiêm trọng. Đây giống như hút thuốc phiện hay tiêm ma túy, càng sử dụng càng nghiện nặng, càng nghiện nặng càng sử dụng nhiều. Song dân chúng nói chung thật khó mà tự mình nhận thức được điều này. Như có khác nào loại cá chương ở biển, lúc tìm không ra thức ăn lại ăn râu xúc giác của mình. Đây là biện pháp bất đắc dĩ khi không có cách giải quyết nào khác. Song nếu cứ thế mãi, chỉ có con đường tiêu diệt mà thôi! Bởi vì nó trái với nguyên tắc nhân quả và trật tự của luật tự nhiên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy thông qua linh môi giúp đỡ có thể nhất thời gặp được điều may mắn, song nó chỉ là một loại vay mượn giả tạm, đem lại ảo giác thỏa mãn mà thôi. Cho nên người học Phật không được làm linh môi bày vẻ chuyện quỉ thần, cũng không được gần gũi linh môi. Người Phật tử nên dựa theo sự hướng dẫn của Phật pháp, an phận tu học, nỗ lực mở ra con đường tương lai cho mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Linh môi: <I>Là từ chỉ chung cho những người làm môi giới giữa con người với thần linh, như đồng cốt, phù thủy v.v...</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2): <I>Thiên Thuật Nhi, sách Luận Ngữ nói: "Khổng Tử không nói đến việc quái, lực, loạn, thần".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3): <I>Đây vốn là thành ngữ Trung Hoa: "Kiết nhân tự hữu thiên tướng". Tướng ở đây là động từ có nghĩa giúp đỡ.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">32. <B>QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI THẦN THÔNG VÀ KHẢ NĂNG ĐẶC DỊ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo thừa nhận thần thông là có thật. Phàm phu có thể được ngũ thông, bậc thánh xuất thế có lục thông và Phật đầy đủ tam minh lục thông.
Ngũ thông gồm:
<p style="padding-left: 30px;">1. <B>Túc mệnh thông</B>: Khả năng biết được đời quá khứ.
2. <B>Thiên nhãn thông</B>: Khả năng biết được đời vị lai, cũng như thấy được nơi xa, nơi nhỏ nhiệm trong hiện tại.
3. <B>Tha tâm thông</B>: Khả năng biết được tâm niệm người khác.
4. <B>Thiên nhĩ thông</B>: Khả năng nghe thấy âm thanh dù ở xa bao nhiêu.
5. <B>Thần túc thông</B>: Khả năng phi hành tự tại, biến hóa ẩn hiện, đến đi không tung tích, trong nháy mắt có thể lấy đồ nơi xa ngàn dặm, dễ như lấy vật trong túi v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> Những khả năng trên đây tùy theo công hạnh sâu cạn mà phạm vị khả năng có rộng hẹp khác nhau và thời gian duy trì cũng bất đồng. Nó thuuộc hữu vi, hữu lậu, còn trong vòng chấp trước, không liên quan gì đến việc giải thoát. Đương nhiên người có những năng lực này không phải là Bồ tát. Bậc thánh nhân chủ yếu là chứng được lậu tận thông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lậu tận thông tức là trừ ngã chấp, chứng Niết bàn. Bậc thánh của Tiểu thừa là A la hán, còn bậc thánh của Đại thừa là Bồ tát từ sơ địa cho đến thất địa trở lên. Chỉ có Phật được tam minh, tức thiên nhãn minh, túc mệnh minh và lậu tận minh. Tam minh vốn nằm trong lục thông. Song sức thần thông của đức Phật thì triệt để, cứu cánh, vô ngại, là phương tiện độ chúng sinh, mà không phải sự biểu hiện năng lực hay pháp thuật đặc dị, nên xưng là tam minh. Một số ngoại đạo tự cho có được một số cảm ứng, có thể sai khiến quỉ thần hay bị quỉ thần sai khiến, bèn nghĩ là đã đắc tam minh, lục thông. Đây là việc hết sức ấu trĩ và nguy hiểm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thần thông là pháp tu nhất định. Đó là do tu tập thiền định hay trì chú mà khai phát được thần thông. Tu tập thiền định trước hết do tập trung sức chú ý, khiến tâm lực trở nên mạnh mẽ, rồi dùng tâm niệm tiếp thông các giác quan của mình với sức từ trường và sóng điện trong vũ trụ; kế nữa huấn luyện khả năng tiếp thu có chọn lọc các bước sóng này, đạt đến sự giao cảm trong một trình độ nhất định nào đó, sẽ tự nhiên sinh ra công dụng thần thông. Đầy là thuộc về phạm vi vật lý. Không có điều kiện vật chất, thần thông không cách gì biểu hiện, cũng không thể do đâu huấn luyện. Cho nên theo lý mà nói, về mặt cơ bản những người duy vật cũng có thể luyện được thần thông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thần thông không thể làm trái nhân quả; không thể thay đổi sự thật. Nó chỉ có thể khiến người biết trước, hay từ khoảng cách xa nắm được một số thông tin để tránh đi hay ngăn cản nhất thời. Thần thông chỉ là một trong những hiện tượng tự nhiên, nên nó cũng không thể trái với qui luật tự nhiên. Cho nên những người thích hiển lộ thần thông, ngoài việc mê hoặc quần chúng ra, không chút bổ ích cho xã hội và con người! Trái lại, những người đắm mê trong hiện tượng thần thông càng sâu, thì càng xa rời nếp sống bình thường!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó vào thời Phật còn tại thế, ngài nghiêm cấm các đệ tử lạm dụng thần thông. Chúng đệ tử A la hán cũng không phải ai cũng có thần thông. Dùng thần thông tuy có thể cảm hóa chúng sinh trong một thời, song không thể nhiếp hóa chúng sinh lâu dài. Lại nữa, khéo dụng thần thông như ngài Mục Kiền Liên bên tăng, Liên Hoa Sắc bên ni, được khen là thần thông đệ nhất trong hàng A la hán, song kết quả Mục Kiền Liên chết dưới gậy gộc của ngoại đạo Lộc Trượng; Liên Hoa Sắc chết dưới nắm đấm của Đề Bà Đạt Đa. Cho nên từ Ấn Độ Độ đến Trung Quốc, bao đời Tổ sư đều rất ít vị sử dụng thần thông để truyền bá Phật pháp, thậm chí có thể nói vô cùng hiếm hoi. Những vị này, nếu sau khi sử dụng thần thông, phần nhiều rời bỏ nơi đó, hay lập tức xả báo thân này, vãng sinh về cõi khác.. Nếu thường hiển hiện thần thông, không biết ước thúc, thì quyết gặp phải tai họa sát thân, chết một cách oan uổng, hung hiểm hay bất đắc kỳ tử. Đây là kết quả do việc làm trái nhân quả, chống lại tự nhiên tạo nên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như mọi người đều biết, Tây Tạng thuộc vùng cao nguyên, có không ít người ở trong núi cao, động sâu để tiềm tu mật hạnh, khổ tập thiền định, tinh luyện thần thông. Trong đó có những người có thể gọi gió bảo mưa, rải đậu thành binh, dùng phi kiếm giết người ngoài ngàn dặm. Song lịch sử Phật giáo Tây Tạng cũng từng có mấy lần gặp pháp nạn, tức là lúc Phật pháp bị vua ác phá hoại và tiêu diệt, thì thần thông cũng không có hiệu quả gì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nghe nói ở Đài Loan hiện nay, cũng có không ít những người tự cho mình có tam minh lục thông. Song Đài Loan năm nào hầu như đều có bão, động đất, lũ lụt, cho đến những thành phần lưu manh, côn đồ, trộm cướp làm nhiễu loạn trị an xã hội, gây bất an cho đại chúng. Những người có thần thông đó sao chỉ bó tay chịu trận, không ngó ngàng gì đến?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó có thể thấy, nghiệp lực thật bất khả tư nghì, cộng nghiệp và biệt nghiệp đến lúc phải thọ báo thì vẫn phải chịu. Mê tín thần thông cứu giúp của quỉ thần, chỉ càng tăng thêm khốn nhiễu, càng mất đi tài sản, và càng tiêu hao thời gian, tinh lực mà thôi. Cho nên Khổng Tử không nói đến chuyện <I>quái, lực, loạn, thần</I>, là điều mà người hiểu biết không thể nào chấp nhận. Trong xã hội văn minh, tri thức phổ biến ngày nay, phải luôn dựa vào Phật pháp chánh tín, nỗ lực khai phát trí tuệ, mà không nên mê tín vào kỳ tích thần thông. Bởi vì trên thực tế, nó chỉ là huyễn thuật của hiện tượng quỉ thần mà thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">33. <B>NGŨ NHÃN LÀ GÌ?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng ta thấy các tượng thờ trong Phật giáo thường có ba mắt. Có nghĩa là ở chính giữa hai mắt lại có thêm con mắt thứ ba. Thực ra nhân loại không thể có ba mắt. Con mắt thứ ba chì có tính cách tượng trưng. Nghĩa là ngoài đôi nhục nhãn ra còn có tâm nhãn. Ý nghĩa tâm nhãn có cạn có sâu. Nghĩa cạn là chỉ hoạt động tư tưởng của người bình thường. Còn nghĩa sâu phải nói đến ngũ nhãn mới thấu đáo. Ngũ nhãn là ngoài nhục nhãn ra còn có bốn loại tâm nhãn khác nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngũ nhãn chỉ là năm công năng quán sát vạn vật ở mức độ sâu cạn khác nhau, từ phàm phu cho đến Phật quả. Có người bảo đôi mắt là <I>cánh cửa trí tuệ</I>, là <I>cửa sổ tâm hồn</I>. Mắt có thể phân biệt rõ vạn vật, tăng trưởng tri thức. Tu hành trình độ càng cao, phạm vi tác dụng của tâm nhãn càng rộng. Phàm phu với nhục nhãn do cha mẹ sinh, chỉ có thể trông thấy trong phạm vi, cự ly rất có hạn. Nếu quá nhỏ, quá lớn, quá xa, quá gần, quá tối hay quá sáng, thì nhục nhãn không thể nào trông thấy được. Nếu có thiên nhãn, sẽ không bị hạn chế bởi cự ly, thể tích, độ ánh sáng..., có thể quan sát thế giới vật chất một cách tự tại vô ngại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song chư thiên cũng có thứ bậc khác nhau: <I>Địa cư thiên, Không cư thiên</I> và <I>Thiền định thiên</I>. Địa cư thiên là chỉ quỉ thần có phước đức mà dân gian tín ngưỡng, cho đến tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Đao Lợi. Không cư thiên là chỉ chư thiên dục giới từ trời Dạ Ma cho đến trời Tha Hóa Tự Tại. Thiền định thiên là chỉ hai mươi hai cõi trời thứ bậc khác nhau của sắc giới và vô sắc giới. Thứ bậc càng cao, công năng thiên nhãn càng nhiều, phạm vi hoạt động càng rộng. Công năng của thiên nhãn có thể thấy những sự vật mà nhục nhãn không thể trông thấy. Ngoài sự không bị hạn chế bởi lớn nhỏ, xa gần, tối sáng ra, nó cũng có thể thấy được những sự vật trong suốt, hay bị ngăn cách, che dấu. Nó không cần nhờ vào sự phản xạ ánh sáng, mà chỉ dựa vào tác dụng phản xạ của sức mạnh tinh thần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiên nhãn có hai loại: Một, do tu mà được; hai, do phước báo mà được. Quỉ thần nói chung thường có thiên nhãn với trình độ sâu cạn khác nhau. Đó chính là do phước báo mà được. Quỉ thần không có nhục thể trói buộc, chỉ có sức linh hoạt động, nên giảm bớt đi sự chướng ngại của vật thể. Những kẻ linh môi, người bị quỉ thần mượn làm công cụ dựa vào, nhờ sức thiên nhãn này của quỉ thần nên có thể trông thấy những thứ mà người bình thường không thấy được. Nhân loại có thể tu thiền định đắc thiên nhãn. Song mục đích của thiền định lại không phải vì được thiên nhãn. Tuy có phương pháp chuyên tu thần thông, song nếu được thiên nhãn cũng chưa chắc đã chứng được thiền định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Công năng thiên nhãn ngoài ra có thể trông thấy hiện tượng sự việc sắp xảy ra trong tương lai. Đây là do bất cứ hiện tượng nào phát sinh cũng đều có sự liên hệ nhân quả nhất định của nó. Khi tạo ra nghiệp lực nhất định, sẽ tạo thành hiện tượng quả báo nhất định. Khi hiện tượng chưa phát sinh, sức mạnh khiến phát sinh ra hiện tượng đó đã hình thành trước. Nếu không có nhân tố khác xen vào, thì đó là sự thật nhất định sẽ xảy ra. Cho nên người có thiên nhãn, có thể biết trước được vị lai. Năng lực thiên nhãn càng mạnh, thì càng thấy được lâu xa, và mức độ tinh xác cũng càng cao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói đến mức độ tinh xác, tức nói rõ thiên nhãn không thể hoàn toàn tin cậy. Chỉ cần xen vào những nhân tố khác, sự việc vị lai không nhất định sẽ xảy ra đúng y như thấy trước. Điều này giống như hai tay cờ cùng chơi cờ vậy. Trình độ càng cao càng thấy trước nhiều nước cờ sẽ đi; trình độ thấp hơn, thấy trước nước cờ cũng ít hơn. Song không có việc hai tay cờ có trình độ tương đương khi mới vào bàn đã biết trước kết quả thắng thua. Bởi vì, sự đời biến hóa nhiều, định số chỉ là hiện tượng có tính cục bộ và trong thời gian ngắn. Vạn pháp nhân duyên sinh, nhân duyên thay đổi sẽ theo đó đổi thay. Cho nên Phật pháp không chấp trước thiên nhãn, cũng không khích lệ người ta tu luyện để đạt được thiên nhãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngũ nhãn là ngoài nhục nhãn, thiên nhãn ra, cón có tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn. Tuệ nhãn là năng lực thấy được mười hai nhân duyên, hiện tượng sinh tử lưu chuyển của bậc A la hán. Cho nên bậc này có thể ra khỏi sinh tử luân hồi, không bị trói buộc bởi thân tâm thế giới, tức giải thoát khỏi năm ấm, ba cõi. Điều này thật khác xa với cách nói của người bình thường: <I>Tuệ nhãn thức anh hùng (tuệ nhãn biết được anh hùng)</I>, hay <I>tuệ nhãn độc cụ (đầy đủ tuệ nhãn)</I>. Người đời nói tuệ nhãn là chỉ trí tuệ thế gian, tồn tại quan niệm ngã trong đó, chẳng qua nó tương đối sâu sắc, sáng suốt, nhạy bén mà thôi. Còn tuệ nhãn của A la hán thì vô ngã, vô chấp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát từ sơ địa trở lên có Pháp nhãn. Đây là khả năng thấy được bản tính vạn pháp (pháp tính), thân chứng một phần cho đến nhiều phần pháp thân Phật. Nó tuyệt nhiên không phải là Pháp nhãn của những kẻ có pháp thuật như người ta thường hiểu. Hiểu biết sơ lược Phật pháp cũng gọi là có Pháp nhãn. Thực ra Pháp nhãn có liên quan đến việc chứng pháp thân. Nếu chỉ là kiến tính, thì chưa thể được xưng là đầy đủ Pháp nhãn, mà chỉ có thể xác tín sự tồn tại và công năng của Pháp nhãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp thân trùm khắp mọi nơi, mọi lúc. Nó không phải sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải vô thướng, chẳng phải phi hữu tướng, chẳng phải phi vô tướng. Nói phải, tất cả đều phải; nó không phải tất cả đều không phải. Đối với kẻ chấp trước, tất cả đều không phải. Còn đối với người không chấp trước, tất cả đều phải. Bồ tát đầy đủ pháp nhãn gọi là pháp thân đại sĩ, không phải là điều phàm phu có thể tưởng tượng được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô ngã có hai loại: Nhân vô ngã và pháp vô ngã. Chứng nhân vô ngã, ly nhân ngã chấp, tức A la hán. Bồ tát tiến thêm bước nữa, lìa pháp ngã chấp, chứng pháp thân, đắc Pháp nhãn, tuy trú tam giới, song không bị tam giới trói buộc, gọi là pháp thân đại sĩ. Có một số ngoại đạo dựa vào Phật pháp, hơi một chút liền bảo đã được tuệ nhãn hay pháp nhãn. Thực ra, đó ngay cả thiên nhãn cũng không phải, chẳng qua chỉ do tác dụng phản xạ của sự vận động khí mạch, hoặc nhờ vào sức linh quỉ thần mà thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như Phật nhãn thì có đầy đủ tất cả công năng của bốn loại nhãn trên. Nó là toàn trí tuệ, cũng là bản thân của Đại viên cảnh trí. Lại xưng là Đại viên giác hay Vô thượng Bồ đề.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">34. <B>QUAN NIỆM THỌ KÝ CỦA PHẬT GIÁO LÀ GÌ?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thọ ký (Ryakarana) là danh từ riêng của Phật giáo. Nó là một trong mười hai bộ kinh. Ý là báo trước. Tức đức Phật đối với chúng sinh đã phát tâm, báo trước rằng họ sẽ nhất định thành Phật. Trong thời đại đế chế, khi vua sinh đứa con trai đầu lòng, phần nhiều được định trước sẽ là người thừa kế vương vị. Khi chính thức tuyên cáo địa vị kế thừa của thái tử theo luật định, thì cũng gọi là thọ ký. Lại nữa, theo tập tục Ấn Độ thuở xưa, cần phải lấy nước bốn biển rưới lên đỉnh đầu thái tử, để bố cáo cùng thiên hạ. Do đó thái tử cũng được gọi là quán đỉnh vương tử. Điều này có ý rằng, sau này vị vương tử đó có thể thống trị toàn bộ lãnh thổ và nhân dân trong bốn biển.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh Phật, thọ ký là chỉ đức Phật báo trước cho chúng đệ tử biết, vào lúc nào đó họ sẽ thân chứng Bồ đề. Ví dụ như kinh <B>Pháp Hoa</B> có một phẩm tên là phẩn Thọ Ký. Phẩm này nói việc đức Phật thọ ký cho năm trăm A la hán thành Phật, thậm chí còn thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa, người tiếng ác dẫy đầy cũng được thành Phật. Tư tưởng thọ ký trong Phật pháp chứng minh rằng mọi người đều có khả năng thành Phật. Không luận là ai, nếu có thể tu hành Phật đạo, thì tùy theo căn tính, pháp môn tu hành, cho đến thái độ siêng năng hay lười nhác của mỗi người mà phán định việc thành Phật mau chậm của họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ai có đủ tư cách được đức Phật thọ ký? Nhất định đó phải là Bồ tát ở quả vị bất thoái chuyển. Vì vậy, A la hán trong kinh Pháp Hoa thực ra đều là Bồ tát Đại thừa. Song thọ ký không chỉ hạn định trong Đại thừa. Nếu bậc Thánh tu pháp Tiểu thừa mà chứng từ sơ quả trở lên, cũng được thọ ký nhất định sẽ chứng quả A la hán. Ví dụ như nói sơ quả sẽ bảy lần trở lại sinh tử rồi chứng quả A la hán; còn chứng quả thứ ba sẽ trụ cõi trời Bất Hoàn, đến khi chứng quả A la hán, không còn trở lại nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật có thể thấy tâm hành và sự tu trì của chúng sinh một cách rõ ràng như nhìn lòng bàn tay minh. Khi hành giả đạt đến địa vị bất thoái, tiền trình phải trải qua sẽ vô cùng rõ ràng, đức Phật mới thọ ký cho vị đó. Thọ ký không phải là lời dự ngôn, cũng không phải dự đoán, càng không phải mệnh định. Đây chẳng qua như người hướng dẫn du lịch, từ trên bản đồ chỉ ra cho du khách thấy đường đi, khoảng cách, cho đến thời gian nhanh chậm từ nơi nào đó đến chỗ muốn đến mà thôi. Cũng ví như học sinh bình thường sau khi nhập học, thầy giáo có thể báo trước với chúng sau mấy năm sẽ tốt nghiệp, không có gì là thần bí cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền tông Trung Quốc, ban đầu không có hành vi và nghi thức thọ ký. Song tùng lâm và tự viện gần đây, vì để chọn lựa, đề bạt vị kế thừa chức vụ trụ trì, sau khi tuyển chọn xong cũng làm lễ thọ ký. Thuở xưa truyền pháp thọ ký, trao truyền tâm pháp, lấy tâm ấn tâm, tâm tâm tương khế, không cần nghi thức, càng không cần giấy tờ chứng minh. Người được truyền pháp cũng không nhất định tiếp nhận chức trụ trì. Song gần đây, trong thiền lâm Trung Quốc, lúc thọ ký có ban phát pháp quyển. Người được truyền thọ, không chắc là người có kinh nghiệm chứng ngộ. Mục đích lễ thọ ký, chỉ là truyền thừa chức vụ trụ trì tự viện mà thôi. Vì vậy, nó phần nhiều chỉ mang danh thọ ký, mà không có một chút thực chất, hoàn toàn mất đi bản ý truyền pháp. Vấn đề này không bàn thêm ở đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một số người tu hành có kinh nghiệm thần bí. Họ thường vì người khác thọ ký. Nếu họ chỉ báo trước những việc sắp xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, thì là điều mà linh môi, đồng cốt cũng làm được, không có gì đáng nói. Còn như họ vì đệ tử mình thọ ký thành A la hán, hay thành Phật, thì đó là đại vọng ngữ. Họ bản thân không phải là Phật, sao có thể thọ ký cho người thành Phật, thành A la hán? Nếu họ tự xưng là Phật, thì trong kinh Phật không thấy có nơi nào đức Phật thọ ký cho ai thành Phật trong thời đại nào đó trước khi Bồ tát Di Lặc thành Phật. Đức Phật Thích Ca đã không thọ ký cho họ, thì họ làm sao có thể thọ ký cho người khác? Hiện nay có nhiều người tự xưng là Phật hay Bồ tát tái lai. Họ cũng có thể tỏ ra thái độ từ bi, cứu giúp chúng sinh, song thực ra trong thâm tâm chứa đầy đại ngã mạn, phủ định giáo pháp của đức Thích Ca. Đây không phải là Phật giáo chánh tín và truyền thống. Đệ tử Tam Bảo chánh tín, phải nên xem xét, phân biệt cẩn thận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc đại tu hành chân chính, luôn luôn cho mình là phàm phu. Nếu không rất có thể trở thành quỉ thần và quyến thuộc của ma đạo. Đức Phật Thích Ca hoạt động nhân gian. Đó là vị Phật có thân tướng nhân gian; vị Phật lấy nhân tính làm bản vị, và là vị Phật với nhân cách kiện toàn. Cho nên đại sư Thái Hư đề xướng: <I>"Nhân thành tức Phật thành</I><SUP><B>(1)</B></SUP>" (hoàn toàn nhân cách, tức là thành Phật).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1): <I>Đại sư Thái Hư từng bảo: Hướng lên chỉ cầu thành Phật, song thành tựu hay không là ở nơi nhân cách. Nhân cách thành tựu, tức Phật thành tựu. Đó chính là sự thật.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">35. <B>ĐỨC PHẬT CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG VẠN NĂNG KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng ta có thể dùng một câu nói để thuyết minh trí tuệ và phước đức của đức Phật như thế này: <I>"Vô tri tức toàn tri, vô năng tức toàn năng"</I>. Vô tri không đồng nghĩa với ngu si; vô năng cũng khác với không có năng lực. Có và không là hai mặt của cùng một thể. Có nằm trong không, không hàm chứa có. Song chỉ có <B>không</B> mới có thể bao hàm toàn thể, còn <B>có</B> không luận là sâu rộng đến đâu, to lớn chừng nào, cũng đều là cái hữu hạn, không thể bao hàm tất cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật là bậc phước trí viên mãn. Đã là viên mãn thì không thể lấy hình tướng để hình dung, cũng không thể dùng có, không để phán đoán. Từ bản thân đức Phật nói, ngài chính là toàn thể, lấy toàn thể pháp giới làm thân, nên gọi là pháp thân. Pháp giới bao trùm khắp không gian, thời gian. Pháp thân ở bất cứ không gian, thời gian nào trong pháp giới. Nó tồn tại trong trạng thái không có trung tâm tự ngã, chỉ tùy theo thiện căn phước đức của tất cả chúng sinh mà cảm ứng; dùng các hình tượng, phương thức khác nhau, thị hiện tùy lúc, tùy nơi, đó hóa thân. Đã là hóa thân tức mang tính cục bộ, bị không gian và thời gian hạn chế, không thể đại biểu cho toàn thể. Hóa thân đã không phải toàn tri, cũng không phải toàn năng. Chỉ có chúng sinh đầyđủ thiện căn, phước đức, nhân duyên là có thể tiếp xúc và cảm nhận được sự tồn tại của nó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song đó không phải là bản lai diện mục của Phật, mà chỉ là kết quả cảm ứng riêng của chúng sinh. Cho nên kinh <B>Pháp Hoa</B> nói: <I>"Đức Phật vì đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời"</I>. Đâycũng chính là nói, do thiện căn chung của tất cả chúng sinh trong thế giới Ta Bà cảm ứng được việc ra đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó kinh Pháp Hoa nói: Đức Phật Thích Ca cũng chỉ là <B>Tích Phật</B>. Tích Phật chính là hóa thân Phật, còn <B>Bản Phật</B> là pháp thân và báo thân. Đức Phật Thích Ca đã có các hiện tượng sinh lão bịnh tử, tu đạo, thành Phật, nhập diệt v.v..., thì đương nhiên không phải là đức Phật chân thật. Phật chân thật thì vô hình, vô tướng, mà lại là tấtcả hình tướng. Nó tương cận song không tương đồng với <B>thần</B> trong phiếm luận thần. Thần trong phiếm luận thần thì tràn lan trong tất cả không gian thời gian, có thể được con người kính yêu, song không thể thương yêu con người. Pháp thân Phật trùm khắp trong tất cả không gian thời gian. Nó chính là tất cả không gian thời gian, mà không thuộc bất cứ giới hạn không gian thời gian nào. Nó đầy đủ tất cả sức mạnh trí tuệ và phước đức, có thể tiếp nhận mọi nhu cầu của chúng sinh để ứng xử một cách thích đáng, mà vẫn như như bất động, không có bất cứ tạo tác nào. Cho nên từ pháp thân và báo thân mà nói, Phật là toàn tri, toàn năng mà cũng là vô tri, vô năng. Song từ hóa thân mà nói thì không phải như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật toàn tri, toàn năng không đồng với <B> thượng đế vạn năng, vua của muôn vua</B> như thần giáo nói. Bởi vì đức Phật không thể thay đổi nghiệp lực của chúng sinh. Ngàichỉ có thể giáo hóa, khiến họ tự nỗ lực thay đổi vận mệnh của mình. Song nó còn tùy thuộc vàođiều kiện bản thân của mỗi chúng sinh. Điều này trong kinh Phật từng có ví dụ: <I>Lòng từ bi của đức Phật như ánh sáng mặt trời chiếu khắp mặt đất, không phân biệt căn cơ lớn nhỏ. Song sự chiếu soi tuy bình đẳng mà chúng sinh được lợi ích lại có nhiều ít khác nhau</I>. Kẻ mù mắt khi mới sinh ra tuy được ánh thái dương soi rọi, song không biết ánh sáng là gì. Côn trùng suốt đời sống dưới lòng đất và vi sinh vật ở chốn tối tăm, tuy gián tiếp hay trực tiếp được lợi ích từ ánh sáng mặt trời, song chúng không biết được ánh mặt trời là gì. Lại như đức Phật Thích Ca khi còn tại thế, trong khuv ực giáo hóa của ngài mà có rất nhiều người không biết đức Phật là ai. Ba đời chư Phật trong nhân địa hành đạo Bồ Tát của mình, đều phát đại nguyện độ thoát tất cả chúng sinh. Thế nhưng chư Phật đã thành Phật, mà vẫn còn vô lượng chúng sinh chưa nghe được Phật pháp. Cho nên đức Phật không phải là toàn năng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi đức Phật còn trụ thế, ngài cũng từng nói: <I>Không thể độ người không có nhân duyên, không thể chuyển định nghiệp của chúng sinh</I>. Cho nên khitổ quốc của Phật bị vua lưu Ly nước láng giềng đem quân tàn sát tiêu diệt, ngài cũng không cách nào dùng thần thông để cứu giúp. Song đức Phật có thể dùng Phật pháp để khai đạo chúng sinh, khiến họ tự mình tu thiện, tích phước,tiêu tai, giải nạn. Do đó đức Phật độ chúng sinh, trên thực tế là chúng sinh tự độ. Nếu không như vậy sẽ trái với qui luật tự nhiên và trật tự nhân quả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đứng về phương diện toàn tri của đức Phật nói, ngài biết được mối liên hệ nhân duyên và nhân quả của tất cả chúng sinh trong ba đời. Bởi vì Phật không bị hạn chế bởi thfi gian xa gần và không gian rộng hẹp như chúng sinh. Ngài ở bất cứ điểm không gian và thời gian nào, cũng biếtđược toàn thể tất cả. Bởi vì bất cứ điểm không gian thời gian nào của ngài, cũng đều là toàn thể thời gian không gian của tất cả chúng sinh. Phật không lệ thuộc bất cứ điểm không gian và thời gian nào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sinh thông qua ký ức mà biết được quá khứ. Thần thông dựa vào cảm ứng để biết được quá khứ và tương lai. Đức Phật do thực chứng toàn thể nên biết tất cả, song không thể dùng ngôn ngữ thuyết minh trong cùng một lúc. Không gian và thời gian mà đức Phật thấy là toàn diện chỉnh thể không có khoảng cách gần xa và thể tích lớn nhỏ. Cho nên đức Phật nói: <I>Ngài biết được quá khứ và vị lai của tất cả chúng sinh, song cho dù trải qua vô lượng vô số hằng hà sa kiếp, cũng nói không hết</I>. Cho nên ngoài một số trường hợp ít oi ra, trong kinh Phật, không thấy có truy cứu về vấn đề này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật không nói nhiều đến việc quá khứ và vị lai. Chỉ cần nắm bắt được một niệm hiện tại, trên thực tế đã bao hàm lịch trình từ chúng sinh cho đến thành Phật, và toàn bộ không gian hoạt động của vị đó. Do đó đức Phật lấy tâm làm lý thể, nắm vững nguyên tắc lý thể, khi mở tẩmtí tuệ, thì có thể đạt đến mục đích toàn tri. Tuy toàn tri, song không cần nói là vạn năng. Do đó cảnh giới của Phật gọi là bất khả tư, bất khả nghì, không thể dùng tâm ý để suy xét, không thể dùng ngôn ngữ để bàn bạc.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">36. <B>THÀNH PHẬT RỒI CÒN PHẢI THỌ BÁO KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đúng vậy, sau khi thành Phật cũng phải chịu quả báo. Từ những vị thánh nhân và vĩ nhân thế gian găp phải rất nhiều việc bất như ý, chúng ta có thể biết được điều này. Ví dụ như Jesus bị môn đồ của mình phản bội làm hại, cuối cùng bị chết đóng trên thập tự giá. Khổng Tử bị cắt đứt nguồn lương thực nơi nước Trần, nước Thái. Văn Thiên Trường bị xử chém. Tổng Thống Abraham Lincoln của Mỹ và thánh Gandhi Ấn Độ bị ám sát chết. Tôn Trung Sơn gặp nạn ở London v.v... Do đó, đức Phật Thích Ca trước và sau khi thành Phật cũng gặp rất nhiều ma nạn, như sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết, và cuối cùng hàng phục ma quân dưới cộ Bồ đề. Ngoài ra còn có những nạn như đi khất thực không người cúng dường, bị gió lạnh đau lưng, người nữ vu cáo, đệ tử Đề Bà Đạt Đa xô đá làm chân bị thương, do dòng tộc Thích Ca diệt vong bị nhức đầu, lúc sắp Niết bàn vì ăn nhầm nấm rừng độc bị đau bụng như cắt v.v... Đệ tử của Phật càng không cần phải nói, sau khi chứng quả A la hán, cũng không tránh được quả báo. Như tôn giả Mục Kiền Liên và Tỳ kheo Ni Liên Hoa Sắc đều là bậc thần thông đệ nhất thế mà bị đánh chết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này các nhà tôn giáo Đông Tây đều có cách nói và lý luận riêng của mình. Cho nên thánh nhân lâm nạn, chính là thể hiện việc thành tựu nhân cách và sự nghiệp vĩ đại của họ không dễ dàng gì. Cơ đốc giáo nói Jesus vì nhân loại chuộc tội, song Phật giáo lại lý giải cách khác. Điều này có thể giải thích theo hai phương hướng khác nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ nhất, đức Phật gặp nạn đó là sự thị hiện của phápthân, làm gương cho phàm phu, để chứng tỏ phàm phu cũng có thể thành Phật. Đức Phật từ con người thành tựu.ho nên con người có khổ lạc hoa phước, đức Phật thị hiện ở nhân gian cũng phải có giống như vậy. Tuy bản thân đức Phật không bị chướng ngại bởi khổ lạc họa phước, song vì dẫn dụ chúng sinh bước lên đường tu hành Phật pháp, nên ngài phương tiện thị hiện giống như nhân loại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người ta ở đời nhất định phải có thân thể. Có thân là có những nhu cầu của nó, cũng như những điều làm phương hại đến thân. Hai thứ này xung đột, do đo ma nạn xảy ra. Cho nên Mạnh Tử nói: <I>"Trời sắp giao trách nhiệm lớn cho ai, nhất định trước phải làm khổ tâm chí họ, làm nhọc gân cốt họ"</I>. Nếu không có trải qua lao nhọc mà đạt được quả Phật, không gặp ma nạn mà thành Phật, thì cần gì phải tu hành? Làm sao hiển lộ được sự vĩ đại của Thánh nhân? Cho nên sau khi đức Phật thành đạo, tuy đầy đủ sáu thông, viên chứng ba minh, ngài vẫn đi khất thực, du hành trong nhân gian. Sự ăn mặc sinh sống, nhu cầu sinh hoạt của ngài hoàn toàn như người bình thường. Khi đệ tử viếng Phật, cũng có nói những lời thăm hỏi như sau: <I>"Chúng sinh có khó độ không? Thân thể có mạnh khỏe không?</I> Thật hiếm khi đức Phật dùng thần thông để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống hiện thực của mình và chúng sinh. Ngài chỉ dùng trí tuệ, và phương thức thông dụng trong nhân gian để giải quyết vấn đề của con người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thứ hai, từ thân tối hậu của Bồ tát và A la hán nói, họ từ đây về sau không còn chịu ảnh hưởng sự trói buộc và khổ nạn sinh tử trong ba cõi. Do đó các vị ấy cần phải trả sạch nghiệp bất thiện từ vô thủy đến nay, mà trong khi còn phàm phu đã gây tạo. Điều này giống như vào thời đức Phật còn tại thế, qui định người muốn xuất hia trước phải trả sạch tất cả nợ nần, hoàn thành xong mọi trách nhiệm và nghĩa vụ. Nếu như phạm tội thiếu nợ, cha mẹ không cho phép, vợ chồng không đồng ý, thì không được gia nhập Tăng đoàn. Cho nên hiện nay chùa chúng tôi cũng vậy, người nào muốn xuất gia cũng phải yêu cầu họ triệt để giải quyết tất cả mối quan hệ tiền bạc, tình cảm mới được vào chùa tu học, bắt đầu bước trên con đường xuất gia. Cho nên thân tối hậu của Bồ tát trước khi thành Phật, tất nhiên phải nhận chịu nghiệp báo quá khứ. Khi thành Phật tuy tâm được tự tại, không còn bị phiền não nhiễu loạn và khổ vui ảnh hưởng, song khi chưa nhập vô dư Niết bàn, vẫn còn thân thể hoạt động trong nhân gian, thì vẫn còn chịu sự ảnh hưởng của thế giới vật chất. Đó chính là sự thọ báo cuối cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chẳng qua đức Phật là bậc tâm giải thoát, tuy thân cũng chịu các phản ứng đau, ngứa giống như người bình thường, song không vì thế mà khởi phiền não hỉ, nộ, ai, lạc. Cho nên việc thọ báo của đức Phật hoàn toàn khác với người bình thường. Thọ báo là gánh trách nhiệm nhân quả; giải thoát là tự tại không bị phiền não trói buộc. Nếu như là bậc La hán Địa thừa, Bồ tát cho đến chư Phật, nương theo nguyện lực đến thế gian cứu độ chúng sinh, thì đó là hóa hiện mà không phải là thọ báo. Từ phàm phu nhìn, các vị đó cũng có các hiện tượng già bệnh chết v.v..., song bản thân họ không bị khốn nhiễu bởi các hiện tượng này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">37. <B>ĐỘ CHÚNG SINH TRƯỚC HAY THÀNH PHẬT TRƯỚC?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo <I>Phẩm Diêm Phù Đề Chúng Sinh Nghiệp Cảm</I> trong kinh <B>Địa Tạng</B> nói: <I>"Bồ tát Địa Tạng Vương trong vô lượng kiếp quá khứ, từng làm vị vua nhỏ, kết bạn với vua nước láng giềng. Lúc đó nhân dân hai nước phần nhiều làm ác, không biết tu thiện, nên hai vua cùng bàn với nhau, tìm mọi cách cứu độ cho họ. Một vua phát nguyện sớm thành Phật, rồi sau độ thoát chúng sanh. Còn vị vua thứ hai phát nguyện trước cứu độ chúng sinh tội khổ này, khiến họ được an lạc, thành tựu Bồ đề, rồi sau mình mới thành Phật. Vị vua phát nguyện sớm thành Phật, chính là đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, đã thành Phật cách nay vô lượng vô số na do tha bất khả thuyết kiếp. Còn vị vua thứ hai chính là ngài Địa Tạng Bồ tát, cho đến nay vẫn chưa thành Phật.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do hai trường hợp trên, có người hỏi: <I>Vậy nên thành Phật trước hay độ chúng sinh trước?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này có liên quan đến bản nguyện mỗi người. Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai khi làm quốc vương trong nhân địa tu hành chỉ phát nguyện sớm thành Phật rồi độ chúng sanh, mà không nói thành Phật trước độ chúng sinh sau. Ý là nguyện khi ngài hành đạo Bồ tát viên mãn liền thành tựu Phật quả, sau khi thành Phật vẫn độ chúng sinh. Thọ mạng của đức Phật này dài đến sáu vạn kiếp. Đương nhiên chúng sinh được ngài hóa độ cũng nhiều đến mức không thể tính đếm. Ngài Địa Tạng Bồ tát khi làm quốc vương trong nhân địa tu hành quá khứ phát nguyện: <I>Không nguyện sớm thành Phật mà nguyện độ tất cả chúng sinh trước, cho nên đến nay vẫn còn là Bồ tát</I>. Không nguyện theo thời hạn tam kỳ bách kiếp hành Bồ tát đạo, đó là xuất phát từ bi nguyện cá nhân ngài. Điều này không có nghĩa, chúng sinh thành Phật, đều phải giống như ngài Địa Tạng Bồ tát, hay đức Nhất Thiết Trí Như Lai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát theo nguyện lực thọ sinh. Chúng sinh theo nghiệp lực luân hồi. Bồ tát ví cứu độ chúng sinh nên tới lui trong ba cõi, còn chúng sinh bị nghiệp thiện ác lôi kéo lưu chuyển trong sáu nẻo, hưởng phước hay chịu tội. Bồ tát tuy ở trong tam giới, song đã là thân tự tại giải thoát. Thánh vị Bồ tát đã tự do tự tại, thì đối với việc thành Phật trước hay độ chúng sinh trước đều không khác gì nhau. Cho nên Địa Tạng Bồ tát với lời nguyện: <I>"Địa ngục chưa hết, thề chưa thành Phật"</I>, là bi nguyện đệ nhất trong các vị đại Bồ tát. Còn như các Bồ tát khác thành Phật, là theo con đường thông thường, tức trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp hành đạo Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát đạo là phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới độ chúng sinh. Cho nên không có việc không độ chúng sinh mà có thể thành Phật. Kinh <B>Địa Tạng</B> nói: <I>"Đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai phát nguyện sớm thành Phật, mà không có nói không phải trải qua giai đoạn ba đại a tăng kỳ kiếp tu hành và độ chúng sinh</I>. Chỉ có điều, ngài sớm thành tựu quả Phật sơ với Bồ tát Địa Tạng vẫn còn hành đạo Bồ tát trong vô lượng kiếp mà thôi. Do đó, sớm thành Phật cứu độ chúng sinh và độ tận chúng sanh rồi mới thành Phật đều xuất phát từ bi nguyện khác nhau của chư Phật và Bồ tát.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">38. <B>PHẬT VÌ SAO PHẢI ĐỘ CHÚNG SINH?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <B>Kim Cang</B> nói: <I>"Đó chẳng phải chúng sinh, cũng chẳng phải không là chúng sinh"</I> Lại nói: <I>"Chúng sinh, Như Lai nói không phải là chúng sinh, gọi đó là chúng sinh"</I>. Lại nói: <I>"Thực không chúng sinh mà Như Lai độ, nếu có chúng sinh mà Như Lai độ, thì Như Lai có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả"</I>. Nói độ chúng sinh chỉ là lập thệ nguyện lúc phát tâm cầu thành Phật. Cũng chính là khi chưa thành Phật, Bồ tát còn lấy tự ngã làm trung tâm để ôm ấp tâm nguyện. Cho nên phàm phu và Bồ tát lúc chưa thành Phật là có chúng sinh có thể độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song sau khi thành Phật, chúng sinh đã không mà Phật cũng không, vì đã siêu việt đối đãi. Còn nếu có quan hệ người độ và kẻ được độ thì vẫn chưa viên mãn, chưa thân chứng toàn thể pháp thân. Đó là không trong, không ngoài, không đây, không kia. Ví dụ như bất cứ giọt nước nào đến từ biển cả lại trở về biển cả. Từ biển cả nhìn, tất cả nước đều thuộc về toàn thể. Chỉ khi nhìn riêng từng giọt nước, mới thấy được dòng sông, mưa móc, sương tuyết, băng giá khác nhau. Cho nên kinh <B>Kim Cang</B> lại nói: <I>"Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên sanh tâm như vầy: Ta nên diệt độ tất cả chúng sinh. Diệt độ tất cả chúng sinh rồi, mà không có chúng sinh thật diệt độ"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát phát tâm lúc chưa thành Phật đều phải độ chúng sinh, nên có chúng sinh có thể độ. Vì đứng trên lập trường Bồ tát nhìn, nhất định có chúng sinh có thể độ. Đến Bồ tát từ sơ địa trở lên, thì việc độ sinh vận tác một cách tự nhiên, còn bản thân đã không còn tác ý độ sinh. Sau khi thành Phật thì không còn độ sinh, không có chúng sinh có thể độ. Vì chúng sinh được độ là do tự độ. Tùy theo thiện căn, phước đức, nhân duyên của người đó bao nhiêu, mà có thể cảm được Phật, Bồ tát hóa hiện cứu độ. Đó là Phật, Bồ tát trong tâm chúng sinh, mà không phải bản thân của Phật và Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiện căn là cái vốn có của chúng sinh, song nếu không vun bồi thì không sao tăng trưởng, hiển hiện. Càng nỗ lực tinh tấn cầu Pháp, càng có thể cảm ứng chư Phật, Bồ tát từ bi nhiếp hóa. Cho nên tự giúp mình trước mới có người giúp mình; chúng sinh có cầu, mới cảm được chư Phật, Bồ tát ứng hóa. Phật giáo thường lấy ví dụ như người đánh chuông, gõ nhẹ thì vang nhỏ; gõ mạnh thì vang lớn. Chuông có công năng phát ra tiếng vang, nhưng nếu không có người gõ, tự nó cũng không thể vang được. Cho nên chúng sinh nếu không tự mình nỗ lực, tăng trưởng thiện căn, cho dù pháp thân của Phật ở khắp nơi, cũng không giúp được gì cho chúng ta.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói tăng trưởng thiện căn chính là phải phát tâm Bồ đề, hay chúng sinh tự cầu thành Phật, liền được Phật giáo hóa, cảm ứng. Sau khi mình thành Phật, sẽ tiếp nhận sự cảm ứng của tất cả chúng sinh, mà không phải đi cảm ứng chúng sinh. Cho nên tất cả chư Phật sau khi thành Phật, đều là toàn tri, biến tri, do đó gọi là chánh biến tri giác, có cầu tất ứng. Chúng sinh có cầu, chư Phật tất ứng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật độ chúng sinh không phải dùng tri thức độ sinh. Cho nên sự toàn tri của Phật, không phải là nói Phật cần biết tất cả tri thức mà chúng sinh có, cũng không cần thông qua tư tưởng, lý niệm logic v.v... trong kinh nghiệm chúng sinh. Bởi vì Phật là toàn thể, chúng sinh là cục bộ, cá biệt. Phật có thể cho chúng sinh tất cả, song không cần học tập những thứ của chúng sinh. Chỉ cần chúng sinh có nhu cầu, là Phật trực tiếp cho. Do đó chúng sinh có đủ mọi căn khí, thì có thể được đủ mọi lợi ích trong Phật pháp. Phân tích và qui nạp mà nhân gian nói, đều thuộc về cá thể, cục bộ. Tâm lượng của Phật đã là toàn thể, nên không thể dùng tri kiến phàm phu đi giải thích, đánh giá chánh tri giác của Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật mà nhân gian thấy, như đức Phật Thích Ca, trên mặt lý luận là đức Phật hóa thân. Ngài ở nhân gian giống người, ở cõi trời giống trời, đến địa ngục giống địa ngục, trong bất cứ chúng sinh nào thì giống chúng sinh đó. Hóa thân Phật đó có hình tướng, cục bộ, cần phải kinh qua học tập mới đầy đủ tất cả tri thức của nhân loại, dùng những thứ đó làm công cụ độ chúng sinh, khiến họ được lợi ích. Ngài có thể đồng thời ở vô lượng vô số thân, độ vô lượng vô số chúng sinh, mà bản thể pháp thân thì vẫn bất động. Do đó chúng ta không thể nói, hóa thân Phật có sinh có diệt, nên pháp thân Phật có đến có đi. Cũng không thể vì hóa thân Phật cần đầy đủ tri thức nhân loại, mà nói pháp thân Phật có hạn cuộc. Thực ra hóa thân Phật cũng đầy đủ chánh biến tri giác. Nhưng không thể nói pháp thân Phật chánh biến tri giác là dùng tri thức của phàm phu, nhân thức được khả năng thấy biết của hóa thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">39. <B>THẾ NÀO LÀ RỘNG GIEO DUYÊN LÀNH?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Duyên có nghĩa là quan hệ. Xây dựng mối quan hệ gọi là <B>gieo duyên</B>. Hai bên từng có mối quan hệ qua lại gọi là <B>hữu duyên</B> (có duyên với nhau). Có mối quan hệ lợi ích cho nhau, gọi là <B>thiện duyên</B> (duyên lành). Mối quan hệ không dính đến dục vọng cá nhân, gọi là <B>tịnh duyên</B> (duyên thanh tịnh). Gầy dựng nhiều thiện duyên và tịnh duyên gọi là rộng gieo duyên lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó có người sau khi tin Phật, học Phật, nghe đâu có chùa cũng đi, gặp ai cũng gieo duyên lành. Họ mệt nhọc vì bôn ba khắp nơi, bận rộn vì tiếp đãi qua lại. Đó là sự hộ pháp, hoằng pháp thiếu tính nguyên tắc. Họ bỏ công bỏ của như vậy, song không có phương pháp tự tu, không y chỉ bậc thầy cố định. Ngoài mặt, họ quả thật gieo rất nhiều duyên lành, song trên thực tế, họ không giúp được điều gì có hiệu quả, có chiều sâu cho mình, cho người và cho chùa. Tuy chúng ta có thể thấy họ đi khắp nơi, song chưa chắc nơi nào cũng cần đến họ. Tuy nhiều người có thể tiếp xúc với họ, song lại rất ít người thực sự được họ giúp đỡ đắc lực.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cách gieo duyên lành này, giống như bố thí chén cơm cho một người, có thể tạm cho người đó đỡ dạ, dùng một bao gạo cho một người, có thể giúp họ sống trong nửa năm. Trái lại, nếu dùng một chém cơm bố thí cho một trăm người sắp chết đói, kết quả chẳng cứu sống một ai. Song cũng một chén cơm đó, nếu bố thì cho một người, thì ít ra cũng cứu cho họ sống thêm một ngày. Cũng đạo lý này, nếu dùng một đấu gạo bố thí cho một vạn người sắp chết đó, thì tuy rộng gieo được duyên lành, song kết quả chẳng cứu được một người nào. Cho nên rộng gieo duyên lành thì phải có nguyên tắc, tùy sức mà làm. Nếu có khả năng cứu giúp toàn thế giới mà không lo thiếu thốn, thì nên bình đẳng bố thí không hạn chế, không phân biệt, đến mọi nơi mọi nhà, chu đáo trọn vẹn. Còn như sức mình có hạn, thì nên tập trung lại, chọn lựa đối tượng cần kíp cứu giúp hay hộ trì. Ví dụ như ưu tiên cho những người tương đối quen biết, gần người thân, sư trưởng, bạn bè v.v... Nếu không, không biết liệu sức đi gieo duyên lành khắp nơi, thì không thực tế chút nào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đứng về Tam bảo mà nói, rộng gieo duyên lành là không phân biệt, bình đẳng bố thí. Đây chính là dùng Phật pháp giáo hóa chúng sinh, không phân biệt thân phận giàu nghèo, trình độ cao thấp, địa vị sang hèn, trí năng sâu cạn, chỉ cần có cầu tất ứng. Do đó Tam Bảo nhận tất cả sự cúng dường mà không có tâm chọn lựa phân biệt. Bất cứ ai chỉ cần phát tâm cúng dường, không luận số lượng nhiều ít, phẩm loại thế nào đều đem tâm từ bi, tâm hoan hỉ tiếp nhận. Các đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế đã thực hiện như vậy. Các vị ấy mỗi ngày mang bình bát đi khất thực từng nhà một, không phân biệt giàu nghèo, cũng không chọn lựa thức ăn nhiều ít, phẩm loại ngon dở, có món gì nhận món đó, có bao nhiêu nhận bấy nhiêu, cho đến khi đầy bát hay đủ dùng là thôi. Đây chính là đem tâm bình đẳng rộng gieo duyên lành. Đó cũng gọi là:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Một bát xin cơm ngàn nhà
Độ người hữu duyên với ta.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bố thí cho người khác đương nhiên là gieo duyên lành, song nhận sự bố thí cũng là gieo duyên lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vì người ta nói chung tài lực, vật lực, thể lực, trí lực và thời gian đều có hạn, cho nên nếu rộng gieo duyên lành một cách mù quáng, vô nguyên tắc thì không những không có hiệu quả, mà còn rước lấy sự phiền toái vô vị. Có khi mình tuy đã dốc hết sức lực, thậm chỉ ảnh hưởng đến sinh kế gia đình, sức khỏe tự thân, song trái lại còn bị người ta nghi ngờ, chịu nhiều sự bực dọc. Kết quả đó có thể khiến vị ấy đánh mất đi lòng tin và thoái thất đạo tâm của mình. Đức Thế Tôn từng răn dạy đệ tử trong kinh <B>Di Giáo</B>: <I>"Tỳ kheo đi khất thực giáo hóa trong nhân gian, hãy như con ong lấy mật hoa, không làm thương tổn đến sắc và hương của nó.</I> Do đó, nếu cư sĩ không liệu sức mình rộng gieo duyên lành, thì Tam Bảo tuy không có ý tổn hại họ, song họ lại có thể vì Tam bảo mà chịu tổn hại. Như vậy là cầu siêu thoát, là lại đọa ác há chẳng phải ngu si lắm sao? Do đó hộ trì Tam Bảo phải có chủ đích, có trọng điểm, có nguyên tắc, Nên cứu tế những người nghèo khổ tật bệnh, song cũng nên phân định rõ việc nào là nặng nhẹ, gấp hưỡn, chỗ nào là xa gần, thân sơ. Không nên thiếy thực tế, một mực bảo phải bình đẳng thí cho tất cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thực ra, hộ trì và bố thí mang tính nguyên tắc và trọng điểm cũng là một trong những phương thức rộng gieo duyên lành. Ví dụ như thành tựu được một người thành Phật, Phật có thể rộng độ được tất cả chúng sinh. Như vậy quí vị cũng gián tiếp cùng tất cả chúng sinh rộng gieo duyên lành. Cho nên kinh <B>Tứ Thập Nhị Chương</B> nói: <I>Cho một trăm người phàm phu ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; cho một vạn người trì ngũ giới ăn, không bằng cho một vị Tu đà hườn ăn (...); cứ thế loại suy, cho đến cho một người đại giải thoát đạt đến trình độ vô tu vô chứng ăn, thì công đức này càng lớn hơn nhiều.</I> Cúng dường, bố thí và hộ trì Tam Bảo có hai trọng điểm cần nên phát tâm:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Hộ trì vị thầy có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển Phật giáo ở hiện tại và tương lai, cũng như sự nghiệp của vị đó. Đó chính là rộng gieo duyên lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Hộ trì vị thầy mà mình tôn kính, cũng như sự nghiệp của vị ấy. Tuy vị ấy không có tiếng tăm, song có chỗ đáng cho mình tôn kính và sẵn lòng hộ trì, thì đủ để chứng minh vị đó có khả năng cảm hóa người khác. Đó cũng gọi là rộng gieo duyên lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ hai điểm trên có thể biết, tán trợ và hộ trì cho những nhân vật Phật giáo nổi tiếng và sự nghiệp của họ, chưa chắc phải là việc <B>thêm hoa trên gấm<SUP>(1)</SUP></B>, giúp thêm người dư thừa. Và bố thí cúng dường cho những nhân vật Phật giáo không có tiếng tăm, sự nghiệp cũng không nên có tâm niệm <B>biếu than mùa tuyết lạnh<SUP>(2)</SUP></B>, thương hại người lúc khó khăn. Điều quan trọng nhất của việc cúng dường là hiểu rõ được trọng điểm, liệu sức mình mà làm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Thêm hoa trên gấm: <I>Nguyên văn: "Cẩm thượng thiêm hoa", nghĩa đen là thêm hoa trên gấm, ý nói đã đẹp lại còn làm đẹp thêm, vốn có ý tốt. Song ở đây tác giả dùng thành ngữ này để chỉ việc làm không thích đáng, là cúng dường thêm những người đã dư thừa, nên sau thành ngữ, dịch giả thêm vào <B>giúp thêm người dư thừa</B>, cho rõ nghĩa.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Biếu than mùa tuyết lạnh: <I>Nguyên văn "Tuyết trung tống than". Nghĩa đen là biếu than (cho người nghèo) trong mùa tuyết lạnh (để sưởi), ý chỉ giúp đỡ cho người lúc khốn khó, vốn có ý tốt. Song ở đây tác giả dùng thành ngữ này để chỉ việc giúp đỡ mang tính thương hại, vì tháy người khốn khó, tội nghiệp, mà không hiểu rõ được ý nghĩa, trọng điểm của việc cúng dường trong Phập pháp. Nên sau thành ngữ, dịch giả thêm câu: <B>thương hại người lúc khó khăn</B>, cho rõ nghĩa.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">40. <B>Ý NGHĨA GIEO DUYÊN VÀ LIỄU DUYÊN?</b>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo chỉ nói đến <B>gieo duyên</B> và <B>liễu nghiệp</B>. Đó là rộng gieo duyên lành, chấm dứt ác nghiệp, mà không có nói liễu duyên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Gieo duyên là chỉ đối với người không có duyên lành, hay duyên lành không đủ, khiến họ chủ động hay bị động tiếp nhận sự giúp đỡ của pháp thế gian và sự hướng dẫn của Phật pháp, khiến mọi người tăng trưởng duyên lành, giúp đỡ lẫn nhau, bước lên con đường tu học thành Phật. Do đó, đệ tử Phật phải nên đem sự hiểu biết, khả năng của mình, rộng gieo duyên lành cùng chúng sinh và những người mà mình tiếp xúc. Chẳng qua, gieo duyên không phải là đầu tư, mà là chia sẻ, không nên có ý nghĩ mong được báo đáp. Đem sức một người rộng gieo duyên lành, làm ảnh hưởng, khiến người khác cũng biết rộng gieo duyên lành, đó là bố thí. Nhỏ thì có thể tạo phúc cho xã hội mà mình đang sống trong hiện tại, làm tăng thêm niềm hạnh phúc lẫn nhau. Lớn thì có thể ảnh hưởng đến quốc gia, cho đến toàn thế giới, trở thành nhân gian Tịnh độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như liễu duyên (chấm dứt duyên nợ) là danh từ xem qua dường như đúng mà xét kỹ thì lại sai. Đây là sự hiểu lầm quan niệm nhân quả do bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng dân gian. Làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ vốn đúng y như vậy. Anh đối với tôi tốt, tôi đối với anh tốt cũng đúng như vậy. Song liễu duyên theo quan niệm dân gian là: Nam nữ ân ái, sinh ra mắc nợ lẫn nhau. Vì sự mắc nợ ân tình này, họ phải trở lại làm chồng vợ để trả nợ với nhau, gọi đó là liễu duyên. Những quan niệm chồng vợ ba đời hay chồng vợ bảy đời rất phổ biến trong tiểu thuyết võ hiệp, thần quái, cũng như các truyền thuyết trong dân gian. Đã là chồng vợ ba đời, thì dứt xong duyên nợ một đời, còn phải trả duyên nợ trong hai đời, dứt xong duyên nợ hai đời, còn phải trả duyên nợ trong một đời. Phải làm chồng vợ trong ba đời mới chấm dứt duyên nợ (liễu duyên), và có thể chia tay. Có một số tín ngưỡng dân gian, dùng cách cầu cơ, lên đồng, cho đến những thuật sĩ giang hồ xem tướng mệnh, vô căn cứ đã nói với luận điệu như thế này: <I>Muốn hết duyên nợ tiền kiếp, nhất định phải lấy ai đó làm chồng làm vợ. Nếu không chấp nhận sự sắp đặt này, gia đình sẽ xảy ra biến cố, cho đến nguy hiểm tính mạng.</I> Có một số kẻ buôn thần bán thánh, họ lợi dụng điều này để bịa ra nào là <B>duyên nợ một lần, duyên nợ vài ngày</B>, cho đến <B>duyên nợ vài năm</B>, khiến nhiều phụ nữ bị lừa đến nỗi thất thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo quan điểm Phật pháp, mối quan hệ giữa nam nữ đã có ân oán vô kỳ hạn, thì duyên nợ của họ cũng vô lượng đời. Cho nên kinh <B>Phạm Võng</B> nói: <I>"Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta"</I>. Cũng có thể nói, tất cả người khác phái từng làm chồng vợ với ta, đó chính là ân oán không có ngày chấm dứt. Vợ chồng chỉ có ân mà không có oán thì thật là ít. Huống chi cho dù hai bên chỉ có ân không có oán, thì đó chính là tình chấp. Đã có tình chấp thì khó mà xả bỏ. Chồng vợ đâu phải chỉ có nhân duyên trong ba đời bảy kiếp, mà đó là mối quan hệ ân ái trong vô lượng đời. Chỉ có những người nhân duyên thành thục và, nghiệp lực tương ứng mới kết thành chồng vợ. Nếu bảo nam nữ quan hệ trái với luân lý xã hội là liễu duyên (trả xong duyên nợ) thì chẳng những pháp luật thế gian cũng không dung thứ, mà Phật pháp càng không thể chấp nhận. Nó khiến càng nhiều người bị ảnh hưởng xấu, tạo thêm nhiều nghiệp ác. Phật pháp dạy người nên kết duyên lành, chấm dứt nghiệp ác. Phàm bất cứ nhân duyên gì dễ khiến sinh ra hậu quả ác nghiệp, thì người con Phật quyết phải tránh xa, đâu có chuyện làm hại mình hại người, đá ngọc nát tan. Bởi vì nam nữ quan hệ bất chính sẽ đem lại đau khổ cho đối phương, người thứ ba, cho đến nhiều người khác nữa. Cho nên truyền thuyết liễu duyên theo kiểu này, không biết đã làm hại bao nhiêu người rồi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Oan gia nên mở không nên buộc. Quan hệ nam nữ bất chính, bị luân lý xã hội phản đối đèu nên xem là oan gia gặp gỡ, ác nghiệp hiện tiền. Quyết không thể mù quáng tin vào thuyết liễu duyên, mà phải chánh tín quan niệm <B>nghiệp</B> trong Phật pháp. Đó chính là, nếu thiếu người ta thì nên trả, đối tất cả nghịch cảnh phải có dũng khí giải quyết. Trả nợ càng nhiều, sẽ thiếu nợ càng ít. Chúng tôi hoàn toàn không cho quan hệ nam nữ tức là tạo ác nghiệp. Trên thực tế, vợ chồng chính đáng là cơ sở luân lý của con người. Song nếu cổ súy thuyết liễu duyên, làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, thì đó là gây tạo ác nghiệp, không những đời sau không thể trở thành vợ chồng, mà còn mắc phải ác báo đáng sợ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người xuất gia không luận là nam hay nữ cũng bị kẻ khác phái ghẹo chọc, dẫn dụ hay thăm dò. Người xuất gia vẫn là phàm phu, chưa phải là bậc A la hán ly dục, nên trong kinh đức Phật nói lòng dục nam nữ là đáng sợ hơn cả. Nếu truy cứu nhân duyên quá khứ, mỗi người chúng ta ai cũng đã từng làm quyến thuộc với vô lượng chúng sinh. Nếu muốn chấm dứt duyên nợ (liễu duyên) theo cách đó, thì phải tiếp tục không ngừng làm chồng làm vợ với vô lượng chúng sinh, rõ ràng là không thể nào có cơ hội xuất gia. Do đó, nêu người xuất gia cũng tin vào thuyết liễu duyên, thì sẽ không có ai đi tu cả! Xuất gia lấy tín tâm và nguyện tâm làm điểm tựa. Mình muốn xuất gia thì phải xem quan hệ nam nữ là nhân duyên ác, quả báo xấu, không để nó trói buộc mình mãi mãi. Người xuất gia nên rút gươm trí huệ, chặt đứt tình chấp nam nữ, mới kể là liễu duyên một cách chân chính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. <B>THẦN ĐẠO LẬP GIÁO CÓ PHẢI CŨNG LÀ PHẬT GIÁO?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuyệt đối không phải! Nhưng có rất nhiều người do không phân biệt được thế nào là Phật, thế nào là thần, nên ngỡ rằng tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng Phật giáo là một. Lại thêm trong ín ngưỡng Phật giáo, vốn pha tạp nhiều hiện tượng tín ngưỡng dân gian, đến nỗi Phật giáo bị hiểu lầm là chỉ lưu thuộc thần đạo lập giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét ra nguyên ý của <I>thần đạo lập giáo</I> có hai. Một, như <B>Kinh Dịch</B> nói vua chúa thuận ứng với đạo lý tự nhiên để giáo hóa nhân dân: <I>Quán xét đạo lý thần diệu (thần đạo) của trời, thì đối với bốn mùa sẽ thông tỏ. Thánh nhân noi theo đạo lý thần diệu đó để lập ra việc giáo hóa (lập giáo) thiên hạ đều kính phục.</I> Điều này giống như Mạnh Tử nói: <I>"Trời nhìn xuống, ta nhìn vào nhân dân; trời lắng nghe, ta lắng nghe nhân dân"</I>. Vua chúa tại vị xưng là thiên tử, thuận ứng thiên mệnh trị vì quốc gia, đều có ý thần đạo lập giáo. Hai là lợi dụng quỉ thần để thống trị và giáo dục nhân dân. Như <B>Hậu Hán Thư</B> nói: <I>"Vội lập miếu cao, tự xưng là bề tôi để thờ tự, đó gọi là thần đạo lập giáo, cầu thần giúp người"</I>. Thần đạo theo nghĩa thứ nhất, là đại biểu cho sự vận hành của pháp tắc tự nhiên. Thần đạo theo nghĩa thứ hai, là dựa vào tín ngưỡng quỉ thần, để khai thị và chỉ đạo cho nhân loại. Cái trước còn có lý tính, cái sau thì thuộc về mê tín một cách mù quáng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Thần đạo lập giáo</I> sở dĩ thường bị gọi là dâm từ, vì nó tràn lan, gây thành tai hại, mê loạn lòng người. Hiện tượng này có thể là do quỉ thần hiển linh thật sự, cũng có thể chỉ do các linh môi, thuật sĩ thao túng. Cho dù thật có quỉ thần hiển linh, thì cũng tùy loại quỷ thần thiện ác, hay do phước báo, trí tuệ lớn nhỏ khác nhau, mà khiến tuy cùng một cơ đàn, một linh môi, mà có được những lời chỉ thị khác nhau. Nó không có pháp tắc, đạo lý, mang tính thống nhất, ổn định, nên không thể làm tiêu chuẩn cho tri thức lý luận, hay y cứ cho đạo đức xã hội. Nếu nó do bọn linh môi, thuật sĩ thao túng, thì vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều! Bọn họ có thể cứu đời giúp người, ích vật lợi sinh, song cúng có thể làm mưa làm gió, đổi trắng thay đen. Người tin theo họ càng nhiều, thì sức linh của họ càng mạnh. Nếu nó bị những người dã tâm lợi dụng, sẽ trở thành mối họa gây ra loạn lạc trên đời. Do đó, từ xưa đến nay, đối với thần đạo lập giáo, đều có nhận thức như sau: <I>Nước có thể đỡ thuyền, cũng có thể làm chìm thuyền</I>. Cho nên người sáng suốt đều có thái độ <I>kính quỉ thần song tránh xa</I>. Quỉ thần như tiểu nhân, không thể đắc tội, mà cũng không nên gần gũi họ. Quỉ thần phản phúc vô thường, vui buồn bất chợt, thiện ác bất định, tà chính khó phân. Nếu như bị linh môi, thuật sĩ có ý sắp đặt, thì càng đáng sợ hơn nữa. Trong lịch sử, có các việc như loạn đảng yêu tà, dùng lời huyền hoặc làm mê loạn lòng người, chính là do thần đạo lập giáo mà ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời thứ nhất của thuật sĩ và linh môi phần nhiều được giáng linh một cách ngẫu nhiên. Người kế thừa họ thì cần trải qua huấn luyện, phần nhiều là chọn nhi đồng hay thiếu niên để huấn luyện với kỹ thuật đặc biệt. Trong quá trình huấn luyện, dạy cho chúng học được cách tiếp nhận quỉ thần nhập vào người. Lâu ngày chầy tháng, điều đó sẽ hình thành thói quen và phản ứng một cách tự nhiên và nhập vào hay không là điều không quan trọng. Điều quan trọng là nghi thức giáng linh, không khí và tâm lý phản ứng lúc đó. Trong không khí và nghi thức nhất định, sẽ có sự phản ứng tâm lý tương ứng, cho nên có thể tiếp thu được sự ám thị của người thao túng, mà lại cho rằng đó là ý chí của thần. Linh môi nếu là người đã trưởng thành, họ nghĩ đến điều gì sẽ biểu hiện ra điều đó, còn như là trẻ em, sẽ chịu sự ám thị của người thao túng, và ứng tượng lúc huấn luyện bình thời mà có sự phản ứng. Cho nên những hiện tượng này, có thể là quỉ thần giáng linh, cũng có thể là người mắc bệnh tinh thần, hoặc do thuật sĩ, linh môi sắp xếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuật sĩ, linh môi có thể là những người học qua một số thi thư, cũng có thể là người không học. Song có một hiện tượng chung, đời thứ nhất của họ rất ít khi do huấn luyện, mà là do quỉ thần dựa vào người một cách đột nhiên, tức như mọi người thường gọi <I>tiên Phật mượn xác</I>. Đây là do một số quỉ thần vô danh, mạo nhận tên của thần linh mà dân gian quen thuộc, mượn ai đó để làm công cụ biểu hiện sức linh của mình. Họ có thể biết được một số việc quá khứ và dự đoán vị lai; có thể trị bệnh, khuyên người làm lành, chỉ người tránh nạn. Đây chính là nguyên nhân việc <I>tin đồng cốt không tin thầy thuốc, tin quỉ thần không tin người</I>, như vẫn thường thấy trong dân gian. Song loại linh nghiệm này dường như đúng mà lại sai, độ tin cậy rất thấp. Song chỉ cần một số ít người cảm nhận được sự lợi ích, sẽ đồn đãi lan truyền, trở thành hiện tượng đua nhau cúng bái, đông nghịch người theo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Linh nghiệm nhiều ít thế nào, phần lớn liên quan đến tâm lý cầu thần của người đó. Cầu khẩn tâm chí thiết, sẽ từ không khí và nghi thức giáng linh, có được phản ứng của sức linh. Linh môi, thuật sĩ cũng có thể học tập theo sự hướng dẫn của quỉ thần. Học tập càng lâu, kiến thức về tôn giáo, luân lý, đạo đức, tinh tướng, y bốc có liên quan cũng càng nhiều. Cho nên họ có thể viết thư, ra đơn thuốc, nói đạo lý trong các tôn giáo, khiến người ta tin, ngỡ là vị thần linh nào đó giáng xuống. Thật ra quỉ thần do phước báo đều có được một ít thần thông và sức linh cảm ứng. Họ không có lý tưởng riêng, mà chỉ muốn biểu hiện ra thái độ tự tại, tự tôn, ngã mạn của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu là người thừa kế linh môi đời thứ hai, thì cũng như đã nói ở trước, họ được tuyển chọn từ lúc còn nhi đồng hay thiếu niên để huấn luyện. Những người đó ít nhiều đều mang đặc tính thần kinh chất, mẫn cảm, nhiều ảo tưởng. Cho nên trải qua kỹ thuật huấn luyện, học tập nào đó, lại thông qua sự truyền thụ nhồi nhét quan niệm đặc biệt, cho dù không có quỉ thần giáng linh, họ cũng có thể xuất khẩu thành thơ, đặt bút thành văn, xem bệnh cho thuốc, bàn giải tướng mệnh, dự báo kiết hung... Độ trông cậy của những người như vậy càng thấp hơn nữa. Song do những người tín ngưỡng lâu nay, vì quen ỷ lại vào sự mách bảo của thần linh, nên họ khó mà có thái độ khách quan để xét đoán và truy cứu. Nhưng linh môi, thuật sĩ được huấn luyện theo cách này, trong khi tiến hành nghi thức giáng linh, thần trí lờ mờ, phần lớn không phân biệt được hiện tượng nào là do ý chí họ tạo ra, hay thật có thần linh mượn xác. Đương nhiên, khi họ nói đến những điều có liên quan đến danh lợi, vật dục của tự thân, thì họ biết là mình mượn lời tiên Phật để nói ra ý muốn cá nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì lý do này, thần đạo lập giáo, không đáng để chúng ta tin tưởng, nương cậy.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. <B>TẠI SAO PHẬT GIÁO ĐƯỢC GỌI LÀ VÔ THẦN LUẬN</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô thần luận là danh từ chuyên môn trong tôn giáo học. Trên đời có hai loại vô thần luận. Một là vô thần luận theo duy vật. Hai là vô thần luận theo Phật giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô thần luận theo duy vật phủ định tất cả sự tồn tại độc lập của tinh thần, cũng không tin có thế giới quỉ thần. Còn vô thần luận theo Phật giáo thuyết minh các pháp do nhân duyên sinh, vũ trụ vạn vật do cộng nghiệp của của chúng sinh tạo thành. Phật giáo thừa nhận có tinh thần, có quỉ thần song không cho rằng có một vị thần duy nhất, tối sơ cũng như tối hậu, toàn tri, toàn năng sáng tạo và chi phối vũ trụ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo tôn giáo học, tín ngưỡng về thần có thể chia thành đa thần, nhị thần, nhất thần, phiếm thần cho đến vô thần. Đa thần là tín ngưỡng dân gian thông thường, không có tổ chức, không có hệ thống, là hình thái tôn giáo của bộ tộc nguyên thủy, cũng là hình thái tôn giáo mang tính địa phương. Ví dụ như thần trong tín ngưỡng của người Trung Quốc, có chia ra thần địa phương, thần cả nước. Thần địa phương lại chia ra thần tổ tiên và thần tự nhiên. Tên gọi và hình tượng của các vị thần này tùy theo nơi, theo lúc mà thay đổi khác nhau. Thần cả nước và vị tổ đầu của dân tộc, cả nước, hay là thần núi sông nhật nguyệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn tín ngưỡng nhị thần là chia thiện và ác thành hai thế lực. Ban đầu là do hai dân tộc đối địch với nhau, rồi tự coi là vị thần bảo hộ của bên mình là thiện thần, còn thần của đối phương là ác thần. Về sau do hai dân tộc thống nhất nên hình thành tín ngưỡng nhị thần, tức xem ác thần là ma quỉ, và thiệ thần là thượng đế. Tôn giáo vừa sùng bái ma quỉ, vừa sùng bái thượng đế, trên thế giới chỉ có Bái hỏa giáo<SUP><B>(1)</B></SUP> của Ba Tư mà thôi. Cơ đốc giáo tuy cũng tin sự tồn tại vĩnh viễn của ma quỉ và thượng đế, song họ chỉ thờ thượng đế mà không thờ ma quỉ, cho nên tuy có nội dung nhị thần giáo mà lại mang hình thức nhất thần giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôn giáo thuộc nhất thần giáo cho rằng có một vị thần sáng tạo và không chế vạn vật. Vị thần này có quyền năng tuyệt đối trong việc chủ tể và hủy diệt tất cả. Ví dụ như đấng tạo hóa mà người Trung Quốc gọi, hay Thiên chúa mà Cơ đốc giáo gọi. Cơ đốc giáo cũng tin có thiên sứ, thiên tử, thiên thần, thiên nữ. song đó chỉ là những thuộc hạ của thượng đế duy nhất, họ không thể nào trở thành người kế thừa thượng đế, hay trở thành một vị thần lớn khác có địa vị ngang với thượng đế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như phiếm thần là thần thuộc ý niệm mà các nhà triết học tin tưởng. Nó là bản thể của vũ trụ, pháp tắc của tự nhiên, mà không có hình tượng nhân cách. Nó là chỗ xuất sinh ra vạn vật mà cũng là chỗ vạn vật trở về. Thần ở đây không thể có ý chí thương yêu nhân loại, song nhân loại lại có trách nhiệm và nghĩa vụ phục tùng và kính ái thần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như vô thần, trước đã nói có hai loại. Một là vô thần theo duy vật, cho rằng tất cả hiện tượng của vũ trụ nhân sinh đều do vật chất vận hành sản sinh ra. Ngoài sự hoạt động của vật chất, không có linh thể tồn tại. Nghười ta trước khi sinh trưởng không có quá khứ, sau khi chết không có vị lai. Nếu nói có, chẳng qua chỉ là nguồn gốc và sự tiếp nối di truyền về phần nhục thể, còn đối với cá nhân, chết như bóng đèn tắt. Họ tuy cũng thừa nhận người ta khi còn sống phát huy sức mạnh tinh thần về phương diện học thuật, chính trị, nghệ thuật... đều có ảnh hưởng đến đời sau, song lại cho đó là vật chất mà không phải là tinh thần. Người ta có thể tưởng nhớ đến người xưa, song người xưa không biết chúng ta nhớ tưởng đến họ, bởi vì họ không còn tồn tại. Nhớ tưởng đến người xưa không phải là vì an ủi vong linh người quá cố, chẳng qua chỉ nhắc lại gương sáng người xưa, để tự khích lệ và khích lệ người khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô thần luận theo Phật giáo chủ yếu là đặt trên nền tảng các pháp đều từ nhân duyên sinh, thuyết minh chúng sinh do nghiệp lực chiêu cảm ra quả báo. Mỗi chúng sinh tạo nghiệp khác nhau, nên có quả báo riêng. Chúng sinh trong đời trước từng tạo vô lượng nghiệp, những nghiệp nhân cùng loại sẽ chiêu cảm ra quả báo cũng loại, nên sinh ra trong cùng một hoàn cảnh. Đó là điều mà đức Phật nói: "<I>Tự mình làm, tự mình nhận chịu"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế giới chúng ta nằm trong phạm vị thái dương hệ, do cộng nghiệp của nhân loại và tất cả loại chúng sinh sống trên đó mà tạo thành, mà không phải như nhất thần luận bảo do thượng đế sáng tạo. Người ta biết đến thần, cần cầu thần, chẳng qua do chính nhu cầu thần linh của họ tạo thành. Một vị thần toàn tri là điều không bao giờ có, song không thể vì thế mà nói không có thần. Đối với người tín ngưỡng quả thật có thần. Những vị thần đó có thể là đại lực quỉ thần, đại phúc đức thần hay các thiên thần đến từ thế giới khác. Những thần như thế không phải chỉ có một vị duy nhất, do đó những người thuộc tín ngưỡng nhất thần giáo cũng có sự chia rẽ ý kiến khác nhau. Đối với hình tượng, sự lý giải, mức cảm thụ về thần của họ, cũng tùy theo cá nhân, địa phương, thời đại mà có sự sai khác. Do đó tín ngưỡng nhất thần, thật ra chỉ là sự thăng cách của tín ngưỡng đa thần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô thần theo Phật giáo không phủ định tín ngưỡng và tác dụng của đa thần, nhj thần, cho đến nhất thầh. Chẳng qua, Phật giáo chỉ coi họ là một loại chúng sinh mà thôi. Cho nên trong kinh <B>Hoa Nghiêm</B>, kinh <B>Địa Tạng</B>, cho đến kinh <B>A Hàm</B> v.v... đều có nói đến quỉ thần, Phật giáo không phải chủ trương không có qui thần, mà là không cho rằng có thần sáng tạo độc nhất, làm chủ vũ trụ nhân sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Bái hỏa giáo: <I>Tiếng Anh Zoroastrianism (fire-worship). Đây là tôn giáo thờ lửa cổ đại của Ba Tư, do giáo chủ Zocraster sáng lập, được truyền vào Trung Quốc vào thời Nam Bắc Triều.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. <B>THƯỢNG ĐẾ CỦA NHẤT THẦN GIÁO CÓ PHẢI LÀ GIẢ DỐI KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không phải là giả. Theo kinh nghiệm tôn giáo nói, vị giáo chủ có thể sáng lập ra một tôn giáo lớn quyết không có nói dối. Vị đó có thấy được, tiếp xúc được với thượng đế thực sự mới khiến ông ta không thể nào phủ định sự tồn tại của thượng đế, và dùng lòng tin tưởng kiên định, cuồng nhiệt để tuyên truyền cho tín ngưỡng của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thượng đế như vậy, chúng ta chỉ có thể giải thích do là kinh nghiệm thuộc về thế giới nội tại của các nhà tôn giáo đó, mà không nhất định có thượng đế để tồn tại một cách khách quan. Bởi vì đối với những người không tin, thượng đế sẽ không tồn tại. Song những người không tin, hay chưa từng thấy thượng đế, cũng không có quyền phủ định sự tồn tại của thượng đế. Điều này giống như, nhưng ai chưa lên mặt trăng, thì không có quyền bảo những nhà du hành vũ trụ lấy được những chất liệu trên mặt trăng là chuyện bịa đặt. Do đó Cơ đốc giáo nhấn mạnh vấn đề <B>kiểm chứng</B>, tức kinh nghiệm tín ngưỡng tôn giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song theo Phật pháp, vũ trụ được tạo thành là do cộng nghiệp của chúng sinh, mà không phải do một thượng đế toàn năng sáng tạo. Vì lý do này, Phật giáo được xem là vô thần luận. Song vô thần không có nghĩa là phủ định sự tồn tại của thượng đế, mà chỉ cho rằng không có việc thượng đế sáng tạo vũ trụ. Thượng đế thực sự chỉ là một phần tử trong vũ trụ, là một loại chúng sinh mà thôi, mà không phải như Cơ đốc giáo nói là cái căn bản, bắt đầu cũng như tối hậu của vũ trụ. Cho nên Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của thượng đế, mà chỉ phủ nhận không phải do thượng đế mới có vũ trụ này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã như vậy, phải chăng cho rằng thượng đế nói dối, tín đồ nhất thần giáo bị lừa! Không phải vậy, thượng đế không có nói dối! Bởi vì phàm là thần đều có tâm cao mạn. Vị thần nào phúc đức càng lớn, phẩm vị càng cao, thì tâm ngã mạn và lòng tự tin càng lớn. Đây là điều mà Mật giáo gọi là <I>thiên mạn</I> hay <I>Phật mạn</I>. Do có những chúng sinh nội tâm yếu đuối, cần có thần đủ quyền năng để che chở và ban phát ân đức khiến cho họ được an ủi và hy vọng, nên theo sự cần cầu đó mà tỏ ra giá trị, quyền năng vô hạn của bản thân. Do đó, không luận là thần hay người, đều có bản năng và nhu cầu giống nhau. Trong tình trạng đó việc thần tạo ra vũ trụ đã trở thành chân lý của tôn giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như vậy, cách nói <I>thần sáng tạo vũ trụ</I> phải chăng chỉ là lời tuyên xưng của thần mà thôi? Đây lại là một vấn đề khác. Thần có thể biết, mà cũng có thể nói không biết. Trong kinh Phật có một câu chuyện như sau, trời Đại Phạm Thiên gặp được Phật, ông thừa nhận rằng mình không có sáng tạo ra vũ trụ. Song ông ta lại nghĩ rằng, chúng sinh vẫn cho rằng ông là vị đã tạo ra vũ trụ. Trong bất cứ kinh điển của nhất thần giáo nào, đều không có nói đến lúc thượng đế chưa tạo ra vũ trụ mà lại tự bảo là mình tạo ra vũ trụ. Điều này giống như trong xã hội công thương nghiệp ngày nay của chúng ta, có những nhà xí nghiệp sáng suốt khiêm tốn bảo: <I>Công ty của ông ta là do toàn thể nhân viên và xã hội tạo thành, không phải chỉ có một mình ông. Ông chỉ là một phần tử, cũng cấp vốn liếng, trí tuệ và thời gian mà thôi. Công ty tuy nhờ ông mà được thành lập, phát triển thành công, song ông vẫn cho rằng đó là lấy từ xã hội, nên sử dụng cho xã hội</I>. Nhà xí nghiệp như vậy, giống như trời Phạm Vương gặp được Phật, khai mở trí tuệ, tiêu trừ ngã mạn, không còn lấy tự ngã làm trung tâm, phụng hiến bản thân, lợi ích chúng sinh. Trái lại, có rất nhiều nhà xí nghiệp cho rằng, công ty là do mình sáng lập, nhân viên nhờ ông mà được cơm no áo ấm, xã hội nhờ ông mà được hạnh phúc. Nói chung tất cả đều nhờ vào trí tuệ, vốn liếng và tài kinh doanh của ông mới có được. Hạng người này, giống như thượng đế của nhất thần giáo, họ thật ra không có lừa dối ai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thượng đế có sáng tạo vũ trụ hay không, tín đồ có bị lừa dối hay không, đều không phải là vấn đề. Nếu chưa từng sáng tạo vũ trụ mà bằng lòng gánh lấy đau khổ của chúng sinh, giúp đỡ họ đúng lúc, đúng phần, như vậy chẳng phải là Bồ tát hay sao? Nếu như tín đồ quả thật bị lừa dối, song nhân đó họ lại có được an ủi và khích lệ, thì bị lừa như vậy cũng xứng đáng. Như câu chuyện <I>trông rừng mơ hết khát nước</I><SUP><B>(1)</B></SUP> do Tào Tháo đạo diễn, chẳng phải có ích lắm sao? Kinh <B>Pháp Hoa</B> nói hóa thành, chính là dẫn dụ những người khiếp nhược, mà nói pháp A la hán, Bích chi Phật, khiến họ trước cầu giải thoát, rồi sau mới bảo họ phải nên thành Phật. Giải thoát của Tiểu thừa giống như nhà nghỉ trên đường lữ hành dài xa. Nó giúp người ta nghỉ ngơi lại sức, rồi hôm sau lại tiếp tục lên đường, nhắm đến Phật đạo xa hơn. Cho nên Phật nói pháp Tiểu Thừa, cũng là một cách để chúng sinh học Phật! Đây chính là phương tiện thiện xảo trong việc giáo hóa. Cho nên chúng ta không nên phản đối thượng đế của nhất thần giáo là dối gạt người. Chỉ cần nó có ích lợi là được. Vấn đề là người ta có vui lòng chịu bị gạt hay không mà thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trông rừng mơ hết khát nước: <I>Là một thành ngữ có xuất xứ từ sách <B>Thế Thuyết Tân Ngữ</B>, bài Giả Dụ Sách nói: Ngụy Võ Đế (Tào Tháo) hành quân di lạc vào đường không có nước, toàn quân đội đều rất khát. Tào Tháo liền hạ lệnh bảo: "Phía trước có rừng mơ lớn, có rất nhiều trái vừa chua vừa ngọt, có thể trừ cơn khát". Tướng sĩ nghe xong đều ứa nước miếng, nhờ đó được đỡ cơn khát, đi đến được nguồn nước phía trước.</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. <B>MẬT GIÁO LÀ GÌ?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo truyền thuyết của Mật giáo, Mật giáo được đức Đại Nhật Như Lai Tỳ Lô Giá Na Phật truyền cho ngài Kim Cương Tát Đỏa, trụ ở cung Pháp Giới Kim Cương, trở thành vị Tổ thứ hai. Sau khi đức Phật Thích Ca nhập diệt khoảng tám trăm năm, có ngài Long Mãnh ra đời, khi mở tháp sắt ở miền Nam Thiên Trúc, được đích thân ngài Kim Cương Tát Đỏa truyền thụ Mật pháp, trở thành vị Tổ thứ ba, rồi truyền cho ngài Long Trí là vị Tổ thứ tư. Sau đó mấy trăm năm, lúc ngài Long Trí đã bảy trăm tuổi lại truyền cho Tổ thứ năm là Kim Cương Trí. Vị này là người đầu tiên trong ba vị cao tăng Mật tông, đã đến Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông. Cho nên Mật giáo không phải đức Thích Ca nói, mà là do pháp thân đức Phật trực tiếp nói. Vì pháp thân không thuyết pháp, nên, gọi sự truyền thừa của Mật giáo là Mật pháp, Căn bản tâm pháp, hay Vô thượng đại pháp. Mật pháp không thể do kẻ phàm phu truyền thừa cho nên gọi kẻ truyền thừa Mật tông là Kim Cang thượng sư, bậc Đại thành tựu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song từ trên góc độ lịch sử Phật giáo nhìn, Mật giáo ban đầu có nguồn gốc từ tín ngưỡng nhân gian, sau đó phát triển thành Mật giáo hay Mật thừa, thuộc Đại thừa thời kỳ cuối của Ấn Độ. Nó lấy tư tưởng của Phật giáo Đại thừa làm cơ sở và cản bản, rồi thêm vào đó quan niệm và cách tu của Ấn Độ giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo lấy ly dục làm căn bản. Song Mật giáo Vô thượng Du già lại thông qua việc dâm dục để đạt đến mục đích giải thoát. Cho nên Tổ sư của Hoàng giáo Tây Tạng sau này là Tông Khách Ba đã cải cách, cho phế bỏ và cấm dùng phương pháp tu bằng cách giao cấu giữa nam nữ. Song những giáo phái khác vẫn sử dụng như xưa. Họ vì muốn hợp lý hóa việc này, nên yêu cầu phải luyện khí, mạch, minh điểm trước, rồi sau mới có thể thực hiện pháp tu này, mà họ gọi là <I>pháp môn song tu.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bản thân Mật giáo được hình thành theo bối cảnh thời đại Ấn Độ đương thời và hoàn cảnh Tây Tạng sau này. Chúng ta không thể nói Mật giáo Tây Tạng không phải là Phật giáo. Ngoài Vô thượng Du già ra, giáo lý và pháp tu của Mật giáo có tổ chức nghiêm mật, thứ lớp phân minh. Nhất là về phương diện giáo lý, họ lấy <B>Trung Quán</B> làm căn bản, lấy <B>Du Già</B> làm hỗ trợ, đó là điều không thấy ở Phật giáo Trung Quốc. Họ đối với việc giáo dục đào tạo Tăng lữ cũng hết sức nghiêm túc, có hệ thống, có thứ lớp. Cho nên họ có tìn tâm kiên cố và pháp môn nhất định. Song những người được xưng là Phật sống trong khu vực Mông Cổ, Tây Tạng, không nhất định là kẻ có học vấn hay tu chứng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thượng sư của Mật giáo là người truyền thừa pháp. Đó là trực tiếp từ Kim Cang Tát Đỏa hay pháp thân Phật được truyền thừa xuống. Không thể tự xưng là Thượng sư, cần phải có thầy truyền nối. Người được truyền pháp phải tu xong một mật chú (tantra) nhất dịnh, và được người truyền thừa chứng nhận đã là bậc Đại thành tựu, mới có thể trở thành Thượng sư. Cho nên không phải do quỉ thần dựa nhập, không thầy tự rõ, biết được một số mật ngữ, biểu hiện một ít linh dị, rồi tự xưng là Thượng sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vấn đề là, ngay từ thuở ban đầu Mật giáo đã như vậy. Nó khiến Phật giáo không cách gì giữ được sự trong sáng của mình. Bất cứ ai cũng có thể mượn cớ là Phật, là Bồ tát giáng phàm khai thị, rồi tự xưng mình là Thượng sư. Chẳng qua ở Tây Tạng, do có chế độ nghiêm mật, không dễ gì giả mạo, cho nên còn có thể được. Song các khu vực khác ngoài Tây Tạng, lãnh tụ của các phái Mật giáo Tây Tạng, cũng như sức mạnh tổ chức của những phái này không cách nào làm tròn trách nhiệm phân biệt, giám định và đôn đốc được nữa. Vì vậy, trong những vùng Mật giáo thịnh hành, có rất nhiều người tự xưng là Thượng sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Được truyền thừa mật giáo sớm nhất ở Tây Tạng là người tại gia. Ví dụ như Đại sĩ Liên Hoa Sinh, thủy tổ của Hoàng giáo, theo truyền thuyết là người có vợ con. Các Lạt Ma, Thượng sư của Hồng giáo sau này cũng đều là người tại gia. Cho nên Thượng sư là người tại gia là điểm đặc biệt của Tây Tạng. Họ quy y Tứ Bảo, tức trước Phật Pháp Tăng lại có thêm Thượng sư. Tam Bảo không quan trọng, Thượng sự mới là trung tâm tín ngưỡng. Thượng sư chính là Bổn sư, chính là Phật và đại biểu cho báo thân Phật. Cho nên nếu không thông qua Thượng sư, thì không sao tiếp nhận được Phật pháp. Điều này tuy Mật giáo có lý luận riêng của mình, song không được Hiển giáo thừa nhận. Vì tư cách Thượng sư giống như người nói thay lời cho thượng đế và thiên sứ, nên vốn không khế hợp với Phật pháp bình đẳng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở Tây Tạng, Thượng sư cũng có người là nữ. Hiện nay có người bảo, đệ tử là nam, nếu muốn tu Vô thượng du già, tốt hơn hết bản thân của Thượng sư là nữ. Do đó có một số người nữ xưng là Thượng sư, mượn cớ truyền pháp mà cùng đệ tử nam của mình làm việc dâm loạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như trên đã nói, lấy việc giao cấu nam nữ làm pháp môn tu trì vốn không phải là Phật pháp, không phải là pháp thanh tịnh. Trong xã hội chúng ta hiện nay, đó cũng là việc cần phải nghiêm cấm. Cho nên từ xưa các đạo sĩ tu luyện thuật phòng trung, ắt phải có hộ pháp bên ngoài. Phải là người có tài lực và thế lực lớn mới làm được. Những đạo sĩ bình thường, không có khả năng này. Nếu không, nó sẽ trở thành trào lưu dâm loạn, là mối họa lớn cho xã hội. Tuy bản thân những người tu trì pháp này không cho nó là dâm loạn, không phải vì thỏa mãn dục vọng và hượng thọ dục lạc, mà là để đạt đến mục đích thân tâm, trong ngoài, nam nữ đều thống nhất. Loại thống nhất theo cách này, chỉ là thống nhất tạm thời, do quên đi việc lấy tiểu ngã làm trung tâm, mà không phải đã đạt đến trình độ đoạn trừ phiền não. Đương nhiên đó cũng là không phải là giải thoát, và cũng không phải là đã thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói đến tức thân thành Phật, thì Thiên Thai tông của Trung Quốc cũng nói đến có sáu mức độ thành Phật khác nhau. Đó là: <I>Lý tức Phật, danh tự tức Phật, quán hạnh tức Phật, tương tự tức Phật, phần chứng tức Phật</I> và <I>cứu cánh tức Phật</I>. Lý tức Phật là chỉ chúng sinh nói chung, đều có Phật tánh, nên về lý đã là Phật. Sau khi học Phật, họ tự biết mình là Phật, đó gọi là danh tự Phật. Lúc họ bắt đầu tu hành thì gọi là quán hạnh Phật. Do đó thuyết tức thân thành Phật của Mật giáo nói, không có gì là kỳ đặc. Nếu mới tu hành Mật pháp, chỉ hơi có một chút cảm ứng mà đã có thể trở thành cứu cánh Phật, thì điều này ngay cả Mật giáo cũng không thừa nhận. Những người như thế, nhiều lắm chỉ là quán hạnh Phật. Ngay cả Tông Khách Ba và các vị Lạt Ma cũng không thừa nhận mình là cứu cánh Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với Mật giáo, khí mạch, minh điểm hết sức quan trọng. Đây cũng là yêu cầu chung của thuật Du già Ấn Độ. Người tu thiền định cần phải khỏe mạnh. Họ lợi dụng việc ngồi thiền hay phương pháp quán tưởng để làm cho khí mạch thông suốt. Đây cũng là hiện tượng chung của Phật giáo và ngoại đạo. Minh điểm được nói đến, có chỗ tương tự với việc hoàn tinh bổ khí, hoàn khí bổ não của đạo gia. Tinh lực dồi dào thì thần khí an định, đầu óc sáng suốt, thân tâm thoải mái. Vị thiền giả của Hiển giáo tuy không cố ý tu luyện những đạo thuật này, song cũng có hiện tượng tương tự phát sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp tu của Mật giáo, chú trọng đến thân thể mà họ gọi là tức thân thành Phật. Mục tiêu tu luyện của họ là để chuyển biến nhục thể, giống như đạo gia bảo <I>Hóa cánh lên tiên</I>, hay là <I>bay giữa ban ngày</I>. Song theo quan điểm căn bản của Phật giáo, sắc thân do năm uẩn giả hợp thành là pháp huyễn, là pháp vô thường. Đã là pháp vô thường thì cần phải giải thoát. Nếu chấp trước thân thể vô thường, lấy đó làm điểm cuối cuối của sự tu hành, thì còn trong vòng sanh tử, chưa ra khỏi tam giới. Cho nên Thiền tông gọi những người tu pháp môn này là <I>quỉ giữ xác</I>. Cho dù theo truyền thuyết, ngài Long Thọ sống đến bảy trăm tuổi, theo truyền thuyết của Đạo gia, ông Trần Đoàn sống đến tám trăm tuổi, song cuối cùng cũng không sao tránh khỏi cái chết. Cho nên, Phật giáo tuy không phủ nhận tác dụng của khí, mạch, minh điểm song cũng không thừa nhận sự tất yếu của nó
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn việc Lạt Ma Tây Tạng và Tỳ kheo thuộc Thượng tọa bộ Nam truyền không kiêng ăn thịt, thậm chí nhất định phải ăn thịt, đây là do hoàn cảnh xã hội và điều kiện tự nhiên tạo thành, chúng ta không nên quá khắt khe. Lạt Ma Tây Tạng đương nhiên biết rằng thể theo lòng từ bi của đức Phật không nên ăn thịt, song vì sinh tồn và thích ứng với hoàn cảnh cho nên họ phải ăn thịt. Vì vậy, có người đã đặt ra nhiều lý do nghe qua phải lắm, song thực tế sai lầm, nhằm tránh đi trách nhiệm. Ví dụ như có người bảo, ăn thịt là để kết duyên với chúng sinh, nhất là được người đại thành tựu ăn, liền có thể chuyển biến thân súc sinh thành thân Phật và thân Bồ tát. Tức là bảo thân súc sinh chuyển biến thành chất dinh dưỡng cho nhục thể của người tu hành. Họ còn bảo, nhờ vào sức chú nguyện, chú nguyện cho chúng sinh bị ăn, khiến chúng hết khổ được vui. Song thực ra, người tu hành không chắc là bậc đại thành tựu. Người tu hành ăn thịt, mà lại bảo vì để siêu độ chúng sinh là điều hết sức không hợp lý. Đương nhiên, theo lập tường Mật giáo, bậc đại thành tựu đã được đại giải thoát, không còn phân biệt ăn thịt hay không ăn thịt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người ăn thịt sau khi chết hỏa táng cũng có xá lợi. Điều này không liên quan gì đến việc ăn thịt hay không ăn thịt, cũng không có liên quan đến việc giải thoát hay không giải thoát. Phàm người tu hành hoặc ngưng tâm, nhiếp tâm đạt đến mục đích tu thân, khi hỏa táng đều có xá lợi. Thông thường, phải tu giới, định, tuệ tam học mới có xá lợi. Song bản thân xá lợi là sự kết tinh và ngưng kết của chất tiết ra trong cơ thể. Nó mang một mức độ thần thánh và thần bí nào đó, được Phật giáo đồ coi trọng, song không phải là việc lớn của người học Phật. Nó là sự biến hiện thuộc sắc thân trong tam giới, vẫn không ra khỏi phạm vi vô thường. Giải thoát sinh tử mới là việc lớn căn bản.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên sau khi đức Phật diệt độ, tôn giả Đại Ca Diếp đã triệu tập năm trăm vị đại A la hán, cùng nhau kết tập pháp thân xá lợi của Phật, đó là Kinh và Luật, mà không quan tâm, để mặc cho đệ tử tại gia, phàm phu tranh lấy nhục thân xá lợi của Phật. Vậy ta có thể thấy, ngay từ đầu, nhục thân xá lợi chỉ có kẻ phàm phu mới coi trọng, còn bậc Thánh lại không quan tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. <B>CÓ PHẢI MẬT GIÁO THỊNH HÀNH LÀ PHẬT GIÁO SẼ BỊ DIỆT VONG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo ở Ấn Độ quả thật bị diệt vong sau khi Mật giáo thịnh hành. Cho nên người ta gọi Mật giáo là Phật giáo Đại thừa thời kỳ cuối ở Ấn Độ. Song ta cũng không thể nói, Mật giáo thịnh hành, Phật giáo sẽ bị diệt vong. Mật giáo Tây Tạng lưu truyền tuy có thịnh có suy, song đến nay vẫn còn truyền thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mật chú vốn là nội dung chủ yếu của <B>Càn Đạt Bà Phệ Đà<SUP>(1)</SUP></B>, một trong bốn bộ <B>Phệ Đà</B> của Bà la môn giáo. Sau đó nó kết hợp với pháp tu và tín ngưỡng sùng bái tính lực, trở thành phương pháp thực hành chủ yếu của Ấn Độ giáo. Nó lại lấy triết học lý luận của <B>Áo Nghĩa Thư</B> làm kết cấu thượng tầng, cuối cùng lại tiếp thu tư tưởng và phương pháp tự biện của phái Trung Quán Phật giáo, rồi phát huy, gây dựng thành cơ sở lý luận của Ấn Độ giáo mới. Cũng có thể nói, nó kết tập thành tựu lớn của Bà la môn giáo và Phật giáo, để hình thành mô hình triết học tôn giáo Ấn Độ. Về mặt lý luận, nó dùng nguyên tắc tối cao của Bà la môn giáo và Phật giáo, về mặt thực tiễn thì dùng các phương pháp chú thuật, thiền định, tu thân, kiện thân v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhìn lại Phật giáo, về mặt tư tưởng đến thời kỳ phái Trung Quán xuất hiện đã phát triển đến mức bảo hòa. Còn về mặt thực tiễn, đến thời Du già Duy thức học xuất hiện đã đến đỉnh cao nhất của nó. Từ đó, nó lần lần thiên trọng về mặt lý luận, mà coi nhẹ sự chỉ đạo thực tiễn tu hành theo thứ lớp. Lại thêm, lúc đó Phật giáo nhân tài hiếm hoi, Tăng đoàn suy tàn, không còn khả năng chống lại thế lực của Ấn Độ giáo. Dân chúng phần nhiều đã bỏ Phật giáo theo Ấn Độ giáo. Nhất là sau nhiều cuộc biện luận giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo, Tăng lữ Phật giáo nhiều người đã quy hướng về Ấn Độ giáo, mỗi lần cả mấy trăm vị.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những người có tâm với Phật giáo lúc đó, vì tìm cho Phật giáo một con đường sống còn, nên đã hấp thụ sở trường của Ấn Độ giáo vào trong Phật giáo, trở thành đặc sắc của Phật giáo vào thời kỳ cuối, Trung Quán Du già hạnh. Tức là Mật giáo Vô thượng Du già. Nó dùng pháp tu của Ấn Độ giáo, lại lấy quan điểm của Phật giáo để thuyết minh và hóa giải. Nó có hiệu quả và chỗ hay riêng của mình. Đây là nguyên hình Phật giáo Đại thừa từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì giới hạn giữa Ấn Độ giáo và Mật giáo rất mơ hồ, nên đã chú định vận mệnh của Phật giáo Ấn Độ có thể còn, có thể mất. Cho đến ngày nay, tín đồ Ấn Độ giáo vẫn nói: <I>Phật giáo đã bị Ấn Độ giáo tiếp thu và hòa lẫn vào trong</I>. Đức Phật Thích Ca đã trở thành hóa thân thứ bảy của Phạm Thiên theo họ. Tên Phật giáo tuy đã bị diệt vong ở Ấn Độ, song một phần nội dung Phật giáo rõ ràng vẫn còn ở trong Ấn Độ giáo. Cho nên, có hay không danh từ Phật giáo, cũng không có gì khác. Song Ấn Độ giáo là hữu thần luận, còn Phật giáo là vô thần luận, nên tuy cả hai xen lẫn vào nhau, giáo nghĩa căn bản của nó vẫn không thể nào tương đồng. Do đó Phật giáo chân chính ở Ấn Độ thực ra đã bị diệt vong.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo diệt vong ở Ấn Độ, không phải hoàn toàn là do Mật giáo thịnh hành. Sự xuất hiện của Hỏa giáo cũng là nguyên nhân chủ yếu. Bắt đầu từ hậu bán thế kỷ thứ mười, tín đồ Hồi giáo đã tiến vào phía Tây Bắc Ấn Độ. Họ đến nơi nào đều đốt sạch tất cả chùa chiền Phật giáo. Còn ai theo Phật giáo sẽ bị tàn sát không tha. Số tăng lữ may mắn sống sót, vội chạy ra nước ngoài tránh nạn. Đến thế kỷ thứ XI và cuối thế kỷ XIX, Hồi giáo đã thành lập vương triều ở Ấn Độ. Cho nên, nếu Phật giáo đồ nào không cải đổi theo Hồi giáo, thì cũng theo Ấn Độ giáo. Do đó, Phật giáo phải gánh chịu vận mệnh tuyệt diệt ở đó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo ở Ấn Độ cố nhiên diệt vong vào thời Mật giáo thịnh hành. Song tin thờ Mật giáo không nhất định sẽ khiến Phật giáo diệt vong. Cho nên Mật giáo Đại thừa sau khi truyền vào Tây Tạng, từ thế kỷ thứ VIII cho đến ngày nay, vẫn còn tồn tại và phát triển vững vàng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở Trung Quốc, do có sẵn bối cảnh văn hóa Nho giáo và Đạo giáo từ trước, dân tình phong tục lại khác với Tây Tạng, cho nên Mật giáo tuy vào đời Đường Huyền Tông thế kỷ thứ VIII, có ba vị Đại sư là Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy và Bất Không đã dịch ra rất nhiều kinh điển Mật giáo, song vẫn không được tiếp đón nồng nhiệt và truyền thừa liên tục. Trái lại, khi Mật giáo truyền đến Nhật Bản, đã trở thành một tông phái riêng, đến nay vẫn còn truyền thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về sau đến triều Nguyên, người Mông Cổ vào làm chủ Trung Nguyên, một lần nữa đã đem Mật giáo vào đất Hán. Song nó cũng chỉ lưu hành trong dân tộc Mông Cổ và một số ít người có liên hệ với người Mông Cổ mà thôi, mà vẫn không được dân tộc Hán tín ngưỡng một cách phổ biến. Còn như đầu năm Dân Quốc (1911) đến nay, Mật giáo từng có một lần khởi sắc. Song do người truyền thọ Mật giáo, có kẻ tốt người xấu, rồng rắn hỗn tạp, lại thêm có nhiều người đụng một chút là dùng chước khéo quỉ thần, vỗ ngực tự xưng Thượng sư, nên nó vẫn không thể thâm nhập vào cơ tầng văn hóa Trung Quốc. Hiện nay, Mật giáo Tây Tạng một lần nữa được lưu truyền ở các nơi trên thế giới, có ảnh hưởng lớn trong xã hội người Hoa, cho nên chúng ta phải nhìn ra cái hay, tránh đừng học theo cái dở của no.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu Tăng tài được huấn luyện, đào tạo theo chế độ giáo dục tăng lữ chính thống của Tây Tạng đứng ra hoằng hóa, ví dụ như lấy <B>Bồ Đề Đạo Thứ Hệ Luận</B>, Mật Tông Đại Thứ Hệ Luận</B>, cho đến <B>Hiện Quán Trang Nghiêm luận Kim Mạn Sớ</B> của ngài Tông khách Ba làm y cứ hoằng dương Mật pháp, thì không khác gì Hiển giáo, sẽ không có nguyên nhân gây ra hậu quả diệt vong. Nếu chỉ lấy việc lắc linh, quơ chày, thổi kèn, đánh trống, chú thuật gia trì để cầu tài, đuổi quỉ, cầu tiêu tai, giải nạn, trường thọ hay dùng pháp <B>tức thân thành Phật</B>, hay <B>song tu</B> sai lầm để làm chiêu bài hoằng truyền Mật giáo, thì thật là bất hạnh lớn lao cho Phật giáo như Mật giáo thịnh hành vậy, thì Phật giáo làm sao mà chẳng bị diệt vong.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Càn Đạt Bà Phệ Đà (Atharva Veda): <I>Còn dịch âm là A Thát Bà Phệ đà, một trong bốn bộ Phệ Đà thuở xưa của Ấn Độ. Bốn bộ Phệ đà là thánh điển cơ bản của Bà la môn giáo, gồm Lê câu Phệ đà (Rg-Veda), Sa ma Phệ đà (Sama-Veda), Dạ nhu Phệ đà (Yajur-Veda) và A thát bà Phệ đa (Atharva-Veda).</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">46. <B>NHẬT LIÊN CHÁNH TÔNG VÀ NHẤT QUÁN ĐẠO CÓ PHẢI CŨNG LÀ PHẬT GIÁO?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau khi đại chiến thứ lần thứ hai kết thúc, Nhật Bản nổi lên Nhật Liên Chánh Tông, cũng gọi là Sáng Giá Hội Học, thuộc phái Đại Thạch Tự núi Phú Sĩ. Chính đảng mà họ thành lập gọi là đảng Công Minh. Tông phái này lấy Nhật Liên (1222-1282) làm giáo tổ, phủ nhận địa vị của Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ. Họ bảo Thích Ca chỉ là hóa thân, Nhật Liên mới chính là bản Phật; Phật Thích Ca đã Niết Bàn, là Phật quá khứ; Nhật Liên mới là Phật bản lai, hóa độ thế gian trong đời hiện tại và cho đến mãi mãi. Nhật Liên Chánh Tông ngày nay lại suy tôn Trì Điền Đại Tác, người sáng lập ra phái này hiện vẫn còn sống (1988), làm giáo chủ, và là Phật vĩnh hằng. Họ tuy lấy việc xướng đọc đề kinh: <B>Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh</B> làm pháp môn tu hành, song chỉ y cứ vào phẩm <I>Phương Tiện</I> thứ hai và phẩm <I>Như Lai Thọ Lượng</I> thứ mười sáu của kinh <B>Pháp Hoa</B>. Toàn kinh có hai mươi tám phẩm, mà chỉ y cứ có hai phẩm, thì việc cắt câu lấy nghĩa này, làm sao tránh khỏi không lệch lạc? Họ lại bài xích những Kinh Luận Phật giáo khác, cũng như tất cả tông phái khác của Phật giáo. Phương thức tín ngưỡng của tông này, giống như chi lưu của Thần Đạo giáo hơn là Phật giáo. Thực là nó chính là Thần Đạo giáo đã dân tộc hóa của Nhật Bản. Sau khi Nhật Liên Tông lần lần quy về Phật giáo chánh thống, liền xuất hiện Nhật Liên Chánh Tông. Nếu nhất định bảo Nhật Liên Chánh Tông có liên quan đến Phật giáo, thì cũng có thể qui loại nó là ngoại đạo dựa vào Phật pháp, mà tuyệt đối không phải là Phật giáo chánh thống, có nguồn gốc từ Ấn Độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bắt đầu từ đời Minh, Trung Quốc thịnh hành thuyết Nho Thích Đạo tam giáo dung hợp. Đến thời Dân Quốc về sau, kế thừa việc lập hội đoàn bí mật tàn dư của Bạch Liên giáo, có người đề xướng thuyết ngũ giáo hợp nhất lưu hành trong dân gian, tức hòa hợp Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Gia Tô giáo và Hồi giáo. Họ cắt xén giáo nghĩa của các nhà, tùy tiện dung hợp, tự ý giải thích theo cách riêng, gọi là Nhất Quán Đạo. Tuy họ bảo ngũ giáo nhất quán, thật ra thì lấy tín ngưỡng Di Lặc, truyền thuyết Tế Công, và <B>Kinh Kim Cang, Tâm Kinh Bát Nhã, Kinh Duy Ma Cật</B> và <B>Lục Tổ Đàn Kinh</B> của Phật giáo để làm y cứ lý luận. Họ bảo rằng, Phật Thích Ca đã thoái vị, hiện nay do Vô Sinh Lão Mẫu phái Di Lặc chưởng quản thiên vận. Họ lại bảo, Thiền tông từ Lục Tổ Huệ Năng về sau, đạo đã giáng xuống nhà lửa thế tục, chỉ truyền cho người tại gia. Cho nên Nhất Quán đạo cực lực hủy báng Tăng Ni Phật giáo. Họ đối với người chưa gia nhập đạo, thường ngụy xưng là Phật giáo. Họ cũng ngụy xưng thiên đàn mà chủ yếu phụng cúng thiên đăng (đèn trời) là Phật đường. Song sau khi nhập môn, chấp nhận điểm truyền sư, điểm huyền quan, liền được cho biết là họ tín ngưỡng theo thiên đạo, và giữa tín đồ với nhau xưng hô là đạo thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tư tưởng quan niệm và nghi thức nhập giáo của họ đều khác với Phật giáo. Họ sử dụng kinh Phật song không nói Phật pháp, mà chỉ tin theo lời của linh môi hay loan đàn, mà họ bảo là Thánh huấn để tùy tiện giải thích kinh Phật. Các vị cổ thánh tiên hiền của Phật giáo không vị nào là không chủ trương dùng pháp Phật để giải thích Phật pháp. Mọi người đều bảo: <I>"Y kinh giải nghĩa, chính là Phật nói, lìa kinh một chữ, rơi vào ma nói"</I>. Nên có thể thấy Nhất Quán đạo tuy đề xướng ngũ giáo nhất quán, song thật ra họ lấy Phật giáo làm đối tượng để phá hoại, và mưu đồ chiếm lấy địa vị.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bản thân tôn giáo của họ không có lịch sử, không có giáo chủ, không có giáo nghĩa, lại còn bóp méo lịch sử Phật giáo, gạt ra giáo chủ Phật giáo và làm lẫn lộn giáo nghĩa Phật giáo. Họ rõ ràng là tự xưng Thiên đạo, sùng bái nhân vật hư cấu Vô Sinh Lão Mẫu, tín ngưỡng theo những lời thần thoại của linh môi, thế mà lại lợi dụng Phật đường, Phật tượng, Phật kinh làm chiêu bài để che dấu. Phật giáo lấy Phật Pháp Tăng Tam Bảo là trung tâm tín ngưỡng, mang tính công khai và lý trí. Nhất Quán đạo cũng mượn danh xưng Tam Bảo, song Tam Bảo của họ là bao hiệp đồng (làm dấu hai bàn tay nắm vào nhau), điểm huyền quan (điểm vào giữa hai chân mày, tương thông với tâm linh), khẩu quyết ngũ tự chân ngôn (Vô Thái Phật Di Lặc), nó mang tính thần bí, cảm tính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tóm lại, Nhật Liên Chánh Tông của Nhật Bản và Nhất Quán đạo của Trung Quốc không phải là Phật giáo chánh thống, và vĩnh viễn không thể nào hợp lưu với Phật giáo. Do cả hai có tính chất, tầng bậc khác nhau, và mục đích lại càng khác nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">47. <B>BẠN CÓ PHẢI LÀ TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO KHÔNG?</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Tín Ngưỡng Dân Gian</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người Trung Quốc khi khai tín ngưỡng của mình trong lý lịch v.v... hơn phân nữa đều ghi là Phật giáo. Nói cách khác, đa số người Trung Quốc tự cho mình là tín đồ Phật giáo. Ngoài những người là tín đồ của Thiên chúa giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo... đã làm lễ rửa tội, nhập giáo ra, những người khác không luận do bản thân hay gia đình, ít nhiều gì đều có liên quan đến tín ngưỡng Phật giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở đây muốn nói, chỉ cần không phủ nhận Phật giáo, không phản đối Phật giáo, thì cũng kể là tín đồ Phật giáo. Cho nên trong dân gian Trung Quốc, Phật giáo đồ có hàm nghĩa rất rộng. Do vì người Trung Quốc đối với tín ngưỡng tôn giáo rất cởi mở, bao dung, mang tính đa nguyên. Ví dụ họ tín ngưỡng thần tự nhiên như nước, lửa, gió, mưa; sùng bái tổ tiên với tinh thần <I>thận chung truy viễn</I><SUP><B>(1)</B></SUP> theo Nho gia; sùng bái vĩ nhân, danh tướng, chí sĩ, liệt nữ trong lịch sử; sùng bái linh vật như hòn đá, gốc cây; sùng bái nhân vật và thần tiên trong truyện thần thoại và lịch sử tiểu thuyết hóa (diễn nghĩa); cho đến sùng bái quỉ thần thuộc các hiện tượng thần bí. Tất cả những điều đó đều có thể dung hợp và tồn tại với nhau. Tuy Khổng Tử không nói đến quái, lực, loạn, thần, song đại chúng trong dân gian từ xưa đến nay vẫn sùng bái và tín ngưỡng theo những thần đạo loại này. Vì đó là nhu cầu của dân gian, nên dù bị người theo thuyết duy vật hay tín ngưỡng nhất thần giáo phản đối, song nó vẫn lưu hành một cách rộng rãi. Nhưng đó không phải là Phật giáo chính thống.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Sùng Bái Đa Thần</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo truyền vào Trung Quốc vào đời Tần Hán, lúc đó đã có tín ngưỡng dân gian lưu truyền ở đây. Trong thiên <I>Cửu Ca</I> của <B>Sở Từ</B>, Khuất Nguyên đã nói đến danh xưng của các thần tự nhiên như hà bá, sơn quỉ. Do đó, khi Phật giáo mới từ Ấn Độ truyền đến, theo người Trung Quốc thì đức Phật cũng chỉ là một vị thần từ phương Tây mới đến, thêm vào trong danh sách những thần linh có sẵn mà thôi. Kinh Phật dần dần được phiên dịch, lưu truyền và kết tập thành Tam tạng giáo điển tiếng Hán, đã cho họ biết Phật giáo không phải thuộc loại tín ngưỡng dân gian thông thường. Song cũng chỉ có những người nghiên cứu kinh Phật và tu học Phật pháp chân chánh mới biết. Còn những người bình thường khi tiếp xúc với Phật, Bồ tát của Phật giáo, họ cũng có thái độ và quan niệm giống như tiếp xúc với thần tổ tiên, thần dân tộc, thần tự nhiên vốn có của mình. Cho nên thần và Phật trong tiểu thuyết, chuyên dân gian không có gì khác nhau. Trong dân gian biết đến Phật Như Lai, Quan Thế Âm Bồ tát là nhờ vào tiểu thuyết thông tục như <B>Phong Thần bảng, Tây Du Ký, Quán Âm Đắc Đạo</B> v.v... mà không phải nhờ vào việc trực tiếp duyệt đọc kinh Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Linh Môi và Cơ Đồng</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <B>Hoa Nghiêm</B> và <B>Địa Tạng</B> của Phật giáo tuy cũng nói đến tên của các vị thần, song tín ngưỡng đa thần của dân gian Trung Quốc không phải đến từ kinh Phật. Nó đến từ những cơ đồng mà người ta bảo tiên Phật mượn xác giáng linh, cho đến những cảm ứng cá nhân. Phổ biến nhất là đàn cầu cơ, dùng phương thức lên cơ, do cơ đồng hay người chấp bút nói ra hoặc hiện trên bàn cơ. Ban đầu là những thần linh trong truyện thần thoại và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết dân gian. Song sau khi Phật giáo phổ cập ở Trung Quốc, cũng có cơ đồng, linh môi mượn danh Phật, Bồ tát, La hán, Tổ sư để lên cơ. Do vì thần tiên, Thánh hiền, Phật tổ, Bồ tát của Nho Đạo Thích đèu có thể thay phiên xuất hiện ở bất cứ cửa miệng của linh môi và đàn cơ nào, nên đó cũng là một trong những nguyên nhân Phật giáo bị xem là tín ngưỡng dân gian. Và trong tín ngưỡng dân gian cũng lẫn vào đó sự sùng bái Phật, Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tín ngưỡng dân gian sùng bái Phật, Bồ tát với mục đích kỳ đảo, cầu phước, tiêu tai, giải nạn, cầu thọ, trừ bịnh, cho đến cầu tài, cầu con, cầu hôn nhân. Đây chính là động cơ chủ yếu của tín ngưỡng tôn giáo. Sùng bái Phật và Bồ tát như thần linh, cũng có thể thành đạt sự cầu nguyện. Bởi vì tất cả thiện thần đều hộ trì Tam Bảo và bảo hộ người tín ngưỡng Tam Bảo. Cầu nguyện với chư Phật, Bồ tát sẽ cảm ứng đến các thiện thần, và được chư Phật, Bồ tát từ mẫn gia hộ. Do tín ngưỡng Bồ tát Quán Thế Âm và Phật A Di Đà có tín ngưỡng phổ biến trong giới Phật giáo, nên trong dân gian rất quen thuộc, và thân thiết với hai vị Phật và Bồ tát này. Vì vậy, có câu <I>"Nhà nhà Phật Di Đà, nơi nơi Quán Thế Âm"</I>. Đại chúng đã lấy Phật và Bồ tát làm đối tượng cầu nguyện, đương nhiên không thể bảo rằng họ không tin Phật giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <B>Phật Pháp Tăng Tam Bảo</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật ra Phật giáo lấy Phật Pháp Tăng Tam Bảo làm đối tượng kính tin quy y, mà không phải sùng bái các thần trong dân gian. Cho nên sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo, ban đầu độ đệ tử tại gia liền truyền tam qui. Tam qui là quy y Phật, quy y Pháp quy y Tăng, nói cụ thể hơn là quy y Tam Bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật là bậc đại giác, ngài là người đã giác ngộ, lại giác ngộ cho chúng sinh, trí tuệ và phước đức đã đến mức cứu cánh viên mãn. Pháp là phương pháp và đạo lý thành Phật do đức Phật nói. Tăng là người xuất gia học theo Phật, noi theo Pháp và giúp Phật hoằng hóa, rộng độ chúng sinh. Đức Phật Thích Ca lúc mới thành Phật, trước khi độ chúng xuất gia, đã truyền tam qui cho hai vị đệ tử tại gia là thương gia Đề Vi và Bà Lê Ca, bảo họ quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng ở vị lai. Chỉ có đầy đủ tam qui, mới có thể trở thành tín đồ Phật giáo chánh tín.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu chỉ tin Phật mà không tin Pháp, không tin Tăng, thì đó là sùng bái mù quáng, đâu khác nào với tín ngưỡng quỉ thần trong dân gian. Còn như chỉ nghiên cứu Pháp nghĩa mà không tin Phật, tin Tăng thì giống như học giả bình thường, xem sách lo việc học vấn, không có liên quan gì đến tín ngưỡng. Nếu chỉ quy y Tăng, thì khác nào nhận cha nuôi, mẹ nuôi hay kết nghĩa đệ huynh theo thế tục, Tam Bảo đầy đủ mới có thể học Phật, tu Pháp và kính Tăng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tăng là người đại biểu trụ trì Phật pháp. Vì họ tu học Phật pháp, nên tượng trưng một cách cụ thể cho Phật pháp. Vào thời Phật còn tại thế, Tăng đã thay Phật hoằng pháp. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, càng cần Tăng chúng để truyền bá Phật pháp. Tăng là một đoàn thể xuất gia, còn gọi là Tăng đoàn. Mỗi một vị xuất gia thành viên trong Tăng đoàn được gọi là Tăng nhân. Trong trường hợp giáo hóa, Tăng nhân đại biểu cho Tăng đoàn, chia nhau hóa độ chúng sinh hữu duyên. Do đó, Phật là suối nguồn của Phật pháp, Pháp là căn bản của Phật giáo, còn Tăng là trung tâm của Phật giáo. Cả ba không thể thiếu một, phải đầy đủ mới là toàn thể Phật giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <B>Các Tầng Bậc Tôn Giáo</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật có hiện tại, quá khứ và vị lai; cũng như có ở nơi này, cõi khác. Chúng ta gọi chung là mười phương ba đời tất cả chư Phật. Căn bản của Pháp là ngũ giới: <I>Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu</I>; và thập thiện: <I>Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thô ác, không tham, không sân, không si</I>. Đây là luân lý của đạo đức, pháp lành trong nhân thiên. Tiến thêm bước nữa là pháp lành xuất thế, giải thoát sinh tử. Lại còn có pháp lành Bồ tát, sau khi giải thoát, lại vào đời lợi ích chúng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tầng bậc thứ nhất là páp lành nhân thiên. Nó thông với tất cả tôn giáo trong thế gian, như mọi người thường bảo: <I>Tất cả tôn giáo đều khuyên người làm lành lánh dữ"</I> Còn tầng bậc thứ hai là pháp lành xuất thế, siêu việt nhân thiên, ra khỏi luân hồi sinh tử trong ba cõi. Đó là cảnh giới giải thoát của bậc A la hán, Thánh giả Tiểu thừa. Tầng bậc thứ ba là pháp lành xuất thế gian bất ly thế gian, không bị sinh tử trói buộc, song cũng không cần phải thoát ly phạm vi sinh tử. Vị này có thể tới lui trong nhà lửa tam giới để cứu độ chúng sinh, song vẫn vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả. Đó chính là cảnh giới Bồ tát của Đại thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chư Phật khai thị tất cả Pháp bảo; Tăng bảo học tập và hoằng dương Pháp bảo. Tăng bảo bao gồm tăng ni xuất gia phàm phu, Thánh giả A la hán Tiểu thừa và tất cả Bồ tát Đại thừa. Nếu quy y Tam Bảo, có thể được sự chỉ đạo, dìu dắt, bảo hộ, gia bị của tất cả chư Phật, Thánh hiền và cao tăng thạc đức. Không luận là ai, trình độ như thế nào, tùy theo mức độ phát tâm, cũng như căn lành sâu cạn, mà được nhiều sự lợi ích từ nơi Tam Bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) <B>Sinh Thiên và Hưởng Phước</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó có thể thấy, tín ngưỡng dân gian lành mạnh và thần giáo thuộc nhất thần hay đa thần, chỉ cần không trái với luân lý đạo đức của con người và hợp với điều kiện sinh lên thiên giới, đều có thể qui vào tầng bậc pháp lành nhân thiên của Phật giáo. Đây là dạy người ta phải có phẩm cách, làm tròn bổn phận trách nhiệm con người, đồng thời gây tạo phước báo cõi trời. Do nhờ vào những phước báo nhân thiên này, sau khi họ chết được sinh lại làm người, hay tái sinh ở thiên giới. Cho nên tu pháp lành nhân thiên đáng quí hơn là gây ác nghiệp, chiêu cảm lấy ác báo trong ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song thọ mạng ở cõi người rất ngắn, cao lắm khoảng chừng trăm năm. Thọ mạng ở cõi trời tuy dài hơn, song không thể tránh khỏi phước hết mạng chung. Theo Phật giáo nhìn, trời chia làm ba loại. Cõi trời cao nhất là vô sắc giới, kế đó là sắc giới đều do tu đắc thiền định mới được sinh về. Còn như cõi trời dục giới ở dưới thấp hết, là nhờ tu phước lành thiện mới được sinh vào. Trời dục giới lại phân làm sau tầng từ thấp lên cao. Đó là trời Tứ thiên vương, trời Đao Lợi, Trời Diệm ma, trời Đâu suất, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại. Thiên nhân ở cõi trời càng cao thì thọ mạng càng dài. Tầng trời thấp nhất là Tứ thiên vương lấy năm mươi năm ở cõi người làm một ngày một đêm, và thiên nhân cõi đó sống đến năm trăm năm. Cõi trời cao nhất là Tha hóa tự tại, lấy một ngàn sáu trăm năn ở cõi người làm một ngày một đêm, và sống đến một vạn sáu nghìn năm. Song khi họ hết phước, sẽ mạng chung rơi lại nhân gian, thậm chí còn đọa vào ác đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hưởng thọ phước báo nhân gian như tên bắn lên trời, khi hết đà sẽ rơi xuống đất. Đây là vì chưa ra khỏi luân hồi sinh tử. A la hán đã ra khỏi sinh tử, còn Bồ tát tuy đã ra khỏi sinh tử, song lại trở vào nhân gian phổ độ chúng sinh. Bồ tát vào tam giới không giống với phàm phu luân hồi sinh tử. Phàm phu giống như phạm nhân vào lao tù chịu tội, còn Bồ tát như vị thầy vào nhà tù giảng đạo, tự do không bị ngục hình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">La hán vĩnh viễn thoát ly sinh tử. Bồ tát tuy sống trong quần sinh sinh tử, phiền não, song không bị sinh tử trói buộc và phiền não thiêu đốt. Phật từ Bồ tát mà thành. La hán cũng có khả năng chuyển thành Bồ tát. Phàm phu nếu lấy Bồ tát làm gương mẫu học theo, đó là <I>thấy người hiền gắng sao cho bằng</I>, phát tâm tu học pháp môn Bồtát. Đây chính là người thực hành Bồ tát đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) <B>Chánh Tín Phật Giáo</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôn giáo ở tầng bậc tín ngưỡng dân gian, chỉ dạy người tin theo cầu thần cứu giúp, mà không dạy họ tự nỗ lực vươn lên, cứu lấy mình và cứu giúp người. Tín ngưỡng Phật giáo không những khiến người tin theo có cầu có ứng, mà còn khiến họ tịnh hóa thân tâm, cường hóa bản thân, học theo Phật, Bồ tát cứu giúp mọi người, và cuối cùng thành Phật, Bồ tát. Trung Quốc là khu vực giáo hóa của Phật giáo Đại thừa. Đệ tử Tam Bảo theo Phật giáo gọi là người học Phật, tu Pháp, kính Tăng. Phật là người thực hành Bồ tát đạo viên mãn cứu cánh; Bồ tát hạnh là mô phạm Phật pháp hóa độ thế gian, và Tăng là đại biểu trụ trì Phật Pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hành vi tôn giáo thuộc tín ngưỡng dân gian quả thật có công năng và giá trị riêng của nó. Song vì nó không có giáo nghĩa là y chuẩn, cũng không có giáo đoàn ước thúc, càng không có thầy hướng dẫn, chỉ dựa vào sự bày vẻ của linh môi và cơ đồng. Cho nên nếu nó tốt thì biết phối hợp với phong tục tốt đẹp; còn nếu nó xấu sẽ phá hoại thuần phong mỹ tục, làm ô nhiễm, sa đọa lòng người. Phật giáo không như vậy. Nó có một lịch sử lâu đời, có giáo nghĩa và giáo nghi thứ lớp rõ ràng, và có vị giáo chủ là Phật Thích Ca sinh ra ở Ấn Độ hai ngàn sáu trăm năm trước đây, cũng có Tăng đoàn truyền thừa từ đời này qua đời khác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Phật bảo có lịch sử ghi lại rõ ràng. Giáo nghĩa và giáo nghi của Phật giáo Pháp bảo, Tăng đoàn và giáo sư là Tăng bảo. Chỉ có tín ngưỡng và quy y Tam bảo mới là tín đồ Phật giáo chánh tín.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy xin hỏi: <I>Bạn có phải là tín đồ Phật giáo chánh tín không?</I></P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên