Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

dangkhoa

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Tháng 5 2008
Bài viết
90
Điểm tương tác
1
Điểm
8
Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?

Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatimsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.

Theo một vài học giả thì Vi Diệu Pháp không phải do chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: "Ðúng theo truyền thống thì chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā Dhammā)."

Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tông - Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên Đế-tu (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.

Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật.

Vi Diệu Pháp là gì?

Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng, sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật, giáo điều hay giáo lý. Vậy Vi Diệu Pháp là những giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này có tính chất đặc thù hơn Kinh tạng và Luật tạng.

Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lý của Ðức Phật nói chung, đều có hiệu năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia thì không?.

Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ý niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật trình bày Pháp lý theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Ðế; thì tạng Abhidhamma trình bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Ðế (Paramattha).

Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các danh từ diễn đạt pháp lý theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn đế (danh chơn chế định).

Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua, Quan, ... Còn ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các từ như Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, ...

Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Patisambhidā, sự thông suốt, không có ngăn ngại trong việc giảng giải). Bốn pháp vô ngại giải ấy là:

1) Pháp vô ngại giải (Dhammapatisambhidā): là sự diễn đạt thông suốt các pháp, vì ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom lại thành một giềng mối và phân tích rõ ràng.

2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapatisambhidā): là các ý nghĩa được trình bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng Diệu Pháp, các ý nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rõ ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa.

3) Từ vô ngại giải (Niruttipatisambhidā): là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng "tư tưởng" mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ý nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Pháp, "Tư" là sự cố ý, suy nghĩ và "Tưởng" được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ...

4) Biện vô ngại giải (Paiibhānapatisambhidā): là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lý được trình bày đầy đủ, nghĩa lý được giải thích rõ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi trình bày các pháp lý.

Với những lý do trên, nên tạng này được gọi là Vi Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma còn được các dịch giả Trung Hoa dịch là :

Vô tỷ pháp: là pháp cao siêu, không có pháp nào so sánh bằng.
Thắng pháp: là pháp thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.
Ðại pháp: là pháp cao sâu, rộng rãi hơn các pháp trong Kinh tạng và Luật tạng.
Ðối pháp: là đối tượng của trí tuệ cao siêu, sáng suốt.
Hướng pháp: là pháp có khả năng hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, liểu tri các pháp.

Yếu lược nội dung Vi Diệu Pháp :

Theo bà Rhys David, một học giả người Anh, khi nói về nội dung Vi Diệu Pháp, đã viết: "Vi Diệu Pháp nói gì? - Vi Diệu Pháp nói những gì trong ta, ngoài ta và chung quanh ta".

Cái gì trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay Ngũ Uẩn- những thành phần hợp lại thành một con người, một chúng sanh. Vi Diệu Pháp trình bày con người về cả hai phương diện Tâm lý và Vật lý.

Cái gì ngoài ta và cái gì chung quanh ta? - Ngoài việc trình bày cho thấy bản thể, chơn tướng của chúng ta, Vi Diệu Pháp còn chỉ cho ta thấy những gì thuộc về ngoại thân, những hiện tượng sanh diệt của những gì thuộc về thế giới bên ngoài của chúng ta và sự thoát ly thế gian (Niết Bàn).

Như vậy, bà David đã cho ta thấy rằng Vi Diệu Pháp trình bày những chơn tướng, thực thể của cái gì thuộc về nội thân và những gì thuộc về ngoại thân. Cũng nên nói thêm là khi trình bày những điều ấy, Vi Diệu Pháp đã mô tả về trạng thái, nhân sinh, sở hành, ..., của từng pháp một cách rất chi tiết.

Tóm lại, với câu giải trên, chúng ta đã thấy Vi Diệu Pháp nói gì và đề cập đến những gì. Sang một khía cạnh khác, chúng ta có thể hỏi: "Khi trình bày, phân giải những điều ấy, Vi Diệu Pháp muốn cho ta biết những gì?".

Ngài Hòa thượng Tịnh Sự Santakicco - một học giả chuyên môn về Abhidhamma - đã nói: "Vi Diệu Pháp trình bày về sự vô thường, khổ não, vô ngã và cái gì vượt ngoài ba tướng trạng ấy".

Câu nói trên đã hàm tận những ý nghĩa hết sức sâu xa và cô động một cách đầy đủ về nội dung của Vi Diệu Pháp.

Ở tạng Diệu Pháp, bốn vấn đề trọng yếu được trình bày là Tâm (thành phần tri giác của chúng sanh); Sở hữu tâm (Thành phần phụ thuộc của tâm); Sắc pháp (thành phần vật chất) và Niết Bàn (sự vắng lặng các pháp hành).

Khi bàn về Tâm cũng như Sở hữu tâm, Vi Diệu Pháp đã cho ta thấy những Duyên (Paccayo) hay yếu tố tạo thành sự hiện hữu của Tâm và sự diễn tiến hoại diệt của từng tâm sát na trong Lộ trình tâm (Cittavithā).

Cũng vậy, khi nói về Sắc pháp, Vi Diệu Pháp đã trình bày về thể trạng của Sắc pháp, những duyên trợ tạo và gìn giữ sắc pháp, cũng như tiến trình sanh diệt của từng sát na sắc pháp trong Lộ sắc.

Cuối cùng, sau khi đã trình bày về các pháp hữu vi (pháp do duyên trợ tạo), Vi Diệu Pháp còn trình bày về Niết Bàn (một trạng thái vô vi), không bị chi phối bởi vô thường, khổ não, vô ngã.

Ðể kết luận, ta có thể nói, nội dung của Vi Diệu Pháp là dạy cho chúng ta rõ về con người, thế gian và xuất thế gian (Niết Bàn).

Mục đích của việc học Vi Diệu Pháp.

Khi đã hiểu biết Vi Diệu Pháp nói gì thì vấn đề cần bàn đến là học Vi Diệu Pháp để làm chi? Hay mục đích của việc học Vi Diệu Pháp là gì? Học Vi Diệu Pháp có lợi ích gì?

Phật giáo đã dạy về bản chất giả tạm, khổ não của thế gian và con đường vượt khỏi những điều ấy là con đường siêu thế gian. Vì vậy, khi đánh thức giấc mộng vô minh của chúng sanh, Phật đã dùng nhiều phương tiện, trình bày về bản chất thật thể của thế gian là như thế nào để chúng sanh có thể ý thức được bản chất thật của thế gian là vô thường, khổ não và vô ngã.

Trong tinh thần đó, Vi Diệu Pháp nói lên lẽ thật, chơn tướng bản thể của các pháp để chúng ta có được ý niệm đứng đắn về thế gian (dẹp bỏ những thành kiến sai lầm).

Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con người và thế gian.

Trên con đường tu tập, người Phật tử cần làm hai việc: học pháp hành pháp. Học pháp là tìm hiểu, thu lượm cho mình một kiến thức đúng, lợi ích cho việc tu tập. Hành pháp là đem những điều học được áp dụng cho đời sống hàng ngày. Vi Diệu Pháp sẽ thích ứng, và hết sức bổ ích cho cả hai việc làm đó.

Vi Diệu Pháp giúp cho ta một kiến thức cơ bản, không bị lầm lẩn khi nghiên cứu Phật pháp, bằng những cách diễn đạt Pháp vô ngại giải, Từ vô ngại giải và Biện vô ngại giải. Nhờ đó ta có thể lảnh hội dể dàng những ý nghĩa trong những lời dạy của Ðức Phật.

Thí dụ: Trong tạng Kinh, Ðức Phật dạy về Pháp Vô Ngã (không có cái ta, không phải là của ta), rồi trong tạng Luật, Phật lại dạy: "Lấy vật có chủ là trộm cắp", hai điều trên sẽ gây hoang mang cho chúng ta nếu chúng ta không biết về pháp Tục đế (Sammuttisacca) và pháp Chơn đế (Paramattha sacca) được giảng trong Vi Diệu Pháp. Ðó là lợi ích đối với việc học pháp. Về mặt hành pháp, nhất là đối với những người hành thiền quán, Vi Diệu Pháp lại là một môn học thiết yếu nhất, nó cho chúng ta một sự hiểu biết rõ ràng về Danh Sắc, phân tích, giải thích rõ ràng các pháp hữu vi, nhờ đó, khi thực hành thiền quán, minh sát, chúng ta sẽ nhận định rõ ràng và chính xác về các đề mục (Thân, Thọ, Tâm, Pháp).

Một người đã học Abhidhamma, khi hành Tứ Niệm Xứ sẽ nhận định rõ ràng và chính xác các đề mục. Trái lại, một người hành Tứ Niệm Xứ mà không biết gì về Vi Diệu Pháp thì có thể lẩn lộn, sai lầm trong việc quán sát các đề mục.

So sánh.

- Nếu nói trên phương diện đặc biệt riêng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng thì:

Tạng Kinh: sâu xa về nghĩa lý (Suttana Attha Gambhiro).
Tạng Luật: sâu xa về việc làm (Vinaya Kicca Gambhiro).
Tạng Diệu pháp: (tạng Luận), sâu xa về bản thể của các pháp (Abhidhamma Sabhāva Gambhiro).

- Nếu nói về tính chất quan trọng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng qua thí dụ của "cây" thì :

Tạng Kinh: là phần bông hoa, cành lá của cây, bởi tạng Kinh tiêu biểu cho vẽ đẹp của giáo lý Phật giáo.
Tạng Luật: là gốc rể của cây, bởi tạng Luật là nền tảng, là sự sống còn của giáo lý. Tạng Luật còn, Phật giáo còn. Tạng Luật mất, Phật giáo mất.
Tạng Diệu pháp: là lõi cây, vì nó là phần tinh túy, tinh hoa của giáo lý.

- Nếu nói trên bước tiến tu tập của người Phật tử thì giá trị của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng là:

Tạng Kinh gọi người đến: vì tạng Kinh rất hấp dẫn, thu hút.
Tạng Luật trói người lại : vì tạng Luật ghép đời sống vào khuôn khổ, qui củ.
Tạng Diệu Pháp giết người chết: vì bài trừ tất cả mọi kiến thức sai lầm, nhất là ngã chấp.

Do đó, ta có thể nói, nếu nghiên cứu và tìm hiểu Phật pháp mà không biết về tạng Diệu Pháp là một thiếu sót lớn; hơn thế nửa, việc học hỏi Phật pháp cũng không bảo đảm chắc chắn được.

Tỳ khưu Giác Chánh
(Trích "Vi Diệu Pháp Giảng Giải")


Những hiểu biết sai lầm về Vi Diệu Pháp :

Trích đoạn của một Phật Tử Bắc Tông :
Kẻ nào xem Sở Hữu Tâm là Thật, là của Ta (tự ngã) kẻ ấy tự MÊ LẦM, kẻ ấy sẽ theo sự "suy diễn" của Sở-Hữu-Tâm mà mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Đây là điều chắc thật mà đức Thế-Tôn đã KHẲNG ĐỊNH

-Khi đọc qua các bạn thấy rõ rằng người này không tin rằng sở hữu tâm , tâm , sắc pháp trong tạng VI Diệu Pháp là thực có . Và cho rằng người còn còn tin vào sở hữu tâm , tâm , sắc pháp là thực có thì là mê lầm . Và cho rằng Đức Phật khẳng định như vậy.

1/Trước nhất thì qua các sử liệu xác định rõ 80% tạng Vi Diệu Pháp là do Phật thuyết , sau là do các bậc Thánh Alahan phân tích rõ lại thêm . Do vậy không có lý nào Đức Phật lại khẳng định sự không có của tâm , sơ hữ tâm , sắc pháp ,v,,v, được.

2/Vốn dĩ người này không biết rằng Pháp là thế nào cả .
Pháp : Pháp là những gì có chơn tướng riêng biệt ,có nghĩa là thể trạng, trạng thái, bản chất, chơn tướng riêng biệtNhư vậy, những gì có thể trạng đều gọi là pháp, dù thể trạng ấy là gì đi nửa cũng vậy. Thí dụ như vuông, tròn, dài, ngắn, tốt, xấu...
Tóm lại, Pháp là danh từ chỉ vật gì có trạng thái riêng mà tri giác có thể nhận biết được, dù vật đó thuộc về vô vi hay hữu vi, giả danh hay bản thể, hiệp thế hay siêu thế

Như vậy những gì có trạng thái riêng biệt, sự vật hiện tượng khác biệt thì đó là Pháp . Ví dụ phép cộng , trừ , nhân , chia, hữu cơ , vô cơ ...v.v..
NGười ta càng phát triển khi càng tìm ra sự khác biệt giữa các pháp trong thế gian . Để từ đó biết thiện , ác, nhân , quả không bị mê lầm .

3/Có ngừoi cho rằng người tu theo Nguyên Thủy là Chấp Pháp

Chấp Pháp : thường thì chia ra 2 loại,nhân vô ngã,pháp vô ngã.Nói chấp pháp tức là cho rằng các pháp có ngã.
Theo quan điểm của PG đại thừa thì những người theo PGNT còn ...chấp pháp,nên chưa đạt đến giải thoát rốt ráo
Đây là quan điểm sai lầm vì pháp vốn vô ngã . Tam pháp ấn trong kinh điển nguyên thủy vẫn là " vô thường, khổ , vô ngã" .
Nhưng pháp là thực có, không phải là không có như một số người thường nghĩ .
Chân lý có 2 đó là Chân Đế và Tục Đế . Do vậy pháp cũng có 2 Chân Đế , Tục Đế .
Chân lý là thực tại khách quan nó có tự lâu rồi , dù muốn hay không muốn nó vẫn có không tùy thuộc vào ta mê hay ngộ , không tùy thuộc ta vô minh hay hết vô minh.

Pháp tuy có rất nhiều nhưng Ðức Phật đã gom lại và chia thành hai loại:
- Pháp Tục Ðế (Sammuttisacca): Sự thật thế tình thông thường.
- Pháp Chơn Ðế (Paramatthasacca): Sự thật bản thể, chơn tướng của các pháp
Do vậy thấy pháp là thấy rõ sự khác biệt vạn pháp, thấy rõ như chân như thực, thấy chân lý . Đây là ngộ không phải là chấp.
Nhưng nếu như không phân biệt được các pháp, không thấy rõ chân lý , thì đây là mê chứ không phải ngộ.


Nói vậy thấy rằng các bạn không hiểu vì sở tri kiến che lấp .

Ví dụ:
Cột bê tông
Tục đế : nói gói gọn là cột bê tông
Chân đế: đá, cát, ciment, sắt hòa quyện vào nhau.
Cách nói nào cũng đều là chân lý cả, nhưng cách nói chân đế là cách nói khác của tục đế, và tục đế là cách nói khác của chân đế . Nhưng cả 2 cách nói này đều là chân lý hoàn toàn bổ sung và minh chứng cho nhau không sai khác.

Nhân viên Zelda
Tục đế : 0246
Chân đế: NGuyễn Văn A, nơi ở, ngày sinh , trình độ, trước 1975 , sau 1975 .v.v..
Qua ví dụ này các bạn thấy rằng tục đế là cách nói mã hóa, nói ngắn gọn của chân đế , tức là nói một cách khác mà thôi. Và chân đế cũng tương tự như vậy đối với tục đế. Cả 2 đều là chân lý cả

Có người hiểu sai thế này : tục đế là hữu vi , còn chân đế là vô vi . Nhưng thực ra vô vi , hữu vi đều thuộc về chân đế .
Lại có người mê lầm cho rằng : người ngộ chỉ thấy chân đế người mê thấy tục đế . Đây cũng là sai , vì người ngộ thấy chân lý tức rằng thấy chân và cả tục đế.
Nhưng người mê thì sẽ lầm chân là tục và tục là chân. Khi bỏ tục chỉ cho rằng có chân thì người này mê lầm hơn nữa .

Cái sai của tổ thiền đời thứ 6 Bồ Đề Đạt Ma

Ngài Bồ Đề Đạt Ma nói, "Chưa đắc ngộ thì nói gì cũng vô minh"

Đây là câu nói làm rất nhiều người mê lầm và tự ti , cho rằng mình chỉ có toàn vô minh vậy thì chỉ nhờ tha lực, tin vào kinh điển không cần suy xét nữa.
Vậy là sai lời Đức Phật " chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và người khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn"
Đức Phật thì kêu gọi chúng ta suy xét, học hỏi , đút kết kinh nghiệm cơ mà. Nhưng tiếc rằng người đời mê chấp lại tin tổ hơn tin Phật.

Nguyên nhân sai lầm của tổ:

Có sự sai lầm này vốn dĩ là do ngài không biết chút gì về tạng Vi Diệu Pháp cả . Về sau có duy thức luận nhưng vẫn thiếu sót hoàn toàn .Do vậy ngài không biết rằng trong tâm người không chỉ chỉ có tâm sở bất thiện mà còn có tâm sở thiện .

Tâm sở bất thiện (Akusala Cetasikas):

1.- Moha = Vô minh
2.- Ahirika = Vô tàm
3.- Anottappa = Vô quí
4.- Uddhacca = Tán loạn
5.- Lobha = Tham
6.- Ditthi = Tà kiến
7.- Mana = Kiêu mạn
8.- Dosa = Sân hận
9.- Issa = Ganh tị
10.- Macchariya = Tật đố
11.- Kukkucca = Hối tiếc
12.- Thina = Giải đãi
13.- Middha = Hôn trầm
14.- Vicikiccha = Nghi ngờ.

Các tâm sở thiện (Kusala cetasikas).

1.- Saddha = Tín, sự tín ngưỡng, sự tin tưởng.
2.- Sati = Tỉnh giác, sự hiểu biết rõ, sự chuyên chú.
3.- Hiri = Tàm, sự biết hổ thẹn khi có lỗi lầm.
4.- Ottappa = Quí, sự biết lo sợ vể lỗi lầm.
5.- Alobha = Vô tham, sự chẳng tham lam, lòng rộng rãi.
6.- Adosa = Vô sân, sự chẳng giận hờn, lòng khoan dung, thiện chí
7.- Amoha = Vô si, sự chẳng si mê, sự sáng suốt, trí huệ.
8.- Metta = Từ, hảo tâm thương người, lòng nhơn ái, sự ban vui
9.- Karuna = Bi, sự thương xót, lòng ưu ái, trắc ẩn, sự cứu khổ.
10.- Mudita = Hỉ, sự chung vui, lòng hoan hỉ
11.- Upekkha = Xả, sự bình thản, sự buông xả.
12.- Sammavaca = Chánh ngữ, sự nói năng chơn chánh.
13. Sammakammanta = Chánh nghiệp, sự hành động chơn chánh.
14.- Samma ajiva = Chánh mạng, sự mưu sanh chơn chánh.

Sở Hữu Trí Tuệ (Tuệ Quyền) (Paññindriya)

Là sự sáng suốt, hiểu biết sự vật đúng với lẽ thật (chơn lý). Từ ngữ căn Pa: đứng đắn + ñà: biết. Tức là biết một cách đứng đắn. Ðặc tánh của Tuệ quyền là hiểu biết đúng như thật. Vì trí tuệ chế ngự vô minh và chiếm địa vị ưu thắng trong sự hiểu biết nên gọi là Tuệ Quyền. Theo Thắng pháp (Abhidhamma) thì Trí (Ñāna), Huệ (Paññā) và Vô Si (Amoha) đồng nghĩa với nhau.

Tuệ quyền có mặt trong các tâm hợp Trí và là một trong bốn phương tiện để chứng Thần Túc Thông (Iddhipāda), Trí Tuệ được gọi là Suy tìm (Vīmamsā). Khi được Ðịnh (Samādhi) làm cho trong sạch, Trí Tuệ được gọi là Diệu Trí (Abhiññā). Trí Tuệ cũng là một trong Thất Giác Chi (Sattabojjhanga) với danh hiệu là Trạch Pháp (Dhammavicaya) và là Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi) trong Ðạo Ðế (Magganga). Sự tột cùng của Trí Tuệ là sự giác ngộ của Ðức Phật. Trí tuệ theo nghĩa tuyệt đối là hiểu biết sự vật như thật theo đúng lý Vô Thường (Anicca), Khổ Não (Dukkha) và Vô Ngã (Anatta).

- Chơn tướng của sở hữu Trí Tuệ là hiểu biết thấu tột chơn tướng của các pháp.

- Phận sự của sở hữu Trí Tuệ là bài trừ sự tối tăm, biết rõ ràng, rành mạch.

- Sự thành tựu của sở hữu Trí Tuệ là không mê mờ, không nhiễm đắm cảnh.

- Nhân cần thiết của sở hữu Trí Tuệ là Tịnh (Passadhi), khéo Tác ý và tục sanh bằng tâm tam nhân.


Trí huệ hay Bát nhã (Panna).

Sự thông minh có hai loại: trí huệ chơn chánh và sự thông minh giả hiệu, chẳng chơn chánh. Trí huệ Bát nhã (Panna), thuộc về loại thứ nhứ nhứt, là sự hiểu biết rõ ràng về hành động gây ra nghiệp (kamma) và các hậu quả (vipaka) tiếp theo. Trí huệ Bát nhã là sự thông suốt kinh luận trong Chánh pháp (Dhamma), sự thuần thục về tỉnh giác minh sát (*** nana), sự thấu triệt cả về đạo (magga nana), quả (phala nana), cùng Nhứt thiết chủng trí của Phật. Tất cả những hình thức hiểu biết chẳng nhiễm ô, chẳng hề lầm lẫn đó được gọi là Trí huệ Bát nhã.

(Danh từ Trí huệ Bát nhã vốn được Bắc tông dùng để chỉ vào chữ Panna trong tiếng Ba-li; sở dĩ dùng cả tiếng Phạn Prajna = Panna [phiên âm là Bát nhã] và tiếng Hán Trí huệ, là vì ngại có sự lẫn lộn giữa trí thông minh thông thường của người đời với trí huệ của người tu hàn

Xin được hết bài ở đây .
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
duc-pha-thich-ca-m1661.jpg
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên