TAM VÔ LẬU HỌC

Bantoioi

Active Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
16 Thg 3 2020
Bài viết
470
Điểm tương tác
140
Điểm
43
Bản Tâm tức Phật tức chúng sanh !

- Chúng sanh hay Phật thánh,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Người chưa ngộ hay đã ngộ,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Kẻ còn 5 uẩn hay không còn 5 uẩn,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Tất cả Vạn Pháp -> sống với niết bàn !

Lìa tất cả tướng, ý niệm, chỉ còn là thể giác rỗng lặng chiếu soi !

Cung kính.
 

VNBN

Tà ma ngoại đạo
Phật tử
Tham gia
13 Thg 6 2017
Bài viết
92
Điểm tương tác
20
Điểm
8
Khì,,,khì,,,,
Không Rỗng Tuếch đâu, theo mình nó ĐẶC SỆT
Cung kính
Bạn không đọc kỹ rồi, "tự thân chúng nó trống rỗng", còn cái đặc sệt chính là tánh thật của mỗi cá nhân, bất khả thuyết, còn "trống rỗng" thì vốn chẳng có gì để thuyết.
 

VNBN

Tà ma ngoại đạo
Phật tử
Tham gia
13 Thg 6 2017
Bài viết
92
Điểm tương tác
20
Điểm
8
Bản Tâm tức Phật tức chúng sanh !

- Chúng sanh hay Phật thánh,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Người chưa ngộ hay đã ngộ,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Kẻ còn 5 uẩn hay không còn 5 uẩn,,, cũng an trú Bản Tâm -> sống với niết bàn !
- Tất cả Vạn Pháp -> sống với niết bàn !

Lìa tất cả tướng, ý niệm, chỉ còn là thể giác rỗng lặng chiếu soi !

Cung kính.
kkkk, không nên đánh đồng liều lĩnh như vậy.
Ca nhân nào làm được như câu nói: "Lìa tất cả tướng, ý niệm, chỉ còn là thể giác rỗng lặng chiếu soi !" thì cá nhân mới sống với Niết Bàn. Còn chưa làm được thì sống với vọng niệm, đám mây vô minh chưa thật sự tan biến.

Vạn pháp vốn rỗng tếch, làm gì có sự sống huống gì nói sống được với Niết Bàn. Mặc dù bản tâm không bên ngoài các pháp nhưng cũng chẳng có bóng dáng trong các pháp. Vì vậy đừng lấy các pháp tướng mà luận về bản tâm như vậy. Chỉ có thể lấy bản tâm để luận các pháp mà thô, chẳng hạn câu: "Lìa tất cả tướng, ý niệm, chỉ còn là thể giác rỗng lặng chiếu soi !" là đã lý bản tâm luận các pháp, chính là bản tâm mình xưa nay và bây giờ không còn hữu nhân (cá nhân tu hành lìa tất cả tướng) để hiện ra hữu quả nữa nên chiếu soi thuông suốt mười phương thế giới và vạn vật.
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Bạn không đọc kỹ rồi, "tự thân chúng nó trống rỗng", còn cái đặc sệt chính là tánh thật của mỗi cá nhân, bất khả thuyết, còn "trống rỗng" thì vốn chẳng có gì để thuyết.
Kha...Khà... Bạn NHẦM trạng thái VÔ CỰC của THÁI CỰC ĐỒ rồi. Bây giờ mình cùng các Bạn dùng KIẾN-VĂN-GIÁC-TRI để CẮN .KIẾN....Rồi bật mí! Mình không chỉ nói LÝ THUYẾT SUÔNG ĐÂU,
.........Từ CÁI RỖNG LẶNG...>>> BỖNG SANH>>X V X V X V.......= X V X V...=KHÔNG NHÂN!???? .........
...=TỰ SANH >>>> vậy CÓ THỂ TỰ DIỆT....và NẾU NHƯ THẾ =
PHẬT SANH>PHẬT DIỆT !

xin cùng thảo luận để tới Bờ Kia.
 

Bantoioi

Active Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
16 Thg 3 2020
Bài viết
470
Điểm tương tác
140
Điểm
43
Các bạn,,, nhân đọc đoạn kinh này hay quá, xin trích dẫn ra đây mong cùng đọc...

KINH DUY MA CẬT - PHẨM BẤT KHẢ TƯ NGHÌ

Bấy giờ Xá-lợi-phất thấy trong phòng chẳng có giường ngồi mà nghĩ rằng : Các Bồ-tát và Chúng Đại Đệ-tử sẽ ngồi đâu ?
Duy-ma-cật biết ý liền nói với Xá-lợi-phất rằng : Thế nào, Nhơn-giả vì Pháp đến hay vì giường ngồi mà đến.
Xá-lợi-phất đáp : Tôi vì Pháp đến chớ chẳng vì giường ngồi.

Duy-ma-cật nói : Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp thân mạng còn chẳng tiếc, huống là giường ngồi. Kẻ cầu Pháp chẳng cầu nơi ngũ Uẩn, lục Nhập, thập bát Giới, cũng chẳng cầu nơi Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới. Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp chẳng chấp cầu Phật, cầu Pháp, cầu Tăng. Kẻ cầu Pháp chẳng cầu nơi Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tại sao ? Pháp chẳng hý luận, nếu ta nói thấy khổ phải đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, ấy là hý-luận, chẳng phải cầu Pháp.

Xá-lợi-phất ! Pháp gọi Tịch-diệt, nếu hành nơi sanh diệt là cầu sanh diệt, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi là Vô-nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết-bàn, ấy là nhiễm đắm, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng chỗ hành, nếu hành nơi pháp, ấy là chỗ hành, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thủ xả, nếu thủ xả pháp, ấy là thủ xả, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng xứ sở, nếu chấp xứ sở, ấy là chấp xứ sở, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi Vô-tướng, nếu nhận biết theo tướng, ấy là cầu tướng, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thể trụ, nếu trụ nơi pháp, ấy là trụ pháp, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thể Kiến Văn Giác Tri, nếu hành Kiến Văn Giác Tri, ấy là Kiến Văn Giác Tri, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi Vô-vi, nếu hành hữu vi, chẳng phải cầu Pháp.

Như thế, Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp, đối với tất cả pháp nên Vô-sở-cầu.
+++++
(Hết trích dẫn)
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Khì...khì.....Xin mọi Người chậm...chậm.... thôi nào
Vấn đề chúng ta đang thảo luận là : cùng các Bạn dùng KIẾN-VĂN-GIÁC-TRI để CẮN .KIẾN...
-Tức là dùng KIẾN-VĂN-GIÁC-TRI ...để giải phẫu (CẮN) các KIẾN NHẬN... XXXVVV
# TOÀN BỘ những THÔNG TIN chúng ta chia sẻ trên (Các nhận thức, kinh điển (dù là TÂM ẤN hay BẤT TƯ NGHÌ,,,gì gì đi nữa) cũng chỉ là :KIẾN -VĂN-GIÁC-TRI...dùng để THAM KHẢO>>giải phẫu>(CẮN} >KIẾN NHẬN +nhũng TRẢI NGHIỆM của TỰ THÂN...thì mới có thể KIẾN được sự BIẾN hóa của nó

Xin cùng thảo luận
 

VNBN

Tà ma ngoại đạo
Phật tử
Tham gia
13 Thg 6 2017
Bài viết
92
Điểm tương tác
20
Điểm
8
Kha...Khà... Bạn NHẦM trạng thái VÔ CỰC của THÁI CỰC ĐỒ rồi. Bây giờ mình cùng các Bạn dùng KIẾN-VĂN-GIÁC-TRI để CẮN .KIẾN....Rồi bật mí! Mình không chỉ nói LÝ THUYẾT SUÔNG ĐÂU,
.........Từ CÁI RỖNG LẶNG...>>> BỖNG SANH>>X V X V X V.......= X V X V...=KHÔNG NHÂN!???? .........
...=TỰ SANH >>>> vậy CÓ THỂ TỰ DIỆT....và NẾU NHƯ THẾ =
PHẬT SANH>PHẬT DIỆT !

xin cùng thảo luận để tới Bờ Kia.
Ô, chưa bàn tới trạng thái vô cực nhé bạn. VNBN nhận thấy cách hành văn của bạn rất khó theo dõi.
Rỗng lặng = đặc sệt xuyên suốt nhé, còn rỗng tếch = không có thật.
Giữa các cái rỗng lặng luôn luôn tồn tại một cái lực hấp dẫn đặc biệt, buộc phải tương tác nhau.
Trạng thái đầu tiên là trạng thái không biết, không thấy, không nghe,... cái gì hết. Tuy không biết không nghe nhưng vẫn tương tác với nhau (ngẫu nhiên là chính vì chưa có chính nhân). Ngoại duyên tác động lâu dần thì hình thành các nội nhân, nội nhân hữu tình đầy đủ thì thức tánh xuất hiện, quá trình nhận thức bắt đầu.


Hàng ngày chúng ta không ngừng học tập pháp Phật (ngoại duyên) là để cũng cố cái nội nhân nơi mình ngày càng lớn mạnh mà sau này đầy đủ thì thành tự giải thoát.
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Rỗng lặng = đặc sệt xuyên suốt nhé, còn rỗng tếch = không có thật.
Giữa các cái rỗng lặng luôn luôn tồn tại một cái lực hấp dẫn đặc biệt, buộc phải tương tác nhau.
Trạng thái đầu tiên là trạng thái không biết, không thấy, không nghe,... cái gì hết. Tuy không biết không nghe nhưng vẫn tương tác với nhau (ngẫu nhiên là chính vì chưa có chính nhân).
O kê....Khì khì.....Với sự KIẾN biến , trên Bạn và mình có lẽ có KIẾN-VĂN tương đồng.Cám ơn Bạn

Xin cùng thảo luận để Tới Bờ Kia
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
Rỗng lặng = rất rễ bị hiểu là không có sự vận động...mà sự thì = luôn luôn tồn tại một cái lực hấp dẫn đặc biệt, buộc phải tương tác nhau

Kính Cáo
 

Bantoioi

Active Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
16 Thg 3 2020
Bài viết
470
Điểm tương tác
140
Điểm
43
Các bạn,,, nhân đọc đoạn kinh này hay quá, xin trích dẫn ra đây mong cùng đọc...

KINH DUY MA CẬT - PHẨM BẤT KHẢ TƯ NGHÌ

Bấy giờ Xá-lợi-phất thấy trong phòng chẳng có giường ngồi mà nghĩ rằng : Các Bồ-tát và Chúng Đại Đệ-tử sẽ ngồi đâu ?
Duy-ma-cật biết ý liền nói với Xá-lợi-phất rằng : Thế nào, Nhơn-giả vì Pháp đến hay vì giường ngồi mà đến.
Xá-lợi-phất đáp : Tôi vì Pháp đến chớ chẳng vì giường ngồi.

Duy-ma-cật nói : Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp thân mạng còn chẳng tiếc, huống là giường ngồi. Kẻ cầu Pháp chẳng cầu nơi ngũ Uẩn, lục Nhập, thập bát Giới, cũng chẳng cầu nơi Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới. Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp chẳng chấp cầu Phật, cầu Pháp, cầu Tăng. Kẻ cầu Pháp chẳng cầu nơi Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tại sao ? Pháp chẳng hý luận, nếu ta nói thấy khổ phải đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, ấy là hý-luận, chẳng phải cầu Pháp.

Xá-lợi-phất ! Pháp gọi Tịch-diệt, nếu hành nơi sanh diệt là cầu sanh diệt, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi là Vô-nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến Niết-bàn, ấy là nhiễm đắm, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng chỗ hành, nếu hành nơi pháp, ấy là chỗ hành, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thủ xả, nếu thủ xả pháp, ấy là thủ xả, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng xứ sở, nếu chấp xứ sở, ấy là chấp xứ sở, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi Vô-tướng, nếu nhận biết theo tướng, ấy là cầu tướng, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thể trụ, nếu trụ nơi pháp, ấy là trụ pháp, chẳng phải cầu Pháp. Pháp chẳng thể Kiến Văn Giác Tri, nếu hành Kiến Văn Giác Tri, ấy là Kiến Văn Giác Tri, chẳng phải cầu Pháp. Pháp gọi Vô-vi, nếu hành hữu vi, chẳng phải cầu Pháp.

Như thế, Xá-lợi-phất ! Kẻ cầu Pháp, đối với tất cả pháp nên Vô-sở-cầu.
+++++
(Hết trích dẫn)

KINH DUY MA CẬT - PHẨM QUÁN CHÚNG SINH

Bấy giờ, Văn-thù hỏi Duy-ma-cật rằng: Bồ-tát nên quán chúng sanh như thế nào ?
Duy-ma-cật nói: Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra. Bồ-tát nên quán chúng sanh như thế. Như người Trí thấy trăng trong nước, thấy hình trong gương, như dương-diệm, như tiếng vang, như mây giữa trời. Cho đến những vật chẳng thể tưởng tượng như: Lông rùa, sừng thỏ, v.v... Bồ-tát nên quán chúng sanh như thế.

Văn-thù nói: Nếu Bồ-tát quán như thế làm sao hành việc Từ ?
Duy-ma-cật nói: Bồ-tát quán như thế rồi tự nghĩ rằng: Ta nên vì chúng sanh thuyết Pháp này mới là Hạnh-từ chơn thật. Hạnh-từ tịch diệt vì vốn 'vô sanh'. Hạnh-từ chẳng nóng nảy vì 'vô phiền não'. Hạnh-từ bình đẳng vì Tam-thế bình đẳng. Hạnh-từ vô tranh vì 'vô sở khởi'. Hạnh-từ bất nhị vì 'trong ngoài bất hợp'. Hạnh-từ chẳng hoại vì 'vốn là không thật'. Hạnh-từ kiên cố vì 'tâm chẳng hoại diệt'. Hạnh-từ trong sạch vì 'Pháp-tánh trong sạch'. Hạnh-từ vô biên vì 'như hư không'. Hạnh-từ A-la-hán vì 'phá kết tặc phiền não'. Hạnh-từ Bồ-tát vì 'cho chúng sanh yên tâm'. Hạnh-từ Như-lai vì 'đắc tướng Như-như'. Hạnh-từ chư Phật vì 'giác ngộ chúng sanh'. Hạnh-từ tự nhiên vì 'vô nhân mà đắc'. Hạnh-từ Bồ-đề vì 'bình đẳng nhất vị'. Hạnh-từ vô đẳng vì 'đoạn dứt ái nhiễm'. Hạnh-từ đại bi vì 'dẫn dắt theo Đại-thừa'. Hạnh-từ chẳng nhàm chán vì 'quán pháp Không - Vô Ngã'. Hạnh-từ pháp thí vì 'chẳng luyến tiếc'. Hạnh-từ trì Giới vì 'độ người phá Giới'. Hạnh-từ nhẫn nhục vì 'hộ cho mình và người'. Hạnh-từ tinh tấn vì 'gánh vác chúng sanh'. Hạnh-từ thiền định vì 'chẳng thọ Thiền-vị'. Hạnh-từ trí huệ vì 'vô sở bất tri'. Hạnh-từ phương tiện vì 'thị hiện tất cả'. Hạnh-từ chẳng ẩn dấu vì 'tâm trong sạch ngay thẳng'. Hạnh-từ thâm tâm vì 'chẳng hành tạp nhiễm'. Hạnh-từ chẳng dối vì 'chẳng hư giả'. Hạnh-từ an lạc vì 'khiến người được an vui của Phật'. Hạnh-từ của Bồ-tát là như thế.

Văn-thù lại hỏi: Thế nào là Bi ?
Ðáp: 'Công đức sở hành của Bồ-tát đều cùng chung với tất cả chúng sanh'.
- Thế nào là Hỷ ? 'Hoan hỷ làm việc chúng sanh mà chẳng hối tiếc'.
- Thế nào là Xả ? 'Dù làm việc phước đức mà chẳng có mong cầu chi cả'.

Văn-thù lại hỏi: Ðối với sanh tử đáng sợ, Bồ-tát nên y nơi đâu ?
Ðáp: 'Nên y nơi sức công đức của Như-lai'.
- Bồ-tát muốn y sức công đức của Như-lai phải trụ nơi nào ? 'Nên trụ nơi độ thoát chúng sanh'.
- Muốn độ thoát chúng sanh phải trừ những gì ? 'Muốn độ thoát chúng sanh, nên trừ phiền não của họ'.
- Muốn trừ phiền não phải hành thế nào ? 'Nên hành nơi Chánh-niệm'.
- Thế nào là hành nơi Chánh-niệm ? 'Nên hành chẳng sanh, chẳng diệt'.
- Pháp nào chẳng sanh, pháp nào chẳng diệt ? 'Bất thiện chẳng sanh, thiện pháp chẳng diệt'.
- Thiện với bất thiện lấy gì làm gốc ? 'Lấy thân làm gốc'.
- Thân lấy gì làm gốc ? 'Lấy tham dục làm gốc'.
- Tham dục lấy gì làm gốc ? 'Lấy hư vọng phân biệt làm gốc'.
- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc ? 'Lấy điên đảo tưởng làm gốc'.
- Ðiên đảo tưởng lấy gì làm gốc ? 'Lấy Vô-trụ làm gốc'.
- Vô-trụ lấy gì làm gốc ? 'Vô-trụ thì chẳng có gốc'.
Nói đến đây, Duy-ma-cật liền nhấn mạnh rằng: Văn-thù ! Từ gốc Vô-trụ lập tất cả các pháp. Như thế là thật Vô-sở-trụ vậy.

Bấy giờ, trong phòng Duy-ma-cật có một Thiên-nữ thấy các vị Trời người đang nghe thuyết Pháp, liền hiện hình Thiên-nữ rãi hoa trên thân các Bồ-tát và Đại-đệ-tử. Hoa đến thân các Bồ-tát liền rơi xuống đất, đến các Đại-đệ-tử thì dính trên thân chẳng rơi xuống. Tất cả Đệ-tử dùng thần lực phủi hoa cũng chẳng phủi rớt.
Lúc ấy, Thiên-nữ hỏi Xá-lợi-phất rằng: Tại sao phủi hoa ?
Ðáp: Hoa nầy chẳng đúng Pháp nên phủi.
Thiên-nữ nói: Chớ bảo hoa này chẳng đúng Pháp. Tại sao ? Vì hoa này chẳng có phân biệt, tại nhơn-giả tự sanh phân biệt tưởng mà thôi. Người ở nơi Phật-pháp xuất gia, có 'tâm phân biệt' là chẳng đúng Pháp, nếu chẳng phân biệt tức là đúng Pháp. Nay thử xem các vị Bồ-tát chẳng dính hoa là vì đã đoạn diệt phân biệt tưởng vậy. Ví như người đang có khiếp sợ thì phi nhơn mới được dịp mê hoặc. Cũng thế, các vị Đệ-tử vì đang sợ sanh tử thì sắc, thanh, hương, vị, xúc mới được dịp mê hoặc. Kẻ đã lìa được khiếp sợ thì tất cả Ngũ-dục đều chẳng thể mê hoặc. Kẻ kiết-tập (tập-khí trói buộc) chưa sạch, hoa mới dính vào thân. Kẻ kiết-tập đã sạch thì hoa chẳng dính vậy.

Xá-lợi-phất hỏi: Thiên-nữ ở trong phòng này được bao lâu ?
Ðáp: Tôi ở trong phòng này lâu như ông được giải thoát.
- Ở đây lâu chăng ?
- Như ông giải thoát cũng có lâu mau sao ?
Xá-lợi-phất im lặng chẳng đáp.
Thiên-nữ hỏi: Tại sao bậc kỳ cựu đại trí lại nín lặng ?
Ðáp: Sự giải thoát vốn chẳng ngôn thuyết, nên tôi chẳng biết nói gì.
Thiên-nữ nói: Ngôn thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Tại sao ? Vì sự giải thoát chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa. Văn tự cũng như thế. Cho nên, Xá-lợi-phất ! Chẳng có sự lìa văn tự mà thuyết Pháp giải thoát. Tại sao ? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát rồi.
Xá-lợi-phất hỏi: Chẳng cần lìa tham sân si mà được giải thoát ư ?
Ðáp: Phật vì đối với kẻ Tăng-thượng-mạn mà nói lìa tham sân si là giải thoát mà thôi. Nếu kẻ chẳng phải Tăng-thượng-mạn thì Phật nói tánh tham sân si tức là giải thoát vậy.

Xá-lợi-phất nói: Lành thay ! Lành thay ! Nàng đắc được gì, chứng được gì mà biện tài như thế ?
Thiên-nữ đáp: Tôi 'vô đắc vô chứng' nên biện tài như thế. Tại sao ? Vì kẻ có đắc có chứng ở nơi Phật-pháp gọi là Tăng-thượng-mạn.
Xá-lợi-phất hỏi: Nàng ở nơi Tam-thừa có chí cầu gì ?
Ðáp: Dùng pháp Thanh-văn hóa độ chúng sanh thì tôi làm Thanh-văn. Dùng pháp Nhân-duyên hóa độ chúng sanh thì tôi làm Duyên-giác. Dùng pháp Đại-bi hóa độ chúng sanh thì tôi làm Đại-thừa.
Xá-lợi-phất ! Như người vào rừng huỳnh hoa, chỉ ngửi mùi hương huỳnh hoa, chẳng ngửi mùi hương khác. Cũng thế, nếu vào phòng này, chỉ ngửi mùi hương của công đức Phật, chẳng ưa ngửi mùi hương của công đức Nhị-thừa.
Xá-lợi-phất ! Những vị Thích-phạm Tứ-thiên-vương và Thiên-long, Quỷ, Thần, v.v... vào trong phòng này, được nghe Thượng-nhơn giảng thuyết Chánh-pháp, đều ưa mùi hương công đức Phật mà phát tâm Đại-thừa.
Xá-lợi-phất ! Tôi ở phòng này mười hai năm, chưa từng nghe pháp Nhị-thừa, chỉ nghe Phật-pháp đại từ đại bi bất khả tư nghì của Bồ-tát.

Xá-lợi-phất ! Phòng này thường hiện tám thứ Pháp khó đắc, chưa từng có.
Tám thứ ấy là :
1) Trong phòng thường có ánh sáng màu vàng ngày đêm chiếu soi, chẳng nhờ ánh sáng nhật nguyệt.
2) Kẻ vào phòng này chẳng bị các cấu bẩn làm
cho phiền não.
3) Trong phòng này thường có Thích-phạm Tứ-thiên-vương và Bồ-tát ở nơi phương khác đến tụ hợp chẳng gián đoạn.
4) Phòng này thường thuyết sáu Ba-la-mật và Pháp-bất-thối-chuyển.
5) Phòng này thường trỗi âm nhạc bậc nhất của Trời người, vang ra vô lượng Pháp-âm.
6) Phòng này có bốn kho tàng lớn chứa đầy bửu vật, cứu giúp kẻ nghèo, hễ cầu liền được.
7) Phòng này vô lượng chư Phật nơi mười phương như Phật Thích-ca, Phật A-di-đà cho đến Phật Sư-tử-hống, Phật Nhất-thiết-lợi-thành v.v... Khi Thượng-nhơn khởi niệm, liền đền rộng thuyết Pháp-tạng bí mật của chư Phật, thuyết xong trở về.
8) Phòng này tất cả cung điện của chư Thiên và cõi Tịnh-độ của chư Phật đều hiện trong đó.
Xá-lợi-phất ! Phòng này thường hiện tám Pháp như thế. Người thấy việc bất khả tư nghì này, đâu còn ưa pháp Thanh-văn nữa !

Xá-lợi-phất hỏi: Nàng sao chẳng chuyển biến thân nữ đi ?
Thiên-nữ đáp: Tôi từ mười hai năm cầu tướng người nữ trọn bất khả đắc mà chuyển cái gì ? Ví như nhà huyễn thuật hóa ra huyễn nữ. Nếu có người hỏi sao chẳng chuyển biến thân nữ đó đi, vậy người hỏi đó có đúng không ?
Xá-lợi-phất nói: Không ạ ! Huyễn chẳng tướng nhất định, làm sao mà chuyển.
Thiên-nữ nói: Tất cả pháp chẳng có tướng nhất định cũng như thế, sao lại hỏi chẳng chuyển biến thân nữ đi ? !
Tức thì Thiên-nữ dùng sức thần thông biến Xá-lợi-phất thành Thiên-nữ, tự mình hóa thân như Xá-lợi-phất mà hỏi rằng:
- Sao chẳng chuyển biến thân nữ đi ?
Xá-lợi-phất mang tướng thân nữ mà đáp rằng:
- Nay tôi chẳng biết tại sao chuyển biến làm thân nữ ?
Thiên-nữ nói:
- Nếu Xá-lợi-phất chuyển được thân nữ này thì tất cả thân nữ cũng chuyển được. Như Xá-lợi-phất chẳng phải người nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng như thế, dù hiện thân nữ mà chẳng phải người nữ. Cho nên phật thuyết: Tất cả pháp phi nam, phi nữ.
Tức thì Thiên-nữ thu nhiếp thần lực lại, thân Xá-lợi-phất trở lại như cũ. Thiên-nữ hỏi Xá-lợi-phất rằng:
- Tướng thân nữ của ông nay còn đâu ?
Xá-lợi-phất nói: Tướng thân nữ chẳng còn, chẳng không còn.
Thiên-nữ nói: Tất cả pháp cũng như thế, chẳng còn, chẳng không còn. Sự chẳng còn, chẳng không còn đó là do Phật sở thuyết.

Xá-lợi-phất hỏi Thiên-nữ: Nàng diệt nơi đây, rồi sẽ sanh nơi nào ?
Ðáp: Phật biến hóa sở sanh. Tôi cũng theo đó sanh. Nếu Phật biến hóa sở sanh thì chẳng phải diệt và sanh. Chúng sanh cũng chẳng phải diệt và sanh.
Xá-lợi-phất hỏi: Nàng bao lâu sẽ đắc Vô-thượng Bồ-đề ?
Ðáp: Khi Xá-lợi-phất trở lại phàm phu thì tôi sẽ thành Vô-thượng Bồ-đề.
Xá-lợi-phất nói: Tôi làm phàm phu thì chẳng có chỗ đúng.
- Tôi đắc Vô-thượng Bồ-đề cũng chẳng có chỗ đúng. Tại sao ? Bồ-đề chẳng nơi trụ, nên chẳng có kẻ đắc.
Xá-lợi-phất nói: Nay chư Phật đắc Vô-thượng Bồ-đề, đã đắc, sẽ đắc như Hằng-sa. Những việc này gọi là gì ?
- Ấy là dùng văn tự, số lượng của thế tục mà nói có tam thế, chứ chẳng phải Bồ-đề có quá khứ, hiện tại, vị lai. Xá-lợi-phất ! Ông đắc đạo A-la-hán ư ?
Ðáp: Vì vô-sở-đắc mà đắc.
Thiên-nữ nói: Chư Phật Bồ-tát cũng thế. Vì vô-sở-đắc mà đắc.

Bấy giờ Duy-ma-cật nói với Xá-lợi-phất rằng: Thiên-nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật. Ðã đắc du hý thần thông của Bồ-tát, nguyện lực đầy đủ, đắc Vô-sanh-pháp-nhẫn, trụ nơi chẳng thối chuyển. Vì theo bổn nguyện, nên tùy ý thị hiện để giáo hóa chúng sanh.

(Hết trích dẫn)
 

Bantoioi

Active Member
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
16 Thg 3 2020
Bài viết
470
Điểm tương tác
140
Điểm
43
PHÁP BẢO ĐÀN KINH - PHẨM PHÓ CHÚC

... Chỉ nên nhận tự bản tâm, thấy tự bản tánh, chẳng động chẳng tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lui chẳng tới, chẳng thị chẳng phi, chẳng trụ chẳng đi. Vì sợ các ngươi tâm mê, chẳng hiểu ý ta, nay nhắc lại lần nữa, khiến các ngươi tự thấy tánh. Sau khi ta viên tịch, theo đây tu hành, cũng như ta còn tại thế, nếu trái với lời dạy của ta, dẫu cho ta còn tại thế, cũng đâu có ích lợi gì! Lại thuyết kệ rằng:

Ngột ngột bất tu thiện,
Ðằng đằng bất tạo ác.
Tịch tịch đoạn kiến văn,
Ðãng đãng tâm vô trước.

Dịch nghĩa:

Ngây ngây chẳng tu thiện, (tâm không)
Bừng bừng chẳng tạo ác. (tâm vô tác)
Tịch tịch dứt thấy nghe, (bội trần hiệp giác)
Luôn luôn chẳng chấp trước. (vô niệm)

Sư thuyết kệ xong, ngồi ngay cho đến canh ba, thoạt gọi môn đồ: Ta đi nhé!, liền ngồi yên viên tịch. Ngay lúc ấy có mùi hương lạ thơm khắp núi, mống trắng mọc vòng cầu chấm đất, rừng cây biến thành màu trắng, cầm thú kêu vang thảm thiết...
(Hết trích dẫn)

Cung kính.
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
KINH LĂNG GIÀ TÂM ẤN

........"Khi ấy ,Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
-Thế Tôn! Các thức có mấy thứ sanh,trụ, diệt ?
Phật bảo Đại Huệ : Các thức có hai thứ ,sanh,trụ,diệt chẳng phải suy nghĩ biết được.Hai thứ sanh gọi là lưu trú sanh và tướng sanh : hai thứ trụ gọi là lưu trú trụ và tướng trụ; hai thứ diệt gọi là lưu trú diệt và tướng diệt.
-Đai Huệ! Các thức có ba thứ tướng ,gọi là chuyển tướng,nghiệp tướng và chơn tướng. Nói tóm tắt có ba thứ thức,nói rộng ra có tám thứ tướng; Ba thứ thức ấy là: Chơn thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Huệ! Ví như gương sáng hiện những chỗ sắc tướng,chỗ hiện của hiện thức cũng như thế.
-Đại Huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại làm nhân với nhau.Đại Huệ ! Sự huân tập bất tư nghì là cái nhân của hiện thức.Nhận lấy các cảnh trần và huân tập vọng tưởng từ vô thỉ là cái nhân của phân biệt sự thức.
-Đại Huệ! Nếu mỗi mỗi sự hư vọng chẳng thật che khuất chơn thức đều tiêu diệt thì tất cả căn thức đều diệt,ấy gọi là tướng diệt.
-Đại Huệ! Sao nói TƯƠNG TỤC DIỆT? Bởi cái nhân của tương tục đẫ diệt thì tương tục phải diệt; sở nhân diệt thì sở duyên cũng diệt. Sở nhân và sở duyên đều diệt thì tương tục phải diệt. Tại sao ? vì có sở nương tựa. Nói "Nương tựa",là vọng tưởng huân tập từ vô thỉ; nói "DUYÊN", là tự tâm hiện những cảnh vọng tưởng của thức.
-Đại Huệ! Ví như cục đất với vi trần có khác,cũng không khác,dùng vàng dòng làm ra đồ trang sức cũng vậy. Đại Huệ! Nếu cục đất với vi trần có khác thì cục đất chẳng do vi trần hợp thành ,mà thật thì do vi trần hợp thành,nên nói chẳng khác. Nếu chấp thật chẳng khác thì cục đất với vi trần chẳng có phân biệt.
-Như thế, Đại Huệ! Chơn tướng của chuyển thức với tạng thức nếu là khác thì Tạng thức chẳng phải cái nhân của chuyển thức; nếu là chẳng khác thì chuyển thức diệt,Tạng thức cũng phải diệt mà chơn tướng của nó thật chẳng diệt. Cho nên Đại Huệ! chẳng phải tự thức của chơn tướng diệt,chỉ là NGIỆP TƯỚNG DIỆT. Nếu tự thức của chơn tướng diệt,thì Tạng thức cũng phải diệt. Đại Huệ! Nếu Tạng thức diệt ,thì chẳng khác gì đoạn kiến của ngoại đạo.
-Đại Huệ! Các phái của ngoại đạo lập luận như thế này:"Cảnh giới nhiếp thọ diệt thì sự lưu trú của thức cũng diệt ".Nếu sự lưu trú của thức diệt thì sự lưu trú từ vô thỉ phải đoạn dứt.Đại Huệ! Cái nhân của họ nói như thắng diệu,như sĩ phu (1),như tự tại,như thời gian,như vi trần v,v....
-Lại nữa ,Đại Huệ! Có bẩy thứ chủng tánh của tự tánh, gọi là hòa hợp tự tánh,tánh tự tánh,tướng tự tánh,đại chủng tự tánh,nhân tự tánh,và thành tựu tự tánh.
-Lại nữa,Đại Huệ! có bẩy thứ Đệ Nhất Nghĩa gọi là: Cảnh giới tâm,cảnh giới Huệ,cảnh giới trí,cảnh giới kiến,cảnh giơpis siêu nhị kiến,cảnh giới siêu tử địa (siêu việt phiền não), và cảnh giới Như Lại tự tại. Đại Huệ! Đây là ĐỆ NHẤT NGHĨA tâm của tự tánh,cũng là quá khứ,hiện tại,vị lai chư Phật Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu pháp thế gian và xuất thế gian,cho đến xuất thế gian thượng thượng pháp. do huệ nhãn của bậc Thánh soi vào tự cộng tướng mà kiến lập,kiến lập này chẳng đồng với lập luận ác kiến của ngoại đạo.
-Đại Huệ! Thế nào là lập luận ác kiến của ngoại đạo? Ấy là cảnh giới vọng tưởng của tự kiến chấp,chẳng biết do chấp tự tâm sở hiện,vì chẳng thông đạt ngằn mé(tự tánh cùng khắp không gian,thời gian,vốn chẳng có ngằn mé vì khởi tâm chấp thật thành có ngằn mé).Đại Huệ! vì tánh ngu si của phàm phu,ở nơi bất nhị của tự tánh vô tánh (đệ Nhất Nghĩa) lập ra NHỊ KIẾN LUẬN (Pháp tương đối)
-Lại nữa,Đại Huệ! Cái nhân vọng tưởng khổ của tam giới diệt thì các duyên của vô minh,ái nghiệp liền diệt. Nay ta sẽ thuyết những cảnh huyễn hóa tùy theo kiến chấp của tự tâm sở hiện.
-Đại Huệ! nếu có Sa Môn,Bà La Môn muốn khiến nhân quả của sự hữu chủng,vô chủng và sự vật có thời gian có sở trụ...và những cái do chấp ấm,giới,nhập nơi sanh và trụ biến hiện(hoặc nói sanh rồi thì diệt)như sự vật hoặc sanh hoặc hữu,hoặc niết bàn,hoặc đạo,hoặc nghiệp,hoặc quả,hoặc chơn lý,hoặc thường trụ,đều là đoạn diệt luận.Tại sao?Vì những sự việc kể trên vốn là vô thỉ (chẳng có sự bắt đầu) nên hiện tiền đều BẤT KHẢ ĐẮC.
-Đại Huệ! Ví như cái bình bể chẳng dùng được, như hạt giống cháy chẳng thể nẩy mần. Như thế ,Đại Huệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt,nay diệt,sẽ diệt, đều do kiến chấp vọng tưởng của tự tâm vô nhân mà có,thì sự sanh khởi chẳng có thứ lớp.
-Đại Huệ! Nếu lại nói cái thức Vô Chủng ,Hữu chủng do ba duyên kiến,tướng,thức hòa hợp sanh khởi ,thì con rùa nên mọc lông,ép cát phải ra dầu,tông họ ắt phải tự hoại,vì trái với nghĩa quyết định. Cái thuyết hữu chủng,vô chủng có lỗi như thế,nếu theo đó kiến lấp sự nghiệp đều hư dối vô nghĩa.
-Đại Huệ! cái thuyết ba duyên hợp sanh của ngoại đạo,lập ra phương tiện nhân quả tự tướng nơi quá khứ,hiện tại,vị lai,tưởng hữu chủng,vô chủng từ xưa đến nay đã thành sự thật,giác tưởng xoay chuyển,thừa kế với nhau ,là do lỗi tập khí tự sanh kiến chấp mà thuyết như thế.
-Đại Huệ! Phàm phu ngu si,say mê tà tưởng ,trí huệ bị ác kiến nuốt mất,đem cái thuyết vô trí lại vọng xưng là Nhất Thiết Trí.

-Đại Huệ! Nếu các Sa Môn,Bà La Môn lìa kiến chấp tự tánh,biết trong ngoài tâm hiện như mây nổi,như vòng lửa,như thành Càn Thát Bà,như dương diệm,như bóng trăng trong nước,như mộng huyễn,những vọng tưởng hư dối từ vô thỉ chẳng lìa tự tâm.Nếu nhân duyên vọng tưởng diệt hết,lìa năng thuyết,sở thuyết,năng quán,sở quán của vọng tưởng,kiến lâpf thân của tạng thức,nơi cảnh giới thức có thọ dụng,nhiếp thọ và kể nhiếp thọ vv...đối những việc kể trên đều chẳng tương ưng,chẳng có tất cả cảnh giới ấy,,lìa sanh trụ diệt,lìa tự tâm khởi,lìa tùy chỗ nhập mà phân biệt,Bồ Tát này được như thế thì chẳng bao lâu sẽ chứng đắc sanh tử và Niết Bàn bình đẳng,được đại bi phương tiện khéo léo mà chẳng thấy có sự mở mang phương tiện.

-Đại Huệ! nơi tất cả chúng sanh thẩy đều như huyễn,chẳng do nhân duyên,xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm chẳng thấy pháp khác,lần lượt nhập vô tưởng,tứ cảnh giới Tam muội của Địa này đến Địa kia,phân biệt,quán sét,thấu rõ tam giới như huyễn,sẽ chứng đắc như huyễn Tam muội,siêu việt tự tâm hiện,trụ nơi Bát Nhã Ba La Mật,lìa bỏ phương tiện,lìa Kim Cang Dụ và Tam Ma Đề,liền vào thân Như Lai,liền vào thần thông biến hóa tự tại,từ bi phương tiện,đầy đủ trang nghiêm; vào tất cả cõi Phật và chỗ ngoại đạo,bình đẳng như như,lìa tâm,ý,ý thức,ấy là sự lần lượt chuyển thân của Bồ tát,cho đến chứng đắc Pháp Thân Như Lai,cuối cùng quy về Vô Sở Đắc."........
.........

Kính Cáo
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
KINH LĂNG GIÀ TÂM ẤN
Tiếp theo:
-Đại Huệ! Cho nên, muốn đắc vào Pháp thân Như Lai,phải xa lìa ấm,giới,nhập và nhân duyên làm phương tiện của tâm, duy tâm thẳng quán xét lỗi vọng tưởng tập khí hư dối từ vô thỉ,sanh,trụ,diệt là vọng tưởng hư dối, Phật Địa vô sanh,tư duy tam giới chẳng thật có,đến Tự giác Thánh trí,tự tâm tự tại,đến chỗ hành vô sở hành,như hạt châu Ma Ni tùy sắc (hạt châu tự chẳng có mầu sắc,mà tùy mầu sắc của người xem hiện ra mầu sắc) nghĩa là tùy tâm lượng vi tế của chúng sanh mà biến hóa thân hình,nên chư Địa lần lượt được tương tục kiến lập. Cho nên, này Đại Huệ ! Việc tự thành tựu pháp thiện phải siêng tu học.
.........

Kính Cáo
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
KINH LĂNG GIÀ TÂM ẤN

........-Khi ấy,Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
-Thế Tôn nói tâm, ý ,ý thức, tướng năm pháp tự tánh là tất cả chư Phật, Bồ Tát sở hành, cảnh giới sở duyên chẳng phải hòa hợp, hiển bầy tất cả pháp do tự tâm hiện,THÀNH TƯỚNG CHƠN THIỆT. NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM là Phật thuyết pháp cảnh giới TẠNG THỨC CỦA PHÁP THÂN,ở nơi trụ sứ của Chư Đại Bồ Tát,tại núi Ma La Da trong biển thuộc nước Lăng Già.
-Khí ấy Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát rằng :
-Do bốn nhân duyên mà nhãn thức chuyển. thế nào là bốn ? 1- Tự tâm bất giác hiện ra nhiếp thọ. - 2 Lỗi tập khí hư ngụy từ vô thỉ. - 3 Chấp trứơc tự tánh của tánh thức. -4 Muốn thấy đủ các sắc tướng. Ấy gọi là bốn thứ nhân từ dòng suối chẩy ra của Tạng thức, sanh ra làn sóng của chuyển thức.

- NHƯ NHÃN THỨC CHUYỂN THÌ TẤT CẢ VI TRẦN< LỖ CHÂN LÔNG CỦA CÁC CĂN ĐỀU SANH,CÁC CẢNH GIỚI KHÁC THEO ĐÓ SANH KHỞI CŨNG NHƯ THẾ. ví như gương sáng hiện các sắc tướng,ví như gió lớn thổi nước biển thì gió cảnh giới bên ngoài thổi biển của tâm,nổi làn sóng thức cũng vậy. Bởi vì tướng sở tác khác hay chẳng khác,do nghiệp duyên hòa hợp sanh tướng,lại chấp trước sâu vào CHẲNG THỂ LIỄU TRI TỰ TÁNH CỦA CÁC SẮC,NÊN CÁI THÂN NĂM THỨC THEO ĐÓ MÀ CHUYỂN.
-Đại Huệ! Cái thân năm thứ thức kia đều do tướng phần đoạn sai biệt mà có, nên biết đó là cái thân của ý thức. Cái thân chuyển kia chẳng tự cho là tướng của Ta chuyển, vì tự tâm hiện vọng tưởng chấp trước mà chuyển, nên mỗi mỗi tướng hư vọng cũng chuyển ; do phần đoạn sai biệt, phân biệt cảnh giới gọi là chuyển. NHƯ NGƯỜI TU HÀNH VÀO THIỀN CHÁNH ĐỊNH<CHUYỂN TẬP KHÍ VI TẾ MÀ CHẲNG TỰ BIẾT,LẠI CHO LÀ THỨC DIỆT RỒI MỚI NHẬP THIỀN ĐỊNH. VÌ CHỦNG TỬ TẬP KHÍ CHẲNG DIỆT NÊN CẢNH GIỚI CHUYỂN MÀ THỨC CHẲNG DIỆT<CHẲNG VÌ KHÔNG NHIẾP THỌ MÀ DIỆT VẬY.

-Đại Huệ! Bến bờ cứu cánh của Tạng Thức vi tế như thế, ngoài chư Phật và Trụ Địa Bồ Tát ra, các tThanh văn,Duyên Giác,ngọi đạo tu hành sở đắc,dù có sức Trí Huệ của Tam Muôi, chẳng thể liễu tri đo lường được.
-Ngoài TƯỚNG TRÍ HUỆ KHÉO LÉO PHÂN BIỆT<PHÁN ĐOÁN NGHĨA CÚ<THẲNG TIẾN VÔ BIÊN<THIỆN CĂN THUẦN THỤC<LÌA VỌNG TƯỞNG HƯ DỐI CỦA TỰ TÂM HIỆN,TĨNH TỌA TRONG NÚI RỪNG,TU HÀNH TRẢI QUA CÁC BẬC HẠ, TRUNG, THƯỢNG,ĐƯỢC THẤY VỌNG TƯỞNG CỦA LƯU TRÚ CỦA TỰ TÂM, ĐƯỢCVVÔ LƯỢNG QUỐC ĐỘCHUƯ PHẬT QUÁN ĐẢNH<ĐƯỢC SỨC TỰ TẠI THẦN THÔNG TAM MUỘ<ĐƯỢC BIẾT CÁC THIỆN TRI THỨC<QUYẾN THUỘC PHẬT TỬ<NHỮNG TAMM< Ý< Ý THỨC KIA , Chúng sanh nghiệp ái vô tri vào biển sanh tử,cảnh giới tư tưởng hư vọng ấy vv...đều do tự tâm sở hiện. Đến đây,các thứ nhân duyên kể trên thẩy đều đã siêu thoát. Cho nên Đại Huệ ! những người tu hành nên gần gũi bậc Tri Thức tối thắng.
........

Kính Cáo
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
-BỒ ĐỀ>>>CHẲNG PHẢI CÂY
GƯƠNG SÁNG CHẲNG PHẢI>>> ĐÀI
MUỐN VƯỢT ẢI TRẦN AI
BỒ ĐỀ LUÔN TĂNG TRƯỞNG!
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
- HÁT THEO NHỊP : THẦN KINH - CỦA "Ổ" NĂNG THỨC :
-..."Chó leo tường về"... :
THẾ NÀO LÀ THIỆN ! >< THẾ NÀO LÀ ÁC!>>>THẬT RÕ RÀNG MINH BẠCH!

Kính Cáo
 

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 11 2021
Bài viết
1,396
Điểm tương tác
148
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
KINH LĂNG GIÀ TÂM ẤN

-Lại nữa,Đại Huệ ! Những pháp hạnh thần túc,tam muội, phân biệt của Đại Bồ Tát, tất cả đều trụ nơi hai thứ thần lực của Như Lai. Đại Huệ ! Nếu Bồ Tát lìa hai thứ thần lực Phật mà có biện tài thuyết pháp, thì tất cả phàm phu cũng phải có biện tài thuyết pháp. Tại sao ? vì chẳng cần trụ nơi thần lực mà tự có vậy.
-Đại Huệ ! Khi Như Lai vào thành, hiện sức oai thần của Phật, khiến các thứ vô tình như núi đá, cây cối và nhạc cụ, thành ấp, cung điện đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống là người có tâm thức ,dù mù, điếc, câm, ngọng có vô lượng khổ, đều được giải thoát. Như Lai có vô lượng thần lực như thế để lợi lạc chúng sanh.

~Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

-Thế Tôn ! Do nhân duyên nào ,Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh giác gia hộ thần lực cho bậc Bồ Tát đang trụ Tam muội chánh thọ và khi được Thắng Tiến Địa quán đảnh ?

-Phật bảo Đại Huệ : Vì lìa ma nghiệp phiền não nên chẳng đọa thiền của Thanh Văn thừa ; vì đắc Như Lai Tự Giác Địa và đắc pháp tinh tấn , nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, đều dùng thần lực kiến lập chư Đại Bồ Tát, Nếu chẳng dùng thần lực kiến lập , ắt phải đọa ác kiến vọng tưởng của ngoại đạo ,hoặc đọa Thanh Văn thừa ,hoặc đọa hy vọng của chúng ma, chẳng thể đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác . Do đó ,Chư Phật Như Lai đều dùng thần lực nhiếp thọ chư Đại Bồ Tát.
-Khi ấy ,Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

-Thần lực của Chư Phật,
Do đại nguyện trong sạch.
Quán đảnh bậc Bồ Tát,
Sơ Địa đến Thập Địa.
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên