Thắng Pháp Tập Yếu Luận

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
( Cung kính giới thiệu cùng diễn đàn. Một Bộ luận của Phật giáo Nguyên thủy.)

ABHIDHAMMATTHASANGAHA

THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN
hay
MÔN TÂM LÝ HỌC CỦA ÐẠO PHẬT

Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh
(dịch và giải)​

MỤC LỤC

Lời nói đầu

[01] Chương một: Tâm Vương (Citta)
+ KỆ NHẬP ÐỀ.

+ BỐN THẮNG PHÁP

+ BỐN LOẠI TÂM

1) Bất thiện tâm (Akusalacitta)

+ HAI SÂN TÂM.

+ HAI SI TÂM

+ TỔNG KẾT 12 BẤT THIỆN TÂM

2) Vô nhân tâm (Ahetukacitta)

+ TÁM THIỆN DỊ THỤC TÂM

+ BA VÔ NHÂN DUY TÁC TÂM

+ TOÁT YẾU.

3) Tịnh quang tâm (Sobhanacitta)

+ 8 DỤC GIỚI TỊNH QUANG THIỆN TÂM.

+ 8 DỤC GIỚI TỊNH QUANG DỊ THỤC TÂM

+ 8 DỤC GIỚI TỊNH QUANG DUY TÁC TÂM.

+ TÓM TẮT 24 DỤC GIỚI TỊNH QUANG TÂM

+ TỔNG QUÁT 54 DỤC GIỚI TÂM

4) Sắc giới tâm (Rùpàvacaracitta)

+ SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM

+ SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM

+ TÓM TẮT 15 SẮC GIỚI TÂM

5) Vô sắc giới tâm (Arùpàvacaracitta)

+ VÔ SẮC GIỚI DỊ THỤC TÂM.

+ VÔ SẮC GIỚI DUY TÁC TÂM.

+ TÓM TẮT 12 VÔ SẮC GIỚI TÂM.

6) Siêu thế tâm (Lokuttaracitta)- SIÊU THẾ TÂM, SIÊU THẾ ÐẠO TÂM.

+ Sự chứng ngộ Niết bàn:

+ SIÊU THẾ TÂM: 4 QUẢ TÂM

+ TÓM TẮT CÁC SIÊU THẾ TÂM

+ TỔNG PHÂN LOẠI 89 DỤC GIỚI TÂM

+ TỔNG PHÂN LOẠI 89 TÂM VÀ 121 TÂM

+ PHÂN LOẠI 121 TÂM

+ PHÂN LOẠI CÁC SIÊU THẾ TÂM

+ PHÂN LOẠI CÁC THIỀN TÂM

[02] Chương hai:

PHẦN MỘT: Các loại Tâm sở (Cetasika)

+ 52 Tâm sở.

1) 7 Biến hành tâm sở (Sabbacittasàdhàranà)

2) 6 Biệt cảnh tâm sở (Pakinnakacetasika)

3) 14 Bất thiện tâm sở (Akusalacetasika)

4) 25 Tịnh quang tâm sở (Sobhanacetasika)

PHẦN HAI: Những tâm sở nào đã hiện hành trong những tâm nào

1) 7 Biến hành tâm sở
+ TẦM TÂM SỞ

+ TỨ, THẲNG GIẢI, TINH TẤN, HỶ VÀ DỤC

+ Toát yếu.

14 Biến hành Bất thiện tâm sở.

THAM, TÀ KIẾN VÀ MẠN TÂM SỞ

SÂN, TẬT, XAN, HỐI, HÔN TRẦM, THỤY MIÊN TÂM SỞ

Toát yếu.


BIẾN HÀNH THIỆN TÂM SỞ VÀ TIẾT CHẾ TÂM SỞ

VÔ LƯỢNG TÂM SỞ

HUỆ CĂN TÂM SỞ.

* TOÁT YẾU

PHẦN BA: Loại tâm nào có những loại tâm sở nào và bao nhiêu tâm sở

SỰ PHỐI HỢP CHUNG CỦA CÁC LOẠI TÂM

1) Với Siêu thế tâm

2) Với Ðại hành tâm

3) Với Dục giới Tịnh quang tâm

4) Với Bất thiện tâm
+ VỚI TÂM THỨ 5 VÀ 5 TÂM CẦN ÐƯỢC NHẮC BẢO
+ VỚI HAI SI TÂM VÀ TỔNG KẾT

5) Với Vô nhân tâm

[03] Chương ba: Linh tinh (Pakinnaka)

1) Phân loại theo thọ

+ LẠC, KHỔ, HỶ, ƯU VÀ XẢ

2) Phân loại theo nhân

3) Phân loại theo công tác

4) Phân loại theo căn môn

5) Phân loại theo đối tượng

6) Phân loại theo trú căn

[04] Chương bốn: Lộ trình của tâm (Cittavìthi)

1) Lộ trình của tâm qua 5 căn

2) Lộ trình qua ý môn

3) Lộ trình của An chỉ tốc hành tâm

4) Ðồng sở duyên tâm

5) Tốc hành tâm

6) Các loại chúng sanh

7) Các địa giới

[05] Chương năm: Ra ngoài loại hình (Vìthimutta)

1) Bốn địa
2) Các loại kiết sanh thức (Patisandhi)
3) Thọ mạng trên sắc giới thiên
4) Thọ mạng trên vô sắc giới thiên
5) Bốn loại nghiệp
6) Nguyên nhân của chết
7) Nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng
8) Lộ trình tâm của một người sắp chết.
9) Giòng tâm thức

[06] Chương sáu: Sắc (Rùpa)

1) Tóm lược (Samuddesa)
2) Phân loại các Sắc pháp (Rùpavibhàgo)
3) Sắc sinh khởi (Rùpasamutthàna)
4) Tổng hợp các Sắc (Kalàpa-Yojanà)
5) Diễn biến Sắc pháp (Rùpavattikàmo)
6) Niết Bàn (Nibbàna)

[07] Chương bảy: Tập yếu những danh từ Abhidhamma

(Samuccaya-Sangaha-Vibhàgo)
1) Tạp loại tập yếu (Missako sangaho)
2) Tổng quát tập yếu (Sabbasangaho)

[08] Chương tám: Duyên khởi và Duyên hệ

1) Trợ duyên tập yếu (Paccaya sangaho)
2) Duyên hệ duyên (Patthanapaccayo)

[09] Chương chín: Nghiệp Xứ hay Ðối tượng Tu hành

[10] Phụ lục:

Đối chiếu Pàli - Việt
Đối chiếu Việt - Pàli

------------------------------------------------------
 
Last edited by a moderator:

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Lời nói đầu

LỜI NÓI ÐẦU (Tập Một)

Văn học Abhidhamma có thể xem là môn Tâm Lý Học của Phật giáo vì bốn vấn đề được đem ra giải thích cặn kẽ hoàn toàn thuộc về con người và đặc biệt là phần tâm thức. Bốn pháp được đề cập là Citta (tâm), Cetasika (tâm sở), Rùpa (Sắc) và Nibbàna (Niết bàn). Tâm, Tâm sở, Niết bàn dĩ nhiên thuộc về tâm thức, nhưng Sắc pháp ở đây nói nhiều về thân thể con người và sự liên lạc giữa thân thể ấy với tâm thức. Ðạo Phật không bao giờ tách rời Tâm và Sắc vì cả hai đều tương quan liên đới. Chia chẻ theo 2 pháp thời Nàma (danh) thuộc về Tâm pháp và Rùpa (Sắc) thuộc về Sắc pháp. Nói đến 5 Uẩn, thời Rùpakkhandha (Sắc uẩn) thuộc về Sắc pháp còn 4 Uẩn còn lại thuộc về Tâm pháp v.v...

Ðiểm nói bật nhất trong môn học Abhidharma là sự phân tích rất tinh tế và tỉ mỉ các tâm và tâm sở, và theo Pàli Abhidhamma, có đến 89 hay 121 tâm (Citta) và 52 tâm sở (Cetasika). Ðúng với truyền thống "phân tích tông" (Vibhajavàda, một tên khác của Thượng Tọa Bộ), Pàli Abhidhamma chia chẻ các loại tâm thành Dục giới tâm; Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm, Siêu thế tâm (theo cảnh giới), hoặc thành Bất thiện tâm, Vô nhân tâm, Tịnh quang tâm (theo khả năng hướng thiện hay không hướng thiện), hoặc theo Thiện tâm, Dị thục tâm, Duy tác tâm (theo khả năng tái sanh một đời sau hay không); hoặc theo Hữu nhân, Vô nhân tâm (nếu đứng về phương diện căn nhân chi phối các tâm ấy) v.v... Phần tâm sở lại tế nhị hơn, và chúng ta được biết khi nhãn thức khởi lên thời ít nhất có 7 Biến hành tâm sở cùng khởi một lần, tức là Xúc, thọ, trưởng, tư, mạng căn, nhứt tâm và tác ý. Còn tế nhị hơn là những băng thống kê tỉ mỉ tìm tòi số lượng các tâm sở hiện hành trong một tâm và những tâm sở nào được tìm thấy trong những loại tâm nào. Chúng ta không ngờ hỷ tâm sở có mặt trong 51 tâm, xả tâm sở khởi lên trong 70 tâm, và một tâm giản dị như tiếu sanh tâm cũng có đến 12 tâm sở cùng khởi lên một lần (xúc, thọ, tưởng, tư, nhứt tâm, tác ý, mạng cặn, tầm, tứ, hỷ, tinh tấn, thắng giải). Một sự cống hiến đặc biệt của Pàli Abhidhamma cho môn Tâm lý học là sự giải thích về Cittavìthi hay lộ trình của tâm. Mỗi khi có một sự kích thích ở ngoài ngang qua 5 căn thời cả một số tâm tiếp diễn liên tục, khởi lên, diệt xuống lâu cho đến 16 tâm sát-na.

1. Bhavangacalana: Hữu phần chuyển động.
2. Bhavangupaccheda: Hữu phần dừng nghỉ.
3. Pancadvàràvajjana: Ngũ môn hướng tâm.
4. Cakkhuvinnàna: (Nhãn thức hay một trong 4 thức khác).
5. Sampaticchana: Tiếp thọ tâm.
6. Santìrana: Suy đạc tâm.
7. Votthapana: Xác định tâm.
8-14. Javana: Tốc hành tâm.
15-16. Tadàlambana: Ðồng sở duyên tâm.

Như vậy từ khi Hữu phần rung động cho đến Ðồng sở duyên tâm có đến 16 tâm sát-na, và nếu chúng ta cộng thêm một tâm sát-na nữa, thời gian cần thiết để đối tượng ở ngoài tiếp xúc với nội căn, thời chúng ta thấy đời sống một lộ trình của tâm có đến tất cả 17 tâm sát-na và có 7 loại tâm khởi lên rồi diệt xuống trong một lộ trình (Từ Ngũ môn hướng tâm đến Ðồng sở duyên tâm). Thật là một sự khám phá hy hữu, và sự phân tích thật vô cùng tế nhị và khúc chiết.

Tập Abhidhamma không những giải thích sự diễn tiến của tâm thức khi bị kích thích bởi ngoại trần hay nội tâm, ngang qua 5 căn hay ngang qua ý căn (Pavattana), mà còn miêu tả Kiết sanh thức (Patisandhi) liên hệ từ đời này qua đời khác. Ở đây chúng ta thấy rõ cả sự cố gắng để giải thích trạng thái tái sanh của con người, những sức mạnh gì đã khiến con người sau khi chết phải đi đầu thai một đời nữa để thỏa mãn sự đòi hỏi, sự tham sống của kiếp người. Vẫn biết vấn đề này vượt ngoài sự nhận thức của con người vì chúng ta không nhớ đến khi chúng ta lâm chung hay đi đầu thai, nhưng sự cắt nghĩa ở đây có thể xem là hợp lý, khoa học nhất, dựa vào thực tế mà trình bày, và đây cũng là một sự cống hiến đặc biệt nữa của Abhidhamma cho vấn đề sống chết của con người, một vấn đề mà các nhà triết gia bao giờ cũng boăn khăn tìm hiểu.

Lama Govinda, một tu sĩ Phật giáo người Ðức trong quyển The Psychological Attitude of Early Buddhist Philosophy (Thái độ tâm lý của triết học đạo Phật nguyên thủy) đã xem văn học Abhidhamma như môn tâm lý học và triết học của đạo Phật. Còn ông Egerton C. Baptist trong quyển Abhidhamma for the Beginners (Abhidhamma cho những người sơ cơ) thì so sánh môn học Abhidhamma như môn siêu hình học của Phật giáo. Nếu siêu hình có nghĩa là vấn đề tìm hiểu Thượng đế và vấn đề tạo thiên lập địa thì môn học Abhidhamma không thể là môn siêu hình học, vì hai vấn đề này không được đề cập đến. Ðúng với truyền thống thực tiễn của Kinh tạng không muốn đề cập đến những vấn đề không liên hệ với đời sống thực tại, đối tượng của môn học Abhidhamma là vấn đề tâm linh và hoàn cảnh thực tại của con người đang sống. Nhưng nếu chúng ta định nghĩa siêu hình là những vấn đề vượt khỏi sự hiểu biết hiện tại cạn cợt và có giới hạn của chúng ta, thời Abhidhamma có thể xem là môn siêu hình vì Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm và Siêu thế tâm vượt ngoài sự hiểu biết hiện tại của con người. Muốn chứng được Sắc giới tâm, phải tu các pháp thiền ở Sắc giới, muốn hiểu Vô sắc giới tâm phải tu các pháp Thiền ở Vô Sắc giới, và muốn đạt đến các quả thánh, phải tu quán (vipassanà) về Ba pháp ấn. Ở đây chúng ta thấy rõ siêu hình không dựa trên lòng tin không bằng chứng vào tưởng tượng và dự đoán mà chỉ là trạng thái tâm thức chưa được phát giác ra, bởi vì kinh nghiệm cá nhân của con người chưa đạt tới, và khi đã đạt tới, thời siêu hình đã trở thành kinh nghiệm cá nhân. Nói một cách khác, đạo Phật không bác bỏ siêu hình, nếu phần siêu hình được phát giác trên con đường kinh nghiệm cá nhân. Phần này chỉ bị bác bỏ khi nào chỉ được hình thành trên con đường của tưởng tượng và dự đoán. Ở đây, theo tạng Abhidhamma, siêu hình là một khái niệm hoàn toàn tương đối mà ranh giới tùy thuộc ranh giới kinh nghiệm cá nhân của mình và tùy thuộc vào hình thức và tầm lực của nhận thức. Ðức Phật nhiếp phục siêu hình với những vấn đề nan giải của siêu hình, không phải chỉ không biết đến siêu hình, mà chính với thái độ tích cực và thiết thực, nghĩa là nhờ ở sự tu tập và tiềm lực của nhận thức, đức Phật thu nhỏ dần ranh giới của siêu hình, và như vậy siêu hình trở thành kinh nghiệm.

Nói đến đạo đức học tức là giới vức thứ ba của triết học, Abhidhamma cũng là môn luân lý học của đạo Phật, vì tất cả lời dạy trực tiếp hay gián tiếp của đức Phật đều hướng con người đến giải thoát và giác ngộ. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây không phải là lời phán xét của đức Phật, cũng không phải dựa vào truyền thống hay tập tục của một thời đại nào. Tiêu chuẩn thiện ác ở đạo Phật tùy thuộc ở con người và 12 Bất thiện trong tâm Abhidhamma được định nghĩa là những tâm khiến con người đi xa đích giải thoát và giác ngộ, 18 Vô nhân tâm (ahetukacitta) là những tâm lưng chừng, không tới cũng không lui, và 59 Tịnh quang tâm (sobhanacitta) là những tâm khiến con người tiến dần đến mục tiêu giải thoát và giác ngộ. Ở đây, chúng ta cũng phải nhận rõ thái độ của nhà triết gia Ðông phương không những trình bày lý thuyết của mình mà còn phải sống theo lý thuyết ấy trên thực tế và kinh nghiệm. Tri hành hợp nhất, trí đức song tu là những tiêu chuẩn bất di bất dịch cho những triết gia Ðông phương và do vậy đạo đức học không bao giờ rời khỏi phần triết học trong tạng Abhidhamma. Tìm cho ra phần luận lý trong tạng Abhidhamma không phải dễ dàng vì văn học Abhidhamma tuy đã có sự cố gắng hệ thống hóa những tư tưởng chính của đức Phật, sự phát triển này về luận lý học chưa đến mực độ trở thành một hệ thống riêng biệt về luận lý như Nhơn minh học (Hetuvidyà) của Ðại thừa. Nhưng đạo Phật bao giờ cũng chú trọng đến lý trí, suy luận, thực tu thực chứng lẽ dĩ nhiên bao giờ cũng kính trọng những nguyên tắc căn bản của pháp suy luận và do vậy chúng ta có thể nói phần luận lý lúc nào cũng tiềm tàng trong tạng Abhidhamma.

Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng trong khi đề cập đến Abhidhamma là sự liên lạc giữa Kinh tạng và Luận tạng, và sự sai khác giữa hai tạng ấy. Dầu Kinh tạng là phần tử hấp dẫn nhất trong Ba tạng, và được xem là nguyên thủy nhất, Kinh tạng vẫn là sự sưu tầm những lời dạy của đức Phật cho từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng cá nhân lẻ tẻ, nhiều khi không có liên hệ tương quan. Abhidhamma tạng là cả một sự cố gắng hệ thống hóa những lý thuyết và phương pháp tiềm tàng và rải rác trong Kinh tạng, và đặc biệt đặt những hệ thống ấy trên một bối cảnh chung và nhờ vậy giúp chúng ta có một khái niệm tổng quát và quán xuyến về đạo Phật. Chúng ta không thể lấy những điều kiện lịch sử để phán đoán giá trị của Abhidhamma, vì rất có thể những phần tử quan trọng của Abhidhamma được hình thành một lần với Kinh tạng. Phần lớn các nhà học giả đều đồng ý rằng tạng Abhidhamma được tổ chức và phát triển từ các Matrikà, nghĩa là những công thức đã có sẵn trong kinh tạng, và như vậy tạng Abhidhamma vẫn có thể được xem là tạng có tánh cách nguyên thủy. Vả lại chính trong Kinh tạng, cũng có những loại kinh hoặc bộ kinh mang nặng đặc chất Abhidhamma hơn là Kinh tạng, như kinh Sangìtisutta trong bộ Dìghanikàya và tập Niddesa trong bộ Khuddakanikàya. Và như Lama Govinda đã nói, "chính trong thời đức Phật tại thế, vẫn không có một đạo Phật tuyệt đối, một hình thức giáo điều của sự thật, mà chỉ có một sự hướng dẫn về phương hướng và phương pháp có thể đưa đến sự tự chứng cá nhân. Khi nào Abhidhamma còn phụng sự được lý tưởng này bằng cách chỉ cho chúng ta rõ, một ít nét đại cương của tư tưởng Phật giáo, thì vấn đề tạng Abhidhamma được kiết tập sớm hay muộn không có gì quan trọng cả".

Về phương pháp diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng đặc biệt về một hệ thống gọi là Patisambhidà (Vô ngại giải hay Pratisamvit, một hệ thống của luận lý phân tích). Hệ thống này được chia thành bốn ngành. 1) Phân tích về ý nghĩa (Nghĩa vô ngại giải, Attha) của các danh từ (hay vật, vì danh từ định nghĩa sự vật). 2) Phân tích về pháp (Dhamma, Pháp vô ngại giải). Chữ pháp được tập Vibhanga và ngài Buddhaghosa, định nghĩa là sự hiểu biết về những nguyên nhân của sự vật. 3) Phân tích về văn phạm (Từ vô ngại giải, Nirutti), 4) Phân tích về Patibhàna (Biện vô ngại giải). Nhưng trong bộ luận chữ Hán Tsa-tsi, Attha lại có nghĩa là sự hiểu biết về những danh từ riêng và chung, và Dhamma có nghĩa là các Ðồng nghĩa. Trong tập Niddesa, các danh từ được giải thích bằng một danh sách dài các chữ Ðồng nghĩa (Dhamma) và các chữ khác được dùng những định nghĩa thông thường (Attha). Còn địa phương ngữ và những hình thức đặc biệt cũng cần giải thích và đó chính là Nirutti. Ngoài ra, còn có sự giải thích về giáo lý và ở đây cần phải có sức biện tài (Patibhàna).

Một đặc tánh nữa của tạng Abhidhamma mà các luận sư cho là rất đặc biệt là sự cố gắng của tạng Abhidhamma giải thích sự vật theo đệ nhứt nghĩa đế (Paramatthasacca), chớ không theo tục đế (Sammutisacca) như trong Kinh tạng. Như khi nói đến cái bàn, là theo tục đế, nhưng khi nói đến những cơ năng, những đặc tánh tạo thành cái bàn là nói đến Ðệ nhứt nghĩa đế. Trong Kinh tạng, đức Phật thường dùng những danh từ đàn ông, đàn bà, hữu tình, tự ngã. Trái lại trong Abhidhamma, những danh từ như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới được dùng. Nói đến người thời có sự sai khác giữa đàn ông đàn bà, con nít người lớn, người thông minh kẻ ngu dốt và như vậy nằm trong phạm vi Tục đế. Khi nói đến năm uẩn hay mười hai xứ, thời không có sự phân biệt trên và con người chỉ là sự tụ họp của năm uẩn hay năm pháp.

Khi chúng tôi bắt đầu dịch tập này, chúng tôi gặp một sự khó khăn lớn là có nhiều danh từ chưa bao giờ được dịch ra chữ Hán và như vậy chúng tôi phải tự dịch theo nghĩa, hoặc dịch theo ý. Với những danh từ như Pìti (Hỷ), Vitakka (Tầm), Vicàra (Tứ), thời không có gì khó khăn vì chữ Hán đã dùng nhiều lần. Nhưng Citavìthi (Tâm lộ hay lộ trình của tâm), Parikamma (chuẩn bị), Upacàra (cận hành), Anuloma (thuận thứ), Gotrabhù (chuyển tánh), Appanà (an chỉ) v.v... toàn là những danh từ mới mẻ, phải tự dịch ra. Ðể tiện tìm hiểu và khảo cứu, chúng tôi cho in hai tập ngữ vựng, Pàli - Việt và Việt - Pàli, toàn những danh từ chuyên môn. Khi gặp chữ Pàli, muốn tìm chữ dịch ra tiếng Việt thì tìm ngữ vựng Pàli - Việt. Khi gặp chữ Việt mà muốn tìm chữ Pàli tương đương thì tìm ngữ vựng Việt - Pàli. Vì đây không phải là tự điển, nên chúng tôi chỉ cho in những danh từ chuyên môn mà thôi.

Trong khi dịch và giải thích tập này, chúng tôi chia mỗi đoạn văn thành bốn phần:

I. Pàli văn, tức là bản văn chính.
II. Thích văn, là dịch những chữ Pàli khó ra Việt văn.
III. Việt văn, là bản dịch Pàli văn ra Việt văn.
IV. Thích nghĩa, là giải thích đoạn văn trên.

Sự trình bày này giúp nhiều cho những người mới biết riêng Pàli cũng như những ai muốn nghiên cứu sâu vào vấn đề. Riêng đối với những người chỉ muốn hiểu tiếng Việt cũng có thể học hỏi nghiên cứu không có gì khó khăn. Tập này cũng có dụng ý giúp cho sinh viên Vạn Hạnh học chứng chỉ Abhidhamma và sinh viên Văn khoa Sài Gòn học chứng chỉ Triết Ấn, vì khi nào có sách học thời rất dễ cho sự tìm hiểu và chính nhờ sự hiểu biết về căn bản của tập này, sinh viên mới có sự hiểu biết căn bản để nghiên cứu các tác phẩm khác.

Quyển Abhidhammatthasangaha này là quyển sách căn bản cho những ai muốn tham học tạng A-tỳ-đàm và trở thành quyển sách đầu giường cho chư Tăng Miến Ðiện, Tích Lan, Thái Lan v.v... Không những tập này cho chúng ta những hiểu biết căn bản về môn học Abhidhamma, tập này có thể xem là chìa khóa độc nhất mở cửa cho chúng ta vào tham cứu bảy tập Abhidhamma chính thống, mà sự trình bày, cùng những danh từ chuyên môn khó hiểu và khô khan đã làm chán ngán thất vọng những kẻ sơ cơ muốn tìm hiểu tạng này. Ngài Anurudha đã thành công khi ngài chẩn mạch được căn bệnh cổ truyền và khéo hệ thống hóa tư tưởng và triết học Abhidhamma một cách gọn ghẽ súc tích, khiến cho tập này trở thành một quyển sách đầu giường cho các Tăng ni Phật tử muốn nghiên cứu Luận tạng A-Tỳ-đàm. Tập này đã được dịch ra tiếng Miên, Thái, Tích Lan, Miến Ðiện, Ấn Ðộ, Anh, Pháp v.v... chỉ trừ có tiếng Việt và bản dịch này là để bổ khuyết sự thiếu sót ấy.

Về phần giải thích, chúng tôi y cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha của Ðại Ðức Narada, người Tích Lan và Ðại Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện Phật Học Nalanda người Ấn. Ngài Narada dịch rất sát nguyên văn và phần chú thích chú trọng nhiều về ngữ nguyên các danh từ cùng những giải thích truyền thống. Ngài Kashyap trái lại dịch rất thoát nguyên văn và thích nắm giữ những khái niệm chính của từng mục, từng đoạn. Dung hòa hai phương pháp và kết nạp và trích lựa tinh hoa của hai tập trên, tập "Thắng pháp Tập yếu" bằng tiếng Việt này là sự cố gắng để phụng sự Phật học nước nhà nói chung và Ban Tu Thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh nói riêng. Chúng tôi cũng có hy vọng tập này sẽ mở đầu cho một sự so sánh giữa tập Pàli Abhidhamma và Tạng Sanskrit Abhidhamma, và tập Pàli Abhidhammatthasangaha và tập Sanskrit Abhidharmakosa, một sự so sánh rất hào hứng, đầy những khám phá mới lạ và thích thú.

Tập Abhidhammatthasangaha có đến 9 chương và chúng tôi dịch đến chương thứ V. Còn bốn chương sau, chúng tôi sẽ cho dịch tiếp.

Mùa Phật Ðản 2510
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh

...............................................-ooOoo-
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Lời nói đầu

LỜI NÓI ÐẦU (Tập Hai)

Bản dịch quyển "Abhidhammasangaha" (Thắng Pháp Tập Yếu Luận) tập II nay mới được in xong, dầu chúng tôi dịch xong đã khá lâu, nguyên do chính vì vấn đề ấn loát khó khăn, nhất là in chữ Pàli, vật liệu khan hiếm đắt đỏ, và trách nhiệm của một vị Viện Trưởng khá đa đoan phiền toái.

Tập II này đề cập đến hai Thắng pháp còn lại là Rùpa (Sắc) và Nibbana (Niết Bàn) được phân chia như sau:

Chương VI: Sắc Pháp
Chương VII: Các danh từ Abhidhamma phân loại theo Bất thiện, Thiện và Bất thiện, liên hệ với Giác ngộ.
Chương VIII: Duyên khởi và Duyên hệ
Chương IX: Tu tập và đối tượng Tu tập,

Cũng như tập I, chúng tôi có in bản chính Pàli, tiếp theo là Thích văn, Dịch văn và Thích nghĩa, chúng tôi y cứ vào hai bản Abhidhammatthasangaha của Ðại Ðức Nàrada, Tích Lan và Ðại Ðức Kashyap, Viện Trưởng Viện Ðại học Nalandà, Ấn Ðộ.

Chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn về các danh từ Abhidhamma chuyên môn, những danh từ chuyên môn có chữ Hán tương đương thời chúng tôi dùng chữ Hán đã được Việt hóa, còn những danh từ không có chữ Hán tương đương, chúng tôi phải tạm thời dịch theo nghĩa để chờ đợi tìm được những danh từ chính xác hơn. Bao giờ cũng vậy, đi tiên phong trong vấn đề nào cũng có những khó khăn trong bước đầu, và ở đây tìm được những danh từ Việt hay Việt hóa sát nghĩa với nguyên văn là cả một vấn đề thiên nan vạn nan. Chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những khó khăn ấy để mở đường cho những dịch phẩm về sau về Pàli Abhidhamma.


Sài Gòn, ngày 15 tháng 12 năm 1973
Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh


...............................................-ooOoo-
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

KỆ NHẬP ÐỀ

I. PÀLI VĂN.

- 1a) Sammàsambuddhamatulam Sasaddhammaganuttamam Abhivàdiya bhàsissam Abhidhammatthasanghan.

II. THÍCH VĂN.

- Sammàsambuddha: Chánh đẳng giác: Atula: Vô tỷ, không thể so sánh. Sasaddhamma: Với diệu pháp. Gana: Chúng. Uttamam: Vô thượng. Abhivàdiya: Sau khi đảnh lễ. Bhàsissam: Tôi sẽ nói. Abhidhammathasangaha: Tên quyển sách.

III. VIỆT VĂN.

- 1a) Sau khi đảnh lễ đấng Chánh đẳng giác vô tỷ, Diệu pháp và vô thượng Tăng chúng, tôi sẽ nói đến tập Abhidhammatthasangaha.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Abhidhamma nghĩa là Vô thượng pháp hay Thắng pháp. Attha nghĩa là vật. Sangaha nghĩa là tập yếu. Dhamma ở đây có nghĩa là giáo lý. Theo tập Atthasàlinì Abhi có nghĩa là Atireka, cao hơn, lớn hơn hay Visittha, đặc biệt, thù thắng. Abhidhamma nghĩa là thắng pháp vì pháp này giúp người tự giải thoát, hay vì pháp này thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng. Trong Kinh tạng hay Luật tạng, đức Phật thường dùng những danh từ Tục đế như người, loài vật, hữu tình... Trong tạng Abhidhamma, mọi pháp đều được chia chẻ rất tỉ mỉ và các chữ trừu tượng như năm uẩn, mười hai xứ được dùng. Như vậy, vì giáo lý dạy rất đặc biệt, vì giáo lý này đưa đến tự giải thoát, vì phương pháp phân tích rất đặc biệt, nên gọi là Abhidhamma.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

BỐN THẮNG PHÁP

I. PÀLI VĂN.

-1b) Tattha vuttàbhidhammatthà catudhà paramatthato, Cittam cetasikam rùpam nibbànamiti sabbathà.

II. THÍCH VĂN.

- Tattha: Ở đây. Vutta: Được nói đến. Abhidhammattha. Các vật, các pháp thuộc Abhidhamma. Catudhà: Có 4 loại. Paramatthato: Theo Đệ nhứt nghĩa đế. Sabbathà: Tất cả.

III. VIỆT VĂN.

- 1b) Theo Đệ nhứt nghĩa đế, các pháp thuộc Abhidhamma có bốn tất cả: Tâm, Tâm sở, Sắc và Niết bàn.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Có hai sự thật (đế): Tục đế và Đệ nhứt nghĩa đế, Tục đế (Sammuti-sacca) là sự thật ngoài mặt, sự thật của thế tình. Còn Đệ nhứt nghĩa đế (Paramattha-sacca) là sự thật tuyệt đối. Ví dụ cái bàn chúng ta thấy là tục đế. Theo đệ nhứt nghĩa đế, cái gọi là cái bàn, sự thật gồm nhiều cơ năng và đặc tánh.

Cũng vậy, trong kinh tạng, đức Phật thường dùng những danh từ thông thường như người đàn ông, đàn bà, hữu tình, tự ngã... nhưng trong Abhidhamma, đức Phật dùng những danh từ rất đặc biệt, như Khandha (uẩn), Dhàtu (giới), Àyatana (xứ)...

Chữ Paramattha có nhiều ý nghĩa trong Abhidhamma. Parama nghĩa là không thay đổi (aviparìta), trừu tượng (Nibbattita) Attha nghĩa là vật, pháp Paramattha nghĩa là những vật không thay đổi, hay trừu tượng. Tuy dùng chữ không thay đổi, nhưng đừng hiểu lầm là những vật này trường cữu, thường còn. Một chậu bằng đồng không phải là một Paramattha, vì nó luôn luôn thay đổi và có thể nấu chảy và biến thành cái bình. Cái chậu và cái bình có thể phân tích và chia chẻ thành những sức mạnh vật lý căn bản và những đặc tánh. Sức mạnh và những đặc tánh ấy được gọi là Rùpaparamattha trong Abhidhamma. Chúng cũng bị thay đổi, nhưng đặc tánh của những sắc pháp này là giống nhau và được tìm thấy trong cái chậu cũng như trong cái bình. Chúng gìn giữ đặc tánh của chúng trong mọi sự kết hợp của chúng và vì vậy trong sớ giải, Parama có nghĩa là không thay đổi hay thực có. Attha ở đây có nghĩa là vật chớ không phải là ý nghĩa.

Có 4 Paramattha hay thực thể trừu tượng, bao trùm mọi vật nhập thế và siêu thế. Như cái gọi là hữu tình thuộc về nhập thế. Còn Nibbàna thuộc siêu thế. Loài hữu tình gồm có Nàma (Danh) và Rùpa (Sắc). Theo Abhidhamma, Rùpa gồm cả những đơn vị căn bản của vật chất và những thay đổi vật chất. Abhidhamma kể đến 25 sắc pháp. Nàma gồm cả Tâm và Tâm sở.

Theo Abhidhamma, cái gọi là hữu tình gồm có năm uẩn (khandha): Rùpa (sắc), Vedanà (thọ), Sannà (tưởng), Sankhàrà (hành) và Vinnàna (thức).

Tâm, Tâm sở (trừ 8 Siêu thế tâm và những Tâm sở câu hữu) và Sắc thuộc nhập thế (Lokiya), và Nibbàna thuộc Siêu thế (Lokuttara). Niết bàn là thực thế cứu cánh, độc nhất. Ba pháp còn lại được gọi là thực thể vì chúng là những vật hiện hữu (Vijjamàna dhammà). Ngoài ra, chúng không thể chia nhỏ, không thay đổi và trừu tượng.

Paramattha thứ nhất là Citta, từ ngữ căn Cit là suy nghĩ. Theo sớ giải, Citta có nghĩa là nhận thức sự hiện hữu của đối tượng (cinteti: vijànàti). Đây không có nghĩa có người nghĩ đến đối tượng. Theo nghĩa của Abhidhamma, Citta nên định nghĩa là sự nhận thức có mặt của một đối tượng, vì không có nghĩa có một linh hồn suy nghĩ.

Citta, Ceta, Cittuppàda, Nàma, Mana Vinnàna đều là những chữ đồng nghĩa theo Abhidhamma, không có sự phân biệt giữa Citta và Vinnàna (tâm và Thức). Khi cái gọi là vật hữu tình được chia thành hai phần, thời dùng chữ Nàma (Danh). Khi chia thành năm uẩn, thời chữ Vinnàna (Thức) được dùng.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

BỐN LOẠI TÂM

I. - PÀLI VĂN.

- 2) Tattha cittam tàva catubbidham kàmàvacaram, rùpàvacaram, arùpàvacaram, lokuttaranceti.

II. THÍCH VĂN.

- Tattha: Ở đây. Catubbidham hoti: Có bốn loại. Kàmàvacaram: Dục giới. Rùpàvacaram: Sắc giới. Arùpàvacaram: Vô sắc giới. Lokuttaram: Siêu thế giới.

III. VIỆT VĂN.

- 2) Ở đây, có 4 loại tâm: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Kàmà: Dục, hoặc là ái dục hay là những đối tượng của ái dục như sắc, thanh, hương, vị, xúc. Avacara: nghĩa là lãnh vực địa giới hoạt động. Những tâm vương khởi lên hệ thuộc với các văn và đối tượng của chúng nên gọi là Dục giới tâm. Sắc giới tâm là những tâm từ đệ nhứt thiền đến đệ ngũ thiền ở cõi Sắc giới. Sở dĩ gọi là Sắc giới tâm vì tâm này khởi lên do dùng các sắc pháp để tu thiền định. Vô sắc giới tâm là những tâm từ đệ nhứt thiền đến đệ tứ thiền ở cõi Vô sắc giới. Sở dĩ gọi là Vô sắc giới vì tâm này khởi lên do dùng Vô sắc pháp để tu thiền định. Loka uttara: Lokuttara, nghĩa là Siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Do quán tưởng ba pháp ấn vô thường, khổ, vô ngã, chứng được các thánh vị, không còn là phàm phu nữa nên gọi là siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.

Theo Pàli Abhidhamma, có tất cả là 89 Tâm vương, 54 Dục giới tâm, 15 Sắc giới tâm, 12 Vô sắc giới tâm và 8 Siêu thế tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

BẤT THIỆN TÂM

I. PÀLA VĂN.

- 3) Tattha katamam kàmàvacaram? Somanassasahagatam ditthigatasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàtikamekam. Somanassasahagatam ditthigatavippayuttam asankhàrikamekam sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam ditthigatasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam ditthigatavippayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam ti. Imàni attha pi lobhasahagatàni cittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Katamam: Có bao nhiêu. Somanassasahagatam: Câu hữu với hỷ. Ditthigatasampayuttam: Tương ưng với tà kiến. Sasankhàrikamekam: Không cần nhắc bảo: Sasankhàrikamekam: Cần được nhắc bảo. Ditthigatavippayuttam: Không tương ưng với tà kiến. Upekkhàsahagatam: Câu hữu với xả. Imàni: Những tâm này Attha: Tám Lobhasahagatàni cittàni nàma: Gọi là những tâm câu hữu với tham.

III. VIỆT VĂN.

- 3) Ở đây có bao nhiêu Dục giới tâm? Một tâm câu hữu với hỷ, tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với hỷ không tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này gọi là tâm câu hữu với tham.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Trong 89 Dục giới tâm, có 12 bất thiện tâm chia thành 8 tâm câu hữu với tham, hai tâm câu hữu với sân, hai tâm câu hữu với si. Trước hết là 8 tâm câu hữu với tham.

Tâm đầu là tâm câu hữu với hỷ, tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo. Khi một người làm một việc bất thiện một cách thích thú, thì tâm người ấy câu hữu với hỷ (somanassasahagatam), nếu làm một cách thản nhiên thời câu hữu với xả (Upekkhàsahagatam). Có người nghĩ rằng giết sanh vật để cúng tế, cướp bóc giết hại những người không đồng với tín ngưỡng của mình là những việc phải, việc thiện, thời tâm của người ấy tương ưng với tà kiến (ditthigatasampayattam). Trái lại, không có những tà kiến ấy gọi là Ditthigatavippayuttam. Có người làm việc ác một cách tự nhiên, mau lẹ không cần người khuyến khích xui giục, thời tâm ấy gọi là Asankhàrikam (không cần nhắc bảo). Nếu cần người xui giục khuyên bảo mới làm thì gọi là sasankhàrikam.

Trong chương trước, tâm chia thành bốn tùy theo cảnh giới, như Dục giới tâm, Sắc giới tâm, Vô sắc giới tâm và Siêu thế tâm. Tâm cũng có thể chia làm 4 loại tùy theo tánh cách của chúng, như Akusala (bất thiện), Kusala (thiện), Vipàka (dị thục) và Kiriyà (duy tác). Sở dĩ gọi là Bất thiện vì chúng phát sanh từ Lobha (tham) Dosa (sân) và Moha (si). Trái với bất thiện tâm là Thiên tâm (Kusala) vì chúng phát sanh từ Alobha (vô tham), Adosa (vô sân) và Amoha (vô si). Nhưng Bất thiện tâm và thiện tâm thuộc về Kamma (nghiệp) và kết quả Dị thục của những tâm này gọi là Vipàka (Dị thục tâm). Cả Kamma và Vipàka thuộc về ý. Còn tâm Kiriyà (Duy tác) là tâm của vị A la hán, tuy có hành động nhưng không có kết quả dị thục vì đã diệt trừ sanh tử.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

HAI SÂN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 4) Domanassasahagatam patighasampayuttam asankhàrikamekam, sasànkhàrikamekamekam ti imàni dvepi patighacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Domanassasahagatam: Câu hữu với ưu Patighasampayuttam: Tương ưng với hận. Asankhàrikam: Không cần nhắc bảo: Sasankhàrikamekam: Một tâm cần được nhắc bảo. Dve: Hai. Patighacittàni: Những hận tâm.

III. VIỆT VĂN.

- 4) Một tâm câu hữu với ưu, tương ưng với hận, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Hai tâm này gọi là tâm cân hữu với hận.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Khi một vật khiến ta không ưa thích hoặc trở ngại sự thực hiện ý muốn của mình, chúng ta bắt đầu ghét vật ấy. Dần dần sự ghét ấy tăng lên một mức độ đến nỗi chỉ nghĩ đến vật ấy cũng khiến ta tức tối, chán ghét. Tâm trạng như vậy gọi là Domanassa. Domanassa thúc dục kích thích chúng ta muốn tiêu diệt, công phá vật ta chán bỏ, sự kích thích ấy gọi là Patigha hay hận. Tâm ấy là asankhàrika, nếu trong khi giận dữ, một người làm một tội ác không gì ngần ngại, không cần người xui giục khuyên bảo. Tâm ấy là sasankhàrika nếu có ngần ngại, cần có người xui giục sai bảo mới làm. Trong 2 tâm này, lẽ dĩ nhiên không có somanassa (hỷ), hay upekkhà (xả), cũng không tương ưng với tà kiến vì khi quá tức giận, không còn thì giờ mà suy nghĩ phải với trái nữa.

Lobha, dosa, và moha là ba bất thiện căn. Lobha từ ngữ căn Lubh nghĩa là nắm giữ, ôm ấp. Dosa từ ngữ căn Dus nghĩa là không bằng lòng. Patigha, Pati: nghĩa là đối, Gha (han) có nghĩa là đánh chạm nhau. Moha từ ngữ căn Muh nghĩa là mê lầm. Theo Abhidhamma, Moha có mặt trong tất cả bất thiện tâm. Lobha và Dosa không khởi ra một mình mà phải có Moha. Moha có thể khởi một mình và được gọi là Momùha.

Somanassa: Su là tốt, thiện. Mana: ý, nghĩa là thiện ý, hoan hỷ. Upekkhà: Upa là ngang, không thiên lệch; Ikkh: là thấy không thiên về hỷ và ưu, đứng ở giữa nên có nghĩa là xả. Ditthi từ ngữ căn dis nghĩa là thấy, nhận thức. Sankhàrika từ chữ san nghĩa là tốt và kar nghĩa là làm. Trong Abhidhamma, chữ Sankhàra có nhiều nghĩa, phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng. Dùng với 5 uẩn, Sankhàra là hành uẩn, nghĩa là các tâm sở trừ thọ và tưởng. Dùng với mười hai nhân duyên, Sankhàra có nghĩa là mọi hành động cố ý, thiện hay ác. Sankhàra cũng có nghĩa là thay đổi, biến dịch và dùng chỉ cho các pháp hữu vi. Ở đây, Sankhàra có nghĩa là khuyến khích, sai bảo.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

HAI SI TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 5) Upekkhàsahagatam vicikicchàsampayuttamekam, upekkhàsahagatam uddhaccasampayuttamekam ti dve pi momùhacittàni nàma. Iccevam sabbathà pi dvàdasàkusalacittàni samattàni.

II. THÍCH VĂN.

- Vicikicchàsampayuttam: Tương ưng với nghi. Ekam: Một. Uddhaccasampayuttam: Tương ưng với trạo cử. Momùhacittàni: Những si tâm. Iccevam: Iti + Evam: Là như vậy. Dvàdasa: 12. Sabbathà:Toàn mọi phương diện. Akusalacittàni: Những tâm bất thiện. Samattàni: Tất cả.

III. VIỆT VĂN.

- 5) Một tâm câu hữu với xả, tương ưng với nghi. Một tâm câu hữu với xả, tương ưng với trạo cử. Như vậy hai tâm này được gọi là si tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Moha: Si, là một điều kiện tất yếu đối với các bất thiện pháp. Lobha và Dosa (tham, sân) không thể khởi lên nếu không có Moha (si). Nhưng nếu chỉ có Moha thôi, thời khiến cho tâm trí bị mê mờ. Nên tâm ấy được gọi là "Momùhacitta. Một tâm trí như vậy khó mà hiểu sự vật rất rõ ràng, có nhiều nghi ngờ, nên gọi là vicikacchàsampayuttam. Một si tâm cũng không thể chuyên nhất trên một đối tượng nào. Tâm ấy xao động, nếu xao động mạnh thì gọi là Uddhaccasampayuttam: tương ưng với trạo cử. Hai tâm này không thể có Somanassa (hỷ) hay Domanassa (Ưu). Chúng tương ưng với Upekkhà (xả). Nghi và trạo cử khởi lên do mê mờ, không thể tự dụng ý tạo lên được, vì mê mờ và hiểu biết tương phản. Lại không thể có ai xui giục để nghi ngờ và trạo cử nên không có asankhàrika và sasankhàrika.

Vickicchà: theo luận sớ có 2 nghĩa: 1) Vici: Vicinanto là tìm hiểu, điều tra + Kiccchati nghĩa là mệt mỏi, phật ý. Phật ý do suy tư, phân vân. 2) Vi: Không có + Cikicchà: phương thuốc của trí tuệ. Vicikicchà nghĩa là không có phương thuốc của trí tuệ. Uddhacca: U nghĩa cùng khắp + Dhu nghĩa là rung động. Tâm trạng của con người bị xúc động quá mạnh.

Kusala có những nghĩa như sau:

1. Ku: bất thiện + Sa: làm cho rung động. Kusala là diệt trừ điều bất thiện.

2. Kusa: Ku: bất thiện + Sa: nói láo + La: cắt, chặt. Nghĩa là cắt diệt những gì nói láo một cách đê hèn.

3. Ku: bất thiện + Su: làm cho tiêu tan. Cái làm diệt trừ bất thiện là Kusa hay trí tuệ. La: cắt. Cái gì cắt đứt bất thiện với trí tuệ, được gọi là Kusala.

4. Kusa là một loại cỏ. Loại cỏ này cắt bàn tay với hai khía lá sắc bén. Cũng vậy Kusala cắt các phiền não.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TỔNG KẾT 12 BẤT THIỆN TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 6) Atthadhà lobhamùlàni, dosamùlàni ca dvidhà mohamùlàni ca dvéti, dvàdasàkusalà siyum.

II. THÍCH VĂN.

- Atthadhà: Có 8 loại. Lobhamùlàni: Tham căn. Dosamùlàni: Sân căn. Ca: Và. Dvidhà: Có hai loại. Akusalà: Bất thiện. Siyum: (từ động từ Asa): Chúng có thể có.

III. VIỆT VĂN.

- 6) Tham căn có tám, sân căn có hai và si căn cũng có hai. Như vậy Bất thiện tâm có 12.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Ðây là bài kệ tóm tắt đoạn trên, kê rõ có tất cả là tám tham tâm, hai sân tâm và hai si tâm, tổng cộng có 12 Bất thiện tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

18 VÔ NHÂN TÂM: 7 BẤT THIỆN DỊ THỤC TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 7) Upekkhàsahagatam cakkhuvinnànam, tathà sotavinnànam, ghànavinnànam, jivhàvinnànam, dukkhasahagatam kàyavinnànam, upekkhàsahagatam sampaticchanacittam, upekkhàsahagatam santìranacittanceti. Imàni satta pi akusalavipàkàhetukacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Cakkhuvinnànam: Nhãn thức. Tathà: Cũng như vậy. Sotavinnànam: Nhĩ thức. Ghànavinnànam: Tỷ thức. Jivhàvinnànam: Thiệt thức. Dukkhasahagatam: Câu hữu với khổ. Kàyàvinnànam: Thân thức. Sampaticchanacittam: Tiếp thọ tâm. Santìranacitam: Suy đạc tâm. Imàni satta: Bảy (tâm) này. Akusalavipàka: Bất thiện dị thục. Ahetuka: Vô nhân.

III. VIỆT VĂN.

- 7) Nhãn thức câu hữu với xả, cũng vậy nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức câu hữu với khổ, tiếp thọ tâm câu hữu với xả, suy đạc tâm câu hữu với xả. Bảy tâm này gọi là Bất thiện dị thục vô nhân tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Một tâm yếu ớt không thể có một trong 6 nhân sau đây: Tham, Sân, si, vô tham, vô sân, vô si. Nên những tâm ấy gọi là Ahetukacitta (vô nhân tâm). Có tất cả là 18 vô nhân tâm: 15 dị thục tâm và 3 duy tác tâm. 15 dị thục tâm lại chia làm hai: 7 Bất thiện dị thục tâm và 8 Thiện dị thục tâm.

Nay nói đến 7 Bất thiện dị thục tâm. Khi chúng ta thọ lãnh một sự kích thích, một cảm giác sẽ khởi ra trong nội tâm. Nếu thuộc về sự thấy, thời giảm giác ấy là nhãn thức (cakkhuvinnàna). Nếu thuộc về sự nghe thì cảm giác ấy gọi là nhĩ thức (Sotavinnàna). Nếu thuộc về ngửi thì gọi là tỷ thức (Ghànavinnàna). Nếu thuộc về nếm thì gọi là thiệt thức (Jivhàvinnàna). Nếu thuộc về cảm xúc thì gọi là thân thức (Kàyavinnàna). Sau khi cảm giác khởi lên, tâm thọ lãnh vật kích thích ở ngoài như là một đối tượng. Tâm ấy gọi là Tiếp thọ tâm (Sampaticchana); sau khi lãnh thọ, tâm ấy bắt đầu tìm hiểu, điều tra đối tượng nên gọi là Suy đạc tâm (Santìrana). Những hành động thiện ác trong đời trước đem đến kết quả lạc khổ trong hiện tại, lạc khổ thuộc vô ký tánh nên biến dị mà thục gọi là dị thục (Vipàka). Lại nhơn và quả cách một đời, ở nơi dị thời mà thục nên gọi là dị thục. Do những nghiệp thiện ác đời trước, tùy theo sức mạnh và tánh chất của các nghiệp nên đời nay sinh ra đã có những tánh tình như thế nào. Bảy tâm kể trên không câu hữu với Somanassa (Hỷ) hay Domanassa (Ưu) vì chúng quá yếu ớt và muội lược, nên chỉ có thể câu hữu với Upekkhà (Xả). Tuy vậy, Kàyavinnàna (Thân thức) lại câu hữu với Dukkha (Khổ) vì thân thức cảm xúc mạnh hơn. Do tạo các ác nghiệp đời trước, nên thọ quả hiện tại là khổ.

5 Bất thiện dị thục thức với 5 Thiện dị thục thức này thường được dùng danh từ Dvipancavinnàna. Hai Sampaticchana và Pancadvàràvajjana được gọi là Manodhàtu (ý giới). Các tâm khác được gọi là Manovinnànadhàtu (y thức giới).
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÁM THIỆN DỊ THỤC TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 8) Upekkhà-sahagatam cakkhuvinnànam, tathà sotavinnànam, ghànavinnànam, jivhàvinnànam, sukhasahagatam kàyavinnànam, upekkhàsahagatam sampaticchanacittam, somanassasahagatam santìranacittam, upekkhàsahagatam santìranacittam citi imàni attha pi kusalavipàkàhetukacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Sukhasahagatam: Câu hữu với lạc. Attha: Tám. Kusalavipàkàhetukacittàni: Những thiện dị thục vô nhân tâm.

III. VIỆT VĂN.

- 8) Nhãn thức câu hữu với xả, cũng vậy nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức câu hữu với lạc, tiếp thọ tâm câu hữu với xả, suy đạc tâm câu hữu với hỷ, suy đạc tâm câu hữu với xả. Tám tâm này gọi là Thiện dị thục vô nhân tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Ðoạn này giống với đoạn trên, số 7, chỉ khác là về thân thức, câu hữu với lạc, và có thêm một tâm là suy đạc tâm câu hữu với hỷ.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

BA VÔ NHÂN DUY TÁC TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 9) Upekkhàsahagatam pancadvàràvajjanacittam,tathà manodvàràvajjanacittam, somanassasahagatam hasituppàdacittam ceti imàni tìni pi ahetukakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi atthàrasàhetukacittàni samattàni.

II. THÍCH VĂN.

- Pancadvàràvajjanacittam: Ngũ môn hướng tâm. Manodvàràvajjanacittam: Ý môn hướng tâm. Hasituppàdacittam: Tiếu sanh tâm. Imàni: Những tâm này. Tìni: Ba. Ahetukakriyàcittàni: Vô nhân duy tác tâm. Nàma: Gọi là. Iccevam: Iti + evam: như vậy. Sabbathà pi: Tổng cộng tất cả. Attharasàhetukacittàni: 18 Vô nhân tâm. Samattàni: Tất cả.

III. VIỆT VĂN.

- 9) Câu hữu với xả, ngũ môn hướng tâm; cũng vậy, ý môn hướng tâm; câu hữu với hỷ, tiếu sanh tâm. Ba tâm này gọi là Vô nhân duy tác tâm. Như vậy, tổng cộng có tất cả là 18 Vô nhân tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Kriyà nghĩa là duy tác, chỉ có hành động chớ không có quả dị thục. Hai tâm pancadvàràvajjanacitta và Manodvàràvajjanacitta chỉ là những khuynh hướng máy móc của tâm, khi một kích thích được nhận lãnh ở ngoài hay một tư tưởng được thâu nhận từ bên trong. Chúng vừa là Ahetuka (vô nhân) vừa là Kriyà (duy tác), vì không thể gieo quả. Hasituppàda, nụ cười của vị A la hán cũng Ahetuka và Kriyà (vô nhân và Duy Tác).

Muốn hiểu các vô nhân tâm, cần phải hiểu lộ trình của tâm. Khi năm căn xúc chạm với 5 trần, thời lộ trình của tâm ngang qua 5 căn khởi lên. Khi ý căn xúc phạm với pháp trần thời lộ trình của tâm ngang qua ý căn khởi lên.

Lộ trình của tâm ngang qua năm căn có thể dùng ví dụ sau đây để diễn tả. Một người nằm ngủ dưới gốc cây xoài. Một trái xoài rơi xuống và lăn đến bên mình người ấy. Người ấy giựt mình ngồi dậy và tìm biết cái gì để làm mình giựt mình thức giấc. Người này thấy trái xoài, lượm lên, ngửi và xem xét trái xoài, khi được biết trái xoài đã chín, người ấy ăn trái xoài.

1. "Người ấy đang ngủ" chỉ cho trạng thái thụ động của tâm thức, trôi chảy không có gì làm xao động. Trạng thái này gọi là Bhavanga, hữu phần hay tiềm thức.

2. "Ngồi dậy và tìm biết cái gì đã làm mình thức giấc" chỉ cho trạng thái muội lược của tâm thức khi tâm thức đang tìm xem ngoại trần kích thích mình thuộc về mắt, tai, mũi, lưỡi hay thân. Tâm này gọi là Pancadvàràvajjana hay ngũ môn hướng tâm.

3. "Thấy trái xoài" chỉ cho sự sanh khởi của thức, hoặc thuộc con mắt, hoặc 4 căn khác. Thức này hoàn toàn thuần túy, không có một suy tư gì. Nếu thuộc con mắt thì gọi là Cakkhuvinnàna (nhãn thức), nếu thuộc tai thì gọi là Sotavinnàna (nhĩ thức), nếu thuộc mũi thì gọi là Ghànavinnàna (tỷ thức), nếu thuộc lưỡi thì gọi là Jivhàvinnàna (thiệt thức), nếu thuộc thân thì gọi là Kàyavinnàna (thân thức).

4. "Lượm trái xoài" chỉ cho trạng thái của tâm thức, lãnh thọ sự kích thích của một ngoại vật. Tâm này gọi là Sampaticchana (tiếp thọ tâm).

"Ngửi và tìm xem trái xoài" chỉ cho trạng thái của tâm thức suy nghĩ đối tượng và tìm hiểu đối tượng với những kinh nghiệm quá khứ của mình. Tâm này gọi là Santìrana hay Suy đạc tâm.

6. "Xác định trái xoài đã chín và tốt" chỉ cho tâm thức xác định vị trí của đối tượng theo sự hiểu biết của mình. Tâm này gọi là Votthapana hay Xác định tâm.

7. "Ăn trái xoài" chỉ cho tâm thức xử sự với đối tượng. Ðây là trạng thái tâm thức quan trọng nhứt và được gọi là Javana hay tốc hành tâm.

Nếu là lộ trình của tâm ngang qua ý thức (Manodvàravìthi), thời đối tượng không phải từ ngoài mà chính tự nội tâm. Lộ trình này bắt đầu từ Manodvàràvajjana (ý môn hướng tâm) tương đương với Votthapana (xác định tâm).

Với ví dụ này, chúng ta thấy rõ ý nghĩa và vị trí các tâm như nhãn thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, ngũ môn hướng tâm và ý môn hướng tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TOÁT YẾU

I. PÀLI VĂN.


- 10) Sattàkusalapàkàni punnàpàkàni atthadhà, kriyàcittàni tìnìti attharasa ahetukà.

II. THÍCH VĂN.

- Satta: Bảy. Akusala: Bất thiện. Pàkàni: Dị thục. Punna: Thiện. Atthadhà: Có tám. Tìni: Ba. Attharasa: 18.

III. VIỆT VĂN.

- 10) Bất thiện dị thục có bảy; thiện dị thục có tám; duy tác tâm có ba; như vậy có 18 vô nhân tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Câu kệ này tóm tắt 18 loại vô nhân tâm. Bảy bất thiện dị thục tâm, 8 thiện dị thục tâm, 3 duy tác tâm, tổng cộng là 18 vô nhân tâm.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

CÁC TỊNH QUAN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 11) Pàpàhetukamuttàni sobhanànì ti vuccare. Ekùnasatthi cittàni athekanavuti pi và.

II. THÍCH VĂN.

- Pàpa: Bất thiện tâm. Ahetuka: Vô nhân tâm. Muttàni: Trừ. Sobhanàni: Tịnh quang. Vuccare: Gọi là. Ekùnasatthi: 9. Ekanavuti: 91. Và: Hay là. Atha: Chữ đệm.

III. VIỆT VĂN.

- 11) Trừ bất thiện tâm và vô nhân tâm, các tâm còn lại gọi là tịnh quang tâm. Có tất cả là 59 tịnh quang tâm hay 91 tịnh quang tâm.

VI. THÍCH NGHĨA.

- 12) Bất thiện tâm là thối hóa. 18 vô nhân tâm là lưng chừng. Chỉ có tác Tịnh quang tâm (Sobhana) là tấn hóa, nên gọi tâm này là Sobhana. Có hai cách tính. 24 Tịnh quang tâm thuộc Dục giới, 15 tâm thuộc Sắc giới, 12 tâm thuộc Vô sắc giới và 8 tâm thuộc Siêu thế giới, cộng là 59 Tịnh Quang tâm. Nếu lấy 8 tâm thuộc Siêu thế giới nhân với 5 cõi thiền thành 40 tâm thuộc Siêu thế giới (lokuttara). 24 tâm thuộc Dục giới cộng với 15 tâm thuộc Sắc giới, 12 tâm thuộc Vô sắc giới với 40 tâm thuộc Siêu thế giới thành có tất cả là 91 Tịnh Quang tâm (Sobhana).
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÁM DỤC GIỚI TỊNH QUANG THIỆN TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 12) Somanassasahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Somanassasahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam sasankhàrikamekam. Upekkhàsahgagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam sasankhàrikamekam ti imàni attha pi kàmàvacarakusalacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Nànasampayuttam: Tương ứng với trí. Nànavippayuttam: Không tương ứng với trí.

III. VIỆT VĂN.

- 12) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với hỷ, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này gọi là Dục giới thiện tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Các Sobhanacitta về Dục giới có tất cả là 24: 8 Kusalacittàni (Thiện tâm), 8 Vipàkacittàni (Dị thục tâm), 8 Kriyàcittàni (Duy tác tâm). Các Sobhanacitta này gọi là sahetuka, có nhân, trái với các ahetuka (Vô nhân) trong chương trước. Trong 24 kàmàvàcara sobhanacittas, 12 tâm tương ứng với vô tham, vô sân, và vô si, 12 tâm tương ứng với vô tham và vô sân. Những hành động thiện thông thường là do 8 tâm kusalacitta này tạo ra. Nếu làm điều thiện với tâm hoan hỷ thời câu hữu với hỷ. Nếu làm không hoan hỷ thời câu hữu với xả. Nếu làm với sự hiểu biết là điều phải thời tương ứng với trí. Nếu làm điều thiện mà không biết việc thiện ấy là phải thời không tương ứng với trí.

Nếu làm điều thiện không cần ai nhắc bảo là asankhàrikam, nếu cần nhắc bảo là sasankhàrikam.

Tâm đầu là tâm của một người bố thí cho một người nghèo một cách hiểu biết, không cần ai nhắc bảo. Nếu cần có ai khuyến khích hay sau một thời gian suy nghĩ, đó là tâm thứ hai. Một đứa con nít thấy một vị sư và vái chào liền, không hiểu biết gì, đó là tâm thứ ba. Nếu làm theo lời khuyên của bà mẹ là tâm thứ tư. 4 tâm còn lại cũng tương tự nhưng không có hoan hỷ nên câu hữu với xả.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

DỤC GIỚI TỊNH QUANG DỊ THỤC TÂM

I. PÀLI VĂN.

- 13) Somanassasahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam sasankhàrikamekam. Somanassasahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànavippayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam ti imàni attha pi kàmàvacaravipàkacittàni nàma.

II. THÍCH VĂN.

- Sahekuta: Hữu nhân.

III. VIỆT VĂN.

- 13) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với hỷ, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, không tương ứng với trí, không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này gọi là Hữu nhân dục giới dị thục tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- 8 tâm này là kết quả dị thục của 8 tâm ở trên. 8 vô nhân thiện dị thục tâm (ahetuka kusalavipàkacitta) cũng là kết quả dị thục của 8 tâm ở trên. Như vậy 8 thiện tâm (kusalacitta) làm nhơn tạo ra 16 Dị thục tâm (vipàkacittas), còn 12 bất thiện tâm (akusalacittas) chỉ có 7 Vô nhân bất thiện dị thục tâm (Ahetukavipàka) mà thôi.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÁM DỤC GIỚI TỊNH QUANG DUY TÁC TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 14) Somanassasahagatam nanasampayuttam asankhàrikamekam, asankhàrikamekam. Somanassasahagatam nanavippayuttam asankhàrikamekam, asankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nànasampayuttam asankhàrikamekam, sasankhàrikamekam. Upekkhàsahagatam nanavippayuttamasankhàrikamekam, sasankhàrikamekam ti imàni attha pi sahetukakàmàvacarakriyàcittàni nàma. Iccevam sabbathà pi catuvìsati sahetukakàmàvacara-kusalavipàkakriyàcittàni samattàni.

II. THÍCH VĂN.

- Kriyàcittàni: Duy tác tâm Catuvìsati: 24, Samattàni: Tất cả.

III. VIỆT VĂN.

- 14) Một tâm câu hữu với hỷ, tương ứng với trí không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với hỷ, không tương ứng với trí không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Một tâm câu hữu với xả, tương ứng với trí không cần nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo, một tâm cần được nhắc bảo. Tám tâm này gọi là Hữu nhân dục giới duy tác tâm. Như vậy có tất cả là 24 Hữu nhân Dục giới Thiện, Dị thục, Duy tác tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- Các đức Phật, các vị A la hán có thâu nhận tất cả 23 dị thục tâm, vì các vị này vẫn phải gặt kết quả thiện và ác của những hành động trong thời quá khứ cho đến khi mệnh chung. Nhưng các vị này không có 8 Thiện tâm (Kusalacitta) vì không có chất chứa những mầm giống cho một đời sau, vì đã diệt trừ mọi phiền trược đưa đến một đời sống khác. Khi các vị này làm một việc thiện, thì chỉ là Duy tác mà thôi.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TÓM TẮT 24 DỤC GIỚI TỊNH QUANG TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 15) Vedanànànasankhàrabhedena catuvìsati, sahetukàkàmàvacara-punnapàkakriyà matà.

II. THÍCH VĂN.

- Vedanà: Thọ, chỉ cho Somanassa Upekkhà (Hỷ và Xã). Nàna: Trí. Sankhàra: Nhắc bảo. Bhedena: Chia chẻ, phân loại. Sahetu: Có nhân. Kàmàvacara: Dục giới. Punna: Thiện. Pàka: Vipàka: Dị thục. Kriyà: Duy tác. Matà: Ðược biết là.

III. VIỆT VĂN.

- 15) 24 loại Dục giới thiện, dị thục, duy tác có nhân để chia chẻ theo thọ (hỷ hay xả), trí (có hay không có trí) và được nhắc bảo (hay không nhắc bảo).

IV. THÍCH NGHĨA.

- Câu kệ này tóm tắt 24 loại Sobhanacitta (Tịnh Quang tâm) được biết là có nhân, Dục giới, Thiện, Dị thục hay Duy tác.
 

MinhTâm

Registered
Phật tử
Tham gia
4 Thg 6 2015
Bài viết
139
Điểm tương tác
34
Điểm
28
Chương I citta (tâm vương)

TỔNG QUÁT 54 DỤC GIỚI TÂM

I. PÀLI VĂN.


- 16) Kàme tevìsa pàkàni, punnàpunnàni vìsati; Ekàdasa Kriyà ceti, catupannàsa Sabbathà.

II. THÍCH VĂN.

- Kàme: Ở Dục giới. Tevìsa: 23 Pàkàni: Vipàkàni: Dị thục. Punna: Thiện Apunnàni: Bất thiện. Vìsa: 20. Ekàdasa: 11. Kriyà: Duy tác. Catupannàsa: 54. Sabbathà: Tất cả.

III. VIỆT VĂN.

- 16) Ở Dục giới có 23 dị thục tâm, 20 thiện và bất thiện tâm, 11 duy tác tâm. Như vậy có tất cả là 54 tâm.

IV. THÍCH NGHĨA.

- 23 Dị thục tâm: 15 Vô nhân + 8 Tịnh Quang. 20 Thiện và bất thiện: 12 Bất thiện + 8 thiện. II Duy tác tâm: 3 Vô nhân +8 Dị thục (Tịnh Quang). Tổng cộng là 54 Tâm.
 

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên