Thành Thật Luận

S

suonglanh

Guest
Thành Thật Luận
Đại Chánh (Taisho) vol. 32, no. 1646
Hán dịch: Cưu-ma-la-thập
Việt dịch: Nguyên Hồng (12/2011)
Tuệ Quang Wisdom Light Foundation
PO Box 91748, Henderson, NV 89009
Website http://www.daitangvietnam.com
Email info@daitangvietnam.com
Thành Thật Luận Trang 2 Tuệ Quang Foundation
No. 1646
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 1 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 1 : Mở đầu trước tiên luận đầy đủ về Phật Bảo
Trước lễ đấng đáng lễ,
Bậc chính trí tự nhiên,
Nhất thiết trí, Ứng cúng,
Đại Sư lợi thế gian.
Cũng lễ pháp chân tịnh,
Và các Thánh đệ tử.
Nay muốn giải lời Phật,
Lợi ích cho người đời.
Luận theo Tu-đa-la,
Không trái tướng thật pháp.
Cũng vào trong thiện tịch,
Đó là luận chính trí.
Như mặt trời mặt trăng,
Tính chúng vốn sáng sạch,
Bị khói mây bụi mù,
Năm thứ che không hiện,
Tà luận che chính kinh,
Nghĩa kinh không chiếu sáng,
Vì nghĩa kinh không sáng,
Cửa tà trí mở ra,
Bị tội tiếng ác đồn,
Lòng ăn năn mệt mỏi…
Thành Thật Luận Trang 3 Tuệ Quang Foundation
Suy não loạn tâm này,
Đều do tà trí khởi.
Nếu ai muốn trừ nó,
Tội ác và suy não,
Phải tìm học chính luận
Phải gần người trí sâu.
Gần người có trí sâu,
Là căn bản chính luận.
Vì nhờ chính luận nầy,
Có thể sinh phúc tốt.
Dù người trí lanh lợi,
Tụng trăm ngàn tà luận,
Với chúng không được gì.
Chỉ được tài miệng lưỡi.
Biết pháp Phật đệ nhất,
Nói ra được quả vui.
Muốn pháp tồn tại lâu,
Thì không vì tiếng khen.
Rộng học các dị luận,
Biết khắp ý người trí
Muốn tạo thật luận nầy,
Chỉ biết Nhất thiết trí.
Các Tì-kheo dị luận,
Nhiều thứ, Phật đều cho.
Nên tôi muốn luận đúng
Thật nghĩa trong 3 tạng.
Bắt đầu vào phần luận :
Hỏi : Tôi biết nay ông sẽ giảng thuyết Luận Thành Thật.
Ông nói : Trước lễ đấng đáng lễ. Đó có phải là Phật không ? Vì
sao gọi là Phật ? Thành tựu công đức gì mà đáng lễ ?
Thành Thật Luận Trang 4 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Phật là người tự nhiên, dùng Nhất thiết chủng trí biết
tất cả tự tướng sai khác của các pháp, lìa tất cả bất thiện, tập họp
tất cả thiện, thường cầu lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là
Phật. Những điều nói ra để giáo hoá, gọi là Pháp. Người thực
hành pháp ấy, gọi là Tăng. Như vậy Tam Bảo là nhân duyên đáng
lễ.
Tôi nay sẽ nói Phật có đầy đủ 5 phẩm chất, nên được người
và trời trên thế gian kính trọng.
Hỏi : Có các Thánh nhân khác cũng có 5 phẩm công đức thì
với Phật có chi khác ?
Đáp : Năm phẩm pháp của Phật đầy đủ thanh tịnh. Sở dĩ vì
sao ? Vì các nghiệp của thân v.v… không sai lầm.
Giới phẩm đầy đủ, là Phật còn không sai lầm phạm cấm giới,
huống là cố phạm.
Lại nữa Phật đã lâu đời tích chứa từ bi nên không phát ác
tâm. Như trong kinh có nói : Phật bảo A-nan : Nếu có người từ
khi sinh ra tu tập lòng từ thì lòng ác có thể sinh khởi được không ?
Thưa không, Thế Tôn ! Không thể khởi được. Phật đã lâu đời tích
chứa tính thiện, không vì e sợ tiếng đồn mà phải tự giữ gìn cấm
giới.
Lại nữa, Phật ở trong vô lượng nơi các Phật tu giới hạnh đã
lâu, đã nhổ gốc 3 độc, vĩnh viễn không còn tập gì khác. Bởi các
duyên ấy nên giới phẩm đầy đủ.
Định phẩm đầy đủ, là Phật y theo định nầy chứng được Nhất
thiết trí. Vì thế nên biết định phẩm đầy đủ. Như bơ dầu nhiều, tim
đèn lớn thì ánh sáng cũng lớn.
Lại nữa, định của Phật bền chắc như dấu sơn, sơn vào cây.
Thiền định của người khác như hoa nổi trên nước không dừng
được lâu.
Lại nữa, thiền định của Phật trong vô lượng kiếp tuần tự dần
thành nên được đầy đủ.
Thành Thật Luận Trang 5 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, định của Như Lai không đợi các duyên như người
hoặc xứ, hoặc nói pháp v.v… Các người khác thì không như vậy.
Lại nữa, định của Như Lai thường tu tập sâu, như người tự
giữ hằng nhớ không quên. Phật khi vào thiền định không gắng
tâm lực. Cũng như người ở tại bản xứ tự nói tiếng mẹ đẻ dễ dàng
không khó, Phật ở trong định cũng vậy. Cho nên nói Như Lai
thường ở trong Tam-muội.
Lại các pháp như cả mừng hay phá hoại thiền định, Phật đều
khéo dứt hết.
Lại nữa, quả báo của định được tự tại đã lâu thần thông vượt
trội bậc nhất. Dùng Như ý thông trong một niệm có thể vượt qua
10 phương vô lượng thế giới, tất cả việc phải làm tùy ý liền xong,
với các biến hóa tự tại vô ngại. Tâm có thể phổ biến khắp tất cả
các pháp. Còn các chúng sinh khác không sao kịp được.
Lại nữa, Phật thành tựu pháp Thánh tự tại, nên với cái đáng
vui có thể sinh tưởng không vui, với cái không vui có thể sinh
tưởng vui, với cái vui và không vui có thể sinh tưởng bình
thường.
Hỏi : Với cái không vui, có thể sinh tưởng bình thường, chứ
làm sao có thể sinh tưởng vui ?
Đáp : Vì khéo tu tâm nên với pháp không vui như ác khẩu
chẳng hạn, không bị chướng ngại. Với các thần thông như thiên
nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông cũng không bị
ngại. Do định lực nên thần thông vô ngại. Với các thiền định
thông đạt rõ ràng, các chúng sinh khác không nghe được tên, chỉ
có Như Lai là ra vào thiền định không bị ngăn ngại.
Lại nữa, thiền định của Phật gọi là lực, như trong Phẩm Thập
lực có nói, những người khác không có. Cho nên Như Lai định
phẩm đầy đủ.
Thành Thật Luận Trang 6 Tuệ Quang Foundation
Tuệ phẩm đầy đủ, là có 2 thứ vô minh : một chướng thiền
định, hai khởi phiền não, Như Lai đều dứ. Vì dứt pháp trái nhau
nên tuệ phẩm đầy đủ.
Lại được pháp tự nhiên, không theo học với người khác mà
khéo lời lẽ, khéo biết nghĩa thú, không cạn biện tài, không hết trí
tuệ. Còn chúng sinh đối với các tài khéo ấy không thể đầy đủ, chỉ
có Phật biết hết không thiếu chút nào. Cho nên Như Lai tuệ phẩm
đầy đủ.
Lại nữa, Phật thuyết pháp làm rõ nghĩa thú. Những người
tiểu trí nói ra lời gì, không thể không lỗi, chỉ có Như Lai nói ra
không lầm lỗi. Cho nên biết Như Lai tuệ phẩm đầy đủ.
Lại còn vô lượng công đức thành tựu trí tuệ này nên được
đầy đủ.
Lại nói pháp vi diệu, không sai lầm, như pháp quán bất tịnh
để phá trừ dâm dục chẳng hạn.
Lại nữa trí tuệ vượt trội nên oai nghi cũng vượt trội. Bởi các
duyên ấy nên tuệ phẩm đầy đủ.
Giải thoát phẩm đầy đủ, là với 2 thứ vô minh, tâm đều giải
thoát không còn tập khí, vĩnh viễn không thoái lui. Như vậy gọi là
giải thoát đầy đủ.
Giải thoát tri kiến đầy đủ, là có thể đối với việc đoạn tất cả
phiền não, mỗi niệm đều biết. Như người chặt cây, tay cầm búa,
bên cạnh có người trí thấy biết cán búa mòn hết. Phật cũng vậy
với trí đoạn phiền não, từng niệm đều phân biệt biết.
Lại biết trong thâm tâm chúng sinh nghĩ gì, theo đó thuyết
pháp giáo hóa khiến được giải thoát. Cho nên có thể đối chúng
sinh trong các đạo giải thoát, thấy biết đầy đủ.
Lại nữa, Phật Thế Tôn biết thời cơ nói pháp, như đối với các
Phạm Chí Nhũng-cù-lô vậy.
Lại Như Lai biết rõ các pháp sai khác, nên vì người nầy nói
pháp như vậy. Như Phật bảo A-nan nên vì Xa-nặc nói Kinh Ly
Thành Thật Luận Trang 7 Tuệ Quang Foundation
Hữu Vô. Cho nên Như Lai khéo biết giải thoát, lại khéo đem
phương tiện đoạn cấu uế cho chúng sinh, như vì Nan-đà dùng dục
đoạn dục.
Lại Phật biết trước chúng sinh đã thuần thục các căn như tín
v.v… rồi sau mới nói pháp, như trường hợp La-hầu-la.
Lại có chúng sinh bị nghiệp báo chướng không được giải
thoát, Phật có thể khiến dứt hết, sau mới nói pháp.
Lại có chúng sinh đợi khi hết các lậu, như trong Kinh Phu
Phụ nói.
Lại có chúng sinh đợi người hết các lậu, như Xá-lợi-phất đợi
A-thuyết-kì.
Lại có chúng sinh đợi nơi hết các lậu, như Phất-ca-sa vương.
Lại có chúng sinh đợi hết một nửa các lậu như Phóng Ngưu
Nan-đà đợi người làng là A-do-đà.
Lại có chúng sinh đợi gặp chân thân của Phật.
Lại có chúng sinh đợi chân thân Phật, hoặc đợi hóa thân Phật
mới được hết các lậu, Phật đều phân biệt hết rồi vì họ nói pháp,
khiến được giải thoát.
Phật nói nhiều các pháp vi diệu có thể phá tất cả nghiệp
chướng. Vì là pháp giải thoát nên gọi là giải thoát tri kiến đầy đủ.
Lại nữa, Phật nói pháp nghĩa thú hay và lợi ích, không nói
điều phi nghĩa và việc không quả báo.
Lại nữa, Phật tuần tự nói đạo giải thoát, giống như bài học
toán pháp, nên dễ hiểu.
Lại nữa, Phật biết chúng sinh đời trước đã trồng thiện căn
nên tuần tự nói pháp.
Lại nữa, Phật hiện chứng đắc giải thoát mà vì người nói pháp
chứ không phải theo người học hỏi.
Lại nữa, Phật pháp đầy đủ nhiều các kỹ năng, như người
dùng nhiều thứ thuốc đầy đủ chữa lành các bệnh, Phật pháp cũng
vậy, dùng các pháp môn chữa trị trừ tất cả phiền não. Như 9 pháp
Thành Thật Luận Trang 8 Tuệ Quang Foundation
quán tưởng thì các phiền não lớn nhỏ không thể làm hại lại được,
cho nên có khă năng đầy đủ phá trừ các phiền não.
Lại nữa, Phật dùng phương tiện cao tột tế độ chúng sinh,
hoặc dùng lời nói dịu dàng, hoặc lời khắc khổ, hoặc có khi dùng
cả lời vừa êm dịu vừa khắc khổ. Đó là Như Lai giải thoát tri kiến
đầy đủ.
Phẩm 2 : Mười lực
Lại nữa, Phật thành tựu 10 lực nên trí tuệ đầy đủ. Vì nhân
duyên đi về nên nói có 10 lực.
Trước tiên, thị xứ phi xứ lực, là trí quyết định trong nhân
quả. Biết từ nhân như vậy thì sinh quả như vậy, không sinh quả
như kia. Như làm điều không lành, ắt bị báo khổ, không sinh báo
vui.
Thị xứ, là có việc như vậy. Phi xứ là không có việc như vậy.
Lực đầu tiên là gốc của các lực khác.
Hỏi : Người đời cũng biết nhân quả của thị xứ phi xứ như lúa
mì sinh lúa mì, không sinh lúa gạo ?
Đáp : Thị xứ phi xứ lực nầy là biết các pháp về nghiệp nên
nói lực này là sâu thẳm thứ nhất. Cái biết của trời, của người đời
không sao kịp được.
Lại biết rõ nhân của sinh pháp tuần tự duyên tăng thượng.
Cho nên nói lực nầy là vi diệu. Nghĩa là biết các nghiệp nhân và
các quả báo của 3 đời, biết xứ, biết sự, biết nhân, biết báo. Cho
nên gọi trí biết nầy là lực. Vì biết xứ, biết sự, biết nhân, biết báo
cả 3 đời nên nói là rất sâu. Sở dĩ vì sao ? Hoặc có người bảo
không có pháp quá khứ và vị lai, nên Phật có năng lực nói lên
điều này.
Lại nữa, các pháp trong quá khứ vị lai tuy không hiện tướng,
Phật cũng hiện biết.
Thành Thật Luận Trang 9 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, nghiệp có 2 thứ : thiện và bất thiện. Hoặc có nghiệp
thiện mà hiện bị khổ, như vì trì giới mà bị các bức não. Hoặc có
nghiệp tội mà hiện nay được hưởng vui, như phá giới mà được tự
tại. Hoặc có người sinh nghi cho rằng đời vị lai cũng như hiện tại.
Cho nên Như Lai tiếp theo nghiệp là nói về thụ. Thụ pháp có 4
thứ : Có hiện khổ sau vui, hiện vui sau khổ. Có hiện vui sau khổ,
hiện khổ sau vui. Phật đều biết rõ biết xứ, sự, nhân, báo.
Xứ tức là người lãnh thụ, sự tức là vật bố thí, nhân tức là tâm
bố thí. Như trong kinh nói : Trước tâm hoan hỷ, lúc thí tâm thanh
tịnh, thí xong không hối hận. Nghiệp nầy được quả, gọi đó là báo.
Duy Phật có thể biết nghiệp nầy nhiều ít hoặc quyết định, không
quyết định, quả báo đời hiện tại, quả báo đời sau, quả báo sau đời
sau v.v… các việc đều biết hết không sót nên gọi là lực. Phật đối
với các pháp thiền định, giải thoát, Tam-muội, Tam-ma-bạt-đề
biết cấu, biết trụ, biết tăng, và biết tịnh. Trong các nghĩa nầy,
thiền là 4 thiền, 4 vô săc định. Tức các hành nghiệp của cõi Sắc và
cõi Vô săc. Còn giải thoát là 8 giải thoát. Có thể làm sạch hết các
nghiệp này là thiền định cõi Vô săc và 8 giải thoát. Đó là Tammuội.
Được dụng của Tam-muội nầy hiện tiền ra trước gọi là
Tam-ma-bạt-đề. Tam-ma-bạt-đề phân biệt có 4 thứ là tùy cấu, tùy
trụ, tùy tăng và tùy tịnh.
Biết cấu là tùy cấu định, biết trụ là tùy trụ định, biết tăng là
tùy tăng định, biết tịnh là tùy đạt định. Tùy đạt định là noãn, đảnh,
nhẫn v.v… 4 pháp. Phật đối với các pháp nầy đều hiểu biết không
sót, nên gọi là lực. Phật rõ biết các căn lợi hoặc độn của chúng
sinh. Tín v.v… các căn vượt trội nên gọi là lợi, như chư Phật
v.v… Độn là bất cập, như xà nô chẳng hạn, không có trung căn,
vì không nhất định. Lợi căn có biên giới như chư Phật. Độn căn
cũng có biên giới như xà nô. Còn trung thì không biên giới nên
không nói trung căn.
Lại nữa, có 2 thứ đạo là tín hành và pháp hành.
Thành Thật Luận Trang 10 Tuệ Quang Foundation
Lại có 2 thứ đạo nữa là nan đạo và dị đạo. Khác với 2 đạo
này gọi là trung. Quán người lợi độn tức là bậc trung.
Lại nữa, tùy chỗ sở thích nên căn cơ có sai khác. Thích tín
căn nên gọi là tín. Phần nhiều người có trí tuệ, các căn đều vượt
trội. Bởi chỗ sở thích nên gọi Hòa-già-lợi là tín căn vượt trội. Các
căn như vậy, Phật đều biết hết, nên gọi là lực. Phật biết chúng
sinh đều có chỗ sở thích, sở thích đó là lạc tức là dục. Như người
có sở thích nhậu nhẹt thì muốn vui cùng bạn bè chè chén. Phật tùy
theo chỗ sở thích mà đều biết từng sở thích. Nghĩa là chúng sinh
muốn vui thích nơi 5 thứ dục, hoặc vui thích tu đạo. Biết như vậy
rồi tùy cơ nghi mà nói pháp, có thể rộng độ tất cả chúng sinh. Phật
biết người đời có vô lượng chủng tính vì chúng sinh hằng lâu tập
theo sở thích mà thành tính quen. Như Điều-đạt chẳng hạn, đời
đời hủy báng Phật, ác tâm càng sâu, nên gọi là tính. Tính thiện
cũng vậy. Hoặc có chúng sinh, từ tính sinh khởi dục, hoặc duyên
hiện tại mà sinh khởi, Như Lai đều biết rõ chỗ sở thích và tính
quen của chúng sinh ấy, nên gọi là lực.
Phật biết tất cả đạo, tức con đường đưa đến nơi. Biết nếu đi
đường nầy sẽ sinh vào địa ngục, cho đến sinh lên trời. Biết nếu đi
đường nầy được đến Niết-bàn. Những hành nghiệp này đều từ gốc
dục tính phát sinh. Nghiệp nhân hữu lậu thì sinh trong 5 đường.
Nghiệp nhân vô lậu thì được đến Niết-bàn.
Trước chỉ nói đạo, giờ đây nói đến quả của đạo. Lại nữa,
trước nói tướng chung, giờ đây nói đến tướng riêng. Có nghiệp
như vậy thì đến địa ngục. Có nghiệp như vậy thì được đến Niếtbàn.
Đến địa ngục cũng có sai khác nhau. Nghiệp này thì đọa vào
Hoạt địa ngục, nghiệp nầy thì đọa vào Hắc thằng địa ngục. Cho
nên Phật trong lực thứ 7 biết nghiệp vi tế, còn các người khác thì
dù biết cũng không thể phân biệt được, cho nên gọi đó là lực.
Phật biết nghiệp quả đời quá khứ như vậy gọi là túc mạng trí lực.
Thành Thật Luận Trang 11 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, Phật biết chỗ tu đạo chúng sinh đời trước, rồi mới
nói pháp, cho nên túc mạng thông cũng gọi là trí lực.
Lại nữa, Phật không những nhớ biết tất cả chỗ sinh xứ của
mình trong đời quá khứ hoặc tại cõi Sắc hoặc tại cõi Vô sắc mà
còn biết cả của chúng sinh nữa, nên gọi là lực. Trí thiên nhãn của
Phật xem thấy 3 cõi nối nhau trong đời vị lai, biết 3 thứ nghiệp
nhân, 4 thứ thụ pháp, rồi cũng ghi nhận mà nói, rõ biết không
ngăn ngại, nên gọi là lực. Và Phật dùng trí lực lậu tận, biết không
liên tục. Chúng sinh mạng chết, hoặc có liên tục, hoặc không liên
tục. Lực nầy đều làm cho tất cả chúng sinh đến chỗ đạo lực, nói
chung là Niết-bàn.
Nay trong lực này rộng phân biệt nói rõ, Phật biết nhân cấu
uế, thanh tịnh nên có 10 lực. Chứng được 9 thứ trước thì thành tựu
trí. Chứng được lực thứ 10 thì thảnh tựu đoạn. Đầy đủ trí đoạn
nên gọi là Thế Tôn, được trời người cung kính.
Phẩm 3 : Bốn vô úy
Lại nữa, Phật thành tựu 4 vô úy, tức 4 thứ không khiếp sợ,
cho nên đáng kính lễ.
Bốn thứ không khiếp sợ, là Như Lai được nhất thiết trí, nhất
thiết lậu tận, có thể nói chướng đạo và đạo hết khổ. Trong 4 pháp
nầy, nếu có người đến nạn vấn đúng như pháp thì ta không chỗ e
sợ gì cả. Cái không khiếp sợ đầu tiên là nhất thiết trí, mà cũng là 9
thứ lực trước. Cái không khiếp sợ thứ 2 là đoạn, tức là lực thứ 10,
là đầy đủ trí đoạn. Như Lai tự mình đầy đủ công đức đức. Còn 2
thứ vô úy sau là khiến người đầy đủ. Phật nói chướng ngại là pháp
thật chướng. Như là bất thiện hoặc thiện hữu lậu, vì bởi ngăn ngại
sự giải thoát nên gọi là pháp chướng ngại. Vì muốn lìa chưóng
ngại nên nói pháp xuất đạo.
Hỏi : Như ông vừa nói các thứ lực tức là vô úy. Nay lực và
vô úy có sai khác chi không ?
Thành Thật Luận Trang 12 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trí gọi là lực. Vì nhờ lực nầy nên mới có sức kham
chịu, nên gọi là vô úy. Có những người ngu si không biết hổ thẹn
nên cũng có nhiều kham chịu. Sự kham chịu của Như Lai là từ trí
tuệ mà sinh. Và cũng bởi trí tuệ mà không sợ người khác, nên gọi
là vô úy. Sở dĩ vì sao ? Vì hoặc có người tuy có trí mà còn khiếp
sợ.
Lại nữa, trí gọi là lực vì có thể nói trí nầy gọi là vô sở úy. Sở
dĩ vì sao ? Vì có người tuy biết mà không nói tốt. Cho nên có thể
hơn người gọi là vô úy. Sở dĩ vì sao ? Vì có người tuy biết không
hơn người, cho nên trí nầy vô tận, nên gọi là lực. Biện tài vô tận,
nên gọi là vô úy.
Lại nữa, nói ra có nghĩa thú, nên gọi là lực. Nói ra tự tại, nên
gọi là vô úy.
Lại nữa, nhân gọi là lực, quả gọi là vô úy vì từ trong trí sinh
ra vô úy.
Lại như có người xưa nay khiếp nhược, về sau được chút trí
tuệ liền có thể không sợ, huống chi Thế Tôn, từ kiếp lâu xa đến
nay tâm trí rộng lớn, và chứng được Nhất thiết trí mà còn sợ ai ?
Lại nữa, có người không thể hơn người khác được, nên phải
e sợ. Phật không có một người nào hơn, cho nên không e sợ.
Lại có luận giả lời lẽ khéo hay, lại giỏi nghĩa thú, thì không e
sợ, người ấy tức là Phật. Vì được Nhất thiết trí nên giỏi nghĩa thú;
được vô ngại biện nên khéo lời lẽ.
Lại có người gặp việc, vì bất lực mà sinh khiếp sợ. Như Lai
đạt được Nhất thiết trí nên đối với tất cả mọi việc không bất lực.
Tất cả kinh sách, tất cả luận nghị v.v... đều thông suốt vấn đáp rõ
ràng, nên không e sợ.
Lại nữa có người bị khuyết điểm về gia tộc, về tính tình, về
hình sắc, về giới , về trí đa văn v.v…. nên bị đời chê bai. Như Lai
với các điều kể trên đều không chút khiếm khuyết, cho nên không
e sợ.
Thành Thật Luận Trang 13 Tuệ Quang Foundation
Lại như có luận giả luận đúng như pháp thì không ai phá
hoại được, người ấy tức là Phật. Như Bà-la-môn A-thúc-la thưa
Thế Tôn rằng : Luận đúng như pháp thì khó thắng, khó phá. Luận
thuận đạo lý, luận có suy lường, luận có nhân cũng như vậy.
Lại nữa nếu có người thành tựu 4 thứ luận pháp, cũng khó
thắng, khó phá : 1. Trụ chính chấp. 2. Thụ nhân và phi nhân. 3. Có
thể thụ thí dụ. 4. Trụ trong luận pháp. Phật đủ 4 thứ nầy, nên chư
thiên và người không ai hơn được, cho nên không e sợ.
Lại nữa, người không học hỏi thầy giỏi mà luận nghị thì dễ
bị phá hoại. Như Lai xưa từng ở chỗ Phật Định Quang và vô
lượng chư Phật khác tu tập luận pháp, nên không thể phá hoại
được.
Lại nữa, Phật nói có 2 đế : Thế đế và đệ nhất nghĩa đế, cho
nên người trí cũng không thể phá hoại được. Phàm phu vô trí Phật
không tranh với chúng.
Lại Phật không tranh cãi với người đời. Người đời bảo có,
Phật cũng nói có. Người đời nói không, Phật cũng nói không, nên
không tranh cãi. Vì không tranh cãi, nên không phá hoại được.
Lại nữa, luận nghị có 2 thứ : một là chân thật luận, hai là
siểm khúc luận. Các ngoại đạo phần nhiều là siểm khúc luận. Phật
là chân thật luận, nên không thể phá hoại.
Lại nữa, trong Phật pháp chính hành thanh tịnh nên luận nghị
cũng thanh tịnh. Chính hành thanh tịnh là nhân hết khổ. Luận của
các ngoại đạo có nhân tương tự, không có chính nhân nên không
được đắc thắng.
Lại Phật kinh thanh tịnh, nói ra nghĩa thú không trái thật
tướng, không giống như ngoại đạo. Hơn nữa, đạo Phật nói không
chỉ tùy theo lời nói mà đều biết rõ ngay trong tự tâm. Như trong
kinh nói Phật bảo Tì-kheo : Các ông chớ nên chỉ tin lời ta nói mà
phải tự thấy biết, tự thân tu chứng nữa.
Thành Thật Luận Trang 14 Tuệ Quang Foundation
Lại nói : Các ông đến những người không siểm khúc, như ta
sớm mai vì các ông nói pháp khiến chiều được đạo, chiều vì nói
pháp khiến sáng sớm được đạo.
Lại nữa, nếu người đối với pháp có chỗ không thông suốt thì
ngưng không nói nữa, vì dù có nói ra chắc sẽ bị phá hoại. Phật
không chỗ nào không thông suốt nên được vô úy.
Lại nữa, Như Lai được các trí vô ngại, với tất cả pháp, không
pháp nào không thông đạt, nên không phải sợ. Còn những người
tiểu trí không biết chỗ biết của đại nhân. Đại nhân có thể biết tiểu
trí. Phật là bậc đại trí nhất của chúng sinh, có thể biết tiểu luận
nên không phải sợ. Lại luận của các ngoại đạo chỉ nhân chỗ thấy
mà khởi; Phật biết cái thấy ấy là từ các duyên sinh, và biết tập,
biết diệt, biết vị, biết lỗi và biết thoát ra. Các ngoại đạo không thể
biết hết được, nên mới sinh tranh luận. Phật dùng Nhất thiết
chủng trí biết tất cả các pháp, có thể phá tất cả luận, mà không bị
tất cả các luận phá lại, nên không phải sợ. Bởi các duyên do như
vậy cho nên lực và vô úy nghĩa có sai khác.
Hỏi : Phật đối với các pháp đều không e sợ, mà sao chỉ nói 4
thứ vô úy ư ?
Đáp : Nói 4 thứ là đã gồm nói tất cả vô úy. Bởi vì sao ? Vì 2
thứ vô úy trước là tự nói trí và đoạn về phần mình, 2 thứ vô úy sau
là vì người khác nói pháp chướng đạo. Nói đạo hết khổ, cũng gọi
là trí đoạn. Thầy và trò trí đoạn đầy đủ, nên nói chung là nhất
thiết vô úy.
Hỏi : Vì sao chúng sinh nghi Phật không phải người nhất
thiết trí ?
Đáp : Lời Phật nói ra, có khi có những lời tựa hồ không phải
người có nhất thiết trí. Như Phật hỏi : Người từ đâu đến đây có
những việc như vậy ?
Lại như trong kinh có nói : Có người đi vào trong thành đô,
làng xóm rồi họ hỏi tên các nơi ấy. Ta không cho người ấy là
Thành Thật Luận Trang 15 Tuệ Quang Foundation
Nhất thiết trí. Có người nghe kinh này nói thế, mới nghi Phật
không phải bậc Nhất thiết trí.
Lại nữa, có khi Phật nói ra tuồng như còn tham trước, như
trong kinh nói : Phật nói, Hay thay ! Tì-kheo đến đây, ông với
thân này là được đại lợi. Tùy thuận pháp ta là ta vui mừng. Còn có
những lời tuồng như giận dữ, như Phật bảo Điều-đạt : Người là
thứ người chết… là người ăn đồ khạc nhổ của người khác…
Lại còn có những lời in tuồng kiêu ngạo, như tự nói : Ta là
sư tử trong loài người, vì ta thành tựu thập lực, tứ vô sở úy, nên
trong đại chúng có thể rống lên tiếng rống sư tử.
Lại có lời nói như kiến chấp, như nói : Khéo tu trì pháp ta
như người bưng bát dầu. Và bảo Điều-đạt : Ta không đem chúng
tăng giao cho Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên huống chi giao cho ông.
Có người tiểu trí nghe các lời nói ấy vội bảo Như Lai chưa hết các
lậu.
Lại nữa, Phật nói các thứ dục là thứ chướng đạo, mà có
người thụ dục cũng vẫn đắc đạo.
Lại nữa, trong Luật chế ra pháp ngăn chận, mà có người hủy
hoại pháp ấy cũng vẫn được đạo. Cũng vì vậy mà có người tiểu trí
nghi Phật không biết pháp chướng đạo.
Lại có người tu đạo mà vẫn có kết sử, nên người tiểu trí nghi
cho rằng tu Thánh đạo không thể hết các kết sử, kết sử không hết
làm sao hết khổ ? Vì vậy Như Lai với 4 pháp nầy nói không e sợ.
Hỏi : Đã bị các nghi như trên, làm sao dứt cho được ?
Đáp : Đó là những lời Phật tùy theo lời nói thế tục, vì người
đời có những việc đã biết mà vẫn hỏi và không cho thế là có lỗi.
Phật cũng vậy, vì ở trong thế gian nên tùy theo thế tục mà hỏi.
Lại nữa, người đời cũng có người tâm không tham mà nói ra
lời nói in tuồng có tham, có những trường hợp như vậy. Phật cũng
vậy, vì muốn lợi cho chúng sinh nên hiện ra có những lời nói như
thế. Hoặc nói : Dục không phải chướng pháp. Như Lai nói dục
Thành Thật Luận Trang 16 Tuệ Quang Foundation
thật là chướng pháp, nếu dục còn ở nơi tâm thì không tu đạo được,
phải trước trừ dục, nhiên hậu mới đắc đạo. Hoặc người nói tuy
phạm pháp ngăn cũng vẫn đắc đạo, mà phá pháp thật ngăn, thì
chắc chắn không đắc đạo. Nếu không phải thật tội mà vì trọng
duyên nên Phật tự cho phép, chứ không phải phá hoại pháp ngăn.
Hoặc nói người tu đạo cũng còn kết sử. Thánh đạo có thể phá trừ
tất cả kết sử, vì chưa đầy đủ nên không thể phá trừ hết ví như tính
của bơ có thể chữa được bệnh nóng, mà vì uống ít nên không lành
bệnh. Tu đạo cũng vậy cho nên không có lỗi.
Như Lai thành tựu 4 thứ không khiếp sợ, cho nên đáng kính
lễ.
Phẩm 4 : Mười hiệu
Lại nữa, trong kinh nói : Như Lai có 10 thứ công đức : Đó là
Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, và
Phật Thế Tôn. Như Lai là nương đạo như thật đến thành chính
giác, nên gọi là Như Lai. Có nói ra điều gì đều đúng sự thật không
hư dối. Như Phật hỏi A-nan : Như Lai có nói 2 lời chăng ? Thưa
không, Thế Tôn. Cho nên gọi là như thuyết.
Lại nữa, Như Lai từ đêm đắc đạo cho đến đêm Niết-bàn,
trong thời gian ấy, có nói ra lời gì đều chân thật không phá hoại
được, nên gọi là như thuyết.
Lại dùng nhất thiết chủng trí biết biên tế trước sau, rồi sau
mới nói, nên nói ra đều chân thật.
Lại nữa, chư Phật Thế Tôn ký ức bền chắc không quên mất.
Có người hoặc đem trí so sánh hay theo trong kinh sách mới nói
có thể được, hoặc có sự việc hiện tại không khéo thấy mà nói có
thể. Người nầy nói ra là khi được khi mất. Như trong kinh nói :
Người có trí so sánh nói ra khi được khi mất. Phật đối với các
Thành Thật Luận Trang 17 Tuệ Quang Foundation
pháp hiện biết rồi mới nói cho nên lời nói đều không phá được,
nên gọi là thật thuyết.
Lại nữa, Phật nói ra đều nói thật nghĩa, không phải như các
người nói ra có thật có không thật, nên không phá được.
Lại nữa, lời nói hợp thời, như trong kinh nói : Phật biết
chúng sinh tâm vui thích điều gì rồi nói đạo pháp, nên gọi là như
thuyết.
Lại nữa, với người đáng nói, liền nói ngay, như trong Kinh
Khẩn-thúc-già có nói.
Lại nữa, chỗ nên nói pháp liền vì nói ngay, như chỗ nói sơ
lược, hoặc chỗ nói rộng các môn ấm, nhập. Cho nên nói ra đều là
chân thật.
Lại nữa, có 2 thứ pháp ngữ : một là dựa vào thế đế, hai là
dựa vào đệ nhất nghĩa đế. Như Lai dựa vào 2 đế nầy mà thuyết
pháp, nên nói ra đều thật.
Lại nữa, Phật không nói thế đế là đệ nhất nghĩa đế, cũng
không nói đệ nhất nghĩa đế là thế đế, cho nên lời nói của đôi bên
đều không trái nhau.
Lại nữa, Như Lai nói pháp hoặc ngăn, hoặc mở cũng không
trái nhau. Tùy theo việc ngăn thì điều này không mở, tùy theo
việc mà mở thì điều này không ngăn, cho nên lời nói đều không
trái nhau.
Lại có 3 thứ pháp ngữ : một từ kiến sinh, hai từ mạn sinh, ba
từ giả danh sinh. Phật không có 2 loại trước, đối với loại thứ 3
thanh tịnh không nhiễm.
Lại có 4 thứ pháp ngữ : là kiến, văn, giác, tri. Phật với 4 lối
nói nầy đều thanh tịnh tâm không tham đắm.
Lại có 5 thứ pháp ngữ : là quá khứ, vị lai, hiện tại, vô vi và
bất khả thuyết. Năm thứ nầy, Phật đều thông suốt rõ ràng, biết rồi
nhiên hậu mới nói, nên gọi như thuyết. Có thể như thuyết cho nên
gọi là Như Lai. Bởi vì hết phiền não mới được pháp nầy, các thứ
Thành Thật Luận Trang 18 Tuệ Quang Foundation
tham, sân si là cội gốc của vọng ngữ, diệt hết các kết sử nầy, cho
nên gọi là Ứng cúng.
Lại nữa Như Lai nói pháp ứng cúng là pháp diệt kết sử, do
chính trí sinh, đem trí tuệ của chính quán các pháp vô thường,
khổ, không …nên mới diệt hết các phiền não. Nhờ chính trí mới
sinh pháp ứng cúng. Pháp chính trí nầy từ minh, hành mà sinh
biên tế trước sau và không liên tục, khéo thông suốt nên được gọi
là chính trí. Tận hành các pháp bố thí Ba-la-mật v.v… nên gọi là
minh hành túc. Các người khác cũng ở trong vô thủy sinh tử tu
các pháp bố thí, v.v… mà không có chính hành nên không gọi là
Thiện thệ. Phật có chính đạo tu bố thí v.v… các hạnh nên gọi là
Thiện thệ. Được 5 pháp nầy công đức của Như Lai về phần mình
đầy đủ. Được chính trí nên có thể biết tất cả tâm niệm của thế
gian, biết tâm niệm rồi mới vì đó nói pháp, nên gọi Vô thượng sĩ.
Những người đáng điều phục chế ngự không một
người nào không được điều phục. Đã được điều phục thì vĩnh viễn
không còn bại hoại nữa. Người được điều phục là người, trời, nên
gọi là Thiên nhân sư. Hoặc có người sinh nghi : Như Lai sinh
trong loài người mà làm sao có thể giáo hóa trên cõi trời được ?
Cho nên Phật đã nói : Ta là bậc thầy của trời và người. Phật khi
ngồi nơi đạo tràng, trừ giấc ngủ vô minh, chứng được nhất thiết
trí, sáng tỏ đại ngộ tất cả các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, các
pháp hữu vi vô vi, hữu tận vô tận hoặc thô hoặc tế v.v... đều giác
ngộ, nên gọi là Giác giả.
Như vậy 9 thứ công đức đầy đủ là đấng cao cả trong 3 đời 10
phương thế giới nên gọi là Thế Tôn.
Phật đầy đủ 10 hiệu nên tự thân đầy đủ, khiến người khác
cũng đầy đủ, lợi mình lợi người, cho nên đáng kính lễ.
Phẩm 5 : Ba không hộ
Thành Thật Luận Trang 19 Tuệ Quang Foundation
Ba không hộ là 3 thứ không phải bảo hộ giữ gìn. Đó là 3
nghiệp thân khẩu ý của Phật không cần giữ gìn. Sở dĩ vì sao ? Vì
3 nghiệp ấy của Phật không có bất tịnh, muốn khiến người khác
không thấy không biết.
Lại các người khác hoặc có khi vô ký, tựa như 3 nghiệp thân
khẩu ý có bất tịnh nên bị người trí chê trách. Phật không có như
vậy. Sở dĩ vì sao ? Vì tất cả 3 nghiệp ấy của Như Lai đều do trí
tuệ và sự nghĩ nhớ chân chính mà sinh khởi. Còn những người
tiểu trí bị vọng niệm không được nghiệp như vậy.
Lại người đời hoặc vì vội vã mà nói lầm lỗi. Phật thì không
có các việc như vậy.
Lại nữa, Phật khéo tu thân giới tâm tuệ, các pháp như vậy
đều khéo tu nên tất cả nghiệp nhân bất thiện và tương tự bất thiện
v.v... đều trừ diệt.
Lại nữa, Thế Tôn từ kiếp lâu xa đến nay đã từng tu hành các
thiện pháp không phải mới đời này, cho nên các nghiệp tính thanh
tịnh không phải giữ gìn. Lại Phật thường ưa tu giới hạnh, không
phải vì lo sợ đọa ác đạo mà tu.
Lại tất cả 3 nghiệp thân khẩu ý của Phật đều vì lợi người nên
không bất thiện, vì không bất thiện nên không phải gìn giữ. Vì 3
nghiệp thanh tịnh không cần gìn giữ nên đáng kính lễ.
Lại nữa, Phật thành tựu 3 niệm xứ, nên đáng kính lễ. Mỗi
khi thuyết pháp, thính giả nhất tâm nghe, không lấy làm mừng,
hay không chăm lòng nghe, cũng không lấy làm buồn, vì thường
tu tâm xả. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật không còn chút mảy may tham
sân tập khí.
Lại Phật biết các pháp rốt ráo là không, nên không mừng
không buồn.
Lại Phật khéo nhóm họp tâm đại bi, nên đối với thiện hay bất
thiện, tâm không vui buồn, mà chỉ sinh khởi tâm đại bi bình đẳng.
Thành Thật Luận Trang 20 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật am hiểu tâm tính của mỗi chúng sinh, nên chăm
nghe, không lấy làm mừng, không chăm nghe cũng không lấy làm
buồn, vì bản tính là vậy, nên thường tu tâm xả.
Lại tâm Phật kiên cố như đại địa, cất bớt vật nặng không lên
cao, hay đặt thêm vật nặng cũng không thấp xuống. Còn tâm
phàm phu như cái cân, thêm chút là thấp xuống, bớt chút thì cao
lên.
Lại Phật Thế Tôn gọi là đấng đại bi, cho nên người, trời đều
nên kính lễ.
Lại Phật bỏ cái vui trong cảnh sâu thiền định mà vì người nói
pháp. Bi tâm của người khác không thành xong. Đại bi của Thế
Tôn có thể cứu chúng sinh, nên gọi là hữu quả. Và cũng nhờ đại
bi mà thành tựu đạo vô thượng chứ không phải dựa vào duyên nào
khác.
Lại nữa, Phật không có ngã tâm, hành thiểu dục tri túc rất là
bậc nhất. Cũng do đại bi nên tự khen thân mình.
Lại nữa, tính Phật nhu hòa, mà vì đại bi nên mới có những
lời khổ thiết, khởi đại phương tiện, chịu các điều cần khổ vì độ
chúng sinh. Và Phật vì đại bi độ chúng sinh nên trụ trong thế gian
mà thụ thân 5 ấm như hoàn sắt nóng, trong giây lát cũng không
kham chịu nổi.
Lại Phật Thế Tôn khéo tu tâm xả, rồi bỏ tâm xả thưòng hành
đại bi, nên được tôn kính.
Lại Phật là người thiện trong những người thiện. Sở dĩ vì sao
? Vì mình được đại lợi cũng làm cho người khác được đại lợi, lợi
mình lợi người, nên gọi người thiện.
Lại Phật là chân thiện tri thức của chúng sinh. Như trong
kinh nói : Ta là chân thiện tri thức của chúng sinh, là người
thương xót, người làm lợi ích…
Thành Thật Luận Trang 21 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, Phật Thế Tôn là nơi hội tụ các công đức như tinh
tiến v.v…như Hòa Lợi dùng một trăm câu kệ khen Phật. Do các
công đức đức nầy. Cho nên đáng kính lễ.
Lại nữa, Phật tự nói công đức của mình, như trong Kinh
Tăng Nhất A-hàm, Phẩm Như Lai, Phật tự nói : Ta là sư tử trong
loài người, là người đẹp như hoa, là người hùng như voi là đệ nhất
Sa-môn mà cũng là đệ nhất trong Bà-la-môn, và là vua trong các
Thánh, vì hành vi không còn sai lầm, là không tùy theo khổ vui,
đó chính là thân ta.
Hỏi : Vì lý do gì Phật tự khen thân mình ? Tự khen thân
mình là tướng của người ngu.
Đáp : Thế Tôn không cầu danh lợi mà chỉ vì người khác nên
tự khen thân mình.
Lại Phật tâm vô ngã, vì muốn lợi cho người khác nên tự khen
không lỗi.
Lại cũng bởi nhân duyên mà tự khen ít nhiều vậy thôi, chứ
với công đức của Phật không thể nói hết được, cho nên không đọa
vào tướng người ngu, vì không có tự cao.
Lại như trong Kinh Thanh Tịnh, Xá-lợi-phất đứng trước Phật
mà ngợi khen công đức của Phật. Cho nên đáng kính lễ.
Lại các hạnh thiểu dục tri túc và vô lượng công đức đều hội
tụ nơi thân Phật. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật hội tụ đầy đủ tất cả các
công đức đức. Bởi các duyên do đó nên kính lễ Phật.
Phẩm 6 : Ba thiện đầu tiên trong luận về Pháp Bảo
Hỏi : Trước ông có nói nên lễ Pháp Bảo. Mà Pháp Bảo có
công đức gì đáng kính lễ ?
Đáp : Phật tự khen ngợi nói : Pháp ta nói ra trước, giữa, sau
đều thiện, nghĩa thiện, ngữ thiện, độc pháp, cụ túc, thanh tịnh điều
nhu, tùy thuận phạm hạnh. Trước giữa sau đều thiện là Phật pháp
không thời nào không thiện. Với thiếu thời, tráng thời, lão thời, 3
Thành Thật Luận Trang 22 Tuệ Quang Foundation
thời đều thiện. Nhập thời, hành thời, và xuất thời cũng đều thiện.
Và trước là ngăn ác, giữa là xả phúc báo và sau là xả tất cả, cho
nên gọi là ba thiện.
Lại 3 thời Phật thường thuần thuyết chính pháp không xen
phi pháp như các ngoại đạo.
Lại 3 thời trước giữa sau Phật thường vì chỗ ưa thích của
người trí mà thuyết.
Lại trong 3 thời tất cả pháp đều rất sâu, không như kinh khác
trước to, giữa nhỏ, sau nát vụn. Bởi các lẽ ấy nên gọi là 3 thiện.
Nghĩa thiện, là nghĩa Phật pháp có lợi ích sâu xa : được lợi
đời nầy và đời sau, lợi xuất thế đạo, không phải như ngoại điển
nguyện cầu tăng thêm thiên nhãn.
Ngữ thiện, là tùy theo phương ngôn tục ngữ có thể hiển thị
chính nghĩa, nên gọi là ngữ thiện. Sở dĩ vì sao ? Vì kết quả lời nói
chính là nghĩa. Cho nên những lời nói ra có thể biện luận nghĩa lý,
nên gọi là ngữ thiện.
Lại nữa, cái quý của Phật pháp là làm đúng như nói, chứ
không quí ở nói suông, cho nên tùy theo phương ngôn tực ngữ, có
thể khiến được đạo, đó gọi là ngữ thiện. Không như ngoại điển,
chỉ quí lời nói, nếu sai lời nói hoặc lỗi âm thanh thì luận chủ bị
tội.
Lại nữa khéo nói chân đế gọi là nghĩa thiện, khéo nói thế đế
gọi là ngữ thiện.
Độc pháp, là Phật chỉ nói chính pháp chứ không vì hý luận
mà nói chuyện đời xưa, và cũng không nói xen tạp pháp với phi
pháp.
Lại độc pháp là Phật chỉ nói vì vô dư Niết-bàn, và chỉ độc
nhất Phật có thể thuyết, cho nên gọi là độc pháp.
Hỏi : Có kinh Thanh Văn bộ, chỉ có Thanh Văn nói.
Lại có các kinh khác do các thiên thần nói, sao bảo chỉ độc
nhất Phật nói ?
Thành Thật Luận Trang 23 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Là căn bản của pháp đều từ Phật mà ra, nghĩa là các
Thanh Văn và thiên thần đều là những người truyền đạt lời Phật.
Như trong Tì-ni có nói : Phật pháp là những gì Phật nói. Những
lời đệ tử Phật nói, các vị biến hóa và chư thiên nói, tóm lại tất cả
thiện ngữ trong thế gian đều là lời Phật nói nên gọi là độc pháp.
Cụ túc, là pháp Phật nói ra không có giảm thiểu, như trong
Kinh Uất-đà-la-già nói về tướng cụ túc.
Lại Phật pháp không đợi các kinh mới được thành tựu, như
Kinh Hòa-già-la-na đợi 5 kinh nhiên hậu mới được thành tựu.
Phật pháp không phải như vậy, trong một bài kệ vẫn đầy đủ ý
nghĩa, như nói : Chớ làm các ác, vâng làm các lành; tự tịnh tâm ý,
là chư Phật dạy. Cho nên gọi là cụ túc.
Thanh tịnh điều nhu, là có 2 thứ thanh tịnh, nên gọi là thanh
tịnh điều nhu. Đó là lời thanh tịnh gọi là thanh tịnh, nghĩa thanh
tịnh gọi là điều nhu.
Lại Phật cho phép trong nghĩa chính đặt lời tùy nghĩa. Trong
chính ngữ đặt nghĩa tùy ngữ, không phải như ngoại đạo tùy theo
kinh mà lấy.
Lại trong Phật pháp, căn cứ vào pháp không căn cứ vào
người. Mà trong pháp cũng còn phân biệt, là căn cứ vào kinh liễu
nghĩa, mà không căn cứ vào kinh không liễu nghĩa, đó là tịnh
pháp, không chỉ theo kinh.
Lại trong Phật pháp có 3 pháp ấn : Tất cả vô ngã. Các pháp
hữu vi, niệm niệm vô thường. Niết-bàn tịch diệt. Với 3 pháp ấn
này, các luận giả không thể phá hoại được, vì là chân thật nên gọi
là thanh tịnh điều nhu.
Tùy thuận phạm hạnh, là 8 chính đạo gọi là phạm hạnh.
Phạm là đạo Niết-bàn, vì có thể đến Niết-bàn nên gọi là phạm
hạnh.
Pháp Bảo thành tựu công đức như vậy, cho nên đáng kính
lễ.
Thành Thật Luận Trang 24 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 7 : Các giáo pháp
Lại nữa, Phật tự khen ngợi rằng : Pháp ta có thể diệt, có thể
đến Niết-bàn, có thể sinh chính trí có thể khéo dẫn đường.
Có thể diệt, là diệt tắt các lửa phiền não tham, sân si nên gọi
là có thể diệt, như tu quán bất tịnh diệt được lửa dâm dục, như tu
từ tâm diệt được giận dữ, không phải như ngoại đạo tu pháp đoạn
thực, cho nên gọi là có thể diệt. Có thể đến Niết-bàn, là rốt ráo
Phật pháp chắc chắn đến Niết-bàn, không phải như ngoại đạo an
trụ trong hữu phần, hay say đắm các thiền định.
Lại trong Phật pháp, nói tất cả pháp hữu vi đều có tội lỗi nên
không đáng khen ngợi, không phải như Bà-la-môn khen ngợi trời
Phạm Thế, cho nên nói Phật pháp có thể đến Niết-bàn.
Có thể sinh chính trí, là có bao nhiêu Phật pháp đều vì Niếtbàn,
cho nên có thể sinh chính trí. Và trong Phật pháp có quả chân
trí, như từ văn tuệ sinh tư tuệ, từ tư tuệ sinh tu tuệ, nên nói Phật
pháp có thể sinh chính trí.
Có thể khéo dẫn đường, là Phật pháp mình trước khéo thành
tựu, sau làm cho người khác an trú trong chính pháp, nên gọi khéo
dẫn.
Lại nữa, Phật pháp có 6 pháp : 1. Thiện thuyết. 2. Hiện báo.
3. Vô thời. 4. Có thể đem, 5. Đến nếm biết. 6. Người trí tự biết.
Thiện thuyết, là các pháp Phật nói đúng như thật tướng của
các pháp, như pháp bất thiện là nói tướng bất thiện, thiện là nói
tướng thiện, gọi là thiện thuyết.
Hiện báo, là Phật pháp có thể được quả báo hiện tại, như
trong kinh nói : Sớm mai thụ giáo, khiến chiều đắc đạo, chiều vì
nói pháp khiến sáng ngày đắc đạo.
Lại hiện báo là như hiện tại trong Kinh Sa-môn Quả nói :
Hiện được cung kính, danh tiếng, thiền định, thần thông, các việc
lợi ích.
Thành Thật Luận Trang 25 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, Phật pháp đều có nghĩa lý, nên khiến được cung
kính hiện đời, quả báo đời sau và quả báo Niết-bàn. Các pháp
ngoại đạo không có nghĩa lý nên không được quả báo hiện tại và
đời sau huống chi Niết-bàn, cho nên gọi là hiện báo.
Vô thời, là Phật pháp không đợi ngày tháng năm nào hay tinh
tú cát hung mới được tu đạo, hay ngày tháng năm nào đó không
được tu đạo. Không phải như pháp của Bà-la-môn là đầu xuân Bàla-
môn thụ pháp lửa, cuối xuân Sát-lợi thụ pháp lửa. Hoặc đợi mặt
trời mọc, hoặc chưa mọc mới cúng dường lửa. Như thấy ngũ cốc
đợi thời vụ mới gieo trồng, rồi bảo Phật pháp cũng phải như vậy.
Cho nên nói là Vô thời. Như trong kinh nói : Phật pháp dễ tu, đi
đứng ngồi nằm không lúc nào không tu được.
Có thể đem, là vì nhờ chính hành nên có thể đem chúng sinh
đến chỗ giải thoát, nên gọi là có thể đem.
Đến nếm biết, là Phật pháp cần phải tự thân tác chứng, không
phải chỉ theo người khác, như Phật bảo các Tì-kheo : Các ông
đừng chỉ tin lời ta, mà phải tự suy nghĩ pháp ấy nên tu hay không
nên tu. Không phải như ngoại đạo bảo các đệ tử rằng : Hãy bỏ lối
vấn đáp này, như người rửa sạch không thích bụi đất, phải chỉ
theo lời ta như đứa điếc câm . Cho nên gọi là nếm biết.
Người trí tự biết, là lợi ích của Phật pháp, người trí tuệ mới
có thể tin hiểu, còn pháp đoạn thực những người thô ngu tin ưa,
chứ người trí không chấp nhận. Bởi chính trí tuệ có thể phá trừ
phiền não. Những pháp như thế người trí mới hiểu. Tuy dùng vật
thực đầy đủ nuôi thân mà nhất tâm tinh tiến tu trì, không nhiễm
tham sân. Các việc như thế người trí hiện biết, như người lành
bệnh tự nhiên biết được khỏi bệnh, như tướng nước lạnh chỉ
người uống mới biết.
Lại nữa, hoặc có quá ngữ pháp, như nói tướng cứng của đất.
Cứng lấy gì làm tướng ? Không thể lấy lời nói đáp được, mà phải
chạm đến mới biết. Cũng như có người mù bẩm sinh không thể
Thành Thật Luận Trang 26 Tuệ Quang Foundation
nói cho người đó biết màu xanh vàng đỏ trắng được. Nếu người
chưa thấm được khí vị Phật pháp thì không thể đem thật nghĩa
Phật pháp mà bảo với người đó được, vì Phật pháp là pháp tịch
diệt.
Lại nữa, Phật pháp có thể tự chứng biết chứ không thể đem
chỗ chứng của mình trao cho người khác như đồ vật hay của cải.
Như trong Kinh Bà-la-diên Phật nói : Ta không thể tự dứt nghi
cho ông để ông có thể chứng pháp của ta. Nghi của ông tự dứt lấy.
Lại nữa pháp ấy khi đến thân người khác thì không thể thấy
được, như lửa đã truyền đi nơi khác.
Lại người phàm phu ngu nhân bị núi vô minh che ngăn nên
không tin pháp nầy, như Phật nhân Sa-di A-di-la-việt nói thí dụ
núi lớn. Cho nên gọi người trí tự biết.
Lại nữa, Phật pháp rất sâu, khai thị thì cạn để dứt trừ hư
ngụy, lưu bố khắp người trời. Rất sâu, là Phật pháp rất sâu, vì
không biết nguyên nhân nên người đời phần nhiều chỉ thấy hiện
quả, không thể biết nguyên nhân nên nói do trời Tự Tại v.v…. các
thứ tà nhân. Mười hai pháp nhân duyên thâm sâu nên khó hiểu.
Người đời trí cạn đối với Phật pháp không có tưởng sâu xa được
nên không thể thông suốt các pháp nhân duyên, cho đến cộng cỏ
nhỏ cũng do các nhân duyên. Suy nghĩ quan sát thì tướng nó càng
trở nên sâu. Như Phật có nói : Các pháp nhân duyên, điều này rất
sâu, ái hết lìa diệt, và chỗ Niết-bàn, cũng là khó thấy.
Hỏi : Nếu nhân duyên rất sâu sao A-nan sinh nghĩ tưởng
nông cạn ?
Đáp : Có luận sư đã bảo rằng : Lời nói ấy không đúng. A-nan
là bậc đại đệ tử thông đạt pháp tướng làm sao lại nói pháp nhân
duyên là nông cạn ?
Lại nếu đem tướng chung mà quán sát pháp nhân duyên nên
sinh tưởng nông cạn. Bởi vì sao ? Vì người ấy không khéo phân
biệt mà quán nghiệp phiền não.
Thành Thật Luận Trang 27 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, như người đối với sở học đã được rốt ráo liền sinh
lòng nghĩ cạn dễ, như khi được đại trí trở lại xem bài học ban đầu.
Trái lại có người trí tuệ chưa thành tựu, đối với pháp rất sâu, sinh
tưởng dễ dàng nông cạn.
Lại nữa, vì Phật khéo thuyết pháp nên hoặc có chúng sinh
nghe liền sinh ý nghĩ cho là cạn dễ.
Lại Phật pháp đều không, vì lý không nầy rất sâu nên Phật
dùng nhiều thứ nhân duyên thí dụ nói rõ nghĩa làm cho dễ hiểu,
trẻ con cũng hiểu được, như Sa-di Tu-đà-da chẳng hạn.
Lại nữa, Phật pháp kiên cố, nên trong các lời nói rất là chân
thật, không phải như những kinh Bà-la-đà-la-ma-diên chỉ có lời
nói mà không có thật nghĩa. Như Phạm Chí Lô-Đề thưa Thế Tôn
rằng : Các Tì-kheo đối với pháp chân thật lợi ích tinh cần tu học
thì được hết lậu.
Lại nữa, Phật pháp vì làm lợi ích cho tất cả người đời nên
mới nói chứ không phải như Bà-la-môn nói : Pháp Bà-la-môn chỉ
có tự mình được đạo người khác không được. Phật pháp là pháp
tôn trọng, các vì Thiên vương là những người buông thả hưởng
ngũ dục mà vẫn đến tín thụ. Vì các nhân duyên nầy, cho nên đáng
kính lễ Pháp bảo.
Phẩm 8 : Mười hai bộ kinh
Lại nữa, Phật pháp phân biệt có 12 bộ : 1. Tu-đa-la. 2. Kì-dạ.
3. Hòa-già-la-na. 4. Già-đà. 5. Ưu-đà-na. 6. Ni-đà-na. 7. A-ba-đàna.
8. I-đế-viết-đa-già. 9. Xà-đà-già. 10. Tì-phật-lược. 11. A-phùđa-
đạt-ma. 12. Ưu-ba-đề-xá.
Tu-đa-la, là những lời nói thẳng.
Kì-dạ, là dùng kệ tụng lại Tu-đa-la, hoặc Phật tự nói, hoặc
các đệ tử nói.
Hỏi : Vì sao phải dùng kệ tụng lại Tu-đa-la ?
Thành Thật Luận Trang 28 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Muốn cho nghĩa lý vững chắc, như dùng dây xâu hoa
thứ lớp chặt chẽ, lại muốn trau giồi lời lẽ, khiến người ưa thích,
như rải hoa, hoặc cầm hoa xâu để trang nghiêm.
Lại nữa, đưa nghĩa lý vào trong kệ thì tóm tắt dễ hiểu. Hoặc
có chúng sinh ưa nói thẳng, hoặc thích kệ tụng.
Lại trước nói thẳng pháp, sau dùng kệ tụng thì nghĩa lý rõ
ràng khiến lòng tin kiên cố.
Lại nghĩa được đưa vào trong kệ thì thứ lớp làm rõ cho nhau,
dễ xưng tán. Cho nên phải cần nói kệ. Hoặc có người bảo : Phật
pháp không nên tạo kệ vì giống lối ca vịnh. Lời nói ấy không
đúng, vì Phật pháp cần nên tạo kệ. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật tự dùng
kệ nói các nghĩa.
Lại như kinh nói : Tất cả các lời đẹp đẽ trong thế gian đều
phát xuất từ pháp ta. Cho nên kệ tụng mới có lời đẹp đẽ.
Hòa-già-la-na, là các kinh có giải nghĩa thì gọi là Kinh Hòagià-
la-na. Nếu có kinh không đáp không giải như Tứ Vô Ngại
chẳng hạn thì gọi là Tu-đa-la, kinh có vấn đáp gọi là Hòa-già-lana,
như nói có 4 hạng người : từ tối vào tối, từ tối vào sáng, từ
sáng vào tối, từ sáng vào sáng. Hạng từ tối vào tối, là như những
người bần tiện mà còn gây 3 ác nghiệp sẽ đọa vào ác đạo. Những
kinh như thế gọi là Hòa-già-la-na.
Hỏi : Vì sao Phật nói kinh không đáp không giải ?
Đáp : Có kinh nghĩa lý thâm sâu, nghĩa của kinh này sẽ nói
riêng trong phần A-tì-đàm, cho nên không giải. Hoặc có người nói
: Phật nói kinh đều có giải nghĩa. Nhưng vì người kết tập Pháp
bảo lựa kinh nào nghĩa thâm sâu đặt vào trong A-tì-đàm, như bởi
2 nhóm người kết tập trong hang và ngoài hang, trọn đêm giải
nghĩa. Nghĩa này nên ở trong nhóm kết sử.
Già-đà, là đệ nhị bộ thuyết Kì-dạ. Kì-dạ là kệ. Kệ có 2 thứ :
một gọi là Già-đà, hai gọi là Lộ-già. Lộ-già lại có 2 thứ : một
Thành Thật Luận Trang 29 Tuệ Quang Foundation
thuận phiền não, hai không thuận phiền não. Không thuận phiền
não là trong Kì-dạ gọi là Già-đà.
Trừ 2 thứ kệ nầy, ngoài ra các kinh không phải kệ, gọi là Ưuđà-
na.
Ni-đà-na, là các kinh nhân duyên. Sở dĩ vì sao ? Vì chư Phật
hay các bậc hiền thánh nói kinh pháp cần có nhân duyên. Nhân
duyên của các kinh này hoặc ở trong Tu-đa-la, hoặc ở nơi khác,
thì gọi là Ni-đà-na.
A-ba-đà-na, là nói có đầu đuôi thứ lớp, như trong kinh nói :
Người trí nói thì có gốc ngọn, có thứ lớp, có nghĩa có giải không
cho tán loạn. Đó gọi là A-ba-đà-na.
I-đế-việt-đa-già, là kinh nhân duyên và kinh thứ lớp. Nếu 2
kinh này ở quá khứ thì gọi là I-đế-việt-đa-già, tiếng Trung Quốc
dịch là : Điều này đời quá khứ như vậy.
Xa-đà-già, là nhân việc hiện tại mà nói việc quá khứ. Như
Lai tuy nói việc đời vị lai, nhưng điều này đều nhân quá khứ và
hiện tại nên không nói riêng.
Tì-phật-lược, là kinh Phật nói rộng thì gọi Tì-phật-lược. Có
người không tin bảo : Các bậc Đại Thánh, vì thích vắng lặng
không ưa ồn ào, chán tạp ngữ thế gian, vì muốn nhổ các gốc ưa
vui, nên không ưa nói rộng. Như trong kinh nói : Có người chứng
được đạo, hơn 2 tháng mới nói một lời. Vì muốn dứt nghi này nên
nói có kinh nói rộng rất nhiêu ích cho người khác. Như nói Như
Lai có 2 lối thuyết pháp : một rộng hai sơ lược. Cố nhiên là rộng
hơn sơ lược.
A-phù-đà-đạt-ma, là các kinh nói việc chưa từng có. Như
nói các việc lạ khi kiếp hết như có đại biến, thân lượng các chư
thiên, đại địa chấn động. Có người không tin các việc như vậy cho
nên nói có kinh nói việc chưa từng có. Hiện nghiệp quả báo, thế
lực các pháp, không thể nghĩ bàn.
Thành Thật Luận Trang 30 Tuệ Quang Foundation
Ưu-ba-đề-xá, là như Đại Ca-chiên-diên v.v… là các bậc đại
trí rộng giải lời Phật. Có người không tin cho là không phải Phật
nói, Phật vì những người ấy cho nên nói có luận kinh. Kinh mà có
luận thì nghĩa dễ hiểu.
Mười hai bộ kinh này là Phật pháp. Pháp Bảo đầy đủ công
đức như thế, cho nên đáng kính lễ.
Phẩm 9 : Trước tiên là thanh tịnh, luận về Tăng Bảo
Hỏi : Trước ông có nói nên kính lễ Tăng Bảo. Sao phải kính
lễ ?
Đáp : Ở nhiều nơi Phật tự khen ngợi Tăng. Tăng Bảo là giới
phẩm thanh tịnh, định phẩm, tuệ phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát
tri kiến phẩm đều thanh tịnh; nên thỉnh nên lễ, chắp tay cung kính
cúng dường thì thí chủ có thể được lợi ích, vì đó là ruộng phúc
cao tột.
Giới phẩm thanh tịnh, là các đệ tử Phật giữ giới không bị tì
vết, cho đến bị lỗi nhỏ cũng rất ôm lòng lo sợ.
Lại đệ tử Phật, không phải vì cầu phúc báo sinh về cõi người,
trời, cũng không phải lo sợ địa ngục, ngạ quỷ mà siêng có thể giữ
giới chỉ vì ưa thiện pháp nên gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, giữ tịnh giới chẳng hạn cuộc theo thời tiết, không
như Bà-la-môn giữ giới 6 tháng, hay 1 đêm, cho đến rốt ráo. Nên
gọi là thanh tịnh.
Lại nữa, giữ tịnh giới lìa 2 bên là xa lìa vui ngũ dục và lìa
khổ nơi thân. Nên gọi giới này Thánh ưa mến, mà giới này cũng
được người trí yêu chuộng.
Lại nữa, bởi tâm tịnh nên giới cũng thanh tịnh.
Lại bởi thâm tâm ngăn ác, chứ không phải giữ giới chỉ vì lo
sợ đời sau cho nên gọi Tăng Bảo là giới phẩm thanh tịnh.
Định phẩm thanh tịnh, là nhờ thiền định có thể sinh chân trí
nên gọi thanh tịnh.
Thành Thật Luận Trang 31 Tuệ Quang Foundation
Tuệ phẩm thanh tịnh, là nhờ tuệ mới được hết phiền não, nên
gọi thanh tịnh.
Giải thoát thanh tịnh, là như được hết các phiền não, không
phải chỉ có thể ngăn chận phiền não, nên gọi giải thoát thanh tịnh.
Giải thoát tri kiến thanh tịnh, là đối với các phiền não hết mà
được trí tuệ. Nghĩa là hết ngã sinh, chứ không phải hết phiền não
mà nói hết ngã sinh. Đó là giải thoát tri kiến thanh tịnh.
Nên thỉnh nên lễ nên cúng dưòng, là vì có thể đầy đủ các
công đức như thế, cho nên cần cầu thỉnh kính lễ và cúng dường
các bậc phúc điền ấy. Đối với trong đó mà trồng phúc thì được
quả báo vô lượng, cho đến khi các vị vào Niết-bàn cũng không thể
được.
Có thể làm lợi ích thí chủ, là có thể khiến công đức của thí
chủ tăng thêm lợi ích, như ruộng 8 công đức, làm tươi tốt ngũ cốc
không cho hư hoại. Ruộng Tăng Bảo cũng vậy, vì thành tựu 8
công, nên có thể khiến thí chủ được tăng trưởng công đức. Cho
nên đáng kính lễ.
Phẩm 10 : Phân biệt hiền thánh
Hỏi : Do pháp gì nên gọi là Tăng ?
Đáp : Do 4 hành, 4 đắc, và giới, định, tuệ các công đức thanh
tịnh, nên gọi là Tăng.
Bốn hành, là hành Tu-đà-hoàn, hành Tư-đà-hàm, hành A-nahàm,
hành A-la-hán.
Bốn đắc, là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.
Hành Tu-đà-hoàn có 3 hạng người : 1. Tùy tín hành 2. Tùy
pháp hành. 3. Tùy vô tướng hành.
Tín hành, là nếu người chưa được trí không vô ngã, vì tin
Phật pháp thực hành theo lời Phật dạy gọi tín hành. Như trong
kinh nói : Ta đối điều này vì tin nên làm. Nếu được chân trí thì
không chỉ theo lòng tin mà làm. Như trong kinh nói : Biết người
Thành Thật Luận Trang 32 Tuệ Quang Foundation
không làm, người không tin, đó là Thượng nhân. Cho nên phải
biết chưa được chân trí là Tùy tín hành. Như trong kinh nói : Nếu
người đối với Pháp đem chút trí tuệ quan sát nhẫn, lạc, gọi là Tín
hành. Vượt khỏi bậc phàm phu, nhưng chưa chứng được quả Tuđà-
hoàn, trong thời gian ấy không bị mạng chết, gọi là Tín hành.
Người nầy trong văn tư tuệ chính quán các pháp, tâm nhẫn dục
lạc, tuy chưa được trí không vô ngã mà có thể sinh tâm thế gian
tương tự nhẫn pháp, từ đây trở đi gọi là vượt khỏi bậc phàm phu.
Sở dĩ vì sao ? Sau sẽ nói rộng. Nếu không có tín v.v… 5 căn, thì
người nầy còn ở ngoại phàm phu. Cũng người nầy lần hồi tu tập
được noãn v.v… các pháp tu tuệ mà bản danh vẫn còn nên cũng
gọi là Tín hành, vì hoàn toàn không kịp người Pháp hành. Kinh
nầy nên nói cần phải chứng được quả Tu-đà-hoàn, chứ không nên
nói không bị mạng chết. Sở dĩ vì sao ? Vì người Tín hành hãy còn
xa. Như trưởng giả Úc-già cúng dường chúng Tăng, có Thiên thần
cáo thị cho biết vị này là A-la-hán, vị này là hành A-la-hán, cho
đến vị nầy là Tu-đà-hoàn, vị này hành Tu-đà-hoàn. Nếu còn ở 15
tâm thì không có thể được cáo thị như vậy. Phải biết người hành
Tu-đà-hoàn có gần có xa, gọi là Tín hành. Người pháp hành, là
người này được trí không vô ngã, mà còn ở trong pháp noãn,
đảnh, nhẫn, thế đệ nhất. Tùy thuận pháp hành tu các pháp không
vô ngã thì gọi là pháp hành. Hai hành nhân này nhập vào kiến đế
đạo thấy diệt đế, nên gọi là vô tướng hành. Ba hạng người này là
hành quả Tu-đà-hoàn. Trong đạo thế tục vì không đoạn kết, nên
không được gọi là hành. Còn 3 quả kia, sau sẽ nói.
Tu-đà-hoàn, như trong kinh Phật nói : Nếu người đoạn được
3 kết là thân kiến, nghi, giới thủ thì gọi là Tu-đà-hoàn, không đọa
ác đạo, chắc chắn được chính trí, cùng cực đến 7 hữu.
Hỏi : Nếu Tu-đà-hoàn kiến đế, các phiền não đều đoạn hết,
diệt được vô lượng khổ, như Kinh Địa Dụ nói, sao đây chỉ nói
đoạn 3 kết ư ?
Thành Thật Luận Trang 33 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Vấn đề này sau sẽ nói rộng. Nghĩa là thân kiến hết, các
thứ khác cũng hết theo. Còn không đọa ác đạo thì ra sau, trong
phần nghiệp tụ cũng sẽ nói rộng. Nói chắc chắn được chính trí, là
người nầy được vào trong dòng pháp chắc đến Niết-bàn, như cây
trôi giữa sông Hằng, lìa 8 nhân duyên chắc chắn đến biển cả. Nói
cùng cực 7 hữu, là người nầy trong 7 đời trí vô lậu sẽ thành thục,
như Ca-la-la v.v… trong bào thai, cứ bảy ngày biến thành trạng
thái khác.
Lại như uống các thứ tô lạc đến 7 ngày thì lành kiên bệnh.
Lại như dòng họ giới hạn đến 7 đời.
Lại như thân người bị một thứ rắn độc cắn, vì sức của tứ đại
chỉ đi được 7 bước và vì sức độc của nọc rắn nên không đi được
bước thứ 8.
Lại pháp dối gạt cũng đến 7 đời.
Lại như đến khi 7 mặt trời xuất hiện là thì kiếp thiêu hết.
Như vậy 7 đời chứa nhóm tuệ vô lậu đốt cháy hết phiền não.
Lại pháp ấy ứng với 7 hữu. Có Tu-đà-hoàn đời nay vào Niếtbàn,
có đời thứ 2 thứ 3 cùng cực là đến đời thứ 7. Đó gọi là Tuđà-
hoàn.
Hành Tư-đà-hàm, là tư duy đoạn kết có 9 phẩm. Nếu đoạn 1,
2, cho đến 3 4 5, đó là người hành Tu-Đà-Hàm. Có người nói chỉ
dùng 1 vô ngại đạo mà đoạn. Điều này không phải như vậy, vì
trong kinh Phật nói phải đem vô lượng tâm mà đoạn trừ, như
trong Kinh Phủ Kha Dụ đã nói.
Lại hành giả Tư-đà-hàm còn có tên là Gia gia, là người nầy
hoặc 2 hoặc 3 phen qua lại hoặc hiện thân nầy được vào Niết-bàn.
Đó là hành giả Tư-đà-hàm.
Tư-đà-hàm, là chỉ còn đến nhân gian một phen rồi nhập Niếtbàn.
Người nầy do tư duy đoạn được kết bạc, trụ trong bạc địa này
gọi là Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm này, hoặc hiện đời nầy vào Niếtbàn.
Thành Thật Luận Trang 34 Tuệ Quang Foundation
Hành A-na-hàm, là nếu đoạn được kết phẩm thứ 7, thứ 8,
người nầy đều gọi là hành A-na-hàm. Đoạn phẩm thứ 8 gọi là
Nhất chủng. Người hành A-na-hàm, hoặc có người hiện đời nầy
được vào Niết-bàn. Lìa hết 9 phẩm kết của cõi Dục nên được gọi
là A-na-hàm. A-na-hàm nầy có 8 thứ sai khác. Như là có người do
thân trung ấm nhập diệt, có người do sinh hữu nhập diệt, có người
không hành nhập diệt, có người có hành nhập diệt, có người lên
đến A-ca-ni-trá hành nhập diệt, có người đến Vô sắc xứ, có người
chuyển thế nhập diệt, có kể do hiện đời nhập diệt. Tùy theo căn cơ
thượng, trung, hạ nên có sai khác.
Trung ấm nhập diệt cũng có 3 thứ thượng căn, trung căn, hạ
căn. Có A-na-hàm rất chán thế gian mà có chút chướng ngại nên
hiện đời không được nhập diệt, người nầy khi ở trong thân trung
ấm mới nhập diệt. Sinh hữu cũng có 3 hạng là sinh diệt, hành diệt
và không hành diệt. Sinh diệt, là khi sinh rất chán lìa sinh hữu liền
vào Niết-bàn, gọi là sinh diệt, vì căn cơ lanh lợi. Hoặc có khi sinh
xong, các pháp vô lậu đạo tự nhiên hiện tiền không cần gia hạnh
siêng tu mà vào Niết-bàn, gọi là không hành diệt, vì căn cơ bậc
trung. Hoặc có người sinh xong rất sợ việc thụ thân, siêng tu hành
đạo mới vào Niết-bàn, gọi là hành diệt vì căn cơ đần độn. Thượng
hành diệt cũng có 3 hạng : Hoặc từ một nơi mạng chung, đến một
nơi khác sinh, rồi bèn vào Niết-bàn, gọi là lợi căn. Hoặc từ 2, 3
nơi sinh gọi là trung căn. Tất cả nơi mạng chung, tất cả nơi sinh,
gọi là độn căn. Từ Sơ thiền đến cõi trời Quảng Quả, gọi là quyết
định. Đến cõi trời Quảng Quả rồi nếu sinh về cõi trời Tịnh Cư,
người nầy không còn đến cõi Vô săc xứ, vì ưa thích tuệ. Nếu vào
Vô sắc xứ thì người này quyết không sinh về cõi trời Tịnh Cư, vì
ưa thích định.
Chuyển thế, là hoặc đời trước chứng được quả Tu-đà-hoàn,
hay quả Tư-đà-hàm; về sau chuyển thân lại chứng được quả A-nahàm.
Người nầy không vào cõi Sắc, cõi Vô sắc.
Thành Thật Luận Trang 35 Tuệ Quang Foundation
Hiện diệt, là người lợi căn số một, tức hiện thân này được
vào Niết-bàn.
Lại có 2 hạng người : một là tín giải thoát, hai là kiến đắc.
Hai hạng nầy vì căn cơ có sai khác, như người học nhân độn căn
trong tư duy đạo gọi là tín giải thoát. Lợi căn là kiến đắc. Nếu Ana-
hàm đủ 8 pháp giải thoát gọi là thân chứng, các hạng nầy đều
là người hành A-la-hán vì đồng đoạn kết. Nếu đoạn diệt tất cả
phiền não gọi là A-la-hán. A-la-hán có 9 hạng : 1. Thoái tướng. 2.
Thủ tướng. 3. Tử tướng. 4. Khả tiến tướng. 5. Trụ tướng. 6. Bất
hoại tướng. 7. Tuệ giải thoát tướng. 8 Cầu giải thoát tướng. 9. Bất
thoái tướng. Các bậc A-la-hán nầy vì chứng được Tín v.v… các
căn nên có sai khác nhau.
Người rất độn căn gọi là thoái tướng, là thoái lui mất Tammuội.
Vì thoái lui Tam-muội nên trí tuệ vô lậu không thể hiện
tiền. Thủ tướng, là người có chút căn cơ khá hơn, nếu gìn giữ
Tam-muội thì không lui mất, mà không giữ thì mất. Tiền thoái
tướng, là trước kia dầu có cố giữ cũng lui mất. Tử tướng, là người
nầy căn cơ lại khá hơn chút nữa; rất chán các hữu, người nầy vì
không thể được Tam-muội nên trí tuệ vô lậu khó được hiện tiền,
giả sử được nhưng vui mừng rồi cũng mất, nên tự tìm lấy cái chết.
Trụ tướng, là nếu được Tam-muội, nhưng không tiến không lui
gọi là Trụ tướng. Ba hạng trước là ở trong thoái phần Tam-muội,
còn trụ tướng nầy ở trong trụ phần Tam-muội. Khả tiến tướng, là
nếu được Tam-muội thì tăng thêm bền chắc, người nầy trụ ở trong
tăng phần Tam-muội. Bất hoại tướng, là được Tam-muội rồi các
thứ nhân duyên không thể làm hư hoại. Người nầy trụ ở đạt phần
Tam-muội, vì trí tuệ rất sắc bén nên khéo lấy Tam-muội nhập vào
tướng trụ khởi nên không thể hoại. Do diệt tận định nên có 2
hạng người không được định này gọi là Tuệ giải thoát. Được định
này gọi là câu giải thoát. Bất thoái tướng, là những công đức được
đều không thoái mất, như trong kinh nói : Phật bảo các Tì-kheo :
Thành Thật Luận Trang 36 Tuệ Quang Foundation
Nếu đệ tử ta đem giường chở ta, ta trước đã được, đều không lui
mất.
Chín hạng như vậy gọi là vô học nhân. Trước có 18 học nhân
và 9 vô học là 27 hạng người, tất cả gọi là ruộng phúc của thế
gian. Trong Tăng Bảo có đầy đủ công đức cho nên đáng kính lễ.
Phẩm 11 : Ruộng phúc
Hỏi : Do những gì mà các hiền thánh nầy gọi là ruộng phúc ?
Đáp : Dứt hết tham, sân si và các phiền não nên gọi ruộng
phúc. Như nói không trừ bỏ thứ cỏ giống như lúa, thì hại cây lúa.
Cho nên cúng thí người vô dục được quả báo lợi lớn.
Lại người nầy tâm không, nên gọi ruộng phúc. Sở dĩ vì sao ?
Vì không tướng nên các phiền não tham, sân si không khởi, không
sinh ác nghiệp.
Lại các hiền thánh chứng được pháp bất tác nên gọi là ruộng
phúc.
Lại các người nầy thiền định đã được v.v... đều thanh tịnh, vì
đã vĩnh viễn lìa các phiền não lớn nhỏ.
Lại xả bỏ hết sự buồn vui nên gọi ruộng phúc.
Lại có thể dứt trừ 5 thứ trói buộc tâm, nên tâm được thanh
tịnh gọi là ruộng phúc.
Lại nữa, thành tựu 8 thứ ruộng công đức.
Lại dùng 7 thứ định cụ khéo giữ nơi tâm.
Lại có thể tận diệt 7 thứ lậu nên không còn các lầm lỗi.
Lại đầy đủ các giới hạnh, 7 pháp thanh tịnh.
Lại được thành tựu 8 công đức của hạnh thiểu dục và tri túc.
Lại có thể vượt qua bờ bên kia, và đang siêng có thể cầu độ,
nên gọi là ruộng phúc. Như trong kinh nói : Chỉ có thể phát tâm
muốn tu thiện pháp còn được nhiều lợi ích, huống chi là tu hành.
Các hiền thánh nầy thường hành thiện pháp nên gọi ruộng phúc.
Như trong kinh nói : Có người thí chủ nào cúng dường Tì-kheo có
Thành Thật Luận Trang 37 Tuệ Quang Foundation
trì giới, vị ấy nhận cúng dường rồi nhập vô lượng định, người thí
chủ được phúc vô lượng. Trong chúng có người nhập vô lượng
Tam-muội, vô tướng Tam-muội, vô động Tam-muội có thể khiến
thí chủ được quả báo vô lượng, nên gọi ruộng phúc.
Lại như trong kinh nói : Ba việc hòa hợp nên được phúc lớn.
Một là có lòng tin, hai là vật thí, ba là ruộng phúc. Với trong
chúng Tăng, người có nhiều công đức, đối với người có công đức
ấy dễ sinh lòng tin.
Lại nữa, cúng chúng Tăng đủ 9 nhân duyên nên được quả
báo lớn, và cúng chúng Tăng là vì người thụ thanh tịnh nên người
thí chắc chắn được thanh tịnh.
Lại cúng thí có 8 thứ : Có tâm thanh tịnh ít, vật thí cũng ít,
thí cho người phá giới. Có tâm thanh tịnh ít, vật thí nhiều, thí cho
người phá giới. Có tâm thanh tịnh ít, vật thí cũng ít, thí cho người
giữ giới. Có tâm thanh tịnh ít, vật thí nhiều, thí cho người trì giới.
Có tâm thanh tịnh nhiều, thí 4 thứ vật cũng như vậy. Ở trong
chúng Tăng cúng thí chắc chắn được thành tựu hoặc 2 hoặc 3. Tất
cả người thiện đều nhờ chúng Tăng mà tăng thêm công đức, nhiên
hậu mới tùy ý nguyện hồi hướng Bồ-đề. Và nhờ đem vật thí Tăng
nầy đều sẽ được quả giải thoát ở trong sinh tử quyết không thể
hết.
Lại đem thí chúng Tăng đều vì trang nghiêm tâm.
Lại nữa, nếu đối với một vị Tăng sinh lòng tin thanh tịnh
hoặc có khi có thể hoại, nhưng đối với chúng Tăng lòng tin thanh
tịnh quyết không hư hoại.
Lại đối với một người sinh lòng ái kính hoặc không được
rộng, mà đối với chúng Tăng sinh lòng tin kính thì tâm được rộng
lớn vì cảnh duyên nhiều vô lượng.
Lại nữa, cúng thí vì muốn tất cả người vào Tăng số, vì tâm
rộng lớn nên được quả báo cũng lớn.
Thành Thật Luận Trang 38 Tuệ Quang Foundation
Do các duyên như trên nên các hiền thánh nầy gọi là ruộng
phúc. Cho nên đáng kính lễ.
Phẩm 12 : Cát tường
Bởi Tam Bảo nầy có công đức đầy đủ nên kinh nói đến
trước.
Lại nữa, ngôi Tam Bảo nầy với tất cả thế gian là điều tốt lành
thứ nhất. Như trong kệ Cát tường nói Phật, Pháp và chúng Tăng
gọi là rất tốt lành.
Lại có các kinh lấy tốt lành làm tăng tuổi thọ muôn năm cho
người mới học đạo được tiếng tăm đồn khắp, đó là ý kiến của
người tác kinh, như dùng các chữ A Đà trước đầu kinh, đây không
phải là tướng tốt lành, sau sẽ nói rộng. Nếu người nào muốn cầu
điều rất tốt lành thứ nhất chính là Tam Bảo. Cho nên phải qui y.
Như bài kệ Cát tường nói :
Phật là bậc Đại giác,
Đấng Đạo sư cao tột,
Trong các cõi trời, người,
Đó là rất tốt lành.
Nếu người đối với Phật,
Vững lòng tin không động,
Vâng giữ giới thanh tịnh,
Đó là rất tốt lành.
Xa lìa người ngu si
Gần gũi người có trí,
Người đáng kính thì kính,
Đó là rất tốt lành.
Cho nên phải kính lễ Tam Bảo vì rất tốt lành. Tôi trước phải
thuyết minh.
THÀNH THẬT LUẬN
Thành Thật Luận Trang 39 Tuệ Quang Foundation

CÒN NỮA
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN quyển 2

( Quyển 2 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 13 : Lập luận
Nay muốn luận giải Phật pháp lợi ích thế gian, vì Phật đem
tâm đại bi làm lợi ích cho tất cả thế gian nên nói pháp nầy rộng
không biên giới. Như hoặc có người chỉ vì dòng họ Bà-la-môn mà
nói kinh giải thoát. Phật nói kinh đều vì độ thoát 4 phẩm loại
chúng sinh cho đến loài súc sinh cũng không giới hạn.
Hỏi : Không nên tạo luận để luận giải lời Phật. Sở dĩ vì sao ?
Nếu Phật tự luận thì nên gọi là luận, nếu Phật không luận thì
người khác không nên luận. Sở dĩ vì sao ? Vì khó hiểu thấu ý thú
của bậc Nhất thiết trí, không biết nói việc ấy để làm gì. Nếu
không hiểu được ý Phật, mà nói ra tức là tự hại. Như trong kinh
nói : Có 2 hạng người hủy báng Phật, một là vì không tin, ganh
ghét nên hủy báng, hai là tuy có tin lời Phật nói, nhưng không thể
lãnh thụ chắc chắc cũng là hủy báng Phật. Dù có chân trí mà
không hiểu ý Phật, còn không nên luận giải lời Phật nói, huống là
chưa được chân trí mà muốn tạo luận luận giải ý Phật ư ? Sở dĩ vì
sao ? Như trong Kinh Dị Luận, Phật vì xúc nên nói việc như vậy.
Các Tì-kheo có nhiều luận nghị khác nhau đều không đúng ý
Phật.
Lại như trưởng lão Đại Ca-chiên-diên bảo các Tì-kheo rằng :
Như người đốn cây đại thụ, bỏ hẳn thân gốc, mà chỉ lấy cành lá.
Các người cũng vậy, bỏ rời Như Lai mà hỏi ta ư ? Như Đại Cachiên-
diên trong luận nghị mà thí dụ mình như cành lá huống chi
người khác làm sao hiểu được lời Phật.
Thành Thật Luận Trang 40 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật hỏi Xá-lợi-phất : Thế nào là học nhân ? Thế nào là
số pháp nhân ? Ba phen hỏi mà không đáp được.
Lại nữa, Phật là cội gốc của tất cả các pháp, duy Phật mới
hiểu, các người khác không thể hiểu được.
Lại khi A-nan bạch Phật rằng : Trong đường đắc đạo gặp
thiện tri thức là được nửa phần lợi ích. Cũng có lý. Sở dĩ vì sao ?
Vì phải nhờ 2 nhân duyên chính kiến mới được sinh, một nghe từ
người khác, hai tự mình chính niệm. Phật bảo A-nan : Chỉ gặp
được thiện tri thức, thế là đầy đủ lợi ích đắc đạo cho mình rồi.
Lại như Phật nói : Nếu ta vì ông nói pháp, mà người ấy
không hiểu ý ta nên sinh việc tranh luận. Nay các luận sư, mỗi
người đều chấp theo ý mình. Hoặc cho quá khứ vị lai có pháp;
hoặc có người cho là không. Phải biết các luận sư ấy chấp như
vậy, là vì không hiểu Như Lai tùy cơ thuyết pháp nên sinh tranh
luận.
Lại như A-nan vì Tam-ma-đề mà nói các thụ đều là khổ. Bấy
giờ, Phật bảo các Tì-kheo rằng : Các ông xem A-nan hãy còn lờ
mờ nghĩa ấy.
Lại có các luận sư bảo : A-la-hán nên thụ cúng dường trước.
Có Tì-kheo không hiểu liền đến hỏi Phật. Phật bảo : Ở trong pháp
ta, người xuất gia trước nên thụ cúng dường. Việc ăn uống là
thường mà còn không biết huống chi ý Như Lai nói pháp vi diệu.
Vì các lẽ nói trên, cho nên không nên tạo luận.
Đáp : Không phải vậy. Sở dĩ vì sao ? Vì có nhân duyên nên
có thể biết ý người khác, như trong kệ nói : Có thể biết ý người
thuyết giả hướng về nơi nào, cũng biết thuyết giả muốn nói việc
gì. Có 2 thứ đạo : Thánh đạo và Thế gian đạo. Vấn đề này sau sẽ
nói rộng. Nhờ 2 đạo này nên được biết ý thuyết giả.
Lại nữa, trong Kinh Dị Luận Phật cũng vẫn cho tạo luận.
Lại như Ca-chiên-diên và các vị đại luận nghị, đã lĩnh hội
được ý Phật, nên Phật đều khen ngợi.
Thành Thật Luận Trang 41 Tuệ Quang Foundation
Lại các Tì-kheo như Ưu-đà-di, Tì-kheo-ni Đàm-ma-trần-na
đều muốn xin tạo luận Phật pháp. Phật nghe liền cho ngay. Bởi
Phật pháp thâm diệu, ai hiểu thì tạo mà không hiểu thì thôi. Như
vậy ngoải ra các câu hỏi, Phật là cội gốc các pháp đều lấy đây làm
câu trả lời chung.
Lại nữa, cần nên tạo luận. Sở dĩ vì sao ? Vì, nếu kinh mà có
tạo luận thì ý nghĩa dễ hiểu, Pháp-Bảo được tồn tại ở đời bền lâu.
Lại Phật đã cho tạo luận, như trong kinh nói : Phật bảo Tìkheo
tùy ý tạo luận nhưng nên khéo thụ trì. Cho nên trong Tu-đala
lấy nghĩa mà lập luận, riêng gọi là Dị Bộ, cho nên phải tạo luận.
Lại như Phật vì các chúng sinh đáng độ nên nói các môn luận
nghị thế gian, như bọn Sa-đề không hiểu nổi nên tâm họ mê loạn.
Nghĩa là bọn Sa-đề Tì-kheo chủ trương sinh tử vãng lai thường là
một thức. Phật mới nói các pháp như vậy. Nếu không luận nghị
làm sao giải thích được ? Bởi các duyên nói trên, nên phải tạo
luận.
Phẩm 14 : Các môn luận
Luận có 2 môn : 1. Thế giới môn. 2. Đệ nhất nghĩa môn. Do
thế giới môn nên nói có ngã. Như trong kinh nói : Ta thường tự đề
phòng, làm thiện tự được thiện, làm ác tự được ác.
Lại trong kinh nói : Tâm thức là thường.
Lại nói : Trọn đêm tu tâm, chết được sinh lên cõi trên.
Lại nói : Tác giả khởi nghiệp, tác giả tự chịu.
Lại nói : Chúng sinh nào đó sinh về nơi nào đó v.v… Như
vậy đều do thế giới môn mà nói.
Đệ nhất nghĩa môn, là đều nói Không, nói Vô. Như trong
kinh nói : Trong 5 ấm nầy không có ta và vật sở hữu của ta. Tâm
như gió như ngọn lửa, sinh diệt từng mỗi niệm, tuy có các nghiệp
và quả báo của nghiệp, nhưng tác giả và thụ giả đều bất khả đắc.
Như Phật do nhân duyên 5 ấm liên tục tiếp nối nên nói có sinh tử.
Thành Thật Luận Trang 42 Tuệ Quang Foundation
Lại có 2 thứ luận môn : 1. Thế tục môn. 2. Hiền thánh môn.
Thế tục môn, là do thế tục nên nói tháng hết. Kỳ thật tháng không
hết. Như bà mẹ Ma-già-la xưng với con dâu là mẹ nhưng kỳ thật
không phải mẹ. Như trong kinh nói : Lưỡi có khả năng biết vị,
nhưng đó là do thiệt thức biết vị chứ không phải cái lưỡi biết vị.
Như nói người giáo đâm là người bị khổ. Thực ra đấy cũng là
thức biết khổ, chứ không phải người thụ khổ. Như người bần tiện
mà đặt tên là Phú Quý. Phật cũng tùy người mà gọi Phú Quý.
Lại Phật gọi ngoại đạo Bà-la-môn cũng gọi Sa-môn.
Lại như các dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Phật cũng tùy tục gọi
họ là tôn quý.
Lại như một đồ vật, tùy theo mỗi nước mà có tên gọi khác.
Phật cũng tùy theo mà gọi.
Lại như Phật nói : Đây là lần chót ta xem thành Tỳ-da-ly.
Những lời nói như vậy đều tùy theo thế tục mà nói gọi là Thế tục
môn.
Hiền thánh môn, là như trong kinh nói : Do nhân duyên sinh
thức, mắt v.v… các căn giống như biển cả.
Lại như kinh nói : Chỉ có ấm, giới và nhập các duyên hòa
hợp, chứ không có tác giả và thụ giả.
Lại nói tất cả khổ. Như trong kinh nói : Người đời nói vui,
thánh nhân nói khổ. Trái lại thánh nhân nói khổ, người đời nói
vui.
Lại có thuyết, nói không, vô tướng gọi là Hiền thánh môn.
Và còn có Ba thời luận môn là nếu trong điều này nói là sắc, nếu
sắc đã từng có, sẽ có, nay có, đều gọi là sắc. Thức cũng như vậy,
nếu thức đã từng biết, sẽ biết, nay biết, đều gọi là thức. Các điều
như trên, đều gọi là Ba thời luận môn.
Lại nữa, hoặc có luận môn, là nếu có xúc chắc chắn do 6
nhập, chứ không phải tất cả 6 nhập đều làm nhân cho xúc. Nếu có
ái chắc chắn do nơi thụ, không phải tất cả thụ đều làm nhân cho
Thành Thật Luận Trang 43 Tuệ Quang Foundation
ái. Hoặc nói nhân đầy đủ, như xúc là nhân duyên cho thụ. Hoặc
nói nhân không đầy đủ, như thụ làm nhân duyên cho ái mà không
vô minh. Hoặc có dị thuyết, như trong kinh nói : Tâm hoan hỷ thì
thân khoan khoái. Tam thiền không hỷ, thân cũng có khoan khoái.
Lại nói khoan khoái là thụ lạc. Tứ thiền có khoan khoái mà
không có thụ lạc. Đó gọi là dị thuyết.
Lại có thông suốt và bế tắc 2 thứ luận môn. Như trong kinh
nói : Nếu có người khởi hành đi đến tháp để cúng dường, giữa
đường bị chết, liền được sinh lên trời. Đó gọi là thông suốt.
Lại kinh khác nói : Người gây nghịch tội không được sinh
lên trời. Đó gọi là bế tắc.
Lại trong kinh nói : Người thụ các thứ dục không điều ác nào
không gây. Đó gọi là thông suốt. Bậc Tu-đà-hoàn tuy còn thụ các
thứ dục, mà không hay gây nghiệp nhân đọa ác đạo. Đó gọi là bế
tắc.
Lại trong kinh nói : Do mắt duyên sắc mới sinh nhãn thức.
Đó gọi là thông. Nếu vậy thì nên duyên tất cả sắc đều sinh nhãn
thức, nhưng không phải vậy.
Lại trong kinh nói : Do tai duyên tiếng sinh nhĩ thức, mà
không sinh nhãn thức. Đó gọi là tắc.
Lại nữa, đã nói thông, tắc đều có đạo lý không hoại pháp
tướng.
Lại có 2 thứ luận môn : Một quyết định, hai không quyết
định. Quyết định là như nói Phật bậc Nhất thiết trí. Lời Phật nói
ra gọi là chân diệu pháp. Chúng đệ tử của Phật gọi là người chính
hạnh.
Lại nói tất cả pháp hữu vi v.v... đều vô thường, khổ, không,
vô ngã, tịch diệt, Niết-bàn. Các pháp môn như thế thì gọi là quyết
định. Không quyết định, là như nói ai chết cũng đều sinh. Thế là
bất định; vì có ái thì sinh, hết ái thì diệt.
Thành Thật Luận Trang 44 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Nếu được tâm định đều sinh thật trí. Đây
cũng bất định, vì thánh nhân được định có thể sinh thật trí mà
ngoại đạo được định thì không thể sinh trí.
Lại như kinh nói cầu gì đều được. Đấy cũng bất định. Hoặc
được hoặc không được. Như nói 6 nhập chắc chắn có thể sinh
xúc, cũng là bát định. Hoặc khi có sinh hoặc khi không sinh. Các
điều như thế gọi là Bất định môn.
Lại như hữu vi không phải luận môn. Như nói hoa thơm cỏ
lạ, không xông nghịch gió.
Lại nói hoa Câu-tì-la có thể nghịch gió nghe mùi, vì là hoa
người nên nói nghich gió không nghe; vì là hoa trời nên nói xông
nghịch gió.
Lại nói có 3 sự cảm thụ là cảm thụ khổ, cảm thụ vui và cảm
thụ không khổ không vui.
Lại các kinh khác nói có bao nhiêu cảm thụ đều là khổ. Có 3
thứ khổ là Khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ. Vì nghĩa nầy nên mới
nói có bao nhiêu thụ tất cả đều khổ.
Lại nói khổ này có 3 thứ là mới, cũ, vừa. Thụ mới thì vui, lâu
chán thì khổ, vừa thì không khổ không vui.
Lại nói vì người đã đắc đạo nên gọi là đạo nhân, người chưa
đắc đạo cũng gọi là đạo nhân. Có những nhân nương nhau như
vậy mà được tên gọi.
Lại còn có Cận luận môn, như Phật bảo Tì-kheo : Ông dứt hý
luận thì được Nê-hoàn. Tuy chưa được liền, nhưng vì gần được
nên cũng gọi là được.
Lại có Đồng tướng luận môn, như nói một việc mà các việc
khác đồng nhau, đều gọi là đã nói.
Lại như Phật nói tâm là nhẹ nhàng tức là đã nói các tâm số
pháp khác.
Lại có Tùng đa luận môn, như Phật nói : Nếu người không
biết tướng sinh diệt của 2 thứ kiến chấp, người ấy còn gọi đều có
Thành Thật Luận Trang 45 Tuệ Quang Foundation
tham dục, nếu ai biết được thì gọi được ly dục. Người Tu-đà-hoàn
cũng biết tướng sinh diệt của 2 kiến mà còn tham dục, nhưng bởi
là người biết được phần nhiều là người ly dục.
Lại nữa, có thứ luận môn trong nhân nói quả, như nói thí
thực là cho 5 việc : Mạng sống, sắc đẹp, sức mạnh, niềm vui và
biện tài. Kỳ thật không cho mạng sống v.v… 5 việc kia chỉ cho
cái nhân.
Lại như nói ăn tiền. Tiền không thể ăn được, chỉ nhờ tiền mà
được cái ăn, nên gọi là ăn tiền đó thôi.
Lại như kinh nói : Nữ nhân cấu uế. Kỳ thật không phải cấu
uế, bởi tham đắm các cấu uế phiền não, do đó mà gọi cấu uế.
Lại nói 5 trần là dục, mà thật không phải dục; vì nó hay sinh
dục, mới gọi nó là dục.
Lại nhân duyên vui, gọi là vui. Như nói lấy pháp tập hợp
người, người này là vui.
Lại nhân duyên khổ, gọi đó là khổ, như nói ở chung với
người ngu, gọi đó là khổ. Như nói quá khổ quá vui.
Lại nói mạng sống là nhờ vật mạng, như trong kệ nói : Của
tư sinh đều là ngoại vật của mạng sống, như cướp vật của người,
gọi là cướp mạng.
Lại nói lậu nhân gọi là lậu. Như Kinh Thất Lậu nói : Trong
đây 2 thứ là thật lậu, ngoải ra 5 thứ kia là nhân duyên cho lậu mà
thôi.
Lại trong quả nói nhân, là như Phật nói : Ta phải chịu nghiệp
đời trước. Nghĩa là lãnh lấy nghiệp quả. Như thế có rất nhiều luận
môn đều cần phải biết hết.
Phẩm 15 : Luận về sự khen ngợi
Nên học luận nầy. Sở dĩ vì sao ? Vì học tập luận nầy được
pháp của người trí. Như trong kinh nói : Đời có 2 hạng người, một
là người trí, hai là người ngu. Nếu không khéo phân biệt các pháp
Thành Thật Luận Trang 46 Tuệ Quang Foundation
ấm, giới, các thứ nhập, 12 nhân duyên và nhân quả gọi là người
ngu. Nếu khéo phân biệt được các pháp ấm, giới nhập thì gọi là
người trí. Nay trong luận nầy chính là phân biệt giải rõ các pháp
ấm, giới, nhập, cho nên nhờ luận nầy nên không gọi là phàm phu.
Lại có 2 hạng người : một là phàm phu, hai là không phải
phàm phu. Như nói tuy cạo râu tóc, mặc áo pháp y, thụ oai nghi
Phật, mà còn cách xa Phật pháp là vì không thành tựu các căn như
tín v.v… Nếu người có thể thành tựu các căn như tín v.v… tuy là
cư sĩ tại gia mà không gọi là phàm phu. Như trong kinh nói : Có 4
hạng người. Có người vào Tăng oai nghi mà không vào Tăng số,
có người ở trong Tăng số mà không có Tăng oai nghi, có người
vào Tăng oai nghi và vào Tăng số, có người không có Tăng oai
nghi, cũng không phải Tăng số. Hạng đầu gọi là xuất gia phàm
phu, hạng tiếp theo gọi là tại gia thánh nhân, hạng thứ 3 gọi là
xuất gia thánh nhân, hạng thứ tư gọi là tại gia phàm phu. Do đó
mới biết lìa các căn tín v.v… thì không vào Tăng số. Cho nên phải
vì các căn tín v.v… siêng tu tinh tiến. Muốn được tín v.v… các
căn cần phải đối với Phật pháp nghe học lãnh thụ đọc tụng như
thuyết tu hành. Cho nên cần phải học tập luận Phật pháp nầy.
Lại nữa, từ luận nầy được 2 thứ lợi là tự lợi, lợi tha. Như
trong kinh nói : Có 4 hạng người là có người tự lợi không lợi tha,
có người lợi tha không hay tự lợi, có người lợi cả hai, có người
không lợi cả hai. Nếu có thể tự đầy đủ các công đức giới mà
không thể làm cho người trụ trong giới, đều gọi là tự lợi. Như vậy
4 hạng, nếu người tuy có khả năng tự lợi lại làm cho người khác
tu bố thí v.v… được quả báo lớn, cũng gọi là lợi tha. Trong đây ý
Phật không nói lợi nầy. Nếu người chỉ vì người khác nói pháp thì
gọi là lợi tha. Người ấy tuy không tự tùy pháp hành, nhưng vì
người nói pháp nên mình cũng được lợi. Như trong kinh nói : Vì
người nói pháp được 5 thứ lợi. Trong đây ý Phật cũng không nói
lợi nầy. Trong nầy chỉ nói lợi đệ nhất cao tột, nghĩa là như thuyết
Thành Thật Luận Trang 47 Tuệ Quang Foundation
tu hành sẽ được hết các thứ lậu. Cho nên nói pháp có thể làm lợi
cho người khác. Vì là gồm lợi, nên gọi là hơn cả trong mọi người,
như vị đề hồ so với các vị khác.
Lại nữa, người nầy đang ở chỗ sáng, sau cũng vào chỗ sáng.
Chúng sinh trong thế gian, phần nhiều từ chỗ tối, vào chỗ tối. Nếu
tu chút ít Phật pháp, người nầy cũng có thể từ tối vào sáng. Sở dĩ
vì sao ? Vì tu bố thí được lợi không bằng lợi nghe Phật pháp. Nếu
được nghe chút ít lời Phật nói có thể được đạt tuệ, phá các suy
não, được lợi ích vô lượng. Như trong kinh nói : Có 4 hạng người,
có người từ tối vào tối; có người từ tối vào sáng; có người từ sáng
vào sáng; có người từ sáng vào tối.
Lại có 4 hạng người, có người thuận dòng; có người nghịch
dòng; có người trụ giữa dòng; và có người được qua khỏi dòng.
Nếu người nhất tâm nghe Phật pháp, người ấy liền trừ được 5 thứ
ngăn che, tu 7 thứ giác ý. Cho nên người nầy ngăn được dòng sinh
tử, gọi là nghịch dòng, cũng gọi là trụ, cũng được gọi là qua khỏi
dòng.
Lại có 4 hạng người, có người chìm luôn, có người tạm ngoi
đầu lên rồi chìm lại, có người được ngoi lên xem, và có người
được vượt qua. Nếu không thể sinh các công đức đức tùy thuận
Nê-hoàn như tín v.v… thì gọi là chìm luôn. Hoặc sinh các công
đức thế gian như tín v.v… mà không thể bền chắc, vừa sinh liền
lại lui mất, gọi là tạm ngoi lên liền chìm, sinh khởi các công đức
tùy thuận Nê-hoàn như tín v.v… và phân biệt thiện ác, gọi là ngoi
đầu lên xem, và đầy đủ tu tập các công đức tùy thuận Nê-hoàn
như tín v.v… thì gọi là người được vượt qua. Nếu người có thể
hiểu chính nghĩa Phật pháp, hoàn toàn không chìm mất, giả sử có
tạm thời thoái lui cũng không mất vĩnh viễn, là vì người nầy gọi là
người tu công đức. Nếu người không tu thân giới tâm tuệ dù làm
ác nghiệp ít cũng bị đọa ác đạo. Nếu người có tu tập thân giới tâm
tuệ, dầu gây nhiều ác, vẫn không vào ác đạo. Người tu thân, nhờ
Thành Thật Luận Trang 48 Tuệ Quang Foundation
văn tuệ mà tu thân thụ tâm pháp. Vì tu thân nên dần dần có thể
sinh các phẩm giới, định, tuệ, có thể diệt các nghiệp. Vì các
nghiệp diệt nên sinh tử cũng diệt theo.
Lại như trong kinh nói có 4 hạng người : Có hạng kết sử
nhạy bén mà không sâu. Có hạng sâu mà không nhạy bén. Có
hạng cũng sâu cũng nhạy bén và có hạng không sâu không nhạy
bén. Hạng đầu tiên gọi là có tăng thượng kết, vì thường thường
đến. Hạng kế gọi là nhuyễn trung kết, thường đến ở tại tâm. Hạng
3 gọi là như tăng thượng kết, thường đến ở tại tâm. Hạng 4 gọi là
như nhuyễn trung kết thỉnh thoảng mới đến.
Nếu người được nghe chính luận Phật pháp, thì dứt được 2
thứ kết sâu mà nhạy bén và hiểu rõ chính nghĩa Phật pháp thì
không những không não hại mình mà cũng không não hại người
khác nữa. Ngoại đạo giữ giới tức là tự não hại thân, nếu lạc vào tà
kiến tức hại người khác nữa, vì cho rằng không có tội phúc nghiệp
nhân quả báo gì cả. Nếu tu bố thí thì cũng hại mình hại người, như
trong các miếu thờ trời, sát hại biết bao nhiêu bò dê. Nếu hiểu
được nghĩa Phật pháp thì được lợi ích là không hại mình và không
hại người khác, như người được thiền định tu hạnh từ bi. Cho nên
cần phải học tập luận Phật pháp nầy.
Lại như người học luận nầy, là có thể cùng trao đổi, vì đã
hiểu chính nghĩa. Như trong kinh nói : Nếu khi luận nghị, cần
phân biệt là nên cùng nghị luận hay không nên cùng nghị luận.
Nếu người không trụ trong pháp của người trí, không trụ trong xứ
phi xứ, hoặc không trụ trong phân biệt và không trụ trong đạo thì
những người ấy đều gọi không nên cùng nghị luận. Nếu trái lại
các thứ trên gọi là có thể cùng nghị luận. Không trụ trong pháp
của người trí, là luận giả lấy chính trí tuệ khéo giải nghĩa thú,
nhiên hậu mới chấp dụng. Người ấy không biết thì không chấp.
Như các phái Ni-kiền tử tự nói : Thầy ta là người đáng tin. Nhưng
đó chỉ theo lời nói suông mà thôi. Không trụ xứ phi xứ, là không
Thành Thật Luận Trang 49 Tuệ Quang Foundation
trụ trong dụng nhân. Các ngoại đạo đối với 2 thứ nhân là nhân
chung và nhân khác. Nếu có người hỏi nhân chung, thì họ lấy
nhân khác đáp. Hoặc có người hỏi nhân khác, thì lại lấy nhân
chung đáp. Thế là không trụ trong 2 thứ nhân như vậy. Không trụ
trong phân biệt, là không trụ trong thí dụ. Không trụ trong đạo là
không trụ đạo luận nghị. Như nói luận giả đừng thốt ra lời thô ác,
đừng bỏ nghĩa tông, chỉ nên nói lời phương tiện thiệt lợi khuyến
dụ khiến người tỏ ngộ tự tâm vui mừng gọi là Thánh ngữ pháp.
Trong đây nếu luận giả là người hiểu biết chính nghĩa Phật pháp
mới nên cùng luận, ngoải ra đều không phải.
Lại có người không nên cùng nghị luận. Có lối nên dùng
quyết định để đáp câu hỏi thì lấy bất định đáp, nên dùng phân biệt
đáp câu hỏi thì lấy bất phân biệt đáp, nên chất vấn lại để đáp câu
hỏi thì không chất vấn lại mà đáp, nên bỏ không đáp câu hỏi mà
đáp chứ không bỏ. Trái lại với các thứ trên thì gọi là nên cùng
nghị luận.
Nên định đáp câu hỏi, là duy có một nhân. Như Phật Thế
Tôn người đời không sánh bằng. Cứ như đây mà suy rộng ra.
Nên phân biệt đáp câu hỏi, là lại có các nhân duyên như chết
rồi lại nối tiếp nhau.
Nên chất vấn lại đáp câu hỏi, là như có người hỏi mình, mình
hỏi lại bắt người ấy đáp.
Nên bỏ không đáp câu hỏi, là như pháp không có thật thể, chỉ
có giả danh. Nếu hỏi pháp này là một hay là khác, là thường hay
là vô thường v.v…, đó là nghĩa không đáp, vì duy có người nào
hiểu Phật pháp mới có thể biết được. Cho nên phải cần học tập
luận Phật pháp nầy.
Lại có 3 hạng người : chính định, tà định và bất định. Người
chính định quyết vào Nê-hoàn, người tà định quyết không vào Nêhoàn,
ngoài ra gọi là bất định. Nếu người có thể hiểu nghĩa Phật
pháp, thì quyết vào chính định.
Thành Thật Luận Trang 50 Tuệ Quang Foundation
Lại có 4 hạng người : thuần tội, nhiều tội, ít tội và không tội.
Thuần tội là như người chỉ có bất thiện mà không có một pháp
thiện, nhiều tội là nhiều ác ít thiện, ít tội là nhiều thiện ít ác, và
không tội là chỉ có thiện pháp mà không có bất thiện. Nếu người
nào có thể hiểu chính nghĩa Phật pháp quyết được vào 2 hạng ít
tội và không tội.
Lại nữa, nếu người hiểu nghĩa Phật pháp thì chịu khổ có hạn,
vì quyết sẽ được đến Niết-bàn.
Phẩm 16 : Bốn pháp
Lại nữa, nếu học tập luận nầy được thượng nhiếp pháp. Như
trong kinh nói : Có 4 nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và
đồng lợi. Bố thí là áo cơm các vật, đem các vật nầy bố thí để thâu
nhiếp chúng sinh, nhưng vẫn bại hoại. Ái ngữ là tùy theo ý mà
nói, mà cũng có lỗi vì thủ lấy ý người kia. Lợi hành là mình cầu
lợi vì người khác, như có cơ hội giúp người thành sự, cũng bị hư
hoại. Đồng lợi là như đi chung một thuyền, buồn vui cùng nhau,
cũng hoặc có khi hoại. Nếu người đem pháp mà bố thí, mà ái ngữ,
mà lợi hành và đồng lợi để nhiếp hóa chúng sinh thì không thể hư
hoại, vì đem pháp mà nhiếp hóa là học tập luận nầy.
Lại nữa, học tập luận này sẽ được chỗ y chỉ cao. Như trong
kinh nói : Y theo pháp không y theo người. Có người tuy nói : Tôi
theo Phật nghe pháp, hoặc theo Tì-kheo nhiều tri thức mà nghe,
hoặc theo nghe hai ba Tì-kheo, hoặc nghe trong đại chúng, hoặc ở
bên các Đại đức tôn túc mà được nghe. Không nên tin những
người nầy mà liền lãnh thụ những lời nói của họ. Nếu lời nói của
họ ăn nhập trong Tu-đa-la, không trái pháp tướng, tùy thuận Tì-ni
nhiên hậu mới nên lãnh thụ. Nói ăn nhập trong Tu-đa-la là đúng
vào trong liễu nghĩa khế kinh. Liễu nghĩa khế kinh là nghĩa lý
không trái với pháp tướng. Pháp tướng là tùy thuận Tì-ni. Tì-ni
gọi là Diệt. Như quán pháp hữu vi là Thường, là Lạc, là Ngã, là
Thành Thật Luận Trang 51 Tuệ Quang Foundation
Tịnh thì không diệt được tham sân si v.v… Nếu quán pháp hữu vi
là vô thường, khổ, không vô ngã thì diệt được tham v.v.... Biết
được vô thường v.v... gọi là biết pháp tướng. Cho nên y pháp
không nên y người. Như nói y pháp thì đã gồm hết tất cả pháp.
Cho nên tiếp theo nói kinh liễu nghĩa chứ không y kinh không liễu
nghĩa. Kinh liễu nghĩa tức là đệ tam y nghĩa là y nơi nghĩa, không
y nơi lời nói. Nếu lời nghĩa nầy ăn nhập trong Tu-đa-la, không trái
với pháp tướng, tùy thuận Tì-ni, ấy là y chỉ. Y trí bất y thức, nói
thức là biết sắc v.v... các pháp. Như trong kinh nói : Có thể biết
nên thức trí là thông đạt thật pháp. Như trong kinh nói : Như thật
biết sắc, thụ, tưởng, hành và thức cho nên nói là trí. Như thật tức
là không. Cho nên thức có chỗ sở đắc, vì thế không nên y. Nếu y
nơi trí, tức là y nơi không. Muốn thông đạt pháp thượng y chỉ đây,
nên cần phải học tập luận nầy.
Lại như trong kinh nói : Trời, người có 4 điều có thể tăng
trưởng thiện pháp: 1. Ở chỗ thiện. 2. Y người thiện. 3. Tự phát
chính nguyện. 4. Đời trước đã trồng thiện căn. Ở chỗ thiện là ở
giữa nước, được xa lìa 5 nạn. Y người thiện là sinh được gặp Phật
ra đời. Đời trước đã trồng thiện căn là không bị điếc, câm và các
tật khác. Tự phát chính nguyện là chính kiến. Nhờ theo học nghe
Phật pháp mà sinh chính kiến. Cho nên cần phải học tập chính
luận Phật pháp nầy.
Lại nữa, người nào tụng tập luận nầy, trong tuổi thọ được lợi
ích lớn và kiên cố. Như trong kinh nói : Có 4 kiên pháp : Thuyết
kiên, định kiên, kiến kiên, giải thoát kiên. Thuyết kiên là như nói
tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, khổ, tất cả vô ngã, tịch diệt
Nê-hoàn thì gọi là thuyết kiên, đây là văn tuệ đầy đủ. Nhờ đây mà
được định, đây là tư tuệ đầy đủ.
Lại nhờ định nầy mới quán pháp hữu vi là vô thường, khổ
v.v... mới được chính kiến, gọi là tu tuệ đầy đủ. Được quả của 3
tuệ thì gọi là giải thoát kiên.
Thành Thật Luận Trang 52 Tuệ Quang Foundation
Lại như được học nghe chính luận Phật pháp thì được lợi
lớn. Như trong kinh nói 4 pháp lợi ích lớn là gần gũi người thiện,
lắng nghe chính pháp, tự chính nghĩ nhớ, tùy thuận pháp hành.
Nếu gần người thiện thì được nghe chính pháp, vì chính pháp ấy ở
nơi người thiện. Nghe chính pháp rồi thì sinh chính niệm. Đem vô
thường v.v... chính quán các pháp. Nhờ chính quán nầy, có thể tùy
pháp hành, tức được kiến giải vô lậu.
Lại được nghe luận nầy thì đủ 4 thứ đức xứ là tuệ đức xứ,
thật đức xứ, xả đức xứ, tịch diệt đức xứ. Nghe pháp sinh tuệ là tuệ
đức xứ. Nhờ trí tuệ nầy thấy được chân đế không, là thật đức xứ.
Vì thấy chân không, nên được lìa phiền não là xả đức xứ. Vì hết
phiền não tâm được tịch diệt là tịch diệt đức xứ.
Lại nữa người được nghe chính luận Phật pháp thì trồng
được 4 thứ thiện căn tùy thuận Nê-hoàn đó là noãn pháp, đảnh
pháp, nhẫn pháp, và thế gian đệ nhất pháp. Vì khi đem vô thường
v.v... các hạnh quán 5 ấm sinh tùy thuận Nê-hoàn là hạ noãn thiện
căn, có thể khiến tâm nóng nên gọi là noãn pháp. Noãn pháp tăng
trưởng thành trung thiện căn gọi là đảnh pháp. Đảnh pháp tăng
trưởng thành thượng thiện căn gọi là nhẫn pháp. Nhẫn pháp tăng
trưởng thành thượng thượng thiện căn gọi là thế gian đệ nhất
pháp.
Lại có 4 thứ thiện căn là thoái phần, trụ phần, tăng phần và
đạt phần. Lìa các thiền định mà lễ kính đọc tụng, các thiện căn
nầy gọi là thoái phần. Được các thiện căn thiền định, gọi là trụ
phần. Từ nghe nghĩ v.v... sinh các thiện căn gọi là tăng phần. Vôlậu
thiện căn, gọi là đạt phần. Nếu được nghe Phật pháp thì hẳn lìa
thoái phần được 3 phần thiện căn sau.
Phẩm 17 : Bốn đế
Nếu người được nghe nghĩa Phật pháp thì có thể biết phân
biệt rõ 4 đế là khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Khổ đế là 3 cõi. Cõi
Thành Thật Luận Trang 53 Tuệ Quang Foundation
Dục là từ địa ngục A-tì đến cõi Tha Hóa Tự Tại. Cõi Sắc là từ cõi
Phạm Thế đến cõi trời A-ca-ni-tra. Cõi Vô sắc là 4 Vô săc.
Lại có 4 sắc xứ là sắc, thụ, tưởng, hành. Các ngoại đạo hoặc
cho thức nương nơi Thần mà tồn tại. Do đó nên Phật nói thức
nương 4 chỗ này.
Lại có 4 loài sinh là loài sinh trứng, sinh thai, sinh do ẩm ướt,
sinh do biến hóa. Tất cả trời và địa ngục là hóa sinh. Ngạ quỷ
thuộc 2 thứ là thai sinh và hóa sinh. Ngoải ra gồm đủ 4.
Lại có 4 cách ăn gọi là sủy thực, xúc thực, ý tư thực, thức
thực. Sủy thực là hoặc thô hoặc tế, như cơm v.v... là thô, dầu mỡ
hương khí và các thứ uống là tế. Xúc thực là lạnh, nóng, gió
v.v.... Ý tư thực là hoặc có người nhờ nghĩ muốn mà mạng được
sống. Thức thực là thân trung ấm và địa ngục, vì các chúng sinh
nầy không có thân sắc chất; những người vào diệt tận định, tuy
không hiện thức, mà thức vẫn tồn tại nên cũng gọi là thức thực.
Lại có 6 đạo. Thượng tội là địa-ngục. Trung tội là súc sinh.
Hạ tội là ngạ quỉ. Thượng thiện là thiên đạo; trung thiện là nhân
đạo, hạ thiện là A-tu-la đạo.
Lại có 6 thứ, là địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Bốn đại
bao vây nhau trống không, có thức nương ở trong đó, thường gọi
là người.
Lại có 6 xúc nhập, là mắt v.v... 6 căn cùng với thức hòa hợp,
gọi là xúc nhập.
Lại có 7 chỗ của thức. Trong đó vì sức điên đảo nên thức
ham thích trụ ở đó.
Lại thế gian có 8 pháp là lợi, suy, xưng, cơ, hủy, dự, khổ và
lạc. Người thế gian chắc chắn phải chịu các điều này nên gọi là
thế pháp. Còn có 9 chỗ chúng sinh ở. Chúng sinh đều bởi sức điên
đảo cho nên có thể ở nơi đây.
Lại có 5 thứ để phân biệt các pháp, là 5 ấm, 12 nhập, 18 giới,
12 nhân duyên và 22 căn. Năm ấm là nhãn sắc là sắc ấm. Nương
Thành Thật Luận Trang 54 Tuệ Quang Foundation
đây sinh thức có thể thủ tiền sắc gọi là thức ấm. Ngay khi tâm
sinh nghĩ tưởng nam, nữ người oán người thân đều gọi là tưởng
ấm. Nếu phân biệt biết oán thân hay người không phải oán thân,
rồi sinh 3 thứ thụ gọi là thụ ấm. Trong 3 thứ thụ nầy sinh 3 thứ
phiền não gọi là hành ấm. Bởi điều này mà sinh 3 thứ phiền não
gọi là hành ấm. Bởi điều này mà sinh khởi nhân duyên thụ thân
gọi là 5 thụ ấm. Do 4 duyên thức mới được sinh, là nhân duyên,
thứ đệ duyên, duyên duyên và tăng thượng duyên. Lấy nghiệp làm
nhân duyên, thức là thứ đệ duyên. Do thức thứ lớp sinh thức nên
sắc là duyên duyên, nhãn là tăng thượng duyên. Trong đây thức
do 2 nhân duyên sinh, như nhãn sắc cho đến ý pháp gọi là 12
nhập. Trong đây thêm thức gọi là 18 giới, nghĩa là nhãn giới, sắc
giới, nhãn thức giới v.v...
Ấm nầy và các pháp làm sao sinh được?
Ở trong 12 thì cho nên gọi là 10 2 nhân duyên. Trong đây vô
minh là phiền não, hành là nghiệp. Nhân 2 điều này thứ lớp sinh
thức, danh sắc, 6 nhập, xúc, thụ, ái, thủ, 2 pháp gọi là phiền não.
Còn hữu gọi là nghiệp. Lúc ban đầu lãnh thụ thân thức trong đời
vị lai, gọi đó là sinh, ngoài ra gọi là lão tử. Mười hai nhân duyên
nầy hiển thị có quá khứ vị lai và hiện tại. Nhưng vì các duyên
nương nhau sinh khởi nên không có ngã.
Lại vì sinh tử vãng lai hoàn diệt nên nói có 22 căn. Tất cả
chúng sinh, khi ban đầu thụ thân lấy thức làm gốc. Thức nầy có
sáu thứ. Từ nhãn v.v... sinh nên gọi là 6 căn, như nhãn căn cho
đến ý căn. Có thể sinh 6 thức nên gọi là 6 căn. Có thể phân biệt
tướng nam nữ nên gọi là nam căn nữ căn. Có người cho đó là
phần ít của thân căn. Sáu căn này hoặc gọi là 6 nhập. Do 6 thứ
nầy sinh 6 thứ thức nên gọi là thọ mạng. Sở dĩ vì sao ? Là sáu
nhập, sáu thức nầy được liên tục sinh nên gọi là thọ mạng. Dứt sự
liên tục này gọi là chết. Cho nên Điều này gọi đó là thọ mạng.
Thành Thật Luận Trang 55 Tuệ Quang Foundation
Trong đây những gì làm căn ? Đó gọi là nghiệp. Vì do
nghiệp nên 6 nhập 6 thức mới được liên tục sinh. Ở trong thọ
mạng nầy nghiệp gọi là mạng căn. Nghiệp nầy từ các thứ lãnh thụ
sinh. Các thứ thụ tức là lạc v.v... 5 căn. Do 5 căn nầy sinh tham ái
v.v... tất cả phiền não và thân, khẩu nghiệp. Nghiệp nhân duyên
nầy lại chịu lấy sinh tử, ấy là pháp cấu uế, có thể khiến nhân
duyên sinh tử nối nhau.
Vậy lấy nhân duyên gì có thể sinh tịnh pháp ?
Chắc chắn phải do tín v.v.... Tín v.v... 4 pháp nhân duyên
thành tuệ. Tuệ có 3 thì là chưa biết, muốn biết, đã biết. Như khi tu
tập hay ra làm việc gì, căn này đều là sai biệt của trí tuệ. Phật lấy
sinh tử, vãng lai, hoàn diệt, cấu tịnh nên nói có 22 căn. Các pháp
như vậy đều nhiếp thuộc về khổ đế. Người nào có thể biết đây thì
gọi khéo biết khổ đế.
Tập đế là nghiệp và phiền não. Về nghiệp, sẽ nói trong Phẩm
nghiệp. Phiền não cũng sẽ nói trong Phẩm phiền não. Các nghiệp
phiền não là nhân duyên của thân sau, nên gọi là tập đế.
Diệt đế là cũng sẽ nói rộng hơn trong nhóm diệt đế, là giả
danh tâm, pháp tâm, không tâm. Diệt 3 thứ tâm này nên gọi là diệt
đế.
Đạo đế là 37 phẩm trợ Bồ-đề pháp, là 4 thứ niệm xứ, 4 chính
cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phần, và 8 Thánh đạo
phần.
Bốn niệm xứ, là thân, thụ, tâm pháp. Trong chính an niệm và
từ niệm sinh tuệ, quán thân vô thường v.v... rồi an trụ trong cảnh
duyên, gọi là thân niệm xứ. Do niệm và tuệ nầy lần lượt tăng thêm
có thể phân biệt để lãnh thụ, gọi là thụ niệm xứ. Và càng tăng
thêm tâm thanh tịnh có thể phân biệt, gọi là tâm niệm xứ. Có thể
đem chính hành phân biệt các pháp, gọi là pháp niệm xứ.
Bốn chính cần, là nếu ác pháp bất thiện đã sinh, thấy có tội
lỗi, vì để dứt trừ nên mới sinh muốn siêng có thể tinh tiến. Đoạn
Thành Thật Luận Trang 56 Tuệ Quang Foundation
phương tiện gọi là tri kiến. Do ác pháp bất thiện chưa sinh, vì để
không sinh nên mới sinh muốn siêng có thể tinh tiến. Để không
sinh phương tiện tức là tri kiến. Do thiện pháp chưa sinh, vì muốn
sinh mới sinh siêng có thể tinh tiến. Sinh phương tiện tức là tri
kiến. Do thiện pháp đã sinh, vì để tăng trưởng nên muốn siêng có
thể tinh tiến. Vì 3 lực thượng, trung, hạ phương tiện thứ lớp và bất
thoái chuyển.
Bốn như ý túc, là muốn thành tựu diệu hạnh Tam- muội, nên
tu như ý phần. Vì muốn sinh Tam-muội, gọi là dục Tam-muội.
Muốn tinh tiến, tín, hỷ, ức niệm, an tuệ, tư, xả hết v.v... các diệu
pháp nầy cộng thành, gọi là diệu hạnh thành tựu. Công đức tăng
trưởng nên gọi là như ý túc. Vì muốn tăng trưởng nên gọi là tinh
tiến. Đó gọi là thứ 2. Có hành giả muốn có tinh tiến nên mới tu
tập định tuệ. Được tâm Tam-muội, tức là định. Tư duy Tam-muội
tức gọi là tuệ.
Năm căn, là nghe pháp sinh lòng tin, gọi là tín căn. Tin rồi vì
muốn dứt cấu pháp để chứng tịnh pháp nên mới siêng có thể phát
khởi tinh tiến, gọi là tinh tiến căn. Tu 4 niệm xứ, gọi là niệm căn.
Nhờ niệm căn thành Tam-muội, gọi là định căn. Nhờ định sinh
tuệ, gọi là tuệ căn. Năm căn nầy tăng trưởng có sức mạnh, gọi là 5
lực.
Tám thánh đạo phần, là từ nghe sinh tuệ có thể tin 5 ấm là vô
thường, khổ v.v... gọi là chính kiến. Tuệ này hoặc từ suy nghĩ mà
sinh, gọi là chính tư duy. Do chính tư duy dứt các pháp bất thiện,
tu tập các thiện pháp, phát sinh hạnh tinh tiến, gọi là chính tinh
tiến. Từ đây mới lần lượt đi xuất gia, thụ giới được 3 thứ đạo phần
là chính ngữ, chính nghiệp và chính mạng. Nhờ chính giới nầy
làm thành niệm xứ và các thứ thiền định. Nhân nhờ niệm định nầy
được trí như thật gọi là 8 Thánh đạo phần. Theo thứ lớp là như
vậy. Và trong 8 Thánh đạo phần, giới phải đứng đầu. Sở dĩ vì sao
? Vì nghĩa trong phẩm giới định tuệ là thứ lớp như vậy. Chính
Thành Thật Luận Trang 57 Tuệ Quang Foundation
niệm, chính định, gọi là định phẩm. Tinh tiến thường đi khắp tất
cả chỗ. Tuệ phẩm là cận đạo nên sẽ nói sau. Tuệ này có 2 thứ,
hoặc thô hoặc diệu. Thô là văn tuệ tư tuệ, gọi là chính tư duy.
Diệu là tu tuệ tức là vào trong các pháp noãn đảnh. Có thể phá giả
danh và pháp 5 ấm, gọi là chính kiến. Do chính kiến này mà thấy
5 ấm diệt, gọi là sơ nhập đạo. Từ đây tiếp được 7 pháp Bồ-đề
phần. Niệm Bồ-đề phần là người học nếu mất niệm thì khởi phiền
não nên phải buộc niệm ở chỗ thiện. Mà buộc được niệm thì trước
tiên là được chính kiến, đó gọi là trạch pháp. Không bỏ trạch pháp
gọi là tinh tiến. Lúc tu tinh tiến, phiền não giảm thiểu, tâm sinh
vui mừng, nên gọi là hỷ. Vì tâm vui nên thân được khoan khoái,
nên gọi là sảng khoái. Thân sảng khoái được vui, vui thì tâm định.
Định nầy khó được nên gọi là kim cương định. Được quả không
chấp đắm, dứt buồn vui v.v..., thì gọi là xả. Đây gọi là thượng
hành, không chìm đắm, không bộc phát, tâm được bình đẳng nên
gọi là xả. Bồ-đề gọi là vô học trí. Tu 7 pháp này có thể được Bồ-
đề, gọi là Bồ-đề phần.
Tu 37 phẩm nầy được 4 quả Sa-môn. Quả Tu-đà-hoàn là
thông đạt được pháp không. Do không trí nầy có thể dứt 3 kết sử.
Quả Tư-đà-hàm là cũng tu đạo nầy được làm mỏng phần phiền
não trong cõi Dục, chỉ còn 2 lần sinh tử nữa là xong. Quả A-nahàm
là có thể dứt tất cả phiền não của cõi Dục. Quả A-la-hán là
dứt tất cả phiền não. Nếu ai tu tập được chính luận Phật pháp này
thì có thể thông đạt 4 đế; được 4 quả Sa-môn. Cho nên cần phải tu
tập chính luận Phật pháp nầy.
Phẩm 18 : Các nhóm pháp
Lại nữa người học tập luận nầy thì thông đạt được các nhóm
các pháp khả tri. Vì thông đạt nên tà luận của ngoại đạo không thể
tấn công được, và cũng có thể mau diệt được phiền não, tự mình
lìa khổ và cũng cứu độ được người khác. Các nhóm các pháp khả
Thành Thật Luận Trang 58 Tuệ Quang Foundation
tri là pháp tri, pháp khả thức, gồm : Pháp sắc, pháp vô sắc. Pháp
thấy được, pháp không thấy được. Pháp có đối, pháp không đối.
Pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Pháp hữu vi, pháp vô vi. Pháp tâm,
pháp phi tâm. Pháp tâm số, pháp phi tâm số. Pháp tâm tương ưng,
pháp tâm không tương ưng. Pháp tâm cộng hữu, pháp tâm không
cộng hữu. Pháp tùy tâm hành, pháp không tùy tâm hành. Pháp bên
trong, pháp bên ngoài. Pháp thô, pháp tế. Pháp trên, pháp dưới.
Pháp gần, pháp xa. Pháp thụ, pháp phi thụ. Pháp xuất, pháp phi
xuất. Pháp chung với phàm phu, pháp không chung với phàm phu.
Pháp theo thứ tự, pháp không theo thứ tự. Pháp có thứ tự, pháp
không có thứ tự. Các pháp như vậy là đi từng đôi 2 pháp.
Lại có pháp đi theo bộ 3 như : Pháp sắc, pháp tâm, pháp tâm
không tương ưng. Pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại. Pháp
thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký. Pháp học, pháp vô học, pháp
phi vô học. Pháp kiến đế đoạn, pháp tư duy đoạn, pháp vô đoạn.
Các pháp như vậy là đi theo bộ 3.
Lại có các pháp đi theo bộ tứ, như : Pháp buộc cõi Dục, pháp
buộc cõi sắc, pháp buộc cõi vô sắc, pháp không buộc.
Lại có 4 đạo là khổ khó tu đạo, khổ dễ tu đạo, vui khó tu đạo,
vui dễ tu đạo.
Lại có 4 ý vị là xuất vị, ly vị, tịch diệt vị, chính trí vị.
Lại có 4 chứng pháp là tâm chứng pháp, niệm chứng pháp,
nhãn chứng pháp, tuệ chứng pháp. 4 thụ thân, 4 nhập thai, 4
duyên, 4 tin. 4 thánh chủng. 4 ác hành. Như vậy v.v... là loại 4
pháp. 5 ấm. 6 chủng. 6 nội nhập. 6 ngoại nhập, 6 sinh tính. 6 hỷ
hành. 6 ưu hành. 6 xả hành. 6 diệu hành. 7 tịnh. 8 phúc sinh. 9 thứ
tự diệt. 10 thánh xứ. 12 nhân duyên.
Các nhóm các pháp khả tri như vậy nhiều vô lượng vô biên
không thể nói hết. Nên tôi nay chỉ lược nêu cương yếu mà thôi.
Pháp khả tri là đệ nhất nghĩa đế. Pháp khả thức là thế đế. Pháp sắc
là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Pháp vô sắc là tâm và vô tác pháp.
Thành Thật Luận Trang 59 Tuệ Quang Foundation
Pháp có thể thấy là sắc nhập. Pháp có đối là sắc pháp. Pháp hữu
lậu là nếu pháp ấy có thể sinh các thứ lậu, như phi A-la-hán tâm
trong pháp giả danh. Pháp hữu vi là do các duyên sinh khởi, tức là
5 ấm. Pháp vô vi là diệt sạch 5 ấm. Pháp tâm là có thể duyên.
Pháp tâm số là nếu thức được cảnh duyên tức thì thứ tự sinh tưởng
v.v... Pháp tâm tương ưng là thức được cảnh duyên thứ tự ắt sinh
khởi, như tưởng v.v... Pháp tâm cộng hữu là pháp và tâm đôi bên
có chung, như sắc và tâm không tương ưng hành. Pháp tùy tâm
hành là nếu pháp có tâm thì sinh, không tâm thì không sinh, như
thân, khẩu vô tác nghiệp. Pháp bên trong là 6 thứ nhập bên trong
của thân thể. Pháp thô tế là đối đãi với nhau mà có, như quán 5
dục sắc định là tế, quán vô sắc định thì sắc định là thô. Pháp trên
dưới cũng như vậy. Pháp gần xa là hoặc phương khác cho nên xa,
hoặc không tương tự nên xa. Pháp thụ là từ thân sinh ra pháp.
Pháp xuất là pháp thiện. Pháp chung với phàm phu là pháp hữu
lậu. Pháp thứ tự là từ cái khác mà thứ tự sinh ra. Pháp có thứ tự là
có thể sinh thứ tự. Pháp sắc là sắc v.v... 5 pháp. Pháp tâm là như
trước đã nói. Pháp tâm không tương ưng hành là vô tác nghiệp.
Pháp quá khứ là pháp đã diệt rồi. Pháp vị lai là pháp sẽ sinh. Pháp
thiện là pháp làm lợi ích các chúng sinh và chân thật trí. Trái với
pháp trên đây là pháp bất thiện. Trái với cả 2 điều trên là pháp vô
ký. Pháp học là pháp người học tâm vô lậu. Pháp vô học là pháp
đệ nhất nghĩa tâm của người vô học. Ngoài ra gọi là phi học phi
vô học. Pháp kiến đế đoạn, là pháp Tu-đà-hoàn đoạn được hiện
tướng ngã mạn và từ đấy sinh ra. Pháp tư duy đoạn, là pháp Tuđà-
hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm đoạn được ngã mạn không hiện
tướng và từ đây sinh ra. Pháp không đoạn là vô lậu. Pháp hệ thuộc
cõi Dục là nếu pháp đem lại quả báo địa ngục A-tì cho đến trời
Tha Hóa Tự Tại. Pháp hệ thuộc cõi Sắc là từ cõi Phạm Thế cho
đến cõi trời A-ca-ni-tra. Pháp hệ thuộc cõi Vô sắc là 4 cõi Vô sắc.
Pháp không hệ thuộc là pháp vô lậu. Khổ khó tu đạo là người độn
Thành Thật Luận Trang 60 Tuệ Quang Foundation
căn được định để tu đạo. Khổ dễ tu đạo là người lợi căn được định
để tu đạo. Vui khó tu đạo là người độn căn được tuệ để tu đạo.
Vui dễ tu đạo là người lợi căn được tuệ tu đạo. Xuất vị là xuất gia
cầu đạo. Ly vị là thân tâm xa lìa. Tịch diệt vị là được thiền định.
Chính trí vị là thông đạt 4 đế. Pháp niệm chứng là 4 niệm xứ. Nhờ
niệm xứ nầy nên có thể sinh 4 thứ thiền, gọi là thân chứng. Thông
đạt 4 đế, gọi là tuệ chứng.
Bốn thân chịu là có người tự hại mình mà người khác không
hại được, có người bị người khác hại mà mình không tự hại, có
người tự hại, người khác cũng hại mình được, có người không hại,
người khác cũng không hại được.
Bốn nhập thai, là người không tự niệm vào thai, cũng không
tự niệm trụ thai, xuất thai. Có người tự niệm vào thai trụ thai mà
không tự niệm xuất. Có người tự niệm vào thai, trụ thai, xuất thai.
Vì tâm điên đảo tán loạn nên không tự niệm nhớ. Tâm minh chính
không loạn nên có thể tự niệm nhớ.
Bốn duyên, là nhân duyên, sinh duyên, tập nhân, và y nhân.
Sinh nhân là nếu pháp khi sinh có thể cùng làm nhân cho cái khác,
như nghiệp làm nhân cho quả báo. Tập nhân là như tập luyện
tham dục thì tham dục ngày càng tăng trưởng. Y nhân là như tâm
và tâm số pháp nương sắc hương v.v... gọi là nhân duyên.
Thứ đệ duyên là như tiền tâm pháp diệt nên hậu tâm mới
được thứ lớp sinh.
Duyên duyên là như từ duyên sinh pháp, như sắc có thể sinh
nhãn thức.
Tăng thượng duyên là các pháp duyên khác giúp cho pháp ấy
khi sinh.
Bốn tín, là tin Phật là bậc chân trí. Đối với Phật quyết định
sinh tâm thanh tịnh, vì trí Phật đối với chúng sinh là cao cả. Tin
chân trí nầy tức là tin Pháp. Người được trí nầy đối với tất cả
chúng sinh rất là đệ nhất, gọi là tín Tăng. Được giới thánh sở ái,
Thành Thật Luận Trang 61 Tuệ Quang Foundation
tức là đem thâm tâm không gây các ác nghiệp, tự biết mình nhờ
giới nầy có thể tín Tam Bảo, vì tin sức mạnh của giới nên gọi là
tín giới.
Bốn Thánh chủng, là nhờ 4 thứ Thánh chủng nầy nên không
bị ưa muốn áo mặc làm ô nhiễm, không bị những ưa muốn uống
ăn, chỗ nằm cho thân làm ô nhiễm nên gọi là 4 Thánh chủng.
Bốn ác hành là vì tham nên sân, nên khiếp sợ nên si, nên bị
đọa trong ác đạo.
Năm ấm, gồm sắc ấm là sắc v.v... 5 pháp. Thụ ấm là pháp có
thể duyên. Tưởng ấm là pháp có thể phân biệt giả danh. Hành ấm
là pháp có thể sinh thân sau. Thức ấm là duy chỉ có thể biết trần
pháp.
Sáu chủng gồm địa chủng, là sắc, hương, vị và xúc hòa hợp.
Tướng cứng nhiều gọi là địa chủng. Tướng ẩm ướt nhiều gọi là
thủy chủng. Tướng nóng nhiều gọi là hỏa chủng. Tướng nhẹ nhiều
gọi là phong chủng. Không có sắc tướng gọi là không chủng. Có
thể duyên pháp, nên gọi là thức chủng.
Sáu nội nhập, gồm nhãn nhập là 4 đại hòa hợp làm chỗ
nương cho nhãn thức gọi là nhãn nhập. Nhĩ, tỹ, thiệt, thân nhập
cũng như vậy. Ý nhập là tâm.
Sáu ngoại nhập, gồm sắc nhập là cảnh bị duyên của nhãn
thức vậy. Thanh, hương, vị, xúc và pháp nhập cũng như vậy.
Sáu sinh tính, là người hắc tính có thể tập luyện hắc pháp
nhưng cũng tập luyện bạch pháp và hắc pháp nữa. Người bạch
tính cũng như vậy.
Sáu hỷ hành, là y nơi lòng tham.
Sáu ưu hành, là y nơi lòng sân.
Sáu xả hành, là y nơi lòng si.
Sáu diệu hành, là thật trí tuệ.
Bảy tịnh, gồm : Giới tịnh là giới luật nghi. Tâm tịnh là được
thiền định. Kiến tịnh là đoạn được thân kiến. Độ nghi tịnh là đoạn
Thành Thật Luận Trang 62 Tuệ Quang Foundation
được nghi kết. Đạo phi đạo tri kiến tịnh là đoạn được giới thủ.
Hành tri kiến tịnh là tư duy đạo. Hành đoạn tri kiến tịnh là vô học
đạo.
Tám phúc sinh, là người giàu sang trong loài người cho đến
sinh ở cõi Phạm Thế. Trong đây được các vui phúc báo nhiều hơn
hết, nên nói 8 phúc sinh.
Chín thứ tự diệt, là vào được sơ thiền diệt ngôn ngữ; vào nhị
thiền diệt giác quán, vào tam thiền diệt hỷ, vào tứ thiền diệt hơi
thở ra vào, hư không xứ diệt sắc tướng, thức xứ diệt vô biên hư
không tướng, vô sở hữu xứ diệt vô biên thức tướng, phi tưởng phi
tưởng diệt vô sở hữu tưởng, và vào diệt tận định diệt được thụ và
tưởng.
Mười Thánh xứ, là Thánh nhân đoạn 5 pháp, thành tựu 6
pháp, giữ 1 pháp, y 4 pháp, diệt ngụy đế, bỏ các cầu mong, không
suy nghĩ vẩn đục, lìa các thân hành, khéo được tâm giải thoát,
khéo được tuệ giải thoát, việc làm đã xong, và cô đơn không bạn
bè. Đoạn 5 pháp là đoạn 5 phần thượng kết, được quả A-la-hán, vì
tất cả kết đều dứt hết, tu 6 pháp diệu hành, nhãn v.v... các tình
thức đối với sắc v.v... các trần cảnh không buồn không vui, cũng
không ngu si. Giữ một pháp là buộc quán niệm nơi thân. Y 4 pháp
là khất thực v.v... pháp 4 y.
Lại có người nói y 4 pháp là Thánh nhân có pháp viễn ly, có
pháp thân cận, có pháp trừ diệt, có pháp nhẫn thụ. Thanh tịnh trì
giới, nên có thể đạt thật tướng, gọi là lìa ngụy đế. Dứt tất cả kiến
hoặc gọi là được sơ quả. Bỏ các cầu mong là dục cầu, hữu cầu và
phạm hạnh cầu. Được sơ quả nên mới biết các pháp hữu vi đều là
hư dối. Muốn bỏ 3 thứ cầu, được Kim cương Tam-muội rồi, mới
bỏ việc học đạo. Bấy giờ mới gọi là bỏ được hết các thứ cầu
mong, không suy nghĩ vẩn đục là diệt được 6 thứ giác, tâm được
thanh tịnh, có thể làm mỏng 3 độc, chứng quả thứ 2, diệt trừ được
tham ái, chứng quả thứ 3, gọi là không suy nghĩ vẩn đục. Lìa các
Thành Thật Luận Trang 63 Tuệ Quang Foundation
thân hành là trừ được mấy thứ kết ở cõi Dục, được 4 thiền, gọi là
lìa thân hành. Được tận trí, nên gọi là khéo được tâm giải thoát.
Được vô sinh trí, nên gọi là khéo được tuệ giải thoát. Các bậc
Thánh nhân tâm an trụ 10 chỗ nầy, nên gọi là 10 Thánh xứ. Việc
làm Phật pháp chắc chắn phải hết khổ, nên gọi là việc làm đã
xong. Xa lìa phàm phu và các bậc học nhân, gọi là không bạn bè.
Tâm lìa các pháp, an trụ tất cánh không, nên gọi là cô đơn.
Mười hai nhân duyên, tức vô minh nghĩa là theo giả danh, do
tâm điên đảo nầy mới có thể nhóm các nghiệp, cho nên gọi là vô
minh duyên hành. Vì thức theo nghiệp, nên có thể thụ thân, gọi là
hành duyên thức. Sau khi thụ thân gọi là danh sắc, 6 nhập, xúc,
thụ. Các chi phần nầy tùy thì tăng trưởng. Khi lãnh thụ các thụ,
nương dựa giả danh nên có thể sinh ái. Bởi ái sinh bao nhiêu
phiền não, nên gọi là thủ. Ái thủ làm nhân duyên cho hữu, đây gọi
là 3 chi phần. Do các nghiệp nhân duyên phiền não nầy, trong đời
sau mới sinh. Từ nhân duyên sinh mới có già chết v.v.... Trong
đây như nói vô minh và các hành nghiệp là nói rõ có đời quá khứ
để khiến dứt chấp thường kiến, biết từ vô thủy sinh tử qua lại, do
nghiệp phiền não nhân duyên mà thụ thân. Như nói sinh tử là nói
rõ có đời vị lai để khiến dứt chấp đoạn kiến. Nếu không được
chân trí thì sinh tử không có giới hạn, chỉ có quả báo đau khổ.
Như nói 8 chi phần trung gian là rõ pháp hiện tại, chỉ do các
duyên nối nhau mà sinh chứ không có pháp chân thật. Trong đây
vô minh và các hành nghiệp là nhân duyên đời trước. Kết quả của
nhân duyên nầy là thức, danh sắc, 6 nhập, xúc và thụ. Do 5 thứ
nhân duyên nầy mới sinh khởi ái, thủ và hữu, là cái nhân đời vị
lai. Kết quả của nhân duyên nầy là sinh, lão và tử. Nếu như lãnh
thụ các thứ thụ, trở lại sinh ái và thủ. Vì vậy cho nên 12 chi phần
nầy luân chuyển vô cùng tận.
Có thể được chân trí thì không tụ tập các nghiệp. Các nghiệp
không tụ tập thì không có sinh. Sinh gọi là bắt đầu khởi thành.
Thành Thật Luận Trang 64 Tuệ Quang Foundation
Nếu người nào học tập chính luận nầy thì biết các pháp tự tướng
đều trống không, không tu tập các nghiệp. Các nghiệp không tụ
tập thì không có sinh, nên lão, tử, ưu bi, khổ não đều dứt hết. Cho
nên mưốn tự lợi lợi tha, chúng sinh dần thành Phật đạo.
Nếu người muốn đốt cháy tự pháp và diệt tha pháp phải học
tập luận nầy.
Phẩm 19 : Mười luận sơ hữu tướng
Hỏi : Kinh của ông trước nói rộng học tập các dị luận, vì
muốn luận nghĩa Phật pháp. Vậy những gì là các dị luận ?
Đáp : Trong 3 tạng có nhiều các dị luận. Có điều là những
người ưa khởi tranh luận như có 2 đời, không có 2 đời. Tất cả là
có, tất cả là không. Có trung ấm, không có trung ấm. Tứ Đế thứ tự
được, nhất thì được, có thoái, không thoái. Kết sử cùng tâm tương
ưng, không tương ưng. Tâm tính vốn tịnh, tính vốn bất tịnh. Đã
thụ báo nghiệp hoặc có, hoặc không. Phật ở trong Tăng số, không
ở trong Tăng số. Có người, không người. Có người nói pháp 2 đời
là có, có người nói không.
Hỏi : Vì nhân duyên gì nói có ? Vì nhân duyên gì nói không
?
Đáp : Người nói có là nếu có pháp, trong ấy sinh tâm, vì
pháp trong 2 đời có thể sinh tâm, thì phải biết là có.
Hỏi : Chính ông trước thường nói có tướng ?
Đáp : Tính biết đi được chỗ nào, gọi chỗ đó là có tướng.
Người ấy hỏi vặn rằng : Tính biết cũng đi đến chỗ không có chỗ.
Sở dĩ vì sao ? Vì như tin hiểu rồi quán, không phải màu xanh mà
thấy xanh.
Lại như làm ra trò ảo hóa cũng không mà thấy có.
Lại như đem cái biết vào chỗ không có, nên gọi là vào định
Vô sở hữu xứ.
Lại như đem ngón tay giụi vào mắt thấy có 2 mặt trăng.
Thành Thật Luận Trang 65 Tuệ Quang Foundation
Lại như trong kinh nói : Ta biết bên trong không tham dục.
Lại kinh nói : Biết trong sắc đoạn dứt tham gọi là sắc đoạn.
Lại như trong mộng không mà vọng thấy. Do các duyên cớ
nầy nên biết cái biết cũng đi đến chỗ không có chỗ. Không nên có
tính biết đi đến chỗ nào nên gọi chỗ đó là có.
Đáp : Không có tính biết đi đến chỗ không có chỗ. Sở dĩ vì
sao ? Vì cần nhờ 2 pháp nhân duyên, nên thức mới được sinh.
Một nương 2 duyên. Như không có cảnh duyên mà thức vẫn sinh
thì cũng nên không có chỗ nương, thức cũng được sinh. Vậy thì 2
pháp kia vô dụng ? Như vậy cũng không có giải thoát, vì thức
thường sinh. Cho nên biết thức không đến nơi không.
Lại như vì có sở thức nên gọi là thức. Nếu không sở thức thì
thức cũng không.
Lại như nói thức có thể biết trần, nghĩa là nhãn thức biết sắc,
cho đến ý thức biết pháp. Nếu nói có thức không duyên cảnh, vậy
thức này sở thức gì ư ?
Lại nếu, nói có thức mà không duyên cảnh là sai lầm. Như có
người nói : Tôi cuồng nên tâm loạn, thế gian không có gì hết, mà
tôi đều thấy có.
Lại nếu biết không có gì hết, thì không nên sinh nghi, vì có
chỗ biết nên mới sinh nghi.
Lại như trong kinh nói : Thế gian không có gì hết mà ta biết
thấy ấy là vô lý vậy.
Lại nữa, lời ông nói tự mâu thuẫn nhau, nếu không có gì thì
biết cái gì ư ?
Lại như trong kinh nói : Ba sự hòa hợp nên gọi là xúc. Nếu
không có pháp, thì hòa hợp cái gì ?
Lại biết không cảnh bị duyên thì làm sao thành được ? Nếu
biết thì không không, nếu không thì không biết. Cho nên không có
cái biết mà không cảnh duyên.
Thành Thật Luận Trang 66 Tuệ Quang Foundation
Lại như ông có nói câu : Tính biết đi đến chỗ không có chỗ,
như tin hiểu quán màu không phải xanh mà thấy xanh, ấy là vô lý.
Sở dĩ vì sao ? Vì trong màu không phải xanh nầy thiệt có tính
xanh. Như trong kinh nói : Trong cây nầy có tính tịnh.
Lại như lấy tướng xanh, do sức của tâm chuyển rộng ra, thì
tất cả đều xanh, không một tướng nào không xanh.
Lại như Kinh Huyễn Võng nói : Có người huyễn thuật và vật
để làm trò huyễn thuật, thì trong không chúng sinh, mà thấy giống
chúng sinh, nên gọi là huyễn.
Lại như ông nói câu : Vì biết không có nơi chỗ, nên gọi là
vào định Vô sở hữu xứ là vì sức Tam-muội, nên sinh vô tướng
nầy chứ không phải là không có. Như thật có sắc hư hoại là không
tướng.
Lại vào trong Tam-muội nầy vì pháp bị thấy ít, nên coi là
không có, như muối ít nên gọi là không muối, tuệ ít nên gọi là
không tuệ.
Lại như nói : Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Trong đây tuy
thật có tưởng, mà cũng nói phi hữu phi vô.
Lại ông nói : Đem ngón tay giụi vào mắt, thấy có 2 trăng.
Thấy mà không nghĩ xét, nên cho 1 là 2. Nếu nhắm 1 mắt thì
không thấy 2.
Lại như ông nói : Ta biết bên trong không tham dục. Vì
người nầy thấy pháp ngũ cái trái nhau với pháp thất giác, nên liền
sinh ý niệm rằng : Ta biết không tham dục, chứ không phải biết
không có.
Lại như ông nói : Biết trong sắc đoạn tham, gọi là đoạn sắc.
Đó là vì thấy chân thật tuệ cùng với vọng giải trái nhau, nên gọi là
tham đoạn. Lại như ông nói : Trong mộng không mà thấy có. Đó
là vì trước đã từng thấy nghe nhớ nghĩ phân biệt và đã tu tập nên
trong mộng mới thấy, và do khí lạnh nóng thịnh nên tùy theo
mộng mà thấy, hoặc do nghiệp duyên nên mộng, như Bồ-tát có
Thành Thật Luận Trang 67 Tuệ Quang Foundation
những đại mộng, hoặc các thiên thần đến hiện mộng. Cho nên
trong mộng thấy có, chứ không phải biết không.
Ông lại hỏi vặn rằng : Ông nói cần phải có 2 pháp nhân
duyên, thức mới được sinh. Điều này không phải, vì Phật muốn
phá thuyết Thần ngã nên mới nói 2 pháp nhân duyên sinh thức,
chứ không phải đều như vậy.
Lại như ông nói : Vì có sở thức, nên gọi là thức. Thức pháp
có thì biết có, không có thì biết không có. Nếu việc ấy không, vì
không việc ấy, nên gọi là thấy không.
Lại như 3 tâm diệt, nên gọi là diệt đế. Nếu không có không
tâm thì diệt cái gì ư ?
Lại như ông nói : Nhãn thức biết sắc cho đến ý thức biết
pháp. Đó là thức nầy chỉ có thể biết pháp trần mà không biện biệt
là có hay không.
Lại như ông nói : Nếu có thức biết, mà không cảnh duyên,
vậy là sai lầm. Thì có cái biết, biết cái không có, như người bị
bệnh cuồng thấy không có gì hết.
Lại như ông nói : Nếu biết không có gì hết, thì không nên
sinh nghi. Nếu nghi là có hay là không có, thì có cái biết không
cảnh duyên.
Lại như ông nói : Như trong kinh nói thế gian không có gì
hết mà ta biết thấy, ấy là vô lý. Kinh nầy không luận pháp tướng,
hình như không phải lời Phật nói. Hoặc Tam-muội như vậy, là
vào Tam-muội chỗ thấy đều có, ấy là Tam-muội, nên nói như vậy.
Lại như ông nói : Lời nói ông tự trái nhau .... Tôi nói : Duyên
nơi không có, không phải trái nhau.
Lại như ông nói : Tâm, tâm số pháp có thể duyên tất cả pháp.
Duyên nầy là có tâm, tâm số-pháp mà không có cảnh bị duyên;
cũng có tâm, tâm số pháp không thể thật duyên, nên không gọi là
duyên.
Thành Thật Luận Trang 68 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, vì thật tướng của các pháp, lìa các tướng, nên không
gọi là duyên.
Lại như ông nói : Các trần là nhân sinh thức, nếu không có gì
lấy gì làm nhân ? Tức là lấy cái không có, làm nhân.
Lại như ông nói : Ba sự hòa hợp, gọi là xúc. Nếu 3 sự có thể
có được, thì có hòa hợp, chứ không phải tất cả chỗ đều có 3 sự.
Lại như ông nói : Nếu biết không không, nếu không không
biết. Nếu có cảnh duyên mà biết, cũng đồng lỗi nầy.
Lại như ông nói : Như trong cây có tịnh tính. Điều này không
phải, vì có lỗi là trong nhân có quả.
Lại như ông nói : Lấy tướng tâm chuyển rộng ra. Điều này
không phải. Vốn tướng xanh ít, mà thấy cả đại địa tất cả đều là
màu xanh, tức là vọng kiến. Như vậy, vì quán chút màu xanh mà
có thể thấy cõi Diêm-phù-đề v.v... đều màu xanh là không phải
vọng kiến sao ?
Lại như ông dẫn câu : Kinh Huyễn Võng nói : Có nhà huyễn
thuật làm trò huyễn thuật, trong chỗ không có chúng sinh mà thấy
giống như có chúng sinh làm các việc chúng sinh. Điều này thật
không có mà thấy, tức là cái biết không có cảnh duyên.
Lại như ông nói : Vì sức Tam-muội nên sinh vô tướng nầy.
Như thật có sắc hư hoại là không. Vậy nếu sắc thật có mà hoại là
không thì điên đảo.
Lại như ông nói : Thấy không nghĩ xét. Điều này không phải.
Như người bị bệnh mắt, thấy giữa không trung có những sợi như
lông. Kỳ thật là không có.
Lại như ông nói : Thấy ngũ cái trái nhau với pháp 7 giác liền
sinh ý nghĩ: ta biết không . Pháp 7 giác khác, không tham cũng
khác, làm sao là một ?
Lại như ông nói : Thấy chân thật tuệ cùng với vọng giải trái
nhau, gọi là tham đoạn. Vọng giải gọi là quán hư vọng. Cho nên
Thành Thật Luận Trang 69 Tuệ Quang Foundation
biết tham dục đoạn, nên sắc đoạn. Chân thật tuệ là quán vô
thường.
Lại như ông nói : Trong mộng thấy thật. Điều này không
phải. Như mộng thấy nhà sập, mà thật nhà không sập. Cho nên có
cái biết, biết cái không có. Không nên cho cái tính biết đi đến đâu
là đó có tướng.
Phẩm 20 : Vô tướng
Hỏi : Nếu đó không phải tướng có, thì nay nói ấm, giới, nhập
là pháp nhiếp thuộc, lẽ ra phải là có ?
Đáp : Đó cũng không phải. Sở dĩ vì sao ? Vì người nầy nói
pháp phàm phu nhiếp thuộc ấm giới nhập, không thuận với pháp
tướng. Nếu vậy có người nói như các pháp vô vi lẽ ra cũng phải
có, mà thật pháp ấy không có. Cho nên biết ấm giới nhập các pháp
nhiếp thuộc không phải tướng có.
Hỏi : Như có người cho pháp hiện biết, tin là có sở đắc, gọi
là tướng có.
Đáp : Đó cũng không phải tướng có, vì pháp khả tín nầy,
quyết định phân biệt không thể nói được. Cho nên có kinh nói nên
dựa vào trí, chứ không nên dựa vào thức, vì tính là đắc; sắc v.v...
các trần là bất khả đắc. Sau sẽ nói rộng. Vô tướng nầy không hoại,
thì tướng có sở đắc làm sao thành lập được ?
Hỏi : Có, là cùng với pháp hợp lại nên gọi là có ?
Đáp : Sau sẽ phá chấp cái gọi là có này.
Lại nữa, trong có, không có cái có, thì làm sao cùng với pháp
hợp lại mà gọi là có ? Do nhân duyên nầy, nên cái tướng có, quyết
định phân biệt không thể nói được. Nhưng vì thế đế nên mới nói
có, chứ không phải đệ nhất nghĩa đế.
Hỏi : Nếu vì thế đế nên có, nay lại lấy thế đế nên nói quá khứ
vị lai là có hay không ?
Thành Thật Luận Trang 70 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Không. Sở dĩ vì sao ? Nếu sắc v.v... các ấm ở đời hiện
tại có thể có sở tác, có thể được thấy biết. Như trong kinh nói :
Não hoại là sắc tướng. Nếu ở hiện tại thì có thể não hoại, chứ
không phải quá khứ vị lai. Thụ v.v... cũng vậy, cho nên biết chỉ có
5 ấm hiện tại, chứ 2 đời kia không có.
Lại nữa, nếu pháp vô tác thì không có tự tướng, như lửa quá
khứ không thể đốt được, không gọi là lửa. Thức cũng như vậy,
nếu ở quá khứ không thể biết được gì thì không gọi là thức.
Lại nữa, nếu không nhân mà có, việc ấy không đúng. Pháp
quá khứ không nhân có thể có. Cho nên không phải. Lại nữa,
phàm có các pháp, là đều do các nhân duyên sinh. Như có đất, có
giống, nước v.v... nhân duyên thì nảy mầm. Có giấy bút nhân
công thì chữ được thành. Hai pháp v.v… hợp lại thì có thức sinh.
Trong đời vị lai mầm hạt, chữ viết, thức nhận biết v.v... nhân
duyên chưa hội hợp làm sao được có ? Cho nên 2 đời kia không
thể có được.
Lại nữa, nếu pháp vị lai mà có, thì là thường, vì từ vị lai đến
hiện tại vậy. Như từ một nhà đi đến một nhà thì không có vô
thường. Cho nên điều này không thể được.
Lại như trong kinh nói : Mắt sinh không từ đâu đến, diệt đi
không đến đâu. Cho nên không nên phân biệt quá khứ vị lai.
Lại nữa, nếu vị lai có nhãn, sắc, thức tức phải có người làm,
quá khứ cũng vậy, nhưng thật không phải vậy. Cho nên biết
không có pháp quá khứ vị lai.
Lại như sắc quá khứ vị lai có, thì phải có đối có ngại, nhưng
thật không phải vậy. Cho nên là không có.
Lại như cái bình v.v... các vật vị lai mà có, thì thợ gốm sứ
v.v... không nên làm, mà hiện là có làm, chứ không phải vị lai sẽ
có.
Lại Phật nói pháp hữu vi có được 3 tướng sinh, diệt, trụ dị.
Sinh là nếu pháp trước không có mà nay hiện có làm. Diệt là làm
Thành Thật Luận Trang 71 Tuệ Quang Foundation
rồi lại trở lại không. Trụ dị là nối nhau nên trụ, biến khác nên gọi
là dị. Ba tướng hữu vi này đều có ở hiện tại, chứ không phải quá
khứ vị lai.
Phẩm 21 : Hai đời có
Hỏi : Thật có quá khứ vị lai. Sở dĩ vì sao ? Nếu pháp nầy có,
trong ấy sinh tâm, như pháp hiện tại và pháp vô vi.
Lại như Phật nói Sắc tướng, cũng nói sắc quá khứ và vị lai
và nói có bao nhiêu sắc như hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc
tế, hoặc quá khứ vị lai và hiện tại, gọi chung là sắc ấm.
Lại nói sắc quá khứ vị lai hãy còn vô thường, huống chi hiện
tại. Vô thường là tướng hữu vi. Cho nên phải nói có.
Lại như hiện thấy từ trí sinh trí, vì tu tập vậy. Như từ bé lúa
sinh hạt lúa. Cho nên phải có quá khứ. Nếu không quá khứ, thì
quả vô nhân.
Lại như trong kinh nói : Nếu quá khứ sự thật mà có ích thì
Phật cũng vẫn nói.
Lại như nói quán quá khứ vị lai tất cả vô ngã. Lại ý thức
duyên vị lai là nương ý quá khứ, nếu không có quá khứ thì thức
nương chỗ nào?
Lại như biết nghiệp nhân quá khứ mới có quả báo vị lai, ấy là
chính kiến.
Lại như Phật có 10 lực biết các nghiệp nhân quá khứ vị lai.
Lại như Phật tự nói : Nếu không có gây ra tội nghiệp quá
khứ, thì người nầy không đọa các ác đạo.
Lại như người học nhân, nếu còn trong hữu lậu tâm, thì
không phải có tín v.v... các vô lậu căn.
Lại như các bậc Thánh nhân không nên quyết định ghi trước
việc vị lai.
Thành Thật Luận Trang 72 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu không quá khứ vị lai thì người đời không nên ghi
nhớ 5 thứ trần. Sở dĩ vì sao ? Vì ý thức không biết 5 thứ trần hiện
tại vậy.
Lại như nói 18 ý hành đều duyên quá khứ.
Lại nếu không quá khứ, vị lai, thì A-la-hán không nên tự
xưng rằng ta được thiền định. Vì ở trong định không thể nói như
vậy.
Lại như trong 4 niệm xứ, không nên quán nội tâm nội thụ
được. Sở dĩ vì sao ? Vì hiện tại không được quán quá khứ.
Lại cũng không nên tu 4 chính cần. Sở dĩ vì sao ? Vì trong
đời vị lai không có ác pháp, còn 3 thứ kia cũng vậy.
Lại như không có quá khứ vị lai, thì cũng không có Phật.
Lại cũng không nên có người tu giới đã lâu và người mới tu.
Cho nên không phải vậy.
Phẩm 22 : Hai đời không
Đáp : Không có quá khứ vị lai. Tuy ông nói trong pháp có thì
tâm sinh, điều đó trước tôi đã đáp rằng không pháp, tâm cũng có
thể sinh được.
Lại như ông nói sắc tướng, sắc số, sắc khả tướng, Điều này
không đúng. Quá khứ vị lai không phải sắc, vì không có não hoại.
Cũng không nên nói đó là tướng vô thường, mà Phật chỉ tùy theo
vọng tưởng phân biệt của chúng sinh nên mới nói cái tên ấy thôi.
Lại như ông nói trí sinh trí, là nhân cùng quả làm nhân duyên
lẫn nhau rồi diệt, như hạt giống và mộng làm nhân cho nhau rồi
diệt. Phật cũng nói : Điều này sinh nên việc kia sinh.
Lại như ông nói thật mà có ích thì Phật cũng nói. Đó là Phật
nói điều này gốc ở khi hiện tại, không phải Phật nói cũng có. Như
nói quá khứ diệt hết thì biết không có.
Lại như ông nói quán vô ngã. Đó là vì chúng sinh đối với
pháp quá khứ vị lai chấp có ngã, nên Phật mới nói như vậy.
Thành Thật Luận Trang 73 Tuệ Quang Foundation
Lại như ông nói đó là chính kiến. Là vì thân nầy khởi nghiệp,
nghiệp nầy cùng quả làm nhân rồi diệt. Về sau lại tự chịu báo nên
mới nói quả. Tóm lại, trong Phật pháp mà nói hoặc có, hoặc
không đều là phương tiện, vì muốn chỉ rõ nghiệp tội phúc nhân
duyên, chứ không phải đệ nhất nghĩa. Như vì nhân duyên nên nói
có chúng sinh, thì quá khứ vị lai cũng vậy. Như nói nương ý thức
quá khứ ấy là nương phương tiện, chứ không phải như người
nương dựa nơi vách tường, và cũng nói rõ là tâm sinh, chứ không
phải nương nơi thân mà sinh. Vì nhân tiền tâm nên hậu tâm mới
được sinh. Nghiệp lực cũng vậy. Phật biết nghiệp nầy tùy diệt mà
có thể cùng với quả làm nhân, chứ không nói quyết định biết như
biết chữ trên giấy. Tội nghiệp cũng vậy, do thân nầy gây nghiệp,
nghiệp này tuy diệt hết mà quả báo không mất.
Lại như ông nói không nên có các vô lậu căn. Nếu người học
nhân đã được vô lậu căn, được lúc hiện tại, tuy quá khứ diệt, vị lai
chưa đến, vì đã thành tựu rồi nên không được nói là không.
Lại như ông nói Thánh nhân không nên ghi nhận trước việc
vị lai. Với trí lực Thánh nhân, tuy pháp chưa có mà có thể huyền
ký trước, như pháp quá khứ tuy đã diệt hết mà vì niệm lực nên có
thể biết được.
Lại như ông nói không nên nhớ 5 thứ trần. Vì là người phàm
phu si mê vọng niệm nên trước lấy tướng quyết định, về sau tuy
đã diệt hết, mà còn sinh lòng nghĩ nhớ, vì pháp nghĩ nhớ là như
vậy, chứ không phải như nhớ lông rùa sừng thỏ… 18 thứ ý hành
cũng như vậy, hiện tại thủ sắc, quá khứ tuy diệt, vẫn tùy theo mà
nghĩ nhớ.
Lại như ông nói không nên tự xưng ta được thiền định. Là
định được ở hiện tại, vì sức nghĩ nhớ nên tự nói ta được.
Lại như ông nói không nên được quán nội tâm nội thụ. Có 2
thứ tâm : 1 là niệm niệm sinh diệt, 2 là thứ lớp nối nhau. Dùng
tâm hiện tại, quán tâm nối nhau, chứ không phải niệm hiện còn.
Thành Thật Luận Trang 74 Tuệ Quang Foundation
Lại như ông nói không nên tu tập 4 chính cần. Đó là đề
phòng nhân duyên ác pháp đời vị lai đồng thời cũng phát khởi
nhân duyên thiện pháp đời vị lai.
Lại như ông nói thì không có Phật. Phật là tướng tịch diệt,
tuy còn hiện ở đời mà không thuộc vào có hay không, huống là
khi đã diệt độ ? Chúng sinh qui mạng nơi Phật cũng như người
đời thờ phụng cha mẹ vậy.
Lại như ông nói cũng không nên có người tu giới lâu hay
mới. Không vì thời gian mà giới có sai khác. Sở dĩ vì sao ? Vì
thời gian không thật, chỉ do các pháp hòa hợp sinh diệt nên mới
có thời gian. Cho nên ông đã nói bao nhiêu nhân đều không đúng.
Phẩm 23 : Tất cả có không
Luận giả nói : Có người nói tất cả các pháp có. Có người nói
tất cả pháp không có.
Hỏi : Do nhân duyên gì nói có. Do nhân duyên gì nói không
?
Đáp : Người nói có là căn cứ Phật nói 12 nhập gọi là tất cả.
Đó là tất cả có địa, hỏa, phong, không, thì, phương, thần và ý
v.v... các Đà-la-phiêu, tức chỉ tất cả vật. Số v.v... các Cầu-na, tức
nương dựa. Nêu cử các nghiệp dưới đây. Các pháp tổng tướng
biệt tướng hòa hợp và bản tính Ba-cư-đế v.v..., cùng những việc
trong thế gian như sừng thỏ, lông rùa, chân rắn, mùi thơm của
muối, và màu sắc của gió v.v..., đó gọi là không.
Lại như trong kinh nói : Hư không không dấu vết, ngoại đạo
không Sa-môn, phàm phu ưa hý luận. Như Lai thì không có.
Lại như tùy theo chỗ thụ pháp, cũng được gọi là có. Như Đàla-
phiêu v.v... 6 sự, phái Ưu-lầu-khư cho là có, 25 đế phái Tăngkhư
cho là có, 16 nghĩa phái Na-da-tu-ma cho là có.
Lại nếu như có đạo lý có thể thành xong sự việc, cũng được
gọi là có, như 12 nhập.
Thành Thật Luận Trang 75 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, trong Phật pháp dùng phương tiện nên mới nói tất
cả có, tất cả không, chứ không phải đệ nhất nghĩa. Sở dĩ vì sao ?
Vì nếu quyết định có, tức rơi vào bên thường, nếu quyết định
không, thì rơi vào bên đoạn. Lìa được 2 bên mới là con đường
trung đạo của Phật.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN quyển 3

THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 3 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 24 : Có trung ấm
Luận giả nói : Có người nói có thân trung ấm, hoặc có người
nói không có.
Hỏi : Do nguyên nhân gì nói có, do nhân duyên gì nói không
?
Đáp : Người nói có là căn cứ Phật nói trong kinh A-du-la-na
rằng : Nếu khi cha mẹ giao hội, chúng trụ ở nơi nào đó liền đến
nương vào trong ấy. Cho nên biết có trung ấm.
Lại như kinh Hòa-ta nói : Nếu chúng sinh sau khi bỏ thân
nầy rồi, mà chưa thụ tâm sinh thân sau, trong khoản trung gian, ta
nói ái là nhân duyên. Đó gọi là trung ấm.
Lại như trong 7 thứ người thiện, có thân trung hữu diệt.
Lại như trong kinh nói : Tạp khởi nghiệp, tạp thụ thân, và tạp
sinh thế gian. Cho nên biết có trung ấm.
Lại như trong kinh nói 4 hữu là bản hữu, tử hữu, trung hữu
và sinh hữu.
Lại nói 7 hữu là ngũ đạo hữu, nghiệp hữu, và trung hữu.
Thành Thật Luận Trang 76 Tuệ Quang Foundation
Lại nói vua Diêm-la quở trách tội nhân trung ấm mà biết túc
mạng chúng sinh, nghĩa là chúng sinh nầy sinh chỗ nầy, chúng
sinh kia sinh chỗ kia.
Lại như trong kinh nói : Dùng thiên nhãn xem thấy các
chúng sinh khi chết khi sinh.
Lại nói chúng sinh bị ấm trói buộc nên từ thế gian nầy đến
thế gian kia.
Lại như người đời cũng tin có trung ấm, người ta nói : Nếu
người khi chết có thân tứ đại vi tế, ở từ ấm này mà đi.
Lại nếu như có trung ấm thì mới có đời sau. Nếu không có
trung ấm, khi bỏ thân nầy rồi mà chưa thụ sinh thân sau, thì
khoảng thời gian ấy phải gián đoạn.
Vì các lý do trên nên biết có trung ấm.
Phẩm 25 : Không có trung ấm
Có người nói không có trung ấm. Tuy ông dẫn trong kinh Adu-
la-đa-na nói có trung ấm, điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ?
Vì nếu là Thánh nhân mà không biết cái ấy là gì và từ đâu đi đến,
tức là không có trung ấm, nếu có tại sao lại không biết ?
Lại như ông dẫn câu trong kinh Hòa-ta nói, điều này là
không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong kinh nầy hỏi khác đáp khác.
Phạm Chí Hòa-ta nầy chấp thân khác thần khác, nên mới đáp như
vậy, là trung ấm trung hữu, 5 ấm.
Lại như ông nói có trung hữu diệt, là người nầy ở trung gian
cõi Dục và cõi Sắc thụ thân, ở trong đó diệt cho nên gọi là trung
hữu diệt. Sở dĩ vì sao ? Vì như trong kinh nói : Nếu người chết, đi
đến chỗ nào, sinh về chỗ nào, ở tại chỗ nào. Nghĩa nầy không
khác.
Lại như ông nói tạp thụ thân, tạp sinh thế gian. Nếu nói thụ
thân, nói sinh thế gian, nghĩa nầy không khác.
Thành Thật Luận Trang 77 Tuệ Quang Foundation
Lại như ông nói 4 hữu, 7 hữu. Kinh ấy không phải như vậy,
vì không thuận với pháp tướng.
Lại như ông nói vua Diêm-la quở trách. Đấy là thân sinh hữu
chứ không phải trung hữu.
Lại như ông nói Phật nhân trung ấm mà biết túc mạng. Điều
này không đúng, sức Thánh trí là như vậy, tuy không tương tục
mà cũng có thể nghĩ biết.
Lại như ông nói dùng thiên nhãn xem thấy khi chết khi sinh.
Sắp sinh gọi là khi sinh, sắp chết gọi là khi chết, chứ không phải
trung ấm.
Lại như ông nói chúng sinh bị ấm buộc, từ đây đến kia. Đó là
muốn chỉ cho biết có đời sau nên mới nói như vậy, chứ không
phải nói rõ có trung ấm.
Lại như ông nói khi chết có 4 đại vi tế. Đó là chỗ thấy biết
của người đời, không thể tin được, vì đây không phải dùng làm
nhân.
Lại như ông nói nếu không có trung ấm thì thời gian giữa
phải gián đoạn. Đó là vì nghiệp lực, người nầy sinh đây, người kia
sinh kia, như quá khứ vị lai tuy không nối nhau mà có thể nghĩ
nhớ được. Cho nên không có trung ấm.
Lại nữa, trong Kinh Túc Mạng Trí nói : Biết người nầy chết
ở đây sinh nơi kia, chứ không nói trụ trong trung ấm.
Lại nữa, Phật nói 3 thứ nghiệp là nghiệp hiện báo nghiệp
sinh báo và nghiệp hậu báo, chứ không nói có nghiệp trung ấm
báo.
Lại nữa, nếu trung ấm có xúc tức gọi sinh hữu. Nếu không
thể xúc, thì không có, nên thụ tưởng v.v... cũng không. Như vậy
thì có chỗ nào ?
Lại nếu như chúng sinh thụ hình trung ấm, tức gọi thụ sinh,
như trong kinh nói : Nếu người bỏ thân nầy thụ các thân khác, ta
nói là sinh, nếu không thụ thân thì không có trung ấm.
Thành Thật Luận Trang 78 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa, nếu trung ấm có thoái, tức gọi là sinh. Sở dĩ vì sao ?
Vì cần trước sinh sau thoái vậy. Nếu không thoái, tức là thường.
Lại do nghiệp lực mới sinh, thì còn dùng trung ấm làm chi ?
Lại nếu như trung ấm do nghiệp mà thành, tức là sinh hữu,
như nói nghiệp nhân duyên, nếu không do nghiệp thành, thì do
đâu mà có ? Cần phải trả lời ngay.
Đáp : Tôi cho sinh hữu có sai khác, nên gọi là trung ấm. Cho
nên không có các lỗi như trên. Người nầy tuy trung ấm sinh, mà
cùng với sinh có khác. Có thể khiến thức đi đến trong Ca-la-la, đó
gọi là trung ấm.
Hỏi vặn lại rằng : Vì nghiệp lực có thể khiến đến, chứ cần
chi phải dùng phân biệt nói trung ấm ?
Lại tâm không chỗ đến, vì nghiệp nhân duyên nên mới từ nơi
đây diệt mà sinh nơi kia vậy thôi.
Lại như hiện thấy tâm không tương tục sinh, như người chân
đạp phải gai mà trong đầu biết đau. Thức nơi chân không có nhân
duyên gì đến trong đầu, chỉ vì các duyên xa gần hòa hợp sinh tâm.
Cho nên không cần phân biệt chấp có trung ấm.
Phẩm 26 : Thứ tự
Luận giả nói : Có người nói 4 đế thấy theo thứ tự; lại có
người nói thấy cùng một lúc.
Hỏi : Do nhân duyên gì nói thấy theo thứ tự ? Lại do nhân
duyên gì nói thấy cùng một lúc ?
Đáp : Người nói thấy theo thứ tự, như trong kinh nói : Nếu
người thấy thế gian tập, tức diệt được chấp không. Thấy thế gian
diệt, tức diệt được chấp có. Phải biết tập diệt 2 tướng khác nhau.
Lại nếu như người nào có thể biết được bao nhiêu tướng tập
đều là tướng diệt, gọi là lìa cấu uế được pháp nhãn thanh tịnh.
Lại nói, người trí tuệ lanh lợi dần loại bỏ các điều ác, như thợ
vàng có thể dũa bỏ chất rét của vàng.
Thành Thật Luận Trang 79 Tuệ Quang Foundation
Lại như trong Kinh Lậu Tận nói : Người nào có tri kiến thì
được hết các lậu. Hành giả không tự hay biết chứ hằng ngày
thường tu tập nên được hết các lậu.
Lại nữa, Phật nói : Trong các đế, có thể sinh nhãn trí minh
tuệ. Trong khổ đế cõi Dục có 2, 2 cõi Sắc và Vô săc cũng có 2.
Tập v.v... cũng vậy.
Lại trong kinh miệng Phật tự nói ra lần lượt thấy đế, như
người leo thang tuần tự mà lên. Vì các kinh nầy nên biết 4 đế
không phải thấy cùng một lúc được.
Lại như các phiền não, trong 4 đế, có 4 thứ tà hành là không
khổ, không tập, không diệt và không đạo. Cho nên trí vô lậu cũng
phải thứ tự tu 4 thứ chính hành.
Lại nữa, hành giả cần định tâm phân biệt; đây là khổ, đây là
nhân của khổ, đây là khổ diệt, và đây là đạo diệt khổ. Nếu như
trong một tâm, làm sao quyết định phân biệt được như vậy ? Cho
nên biết là thứ tự chứ không phải thấy được cùng một lúc.
Phẩm 27 : Cùng một lúc
Có người nói 4 đế thấy cùng một lúc chứ không phải theo
thứ tự. Ông nói : Thấy thế gian tập, tức diệt chấp không. Thấy thế
gian diệt tức diệt chấp có ấy. Nếu nói vậy tức hoại tự pháp, vì nếu
như vậy cũng không cần 16 thứ tâm, 12 hành để đắc đạo.
Lại như ông nói : Biết bao nhiêu tướng tập đều là tướng diệt
thì được pháp nhãn. Nếu vậy phải dùng 2 tâm mới đắc đạo : một
là tập tâm, 2 là diệt tâm. Nhưng không phải vậy.
Lại nữa, như ông nói trí lanh lợi dần dần loại bỏ các ác, nếu
vậy cũng không nên chỉ 16 thứ tâm.
Lại như ông dẫn Kinh Lậu Tận nói : Người nào có thể biết
sắc v.v… thì được hết các lậu. Nếu vậy phải có vô lượng tâm, chứ
không phải chỉ 16 tâm.
Thành Thật Luận Trang 80 Tuệ Quang Foundation
Lại như ông nói nhãn trí minh tuệ là Phật tự nói trong 4 đế
được nhãn trí minh tuệ, mà không nói thứ tự có 16 tâm.
Lại như ông nói miệng Phật tự nói ra rằng tuần tự thấy đế,
như người leo thang. Tôi không học kinh nầy, dù có cũng nên bỏ,
vì không thuận với pháp tướng.
Lại như ông nói 4 thứ tà hành thì đối với 5 ấm v.v... cũng
phải tà hành, tùy theo chỗ tà hành, đều nên sinh trí. Nếu vậy
không cần chỉ 16 thứ tâm mà đắc đạo.
Lại như ông nói nên định phân biệt, thì đối với sắc v.v...
cũng cần phân biệt. Cho nên không chỉ cần có 16 thứ tâm.
Lại nữa hành giả không được các đế, chỉ có một đế. Nghĩa là
thấy khổ diệt gọi là sơ đắc đạo. Vì thấy pháp v.v... các nhân duyên
nên hành giả từ pháp Noãn v.v... lần lượt thấy đế diệt đế, sau cùng
thấy diệt đế nên gọi là đắc đạo.
Phẩm 28 : Thoái lui
Luận giả nói : Có người nói A-la-hán thoái lui, hoặc có
người nói không thoái lui.
Hỏi : Do nhân duyên gì nói có thoái lui, do nhân duyên gì lại
nói không thoái lui ?
Đáp : Nói thoái lui là như trong kinh nói : Khi giải thoát, Ala-
hán do 5 nhân duyên bị thoái lui là ưa làm việc, ưa đọc tụng, ưa
xử đoán, ưa đi xa, và luôn bệnh tật. Như trong kinh nói có 2 hạng
A-la-hán là thoái tướng và không thoái tướng.
Lại trong kinh nói : Nếu Tì-kheo nào thoái lui môn giải thoát
thì có điều đó.
Lại như trong kinh nói : Quán thân như chiếc bình, ý tưởng
phòng vệ như thành trì, đem tuệ chiến đấu với ma, giữ phần thằng
không thua bại. Nếu không thoái thì không cần thủ thắng.
Lại có 2 thứ trí là tận trí và vô sinh trí. Nếu tận trí không sinh
trở lại thì dụng vô sinh trí làm chi ?
Thành Thật Luận Trang 81 Tuệ Quang Foundation
Lại như Ưu-đà-da khó được diệt tận định, tức là nhân thoái
lui. Người nầy tuy thoái lui mà cũng được sinh về cõi Sắc. Vì các
duyên cớ nầy, nên biết có thoái lui.
Phẩm 29 : Không thoái lui
Có người nói Thánh đạo không có thoái lui, chỉ có thiền
định thoái lui.
Hỏi : Nếu như vậy thì không có 2 hạng A-la-hán, mà chỉ có
thoái tướng, vì tất cả A-la-hán trong thiền định đều có thoái lui ?
Đáp : Thoái sức tự tại trong thiền định, vì không phải tất cả
A-la-hán đều được sức tư tại.
Hỏi : Không phải như Tì-kheo Cù-đề sáu phen thoái bèn lấy
dao tự sát. Nếu như thoái thiền định cần gì tự sát ? Vì trong Phật
pháp quí hồ giải thoát, chứ không quí thiền định.
Đáp : Người ấy nương thiền định nầy, sẽ được A-la-hán đạo.
Mà mất thiền định nầy là mất vô lậu, chứ không phải vô lậu có
thoái. Sở dĩ vì sao ? Như kệ nói hoàn toàn không tạo mới, ở trong
các hữu, đều được chán lìa. Diệt sạch các kết sử không trở lại sinh
tướng. Đó là các người mạnh, như ngọn đèn tắt.
Lại nói : Ví như núi đá, gió không thể động, người mạnh như
vậy, chê khen không chao đảo.
Lại trong kinh nói : Ái sinh ái v.v..., A-la-hán nầy, vĩnh viễn
nhổ gốc ái, thì do đâu sinh kết ?
Lại nói : Gọi là Thánh nhân thì rốt ráo tận cùng biên giới,
việc làm đã xong.
Lại nói : Thánh nhân diệt tan không nhóm, phá rách không
dệt.
Lại trong kinh nói : Vô minh là nhân duyên khởi tham sân si.
A-la-hán nầy, vĩnh viễn hết vô minh, làm sao sinh kết ?
Thành Thật Luận Trang 82 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Nếu các học nhân cầu đạo Nê-hoàn, ta
bảo người nầy quyết không phóng dật. Nếu được hết lậu không tái
sinh nữa, cho nên không thoái.
Lại nói : Người trí khéo suy nghĩ, khéo khẩu thân nghiệp,
làm việc không lầm lỗi.
Lại nói : Tì-kheo vui hạnh không phóng túng, vì thấy lỗi của
phóng túng, vậy là không thoái, gần gũi Nê-hoàn.
Lại trong kinh nói : Hươu nai nương đồng nội, chim chóc
nương hư không, pháp quy về phân biệt, chân nhân quy về Diệt.
Lại nữa, 3 nhân duyên sinh khởi các kết sử là tham dục
không dứt, cảnh tham dục hiện tiền, trong lòng sinh tà niệm. A-lahán
nầy tham dục đã dứt, tuy đối dục cảnh mà không sinh tà niệm,
nên không khởi kết.
Lại nói Tì-kheo tà quán các pháp, nên khởi 3 lậu. A-la-hán
nầy không có tà quán, nên không khởi các lậu.
Lại trong kinh nói : Nếu dùng Thánh tuệ biết rồi thì không có
thoái. Như quả Tu-đà-hoàn không có thoái.
Lại A-la-hán khéo biết tướng 3 thụ là sinh tướng, diệt tướng,
vị quá xuất tướng, cho nên không khởi kết.
Lại nói : Tì-kheo nếu giới, định, tuệ 3 việc thành tựu thì
không thoái chuyển.
Lại A-la-hán dứt kết đã sinh, chưa sinh khiến không sinh.
Lại trong kinh nói : Thánh nhân thật hành, quyết không có
thoái. A-la-hán đã chứng 4 đế, các lậu diệt hết rồi nên gọi là người
thật hành.
Lại nói 7 giác là pháp không thoái lui. A-la-hán đầy đủ 7
giác, cho nên không thoái. A-la-hán chứng được giải thoát không
hư hoại, cho nên không thoái.
Lại A-la-hán trong Phật pháp, được lợi kiên cố, nên gọi là
giải thoát không hư hoại.
Thành Thật Luận Trang 83 Tuệ Quang Foundation
Lại như người cụt tay, nghĩ hay không nghĩ, vẫn gọi là người
cụt tay, A-la-hán cũng vậy, đã đoạn kết sử thì nghĩ hay không
nghĩ, vẫn gọi là đoạn.
Lại trong kinh nói : Tín v.v... các căn lợi, gọi là A-la-hán.
Người lợi căn quyết không có thoái.
Lại A-la-hán có thể ở trong pháp vô thượng đoạn ái, nên tâm
khéo được giải thoát, rốt ráo diệt hết.
Lại ví như lửa cháy chỗ chưa cháy, cháy rồi không trở lại
cháy chỗ cũ. Tì-kheo cũng vậy, vì được thành tựu 11 pháp nên
quyết không có thoái.
Hỏi : Có 2 hạng A-la-hán, ông đã dẫn kinh nói người không
thoái ?
Đáp : Đây là nói tướng chung, các người học nhân phải
không phóng túng. A-la-hán thì không cần, không phải nói tướng
riêng, tướng không thoái.
Lại như Phật nói kệ : Thắng mà nếu sinh lại, thì không gọi là
thắng. Thắng mà không sinh, mới là chân thật thắng.
Lại A-la-hán sinh đã hết nên không còn thụ thân lại. Kinh
của ông tuy nói A-la-hán thoái pháp phải được lại. Nếu như vậy
thì pháp cũng phải không thoái. Nếu như Tì-kheo có thể khiến các
tướng không sinh, gọi là A-la-hán, cho nên không có thoái.
Phẩm 30 : Tâm tính
Luận giả nói : Có người nói tâm tính vốn trong sạch, vì
khách trần, nên không trong sạch. Có người cho là không phải
vậy.
Hỏi : Do nhân duyên gì nói vốn trong sạch, vì khách trần,
nên không trong sạch. Lại do nhân duyên gì mà nói không phải
vậy ?
Đáp : Người cho rằng tâm tính không phải vốn trong sạch, vì
khách trần nên không trong sạch. Sở dĩ vì sao ? Vì phiền não cùng
Thành Thật Luận Trang 84 Tuệ Quang Foundation
tâm thường tương ưng nhau sinh, chứ không phải tướng khách
trần.
Lại có 3 thứ tâm là thiện, bất thiện, và vô ký. Tâm thiện và
vô ký là không phải nhơ bẩn, như tâm bất thiện vốn tự không
trong sạch, không do khách trần.
Lại nữa, tâm nầy niệm niệm sinh diệt không đợi phiền não,
nếu phiền não cùng sinh thì không gọi là khách.
Hỏi : Tâm là chỉ biết sắc v.v..., rồi sau thủ lấy tướng, từ
tướng sinh các phiền não, rồi cùng với tâm làm bẩn, nên nói vốn
trong sạch.
Đáp : Không phải vậy. Khi tâm và tâm này diệt chưa có
tướng bẩn, thì khi tâm diệt rồi bẩn thấm vào đâu ?
Hỏi : Tôi không vì tâm mỗi niệm mỗi niệm diệt nên nói như
vậy, mà bởi tâm liên tục nối nhau nên mới nói nhiễm bẩn ?
Đáp : Cái gọi là tâm liên tục nối nhau nầy, thế đế mới có,
chứ không phải nghĩa chân thật. Điều đó không nên nói.
Lại nữa trong thế đế cũng là nhiều lỗi. Tâm sinh đã diệt,
chưa sinh thì chưa khởi, thì liên tục nối nhau như thế nào ? Cho
nên tâm tính không phải vốn trong sạch vì khách trần nên không
trong sạch. Chỉ Phật vì chúng sinh bảo rằng tâm thường tồn tại,
cho nên nói bị khách trần làm ô nhiễm làm cho tâm không trong
sạch.
Lại Phật vì chúng sinh biếng nhác, nếu nghe tâm vốn không
trong sạch, liền cho rằng tính không thể biến cải, nên không phát
tâm thanh tịnh. Cho nên mới nói là bản tịnh.
Phẩm 31 : Tương ưng và không tương ưng
Luận giả nói : Có người nói tâm tương ưng với các sử; lại có
người nói tâm không tương ưng.
Hỏi : Do nhân duyên gì nên nói tâm tương ưng; lại do nhân
duyên gì nói không tương ưng ?
Thành Thật Luận Trang 85 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Người nói tâm tương ưng, trong Phẩm Sử sau sẽ nói.
Lại tham dục v.v... các nghiệp phiền não, nghiệp này các sử
tương ưng. Trong pháp của ông tuy nói tâm không tương ưng với
sử, với tâm tương ưng làm nhân cho kết triền. Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong kinh nói do vô minh, tà niệm, tà tư
duy v.v... khởi tham v.v... các kết, chứ không có kinh nào nói do
sử sinh. Trong pháp của ông tuy nói tập luyện kết triền lâu thì gọi
là sử sinh. Điều này không như vậy. Sở dĩ vì sao ? Vì các nghiệp
thân khẩu cũng có tướng tập luyện lâu, đây chỉ nên có tương tự
sử tâm bất tương ưng hành, mà thật không có. Vì nếu như vậy thì
các pháp đều từ nhân hiện tại sinh, không có nhân quá khứ. Vậy
thì cũng không cần từ nghiệp sinh báo, cũng không cần từ ý sinh ý
thức nữa.
Lại các sử này vì niệm niệm diệt thì do nhân nào sinh ?
Hỏi : : Cùng chung làm nhân sinh ?
Đáp : Như vậy cũng không đúng, vì nhân quả không được
cùng một thì hợp lại. Điều này ra sau trong thí dụ ngọn đèn sẽ nói.
Cho nên không nên nói các sử là không phải tâm tương ưng.
Phẩm 32 : Nghiệp quá khứ
Luận giả nói : Đạo nhân Ca-diếp-bệ nói báo nghiệp đời quá
khứ chưa chịu thì có, các đời quá khứ khác thì không có.
Đáp : Nghiệp nầy nếu mất là quá khứ. Quá khứ nếu không
mất tức là thường. Mất là tên khác của quá khứ. Mà mất rồi bị mất
nữa, thì nghiệp nầy làm nhân cho quả báo đã diệt, vì quả báo sinh
sau. Như trong kinh nói : Vì điều này nên việc kia được sinh. Như
khi sữa diệt làm nhân cho bơ. Thế thì cần gì phân biệt nghiệp quá
khứ ư ? Mà nếu nói như vậy thì trong các nhân có lỗi, là vì sao
không nhân mà thức được sinh ? Như thế thì không sữa làm sao
có bơ ? Nếu không có 4 đại, thì thân khẩu các nghiệp nương đâu
Thành Thật Luận Trang 86 Tuệ Quang Foundation
mà có ? Nhưng lẽ như vậy, tôi trước nói quá khứ có lỗi, người kia
nên đáp lại đi.
Phẩm 32 : Biện luận về 2 ngôi báu
Luận giả nói : Đạo nhân Ma-hê-xá-bà nói Phật ở trong số của
Tăng.
Đáp : Nếu nói Phật ở trong 4 chúng là hữu chúng, sinh
chúng, nhân chúng và Thánh nhân chúng thì không lỗi. Nếu nói
Phật ở trong Thanh Văn chúng, thế là có lỗi. Vì do nghe pháp mà
được giác ngộ gọi là Thanh Văn, và vì tướng Phật khác nên không
ở trong chúng nầy.
Hỏi : Phật đứng đầu trong Tăng, vì có người cúng thí gọi là
thí Tăng.
Đáp : Thí nầy thuộc về bậc Tăng nào ? Kinh nầy có chút lỗi.
Vậy thì nên nói thí ấy thuộc về Phật Tăng.
Hỏi : Phật bảo Cù-đàm-di rằng : Đem áo nầy thí Tăng, tức
cúng dường ta, mà cũng là cúng dường Tăng.
Đáp : Ý Phật nói đem lời nói vì cúng dường ta, vật nầy cúng
dường Tăng. Như trong kinh nói : Nếu ai đi thăm người bệnh, tức
là thăm ta.
Hỏi : Có các người đã thành tựu Thánh công đức như Xá-lợiphất
v.v... đều ở trong Tăng số, Phật cũng như thế, vì đồng tướng.
Đáp : Nếu đem đồng tướng mà nói thì những người phàm
phu và phi chúng sinh cũng phải nhập vào Tăng số, mà đâu có
được như vậy. Cho nên biết Phật không thuộc trong Tăng số.
Lại nữa, Phật không vào Tăng Yết-ma, tức xử đoán và cũng
không đồng các việc thuộc Tăng sự.
Lại nữa, vì Tam Bảo riêng biệt, cho nên Phật không ở trong
Tăng.
Phẩm 34 : Vô ngã
Thành Thật Luận Trang 87 Tuệ Quang Foundation
Luận giả nói : Đạo nhân Độc tử nói có ngã. Những người
khác nói không có.
Hỏi : Đàng nào là thật ?
Đáp : Pháp vô ngã thật. Sở dĩ vì sao ?`Như trong kinh, Phật
bảo Tì-kheo rằng : Chỉ vì danh tự, chỉ vì giả thi thiết, và chỉ vì
hữu dụng, nên mới gọi là ngã mà thôi. Bởi chỉ vì danh tự v.v...,
cho nên biết không có chân thật ngã.
Lại như trong kinh nói : Nếu người nào không thấy khổ, thì
người nầy thấy có ngã. Nếu như thật thấy khổ thì không còn thấy
ngã. Nếu thật có ngã thì người thấy khổ cũng phải thấy ngã.
Lại nói : Thánh nhân chỉ vì tùy tục nên mới nói là có ngã.
Lại trong kinh Phật nói : Ngã tức là động xứ. Nếu thật có thì
không gọi động xứ. Như mắt có nên không gọi động xứ.
Lại như trong các kinh đều ngăn chấp ngã. Như Thánh Tìkheo-
ni bảo ma vương rằng : Người gọi là chúng sinh tức là tà
kiến. Vì các nhóm pháp hữu vi đều là trống không, không có
chúng sinh.
Lại nói : Các hành hòa hợp nối nhau nên có, tức là huyễn hóa
dối gạt phàm phu, đều là oán tặc, như mũi tên đâm vào tim, không
có chắc thật.
Lại nói : Không ngã, không ngã sở, không chúng sinh, không
người, chỉ là trống không. Tướng 5 ấm sinh diệt bại hoại mới có
nghiệp, có quả báo mà thôi, chứ người làm ra là không thể có
được. Các duyên hòa hợp nên mới có các pháp nối nhau. Vì các
duyên do nầy nên trong các kinh Phật đều ngăn chấp ngã. Nên
không có ngã.
Lại như trong kinh giải nghĩa thức như sau : Sao gọi là thức ?
Nghĩa là có thể biết sắc cho đến biết pháp chứ không nói biết ngã.
Cho nên không có ngã. Tì-kheo Quần-na hỏi Phật rằng : Ai ăn
thức thực ? Phật đáp : Ta không nói có người ăn thức thực. Nếu
Thành Thật Luận Trang 88 Tuệ Quang Foundation
có ngã nên nói ngã ăn thức thực. Vì không nói cho nên biết không
có ngã.
Lại như trong Kinh Bình-sa Vương Nghinh Phật, có nói :
Phật bảo các Tì-kheo rằng : Các ông xem những người phàm phu
đuổi theo giả danh cho là có ngã. Trong 5 ấm nầy thật không có
ngã và ngã sở.
Lại nói vì 5 ấm nên có các thứ tên như là ngã, chúng sinh,
nhân, thiên v.v..., như vậy vô lượng danh từ đều do 5 ấm mà có.
Nếu có ngã thì phải nói nguyên nhân ngã.
Lại như Trưởng lão Phất-ni-ca bảo ngoại đạo rằng : Nếu
người tà kiến thì không mà cho là có. Phật muốn dứt tà mạn nầy
chứ không dứt chúng sinh. Cho nên nói không ngã.
Lại như trong Kinh Viêm-ma-già, Xá-lợi-phất bảo Viêm-magià
rằng : Ông thấy sắc ấm là A-la-hán chăng ?
Đáp : Không phải.
Hỏi : Thấy thụ, tưởng, hành, thức là A-la-hán chăng ?
Đáp : Không phải.
Hỏi : Thấy 5 ấm hòa hợp là A-la-hán chăng ?
Đáp : Không phải.
Hỏi : Thấy lìa 5 ấm là A-la-hán chăng ?
Đáp : Không phải.
Xá-lợi-phất nói : Nếu như vậy xét tìm không thể được, thì có
nên nói A-la-hán sau khi chết không có chăng ?
Đáp : Thưa Xá-lợi-phất ! Tôi trước đã có tà kiến ác nay được
nghe nghĩa nầy, tà kiến kia liền diệt. Nếu như có ngã không gọi là
ác sao ?
Lại trong 4 thủ có nói ngã ngữ thủ. Nếu thật có ngã, nên nói
ngã thủ, như dục thủ v.v..., không nên nói ngã ngữ thủ.
Lại như trong Kinh Tiên-ni nói : Trong tam sư, nếu có sư nào
bất đắc hiện ngã hậu ngã, ta nói sư đó là Phật đấy. Vì Phật là bất
đắc, nên biết không có ngã.
Thành Thật Luận Trang 89 Tuệ Quang Foundation
Lại trong vô ngã, ngã tưởng là điên đảo. Nếu trong ý ông cho
rằng ngã tưởng trong ngã không phải điên đảo thì điều đó không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật nói : Chúng sinh thấy có ngã, đều là
thấy 5 ấm đấy. Cho nên không có ngã.
Lại nói chúng sinh nghĩ nhớ bao nhiêu túc mạng cũng đều là
nghĩ đến 5 ấm đó thôi. Nếu như có ngã cũng nên nghĩ đến ngã, vì
không nghĩ nên biết không ngã. Nếu trong ý ông bảo cũng có kinh
nói nghĩ nhớ chúng sinh, như với chúng sinh nào đó, ta gọi tên
chúng sinh đó. Điều này cũng không đúng. Vì đây là thế đế phân
biệt, nên nói là thật nghĩ 5 ấm, chứ không phải nghĩ chúng sinh.
Sở dĩ vì sao ? Vì ý thức nghĩ, ý thức chỉ duyên nơi pháp. Cho nên
không có nghĩ nghĩ nhớ chúng sinh.
Lại như có người nói quyết định có ngã, thì trong 6 thứ tà
kiến quyết sa vào một thứ. Nếu ý ông bảo vô ngã cũng là một thứ
tà kiến, thế là không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì là 2 đế. Nếu đem thế
đế nói không ngã, đem đệ nhất nghĩa đế nói có ngã, là có lỗi. Tôi
nay nói đệ nhất nghĩa đế nên không lỗi, nếu thế đế thì có. Cho nên
không lỗi.
Lại Phật nói nhổ gốc ngã kiến, như trong lời hỏi của vua Si
Vương. Phật đáp : Này Si Vương ! Nếu có người dùng nhất tâm
quán các thế gian là trống không, thì nhổ được gốc ngã kiến,
không còn thấy vua chết nữa.
Lại như vì các thuyết nói nhân duyên có ngã buồn vui các
việc đều do 5 ấm mà ra, và để phá các ngã kiến nhân duyên của
ngoại đạo, cho nên nói không có ngã.
Phẩm 35 : Có ngã, không có ngã
Hỏi : Ông nói không có ngã, điều này không đúng. Sở dĩ vì
sao ? Vì trong 4 cách trả lời là cách trả lời thứ tư.
Thành Thật Luận Trang 90 Tuệ Quang Foundation
Nghĩa là người sau khi chết, hoặc có hoặc không, cũng có
cũng không, không phải có không phải không. Nếu thật không có
ngã thì không nên có những lối trả lời ấy.
Lại như người nào nói không có chúng sinh thụ thân sau, đó
tức là tà kiến.
Lại trong 12 bộ kinh, có Kinh Bản Sinh, Phật tự nói : Khi ấy
vua Đại Hỷ Kiến kia tức là thân ta. Có các truyện bản sinh như
vậy. Năm ấm nay không phải 5 ấm xưa. Cho nên có ngã từ xưa
đến nay.
Lại Phật nói nay vui mừng sau vui mừng, làm lành được 2
đời vui mừng. Nếu chỉ có 5 ấm, thì không nên nói 2 đời vui
mừng.
Lại trong kinh nói : Tâm cấu uế nên chúng sinh cấu uế. Tâm
thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh.
Lại như một người sinh thế gian, thì nhiều người bị tổn hại.
Lại một người sinh thế gian, thì nhiều người được lợi ích.
Lại như gây nghiệp nhân lành hay không lành đều nương nơi
chúng sinh chứ không nương nơi số phi chúng sinh.
Lại nhiều chỗ trong kinh, Phật tự nói : Ta nói có chúng sinh
có thể thụ thân sau, và có thể tự lợi mà không lợi tha-v.v.... Vì các
lẽ ấy nên biết có ngã. Ông trước tuy nói chỉ vì danh tự v.v.... Điều
này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Là Phật chỉ vì ngoại đạo nói lìa 5
ấm riêng chấp có tướng ngã thường không hoại. Muốn dứt tà kiến
nầy nên mới nói không có ngã. Nay chúng tôi nói 5 ấm hòa hợp,
gọi đó là ngã nên không bị lỗi.
Lại tuy nói : Ngã chỉ vì danh tự v.v..., nên suy nghĩ kỹ lời nói
nầy : Nếu chúng sinh chỉ là danh tự, thì nếu giết con bò bằng đất
không bị tội sát sinh, thì giết con bò thật cũng không nên có tội.
Lại như trẻ con lấy tên một vật gì cúng thí, đều có quả báo,
thì người lớn chỉ thí bằng cái tên cũng nên được báo. Nhưng thật
không có được.
Thành Thật Luận Trang 91 Tuệ Quang Foundation
Lại chỉ cái tên, nên không mà nói có thì Thánh nhân cũng có
vọng ngữ sao ? Vì nói thật ngữ mới gọi là Thánh nhân chứ ! Cho
nên biết có ngã.
Lại như Thánh nhân thấy thật không có ngã mà tùy theo thế
tục nên nói có ngã, thế là thấy điên đảo, vì nói khác.
Lại như vì tùy theo thế tục không mà nói có, thì không nên
lại nói thật nghĩa trong kinh là 12 nhân duyên, 3 thứ giải thoát, và
các pháp vô ngã v.v.... Nếu có người bảo có đời sau nên tùy theo
mà nói có, trái lại có người bảo không, cũng tùy theo mà nói
không.
Lại bảo muôn vật trong thế gian đều do trời Tự Tại sinh ra.
Các thứ kinh sách tà kiến như vậy, cũng đều nên tùy thuận mà nói
theo. Đó là điều không thể được. Cho nên ông đã dẫn kinh, nói
chung đều bị đả phá hết. Cho nên không phải không có ngã.
Đáp : Ông trước nói vì bỏ không đáp nên biết có ngã ấy.
Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì đây là pháp bất khả
thuyết. Sau trong nhóm diệt đế sẽ phân biệt nói rộng. Cho nên
không có thật ngã, và bất khả thuyết là chỉ vì giả danh mà nói, chứ
không phải thật có.
Lại ngã trong pháp của ông lấy 6 thức mà biết, như trong
kinh của ông nói : Do mắt thấy sắc cho nên ngã hoại. Vậy cái bị
biết của nhãn thức thì không nên nói phi sắc phi phi sắc, thanh
v.v... cũng vậy.
Lại nữa, nếu ngã là cảnh bị biết của 6 thức thì cũng trái với
kinh. Vì trong kinh nói : 5 tình thức không thể thay đổi nhau mà
thủ 5 trần, vì chủ vào việc khác nhau. Nếu lấy 6 thức mà biết được
ngã, thì 6 căn dùng được cho nhau.
Lại nữa, lời ông nói trước sau mâu thuẫn nhau, như bị biết
của nhãn thức không gọi là sắc.
Lại ông nói : Vô ngã là tà kiến. Trong kinh, Phật tự bảo các
Tì-kheo rằng : Tuy không có ngã, nhưng vì các hành nối nhau,
Thành Thật Luận Trang 92 Tuệ Quang Foundation
mới nói có sinh tử. Ta dùng thiên nhãn thấy các chúng sinh khi
sinh khi chết, cũng không nói là ngã.
Lại nữa, trong pháp của ông có lỗi, như ông nói ngã không
sinh. Nếu không sinh thì không cha mẹ. Không cha mẹ thì không
có nghịch tội, cũng không có các tội nghiệp khác nữa. Cho nên
pháp ông là tà kiến.
Lại nữa, ông nói có bản sinh là do 5 ấm nên gọi là Hỷ Kiến
vương, tức 5 ấm kia nối nhau, nên gọi là Phật. Cho nên nói ngã là
vua kia. Trong pháp ông, ngã là một, vậy không nên phân biệt.
Lại nữa, ông nói làm lành 2 đời mừng vui. Trong kinh, Phật
tự ngăn điều này, nói ngã không nói có người bỏ 5 ấm nầy thụ ấm
kia, chỉ vì 5 ấm nối nhau không khác, nên mới nói 2 đời mừng
vui.
Lại nữa, ông nói tâm cấu bẩn nên chúng sinh cấu bẩn. Do đó
nên biết không có thật ngã. Nếu có thật ngã nên cùng với tâm
khác, không nên nói tâm cấu bẩn nên chúng sinh cấu bẩn. Sở dĩ vì
sao ? Vì không thể kia cấu bẩn mà đây nhận chịu. Chỉ vì giả danh
nhân duyên mới có nhơ bản nên nói giả danh nhơ bẩn. Cho nên
giả danh là ngã, không phải chận thật.
Lại như pháp ông nói ngã không phải 5 ấm. Vậy thì không
sinh không diệt, không có tội phúc v.v…, có những lỗi như vậy.
Tôi nói 5 ấm hòa hợp giả danh là ngã. Do ngã nầy cho nên có sinh
có diệt, và có tội phúc v.v…, không phải không có giả danh, chỉ là
không phải thật.
Lại như trước ông nói vì muốn phá ngoại đạo nên Phật nói
không ngã. Đó là ông tự vọng tưởng phân biệt như thế, chứ y Phật
không phải vậy.
Lại các thuyết nói có ngã đều là lầm lỗi, như ông nói ngoại
đạo rời 5 ấm rồi riêng chấp có ngã, ông cũng như vậy. Sở dĩ vì
sao ? Vì 5 ấm vô thường mà ngã không thể nói hoặc thường hay
vô thường, tức là rời ấm.
Thành Thật Luận Trang 93 Tuệ Quang Foundation
Lại nữa ấm có 3 phần : Giới định tuệ; thiện, bất thiện, vô ký,
Dục giới hệ, Sắc giới hệ, Vô săc giới hệ. Phân biệt như thế, ngã
không thể được, nên khác với 5 ấm.
Lại ngã là người, 5 ấm không phải người, tức là khác.
Lại ấm là 5, ngã là 1, cho nên ngã không phải ấm. Nếu vì các
duyên do nầy mà có ngã, thì khác với 5 ấm.
Lại thế gian không có một pháp nào không thể nói một
không thể nói khác, cho nên không có pháp gọi là bất khả thuyết.
Hỏi : Như đốt cháy và cháy được không được nói là một,
không được nói là khác. Ngã cũng như vậy ?
Đáp : Đó cũng là đồng nghi. Cái nào là đốt cháy, cái nào là
cháy được ? Nếu thứ lửa là đốt cháy, thứ khác là cháy được, thì
đốt cháy khác với cháy được. Nếu thứ lửa tức là cháy được, làm
sao nói không một ? Nếu thứ cháy được tức là thứ lửa, nếu rời thứ
lửa, cũng đều không được, nên mới gọi là đồng nghi. Nếu trong
đốt cháy, có cái có thể cháy được, như trong ngã có sắc, tức sa
vào thân kiến.
Lại phải nhiều ngã, như lửa củi khác, lửa phân bò khác. Ngã
cũng như vậy, ngã nhân ấm khác, ngã thiên ấm khác, tức là nhiều
ngã.
Lại như đốt cháy và cháy được ở trong 3 đời, ngã và 5 ấm
cũng phải ở trong 3 đời như vậy, như đốt cháy và cháy được. Vì là
hữu vi nên ngã và 5 ấm cũng phải là hữu vi.
Lại tuy ông nói đốt cháy và cháy được không một không
khác. Nhưng mắt thấy tướng khác ngã và 5 ấm cũng phải có khác.
Lại 5 ấm mất, mà ngã không mất, vì chết nơi đây, sinh đến
nơi kia, có 2 đời mừng vui. Nếu tùy theo 5 ấm có mất có sinh, thì
đồng như 5 ấm không được gọi 2 đời mừng vui. Ông dùng vọng
tưởng phân biệt có ngã, được những lợi gì ?
Thành Thật Luận Trang 94 Tuệ Quang Foundation
Lại trong các thứ trần, không có một trần nào được biết của
cả 6 thức. Ngã mà ông đã nói có thể 6 thức đều biết được, thế thì
không phải là 6 trần.
Lại không nhiếp thuộc 12 nhập, tức không phải các nhập.
Không nhiếp thuộc 4 đế, cho nên nếu nói có ngã tức vọng ngữ.
Lại trong pháp ông nói, pháp khả tri là 5 pháp tạng : quá khứ,
vị lai, hiện tại, vô vi và bất khả thuyết. Ngã ở trong pháp thứ 5,
tức khác với 4 pháp kia. Ông muốn cho khác với 4 pháp trước mà
không phải thứ 5 là không thể được. Như nói ngã là bị các lỗi nầy
thì cần gì vọng tưởng phân biệt ngã làm chi ? Cho nên trước ông
nói có câu : Ngoại đạo rời 5 ấm rồi riêng chấp có ngã, chúng tôi
không phải vậy. Điều này không đúng.
Lại trước ông nói ngã chỉ giả danh cần phải nghĩ kỹ. Điều
này không đúng.
Lại trước ông nói ngã chỉ giả danh nên nghĩ kỹ. Điều này
không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong Phật pháp nói việc thế đế
không cần nghĩ kỹ.
Lại ông nói vọng ngữ thấy điên đảo, cũng như vậy.
Lại như ông nói : Không nên nói thật nghĩa trong kinh. Điều
này nên nói, vì khiến cho biết đệ nhất nghĩa.
Lại ông nói, những chỗ thế gian nói đều nên tùy thuận theo.
Nhưng nếu nói trời Tự Tại sinh ra muôn vật v.v... thì không nên
chấp nhận. Nếu có lợi ích và không trái với thật nghĩa thì chấp
nhận, nên không lỗi. Nếu trong thế đế có thể sinh công đức, có thể
có lợi ích, như vậy nên chấp nhận. Điều này sau sẽ nói rộng.
Lại ông nói giết con bò bằng đất v.v..., không tội sát sinh.
Nay xin trả lời : Nếu đối với các loài có tình thức, các ấm nối
nhau thì có nghiệp và nghiệp báo. Với con bò bằng đất đất v.v...
không có việc như thế. Cho nên phải biết 5 ấm hòa hợp giả danh
là ngã, chứ không phải thật có.
Thành Thật Luận Trang 95 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 36 : Sắc tướng
trong luận về sắc của nhóm khổ đế
Hỏi : Trước ông nói sẽ nói luận về thành thật. Nay sẽ nói
những gì là thật đây ?
Đáp : Thật, là 4 đế. Đó là khổ, nhân của khổ, khổ diệt, đạo
diệt khổ. Năm thụ ấm là khổ. Các nghiệp và phiền não là nhân của
khổ. Hết khổ là khổ diệt. Tám Thánh đạo là đạo diệt khổ. Vì
muốn thành lập pháp ấy nên mới tạo luận nầy. Phật tuy tự thành
lập pháp nầy, để độ chúng sinh nên đã nói tản mác ở nhiều nơi.
Lại Phật lược nói pháp tạng có 8 vạn 4 ngàn, trong đó có 4 y,
8 nhân. Nghĩa nầy hoặc bỏ mà không nói, hoặc có nói lược qua.
Tôi nay muốn soạn tập có thứ lớp cho nghĩa được rõ ràng nên nói.
Hỏi : Ông nói 5 thụ ấm là khổ đế. Những gì là 5 ?
Đáp : Sắc ấm, thức ấm, tưởng ấm, thụ ấm và hành ấm.
Sắc ấm là 4 đại, và những pháp gì do 4 đại mà thành. Và
những pháp gì do 4 đại tạo thành gọi chung là sắc. Bốn đại là địa,
thủy, hỏa, phong. Do sắc, hương, vị và xúc nên thành 4 đại. Do 4
đại nầy thành nhãn v.v... 5 căn. Các thứ này chạm nhau nên mới
có tiếng. Địa là sắc v.v... nhóm họp cứng nhiều, nên gọi là địa.
Như vậy ẩm ướt nhiều gọi thủy, nóng nhiều gọi là hỏa, nhẹ động
nhiều gọi phong. Nhãn căn chỉ duyên sắc và làm chỗ nương cho
nhãn thức, và khi đồng tính không nương, đều gọi nhãn căn. Bốn
căn kia cũng như vậy. Sắc là chỉ làm chỗ bị duyên cho nhãn thức,
và khi đồng tính không duyên, gọi là sắc. Hương, vị, xúc cũng
vậy. Các thứ này chạm nhau nên có tiếng.
Phẩm 37 : Sắc danh
Hỏi : Trong kinh nói các sắc có, đều là 4 đại, và do 4 đại làm
nhân mà thành.
Vì sao nói có, là đều là ?
Thành Thật Luận Trang 96 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nói có, là đều là, là quyết định nói sắc tướng, chứ
không nói gì khác. Vì người ngoại đạo nói có 5 đại. Vì muốn bỏ
thuyết này, nên nói 4 đại và do 4 đại làm n hân mà thành. Bốn đại
giả danh nên mới có. Phổ biến đến nên gọi là đại. Pháp không sắc
không hình. Vì không hình, nên không phương. Vì không phương
nên không gọi là đại. Lại vì thô hiện lên nên gọi là đại. Tâm số
pháp không hiện, nên không gọi là đại.
Hỏi : Vì sao gọi các pháp như địa v.v... là sắc, mà không gọi
thanh v.v...?
Đáp : Pháp có đối gọi là sắc, thanh v.v... đều có đối nên cũng
gọi là sắc, chứ không phải như tâm pháp v.v.... Có hình nên gọi là
sắc. Thanh v.v... đều có hình nên cũng gọi là sắc. Xứ sở ngăn ngại
nên gọi là hình.
Hỏi : Sắc v.v... không phải đều có hình, thanh v.v... mới
không có hình.
Đáp : Thanh v.v... tất cả có hình. vì có hình, vì có đối, nên có
ngăn ngại, như bị vách ngăn thì không nghe.
Hỏi : Nếu thanh v.v... có ngăn ngại, thì phải không thu nhận
các vật, như vách ngăn nên không dung được gì.
Đáp : Vì thanh vi tế nên có thể thu nhận được, như hương vị
v.v... vi tế nên chung nương một hình, mà không trở ngại nhau.
Cho nên thanh v.v..., vì có ngại có đối, nên đều gọi là sắc.
Lại vì tướng nó có thể tổn hoại, nên gọi là sắc. Có những sự
cắt đứt tàn hại v.v..., đều nương nơi sắc. Vì trái với sắc nầy, nên
gọi là vô sắc định.
Lại hiển thị nghiệp lành dữ đời trước, nên gọi là sắc.
Lại cũng hiển thị tâm và tâm số pháp, nên gọi là sắc.
Lại vì xưng danh, nên gọi là sắc.
Phẩm 38 : Bốn đại giả danh
Thành Thật Luận Trang 97 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Bốn đại là giả danh, nghĩa nầy chưa thành lập được vì
có người nói 4 đại là thật có ?
Đáp : Bốn đại giả danh nên mới có. Sở dĩ vì sao ? Phật vì
ngoại đạo nên nói 4 đại. Có các ngoại đạo nói sắc v.v... tức là đại,
như phái Tăng-khư v.v.... Hoặc nói rời sắc v.v... là đại, như Vệ-
thế sư v.v.... Cho nên kinh nầy quyết định nói do sắc v.v... mới
thành địa v.v... các đại. Cho nên biết các đại là giả danh có.
Lại như kinh nói địa chủng là cứng và nương cứng. Cho nên
không chỉ có cứng cho là địa.
Lại người đời cũng đều tin các đại là giả danh có. Sở dĩ vì
sao ? Vì người đời nói trông thấy đất, ngửi thấy đất, chạm vào đất
và mùi vị đất.
Lại trong kinh nói : Đất có thể trông thấy và đụng chạm.
Lại vào địa v.v..., vào trong tất cả, người ấy thấy sắc đất mà
không thấy cứng v.v....
Lại người chỉ ra sắc đất, hương đất, vị đất, xúc đất; trong
pháp thật có, không thể chỉ ra gì khác.
Lại nghĩa của tên đại là phổ biến cùng khắp, tướng nầy là nói
trong giả danh, chứ không chỉ nói trong tướng cứng.
Lại nói địa trụ trên thủy là giả danh địa trụ, không phải chỉ có
tính cứng trụ.
Lại nói cõi đại địa bị đốt cháy tận diệt mà không còn khói
than là đốt cái địa giả danh, không phải chỉ đốt cái tính cứng.
Lại vì sắc v.v... nên tin có địa v.v..., không phải chỉ có tính
cứng v.v....
Lại trong thí dụ cái giếng nói, nước cũng thấy cũng xúc. Nếu
tính ướt là nước thì không có 2 thứ được. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật
nói 5 tình thức không thể thay nhau thủ trần cảnh. Cho nên Phật
nói nước có 8 công đức là nhẹ nhàng, mát mẻ, mềm mại, ngon
ngọt, trong sạch không hôi, mỗi khi uống vào điều hòa khoan
khoái, và uống rồi không bệnh hoạn. Trong đây như nhẹ mát mềm
Thành Thật Luận Trang 98 Tuệ Quang Foundation
đều thuộc xúc nhập, ngọn thuộc vị nhập, trong sạch thuộc sắc
nhập, không hôi là hương nhập, điều hòa khoan khoái và không
bệnh là thế lực của nước. Tám thứ hòa hợp nầy gọi chung là nước.
Cho nên biết các đại là giả danh có.
Lại pháp do làm thành đều là giả danh không thật có vậy.
Như trong kệ nói : Bánh xe v.v... hòa hợp, nên gọi là cái xe, 5 ấm
hòa hợp, nên gọi là người.
Lại như A-nan nói : Các pháp do nhiều duyên thành, ta
không quyết định chỗ nào cả.
Lại như có người nói tính cứng v.v... là đại. Người ấy cho
rằng tính cứng v.v... làm chỗ nương cho sắc v.v.... Vậy thì có
nương, có chủ không phải là Phật pháp. Cho nên biết 4 đại đều là
giả danh.
Lại trong các pháp có mềm mịn trơn láng v.v..., đều thuộc
xúc nhập. Tính cứng v.v... 4 pháp có nghĩa gì đâu mà riêng được
gọi là đại ? Lại nữa, một thứ mà có 4 chấp, đều có sai lầm. Cho
nên biết 4 đại chỉ là giả danh.
Lại nữa, thật pháp hữu tướng, giả danh hữu tướng, và giả
danh sở có thể, sau sẽ nói rộng. Cho nên 4 đại không phải thật có.
Phẩm 39 : Bốn đại thật có
Hỏi : Bốn đại là thật có. Sở dĩ vì sao ? Vì trong A-tì-đàm nói
: Tướng cứng là địa chủng, tướng ướt là thủy chủng, tướng nóng
là hỏa chủng, tướng động là phong chủng. Cho nên 4 đại là thật
có.
Lại sắc v.v... tạo sắc, do 4 đại sinh, giả danh có thì không thể
sinh pháp được.
Lại lấy tính cứng v.v... chỉ cho 4 đại, như nói tính cứng,
nương tính cứng là địa. Cho nên tính cứng v.v... là thật đại.
Lại như trong kinh, Phật nói 2 thứ : Cứng nương cứng, ướt
nương ướt v.v.... Cho nên biết cứng là thật pháp, nương cứng là
Thành Thật Luận Trang 99 Tuệ Quang Foundation
giả danh. Các đại khác cũng vậy. Cho nên cứng v.v... là thật đại.
Pháp nương cứng vì tùy tục nên gọi là đại thôi. Cho nên mới có 2
thứ đại, vừa thật vừa cũng là giả danh.
Lại như trong A-tì-đàm nói : Hình xứ là địa, tướng cứng là
địa chủng. Các đại khác cũng như vậy. Lại trong kinh Phật nói :
Trong con mắt có tính cứng và nương cứng là địa, tính ướt và
nương ướt là thủy, tính nóng và nương nóng là hỏa. Thịt là địa.
Trong thịt nầy Phật nói có 4 đại, thì phải biết cứng v.v... là thật
đại, mà hình là giả danh đại.
Lại Phật không nói trong phong có nương, nên mới biết
phong là thật đại.
Lại nếu ai nói 4 đại là giả danh, thì lìa tướng đại, nếu nương
cứng gọi là địa chủng thì thủy nương vật cứng, thủy tức là địa ư ?
Cục đất bùn nương ướt, đất bùn tức là thủy ư ? Như người bị sốt,
cả thân đều nóng, thân tức là hỏa ư ? Điều này không đúng. Cho
nên không được nói nương cứng là địa chủng, mà chỉ có tính cứng
mới là địa chủng. Các đại khác cũng như vậy.
Lại nữa, 4 đại cùng sinh, cho nên không rời nhau. Như trong
kinh nói : Có bao nhiêu sắc đều do 4 đại tạo thành. Nếu ai nói 4
đại là thật, thì không rời nhau. Mà nếu 4 đại giả danh thì phải rời
nhau. Sở dĩ vì sao ? Vì các thứ sắc v.v... nương cứng, rời các thứ
ướt v.v..., như vậy thì trong con mắt không có 4 đại, tức trái với
kinh. Ông muốn không trái với kinh thì phải công nhận 4 đại là
thật. Trước ông nói : Vì ngoại đạo nên nói 4 đại. Điều này không
đúng. Bởi vì sao ? Vì các ngoại đạo nói 4 đại cùng với sắc v.v...
hoặc một hoặc khác. Chúng tôi nói một phần ít xúc nhập là 4 đại.
Cho nên không bị lỗi.
Lại chúng tôi nói hiện thấy cứng v.v... là 4 đại, chứ không
phải như người phái Vệ-thế sư nói 4 đại cũng có mà không phải
hiện thấy.
Thành Thật Luận Trang 100 Tuệ Quang Foundation
Lại ông nói cứng và nương cứng. Có 2 nghĩa của nương, như
trong kinh nói sắc nương sắc.
Lại nói tâm nương đại pháp. Trong nghĩa nầy nói cứng tức là
nương cứng, mà không nói pháp nào khác. Nếu vậy thì đâu có lỗi
gì ?
Lại ông nói người đời đều tin, cho đến nước có 8 thứ công
đức . Đó chỉ là tùy tục mà nói vậy thôi, chứ không phải là thật đại.
Lại ông nói pháp nhân đó mà thành, đều là giả danh. Điều
này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong kinh nói : Nếu 6 xúc
nhập, hoặc pháp do 6 xúc nhập mà thành. Lại có Tì-kheo hỏi Phật
: Những gì là mắt ? Phật đáp : Do 4 đại tạo thành sắc thanh tịnh,
đó gọi là mắt. Như vậy thành 12 thứ nhập. Lại ông nói có chủ có
nương. Chúng tôi không cho là như vậy, mà chỉ nói : Pháp trụ ở
trong pháp.
Lại ông nói : Cứng v.v... có nghĩa gì mà được riêng gọi là đại
? Cứng v.v... có nghĩa là như tướng cứng có thể gìn giữ, tướng
nước có thể thấm ướt, tướng lửa có thể làm nóng, còn gió có thể
thành tựu. Cho nên 4 đại là thật.
Phẩm 40 : Không phải kia cứng
Đáp : Không đúng. Bốn đại là giả danh. Ông tuy dẫn trong
A-tì-đàm nói tướng cứng là địa chủng v.v.... Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật tự nói cứng và nương cứng là địa,
chứ không phải chỉ nói tướng cứng. Cho nên đấy không phải
nguyên nhân chính.
Lại ông nói sắc v.v... do 4 đại sinh. Điều này không đúng. Sở
dĩ vì sao ? Vì sắc v.v... do nghiệp phiền não, ăn uống, dâm dục
v.v... mà sinh. Như trong kinh nói : Mắt do đâu sinh ? Do nghiệp
sinh.
Lại nói tham vui nhóm nên sắc nhóm.
Thành Thật Luận Trang 101 Tuệ Quang Foundation
Lại như A-nan dạy Tì-kheo-ni rằng : Thân chị là từ ăn uống
mà sinh, từ ái mạn mà sinh, và từ dâm dục mà sinh. Cho nên biết
sắc v.v..., không chỉ từ 4 đại mà sinh.
Hỏi : Sắc v.v... tuy do nghiệp v.v... sinh, mà 4 đại cũng cần
có dự một chút nhân chứ ? Như nhân nghiệp nên mới có lúa, lúa
nầy cũng nhờ hạt giống v.v... mà sinh. Như vậy mắt v.v... tuy do
nghiệp sinh, mà 4 đại cũng làm một chút nhân.
Đáp : Hoặc có vật không nhân duyên mà sinh, như khi kiếp
tận rồi, kiếp sơ có trận mưa lớn, thì nước mưa nầy do từ đâu sinh
?
Lại như sở dục của các chư thiên, nghĩ là được. Như người
ngồi thiền và những người đại công đức, sở dục tùy ý. Các điều
nầy đâu có duyên do gì, đâu phải chỉ là nghiệp ?
Lại như sắc tướng dứt nối rồi lại sinh nữa. Như người sinh về
cõi Vô săc, rồi sinh trở lại cõi Sắc. Sắc nầy lấy gì làm gốc ?
Hỏi : Tại sao có vật chỉ do nghiệp sinh, tại sao lại có vật đợi
trợ duyên bên ngoài mới sinh?
Đáp : Nếu có chúng sinh nghiệp lực yếu nên phải nhờ hạt
giống của các duyên trợ giúp mới thành. Nếu nghiệp lực mạnh thì
không cần ngoại duyên.
Lại nữa, pháp là phải như vậy, hoặc có nghiệp, hoặc có pháp,
hoặc có sinh xứ, nhưng chỉ do nghiệp lực mà được, chứ không
cần ngoại duyên.
Lại nếu cần nhân duyên, thì nên nói hạt giống làm nhân cho
mầm v.v.... Vì sao phải nói do cứng v.v... sinh ?
Lại vì nghĩa gì mà do cứng v.v... sinh sắc v.v... mà không do
sắc v.v... sinh cứng v.v... ư ?
Lại nữa cứng v.v... có sắc v.v... cùng chung lại sinh, tại sao
nói do cứng v.v... có sắc v.v..., mà không do sắc v.v... có cứng
v.v...?
Thành Thật Luận Trang 102 Tuệ Quang Foundation
Lại pháp đồng thời sinh, thì không thể làm nhân cho nhau
được, như 2 cái sừng đồng sinh, không được nói tả hữu làm nhân
cho nhau.
Hỏi : Như đèn với sáng tuy đồng thời sinh, cũng nói sáng
nhờ đèn, đèn không nhờ sáng. Điều này cũng vậy ?
Đáp : Đèn với sáng không khác. Đèn do 2 pháp hợp thành: 1.
Sắc. 2. Xúc. Sắc tức là sáng, cho nên không được nói khác với
đèn. Ví dụ nầy, ông không suy nghĩ kỹ.
Hỏi : Sáng nầy từ đèn đi tản đến các nơi. Cho nên phải khác
?
Đáp : Không đi tản đến chỗ khác. Sắc sáng nầy hiện thấy ở
trong đèn. Nếu đi chỗ khác, thì khi đèn tắt cũng vẫn còn thấy
sáng, mà thật không thấy. Nên phải biết sáng nầy không khác đèn.
Hỏi : Lại có pháp đồng thời sinh cũng làm nhân quả cho
nhau, như cái thức trong hữu đối, lấy nhãn sắc làm nhân duyên,
chứ không phải nhãn sắc, lấy thức làm nhân duyên ?
Đáp : Không đúng. Nhãn thức lấy tâm trước làm nhân, lấy
nhãn sắc làm duyên. Bởi tâm trước diệt rồi làm sao đồng sinh ?
Lại nếu pháp tùy sở nhân mà sinh tức là nhân thành, nếu tâm
nhân nhờ tình trần mà có, tức là pháp do nhân thành.
Lại nữa, 4 đại tức là tạo sắc, vì là nhân sở sinh.
Lại hiện thấy vật ở thế gian do từ nhân giống nhau mà sinh,
như do lúa sinh lúa, do bắp sinh bắp. Như vậy do đất sinh đất,
không sinh nước v.v.... Cũng như do sắc sinh sắc. Cứ như vậy
v.v....
Hỏi : Cũng thấy có vật do từ nhân khác sinh, như trồng
ngược lông bò thì có cây xương bồ sinh, trồng sừng thì có cây lau
sinh ?
Đáp : Tôi không nói không do từ nhân khác sinh, chỉ nói
trong nhân giống nhau cũng sinh được. Cho nên nói từ sắc v.v...
Thành Thật Luận Trang 103 Tuệ Quang Foundation
sinh sắc v.v..., không chỉ từ 4 đại sinh. Cho nên không được nhất
định nói sắc v.v... từ 4 đại sinh.
Lại như ông nói do cứng v.v... hiển thị 4 đại. Cho nên cứng
v.v... là thật đại. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì tướng
cứng v.v... quyết định có thể dùng phân biệt 4 thứ mềm v.v...
không nhất định. Hoặc ở trong nhiều thứ cứng, hoặc ở trong nhiều
thứ ướt. Cho nên không thể dùng phân biệt các thứ ấy được. Các
thứ khác cũng vậy.
Lại với xúc các cứng v.v... phân biệt thứ nào gọi là mềm
v.v.... Tại sao ? Nếu cho ướt cũng sinh được tính dẻo, mềm, trơn,
láng. Vì tướng cứng nhiều cho nên cứng rắn, thô rít như thế v.v....
Cho nên chỉ dùng tính cứng phân biệt 4 thứ.
Lại như trong kinh nói : Vì nương cứng nên hiển thị 4 đại sai
khác. Cho nên biết pháp nương cứng gọi là địa chủng, chứ không
phải chỉ là tướng cứng. Cho nên nói tướng cứng là nhân thành địa.
Lại với trong sự tạo thành địa, tướng cứng là nhân vượt trội,
cho nên đặc biệt nói đến nó, các tướng khác cũng vậy.
Lại do đặt danh tự có bao nhiêu cứng nương cứng đều gọi
địa chủng.
Hoặc lại có người chỉ nói tướng cứng là địa chủng. Vì muốn
phá nghĩa nầy nên Phật mới nói cứng nương cứng là địa chủng.
Các đại khác cũng như vậy.
Lại trong nhiều tướng cứng, vì cứng nhiều nên có 2 thứ nói.
Trong tất cả thứ nhiều đều có cứng v.v... các xúc. Nếu cứng
nương cứng, gọi là địa chủng; hoặc ướt nương ướt, gọi là thủy
chủng; hoặc nóng nương nóng, gọi là hỏa chủng.
Lại cứng là nhân vượt trội thành địa, cho nên đối với trong
ấy gọi là địa thành. Trong giả danh nhân duyên, có giả danh danh
tự, như nói ta thấy người chặt rừng.
Lại như người nói có 2 thứ nói. Điều này không đúng. Nếu
tùy theo thứ nói là thật, thì 12 nhập v.v... không phải thật. Cho
Thành Thật Luận Trang 104 Tuệ Quang Foundation
nên nhân nhãn duyên sắc mới có nhãn thức sinh, vậy là không
phải thật, vì không nói thứ nào. Đó là tà luận.
Lại như Phật nhập Hỏa chủng định, từ thân Phật phóng ra
nhiều thứ sắc lửa; trong ấy thứ nào là hỏa chủng ? Do sắc v.v...
thành hỏa, không phải chỉ có tướng nóng.
Lại như Phật nói thân nầy là cái hòm nhỏ, trong chỉ đựng
những tóc lông móng tay v.v.... Như trong kinh nói : Trong thân
nầy có tóc lông móng tay v.v.... Do đó tóc lông móng v.v... là địa
chủng chứ không phải lấy có 2 thứ lời nói mà gọi là thật pháp.
Lại trong Kinh Chủng Tử nói : Nếu có địa chủng mà không
có thủy chủng thì các hạt giống không thể sinh trưởng được.
Trong đây thứ nào là địa chủng ? Nghĩa là giả danh ruộng, không
không phải chỉ là tướng cứng. Thủy cũng giả danh, không phải
chỉ là tướng ướt.
Lại một pháp mà 2 thứ vừa thật vừa giả danh là không thể
được. Cho nên sắc v.v... là thật.
Lại nhãn v.v... vì giả danh nên có các đại cũng thật cũng giả
danh, đó cũng là tà luận.
Lại trong Kinh Lục Chủng, Phật nói tóc lông móng v.v... gọi
là địa chủng.
Lại trong Kinh Tượng Bộ Dụ cũng nói tóc lông móng v.v...
là địa chủng.
Lại nữa, lấy nghĩa gì nói chủng là thật, mà không nói chủng
là giả danh ? Và nghĩa nầy không phải chép trong kinh.
Lại như ông nói Phật nói trong con mắt có bao nhiêu cứng
nương cứng là địa v.v..., Phật dùng lời nầy để chỉ rõ 5 căn do 4
đại mà thành. Hoặc có người nói do từ ngã sinh căn, hoặc bảo lìa
đại riêng có căn, hoặc nói các căn do các thứ tính sinh, nghĩa là từ
địa đại sinh tĩ căn v.v.... Vì Phật muốn dứt các chấp nầy nên mới
nói nhãn v.v... các căn do 4 đại hợp thành, không có thật pháp.
Thành Thật Luận Trang 105 Tuệ Quang Foundation
Lại do phân biệt mà thành giả danh nhân duyên, thì giả danh
cũng không có.
Lại trong thịt nầy có 4 phần cứng nương cứng v.v..., Phật
dùng lời nầy để chỉ trong các vật có là do từ 4 đại sinh.
Lại ông nói Phật không nói trong phong có nương, nên gọi là
thật đại, Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì tính nhẹ trong
phong là tướng vượt trội, không phải nương pháp nhẹ. Trong địa
v.v... nương pháp cứng v.v... là vượt trội, phong thì không phải
vậy. Lại nương pháp nhẹ ít, nên không nói.
Lại như ông nói : Nếu nói 4 đại là giả danh thì rời tướng đại,
điều này không đúng. Như cứng nương cứng do 4 đại sinh, gọi là
địa chủng, chứ không gọi vật khác đến nương. Nếu pháp khác
tướng, thì không gọi là nương nhau, mà là rời nhau.
Hỏi : Sinh, thì không gọi là nương, mà nương là vật khác đến
nương ?
Đáp : Danh tự là nương, chứ không phải vật khác đến nương,
vì sinh pháp sai khác. Như nói hư không phổ biến đến khắp cả,
mà sự thật là không đến đâu cả.
Lại ông nói 4 đại chung sinh, điều này không đúng. Như
trong ánh sáng mặt trời, chỉ có sắc và có thể tiếp xúc cái nóng
được, chứ không có pháp gì khác. Trong ánh sáng mặt trăng, chỉ
có sắc và có thể cảm xúc cái mát lạnh, mà không có pháp gì khác.
Cho nên không phải trong tất cả vật đều có 4 đại. Như có vật
không có mùi vị như kim cương v.v..., có vật không hương như
vàng bạc v.v..., có vật không sắc như hơi ấm trong nhà v.v..., có
vật không nóng như mặt trăng v.v..., có vật không lạnh như lửa
v.v..., có vật động nhau như gió v.v..., có vật không động như tảng
đá v.v.... Như vậy hoặc có vật không cứng, hoặc có vật không ướt,
hoặc có vật không nóng, hoặc có vật không động. Cho nên 4 đại
không phải không rời nhau.
Thành Thật Luận Trang 106 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì nhờ nhân duyên bên ngoài, nên tính các đại phát ra.
Như vàng trong đá v.v... có tướng chảy, chờ khi có lửa thì phát ra.
Trong nước có tướng cứng, nhờ lạnh thành băng giá. Trong gió có
tướng lạnh nóng, nhân khi nước lửa thì phát ra. Trong cỏ cây có
tướng động, khi có gió phát ra. Cho nên trước sẵn có tự tính, rồi
nương nhờ duyên ngoài mà phát sinh ra. Cho nên biết 4 đại không
thể lìa nhau được. Nếu không sẵn có bản tính thì làm sao phát ra
được ?
Đáp : Nếu như vậy thì trong gió hoặc có hương, hương phải
có ở trong gió, như hương ướp trong dầu, hương phải có ở trong
dầu. Điều này không đúng. Lại không do các đại sinh tạo sắc,
như do ướt sinh ướt. Như vậy do sắc sinh sắc.
Lại nếu không rời nhau, thì trong nhân có quả, như đồng nữ
có con; trong đồ ăn có bất tịnh v.v.... Chúng tôi không nói trong
nhân có quả. Tuy trong sữa không bơ, mà bơ từ sữa sinh. Như vậy
cần gì nhớ tưởng phân biệt bảo 4 đại cùng sinh không rời nhau ư ?
Phẩm 41 : Làm sáng tỏ bản tông
Trước ông nói : Chúng tôi không nói 4 đại với sắc hoặc một
hoặc khác, cho nên không có lỗi. Điều này không đúng. Sở dĩ vì
sao ? Vì các ngoại đạo muốn thành lập thuyết thần ngã, nên lấy 4
đại là một là khác làm thí dụ. Cho nên Phật đối với trong giả danh
lấy 4 đại làm thí dụ, mới nói nghĩa 4 đại. Nếu không phải như vậy
thì không nên nói. Người thế gian đều tự nhiên biết địa v.v... 4 đại
mà không thấu rõ thật tính, cho nên mới vì nói, mà không nói cái
tay v.v.... Nếu cho cứng v.v... là 4 đại, thì có lợi ích
gì ?
Lại như ông nói nghĩa nương có 2 thứ là các đại là thật. Điều
này chưa rõ. Phải biết nghĩa nương nầy khác, đó tức là giả danh.
Lại ông nói tùy tục mà nói không phải là thật đại. Điều này
không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì hoặc trong kinh sách, hoặc người
Thành Thật Luận Trang 107 Tuệ Quang Foundation
đời đều không cho không nhân duyên mà đó trong sắc v.v... đặt ra
tên 4 đại. Như người đời nói : Tôi thấy người. Trong sắc v.v... nói
tên người, chứ không phải không nhân duyên. Nếu không có nhân
duyên mà miễn cưỡng đặt tên, vậy thì thấy ngựa nên nói là người,
mà thật đâu phải vậy được.
Lại vì cớ chi mà không đối với tiếng nói là đất ? Người đời
thường nói tiếng đất mà không bao giờ nói đất là tiếng. Nếu
không nhân duyên mà miễn cưỡng đặt tên, thì cũng có thể nói
tiếng là đất được. Mà thật không phải nói vậy được. Cho nên sắc
v.v... 4 pháp là địa. Trong địa phần, gọi tên địa. Như sắc là nhân
thành giả danh, trong đó gọi tên người, trong cây gọi tên rừng,
trong Tì-kheo gọi tên Tăng. Như vậy trong pháp sắc v.v... gọi tên
tứ đại.
Lại ông nói 6 xúc nhập, hoặc nhân 6 xúc nhập tạo thành.
Kinh nầy không phải như vậy. Như trong pháp ông, tạo sắc không
có chỗ có thể sinh. Trong pháp tôi cũng vậy, trong giả danh lại
không có sở sinh. Cho nên kinh nầy không nên có, nếu có nên đổi
nghĩa nầy đi.
Lại ông nói nhân 4 đại tạo sắc thanh tịnh nên gọi là nhãn.
Điều này không phải như vậy. Bốn đại hòa hợp giả danh là nhãn.
Phật gọi 4 đại là sắc, sắc thanh tịnh nên gọi là nhãn.
Lại tuy ông nói pháp trụ trong pháp, không nương không
chủ, tức là có nương chủ, vì nghĩa trụ là nương, pháp bị nương là
chủ.
Lại ông nói tướng cứng có thể duy trì v.v…, Điều này không
phải vậy. Không phải chỉ có tính cứng có thể duy trì mà nhờ nhiều
nhân duyên khác nữa. Các thứ khác cũng như vậy. Cho nên 4 đại
là giả danh có.
Phẩm 42 : Không có tướng cứng
Thành Thật Luận Trang 108 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Ông nói sắc v.v... nhiều cứng thành địa đại. Cho nên
địa v.v... là giả danh. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì pháp
cứng còn không có, huống là giả danh địa. Nếu cục đất bùn là
cứng, cục đất bùn cũng tức là mềm. Cho nên biết tướng cứng
không nhất định.
Lại vì ít nhân duyên nên sinh tâm biết cứng, nếu vi trần hợp
sưa, gọi là mềm, hợp dày gọi là cứng. Cho nên không nhất định.
Lại trong một pháp không có 2 chạm xúc, khiến tâm nầy sinh
biết thân cứng mềm không nhất định. Vì đối đãi nhau mà có, như
thấy tấm Khâm-bạt-la thì gọi là mền vì nó mềm, mà gọi là nệm vì
nó cứng. Xúc pháp không nên đối đãi nhau mà có.
Lại tự thấy vàng đá, thì biết là xúc cứng, không phải mắt có
thể biết được cho nên không có cứng. Vì các nhân duyên nầy nên
các xúc như mềm v.v... cũng đều không có.
Phẩm 43 : Có tướng cứng
Đáp : Thật có tướng cứng. Tuy ông nói cục bùn là cứng, cục
bùn tức là mềm. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì chúng tôi
không cho có pháp thật cục đất bùn, chỉ các pháp hòa hợp giả
danh cục bùn, nên không bị lỗi.
Lại ông nói vì nhân duyên ít nên sinh tâm biết cứng. Điều
này không đúng. Tôi thì trong vi trần hợp dày đặc, được thành
tướng cứng, nên gọi là cứng, không dày, được thành tướng mềm.
Cho nên không lỗi. Nếu pháp thành được thì gọi là có. Ông lại nói
trong một pháp không có 2 xúc. Điều này không đúng. Tôi thì
trong một pháp có thể được nhiều xúc cũng cứng cũng mềm. Ông
lại nói cứng mềm đối đãi nhau nên không nhất định. Điều này
không đúng. Vì như dài ngắn v.v... do đối đãi nhau mà có.
Lại như nếm vị đường phèn trắng, liền cho đường phèn đen
là đắng. Nếm vị Ha-lê-lặc, lại cho đường phèn đen là ngọt. Nếu vì
đối đãi nhau nên không có, thì vị cũng không.
Thành Thật Luận Trang 109 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong đường phèn đen có 2 thứ vị vừa ngọt vừa đắng
chăng ?
Đáp : Trong tấm vải cũng có 2 xúc, vừa cứng vừa mềm.
Lại như nói thấy đá biết cứng, do trước kia đã có xúc nên nay
so sánh biết. Như thấy lửa biết nóng, nóng không thấy được.
Lại như người thấy vải Khâm-bạt-la sinh nghi là cứng hay
mềm ? Cho nên xúc không phải mắt thấy được. Do đó nên có
cứng v.v... các xúc.
Lại thật có cứng v.v.... Sở dĩ vì sao ? Vì có thể khởi tâm phân
biệt. Nếu không cứng làm sao phân biệt được ? Lại cứng có thể
cùng tâm làm duyên và cũng làm ra nghiệp khác nghĩa là đập,
ném đi v.v...,
Lại với mềm ướt trái nhau nên gọi là cứng.
Lại do có thể duy trì nhân duyên nên gọi là cứng.
Lại có thể trở ngại cái tay v.v… nên gọi là cứng. Lại chúng
tôi hiện biết là cứng. Trong sự hiện biết không cần nhân duyên.
Lại do bởi việc thế gian được gọi là cứng. Các thứ khác cũng
như thế, cho nên biết có cứng.
Phẩm 44 : Tướng của 4 đại
Hỏi : Tôi đã biết có pháp cứng nầy, nhưng nay thấy vàng
nóng thì chảy, nước lạnh thành băng. Vàng này do cứng nên thuộc
đất, chảy nên thuộc nước ?
Đáp : Mỗi pháp có tự tướng riêng. Như pháp cứng nương
cứng là địa chủng; như ướt nương ướt là thủy chủng v.v....
Hỏi : Vàng cứng thì bị tiêu chảy, nước ướt thì đóng băng. Tại
sao các đại không bỏ tự tướng ? Như trong kinh nói : Tướng 4 đại
hoặc có thể biến đổi. Người được tứ tín không thể được gì khác ?
Đáp : Tôi không lấy cứng làm chảy, lấy ướt làm cứng. Có
điều là cứng và chảy là nhân, ướt và cứng là nhân. Cho nên không
bỏ tự tướng.
Thành Thật Luận Trang 110 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong A-tì-đàm nói : Ướt là tướng nước. Hoặc có
người nói : Chảy là tướng nước. Trong kinh nói : Thấm là tướng
nước. Rốt cuộc cho đàng nào là thật ?
Đáp : Chảy, ướt, thấm đều là biệt danh của nước.
Hỏi : Chảy là hành nghiệp của nước, vì là pháp mắt thấy
được. Cho nên chảy không phải ướt thấm ?
Đáp : Vì ướt thấm nên chảy, ướt nên chảy rút xuống. Cho
nên chảy tức là thấm, mà ướt thấm cũng là tướng của nước, chảy
là nghiệp của nước.
Hỏi : Trong gió nói tướng nhẹ động. Nhẹ khác, động khác.
Nhẹ là thuộc về xúc nhập, động thuộc về sắc nhập. Nay có thể cho
cả 2 là pháp là gió được sao ?
Đáp : Nhẹ là tướng của gió; động là nghiệp của gió. Tướng
với nghiệp hợp lại nói.
Hỏi : Không có tướng động, vì các pháp niệm niệm diệt, nên
không đến chỗ khác. Vì có đến chỗ khác mới gọi là động. Đến, đi,
động là đồng một nghĩa vậy ?
Đáp : Tôi chỉ dùng thế đế nên mới gọi là nghiệp, chứ không
phải đệ nhất nghĩa. Nhờ pháp nhẹ nầy, chỗ khác pháp sinh được
gọi là nghiệp. Lúc bấy giờ gọi là đi.
Hỏi : Tướng nhẹ không nhất định. Sở dĩ vì sao ? Vì đối đãi
mới có. Như vật 10 cân, đối với 20 cân là nhẹ, với 5 cân là nặng ?
Đáp : Pháp nặng, pháp lường, nhờ tâm v.v... các pháp đối đãi
nhau mà có. Như hoặc có pháp đối đãi nên dài, hoặc có pháp đối
đãi nên ngắn. Tướng chung là nhờ tâm nên mới có tướng riêng.
Nếu pháp nhẹ vì đối đãi nhau nên không có, thì các pháp nầy cũng
phải đều không, mà đâu phải vậy. Cho nên đối đãi nhau không
phải là nguyên nhân chính.
Lại nhẹ không phải đối đãi nhau mà có, vì không thể cân
được nên có. Vật không thể cân được như gió trong đãy. Cho nên
Thành Thật Luận Trang 111 Tuệ Quang Foundation
không phải đối đãi nhau mới có. Chỉ pháp nặng đối đãi nhau, vì
không có vật nặng nào mà không cân được.
Hỏi : : Nếu không cân được gọi là nhẹ. Vậy thì trừ nặng, còn các
pháp sắc thấy, không cân được, đều phải là nhẹ, mà đâu phải vậy.
Cho nên ông đã nói không phải là tướng nhẹ ?
Đáp : Ý chúng tôi nói lìa sắc v.v..., lại không pháp gì khác
gọi là nặng. Pháp sắc v.v..., hoặc có sinh tính cân được. Như cứng
không cứng, sức không sức, mới, cũ, mục không mục, tiêu không
tiêu, thô nhuyễn v.v..., đều không lìa sắc v.v... mà có tướng nặng.
Cũng như vậy, các sắc nầy hoặc thuộc địa thủy thì cân được; hoặc
thuộc phong hỏa thì cân không được.
Hỏi : Nếu pháp nặng không lìa sắc thì pháp nhẹ cũng phải
không lìa sắc mà có chứ ?
Đáp : Nhưng lìa sắc v.v..., không riêng có pháp nhẹ. Chỉ có
sắc v.v... hòa hợp là nhẹ.
Hỏi : Không phải vậy. Muốn phân biệt nặng nhẹ, ắt phải
dùng thân căn. Cho nên nặng nhẹ không phải sắc v.v...?
Đáp : Như phân biệt cứng v.v..., hoặc dùng mắt, hoặc dùng
tai v.v.... Những vật cứng này không lìa sắc. Nhẹ nặng cũng như
vậy. Tuy dùng thân căn, trong ấy lại không có tướng gì khác.
Lại thân căn không xúc không sinh thân thức. Tướng nặng
nầy tuy thân chưa chạm xúc, mà cũng có thể sinh thức. Như vật
nặng tuy dùng vật gói cầm mà cũng biết là nặng.
Hỏi : Không phải lúc bấy giờ biết là tướng nặng ?
Đáp : Như người mặc áo tuy không chạm xúc nhau, nhưng
cũng được biết họ có hay không có sức mạnh. Nhẹ nặng cũng
như vậy. Sở dĩ vì sao ? Vì do các thứ xúc sinh các thứ biết về
thân. Như hoặc bởi đè bấm sinh biết cứng mềm, hoặc bởi cử động
sinh biết nhẹ nặng, hoặc bởi nắm bắt sinh biết mạnh yếu; hoặc bởi
tiếp xúc sinh biết lạnh nóng, hoặc bởi xoa vuốt sinh biết rít trơn
hoặc bởi bóp nắn sinh biết cứng yếu, hoặc bởi cắt đâm, hoặc bởi
Thành Thật Luận Trang 112 Tuệ Quang Foundation
roi gậy sinh biết khác thứ. Hoặc có thứ xúc thường ở trong thân,
không phải như lạnh nóng v.v... từ bên ngoài đến. Nào là khoan
khoái, mệt mỏi, không mệt mỏi, hoặc bị bệnh, hoặc lành bệnh,
thân lợi thân độn, biếng nhác, mê muội, tỏ mờ, đau đớn tê liệt, rên
rỉ, đói khát, no nê, thèm muốn, không thèm muốn, mờ ám v.v...
các thứ xúc, đều sinh biết khác nhau.
Hỏi : Nếu tướng nhẹ nặng tức trong các sắc v.v... thì làm sao
với trong sắc v.v... đem thân thức duyên biết được ?
Đáp : Không phải trong các sắc v.v... dùng thân thức duyên
biết, chỉ trong xúc này có phần ít do thân thức duyên, như cứng
không cứng v.v... tuy ở trong các sắc v.v..., hoặc dùng mắt thấy
được biết. Lại như khoan khoái v.v... là do các sắc v.v..., nhưng
cũng dùng thân thức phân biệt. Điều này cũng như vậy.
Hỏi : Nếu nhẹ nặng chỉ là xúc thì có lỗi gì, cần gì phải dùng
phân biệt các sắc v.v... ?
Đáp : Như người đời nói lúa mới lúa cũ. Tướng mới cũ là
phải khác sắc v.v..., mà thật không phải vậy. Chỉ có sắc v.v... mới
sinh gọi là mới. Nếu tướng mới nầy là tướng nặng của các sắc
v.v... thì sao không phải ?
Hỏi : Nếu các sắc v.v... tức là nhẹ nặng v.v... thì tướng nhẹ ở
trong lửa gió, thì các sắc nhẹ nhiều phải gọi là gió chứ ?
Đáp : Tùy tướng nào nhiều tức gọi là đại. Trong lửa cũng có
tướng nóng nhẹ. Vì nóng nhiều nên gọi là lửa, chứ không lấy nhẹ
nhiều mà gọi là lửa được. Trong gió chỉ có nhẹ không nóng. Cho
nên chỉ lấy nhẹ mà gọi.
Lại chúng tôi không những lấy nhẹ gọi là gió, mà nếu nhẹ
nặng làm nhân cho động, thì cũng gọi là gió. Như trong kinh nói :
Tướng nhẹ động gọi là gió. Với trong đây tướng nhẹ là gió, động
là nghiệp của gió.
Hỏi : Gió có thể làm sập núi. Nếu là vật nhẹ làm sao sập núi
được ?
Thành Thật Luận Trang 113 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Gió bạo mà có sức mạnh, thế lực nó có thể như vậy.
Nếu như có gió có thể động cộng cỏ nhỏ, hoặc có thể xô núi sập,
phải biết đó là nghiệp dụng của gió như vậy.
Hỏi : Nay địa v.v... các đại đều là các sắc hương vị xúc,
không sai khác ư ?
Đáp : Không nhất định. Như nói trong đất có sắc hương vị
xúc. Hoặc chỉ có sắc xúc, như vàng bạc v.v.... Hoặc trong nước có
sắc hương vị xúc, hoặc có 3 là sắc, vị và xúc. Hoặc trong lửa có
sắc hương vị xúc, hoặc có 3 thứ là sắc hương xúc, hoặc chỉ sắc
xúc. Trong gió hoặc có xúc không hương, hoặc có cả hương xúc.
Cho nên không nhất định.
Hỏi : Phong xúc như thế nào ?
Đáp : Lạnh nóng cứng mềm yếu v.v... các xúc. Nếu tùy các
đại nối nhau không rời để có thể biết, thì đó là đại xúc.
Hỏi : Có thầy thuốc bảo sắc gió là đen. Sự thật như thế nào ?
Đáp : Gió với sắc đen là nhân. Như người bị cảm gió trong
miệng có vị đắng, nhưng người thầy thuốc không nói trong gió có
vị. Đó tức gió và vị là nhân.
Hỏi : Có người nói gió lạnh mà không nói gió nhẹ. Sự thật
như thế nào ?
Đáp : Không có chuyện gọi lạnh là gió. Như băng tuyết lạnh
mà không gọi là gió.
Lại gió và lạnh tên khác nhau. Sở dĩ vì sao ? Vì như gió nóng
và gió không lạnh không nóng, cũng gọi là gió. Cho nên cần y
theo các nhẹ gọi là gió.
Lại không sinh pháp sắc xúc v.v... gọi là gió, chứ không phải
lạnh là gíó.
Hỏi : Nếu gió có sắc vị thì có lỗi gì ?
Đáp : Sắc vị không thể có trong gió được. Nếu nói tuy có mà
vì quá vi tế nên không thể biết được, nhưng trong tâm cũng nên
Thành Thật Luận Trang 114 Tuệ Quang Foundation
nhớ tưởng phân biệt cho là có sắc vị, thì Điều này cũng không
đúng.
Lại nữa, chúng tôi không nói trong nhân có quả. Cho nên nếu
việc trong quả có, thì bất tất trong nhân có trước. Đây gọi là thành
lập 4 đại là thật.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 4 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 45 : Căn giả danh
Hỏi : Mắt v.v... các căn với 4 đại là một hay khác ?
Đáp : Do nghiệp nhân duyên 4 đại thành mắt v.v... các căn.
Cho nên không khác 4 đại.
Lại Phật phân biệt mắt nói như thế nầy : Trong con mắt thịt
có cứng nương cứng gọi là địa chủng. Cho nên biết có căn tức là 4
đại. Sở dĩ vì sao ? Vì chỉ phân biệt cứng v.v... thì lại không có
mắt. Vì Phật muốn cho người đời biết con mắt là không, nên mới
nói như vậy. Nếu không phải vậy thì trong con mắt phải riêng có
cứng v.v..., hoặc trong cứng v.v... riêng có mắt ? Tùy có phân chia
cứng v.v..., cũng không ích gì. Cho nên các căn không khác 4 đại.
Lại như trong Kinh Lục Chủng nói 6 thứ là người. Nếu các
căn khác 4 đại, thì mắt v.v... không gọi nhân duyên tạo thành
người. Nhân sắc v.v… thành 4 đại. Thanh cũng là nhân duyên tạo
thành người. Chỉ trong 6 thứ giả danh là người, cho nên biết các
căn không khác 4 đại.
Lại có Tì-kheo hỏi Phật : Những gì là mắt ? Phật đáp : Bởi 4
đại thành sắc, không thể thấy mà có đối, đó là mắt. Cho nên biết
không khác 4 đại. Tì-kheo này có lợi căn trí tuệ, nên đối với mắt
Thành Thật Luận Trang 115 Tuệ Quang Foundation
v.v... các căn rất sinh nghi rằng người đời đều biết mắt thấy sắc,
cho đến cũng biết thân chạm xúc. Tì-kheo này với trong mắt v.v...
sinh nghi ngờ là có hay không có. Sở dĩ vì sao ? Vì có các sư hoặc
nói 5 tính là 5 căn, hoặc nói 1 tính. Tì-kheo này muốn thử xem
Phật pháp nói ra sao, nên mới hỏi Phật. Phật muốn chỉ rõ 5 căn
đều thuộc 4 đại, nên đáp bảo Tì-kheo rằng mắt này nhân 4 đại tạo
thành sắc, không thể thấy mà có đối. Nếu pháp có thật thì không
phải do nhân thành. Do pháp giả danh, lại thành giả danh, như do
cây thành rừng.
Hỏi : Hoặc có người nói sắc thành tựu gọi là mắt. Sự thật là
thế nào ?
Đáp : Hoặc thành tựu hay không thành tựu, 4 đại do nghiệp
nhân mà sinh gọi là mắt v.v... các căn. Nếu không phải vậy thì
nghi Tì-kheo này trong mắt v.v... các căn, rốt cuộc không thể dứt
nghi được. Tại vì sao ? Là Phật vì nói mắt v.v... các căn do 4 đại
tạo ra. Cho nên Tì-kheo nầy biết mắt không có thật pháp. Cho nên
biết mắt v.v... không khác 4 đại.
Lại nhiều chỗ Phật phân biệt 4 đại chỉ rõ mắt là không. Như
nói dùng tuệ không hí luận, nghĩa là quán thân nầy phân biệt 6 thứ
: Cứng và nương cứng gọi là địa v.v.... Như vậy chán lìa 5 thứ, chỉ
có một thức. Cũng như trong kinh nói thí dụ mổ bò, thí dụ voi
bước đi để phân biệt 4 đại.
Lại không có mắt, nếu riêng có mắt, lẽ nên phân biệt nữa.
Lại như các luận sư Hòa-ta v.v... cũng đều nói như thế đó
cho là không có lỗi. Nên phải tin chịu.
Hỏi : Năm căn khác với 4 đại. Sở dĩ vì sao ? Vì mắt v.v...
thuộc về nhãn nhập v.v…, 4 đại thuộc về xúc nhập.
Lại mắt v.v... là nội nhập, 4 đại là ngoại nhập. Mắt v.v... là
căn, 4 đại không phải căn.
Lại mắt v.v... là do tạo sắc thành tựu, 4 đại không phải vậy.
Cho nên biết các căn không phải là 4 đại ?
Thành Thật Luận Trang 116 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tùy theo nhân duyên, tức nơi sự việc nên nói khác.
Như tín v.v... 5 căn cũng gọi là hành ấm. Nếu 4 đại do nghiệp sinh
nhiếp thuộc về mắt v.v… cũng gọi là nội nhập, cũng gọi là căn.
Lại 4 đại tức là thành tựu, như bánh xe v.v... làm thành xe,
bánh tức là xe. Điều này cũng vậy.
Hỏi : Không phải vậy. Như tâm thanh tịnh gọi là tín. Tín
khác với tâm, Điều này cũng vậy ?
Đáp : Không phải vậy. Như nhờ ngọc làm cho nước trong,
mà nước được trong. Trong sạch tức là nước. Cũng như vậy, nếu
được ngọc tín thì ao tâm trong sạch. Tâm trong sạch này tức là
tâm.
Lại nữa, trong luận nầy chúng tôi không nói do tâm có lòng
tin khác. Cho nên thí dụ này không đúng.
Lại căn là giả danh, với nhân thành giả danh không được nói
khác.
Hỏi : Cũng không được nói một ?
Đáp : Trong 4 đại thành tựu giả danh là căn cũng không chỉ
gọi 4 đại là căn. Cho nên biết các căn không khác 4 đại.
Phẩm 46 : Phân biệt căn
Hỏi : Trong các căn nầy đại nào nhiều hơn ?
Đáp : Không có đại nào nhiều hơn.
Hỏi : Nếu các đại đồng nhau, cớ sau có người có thể thấy
sắc, có người không thấy ?
Đáp : Đều do nghiệp sinh. Do nghiệp sinh thuộc về mắt, sức
4 đại có thể thấy sắc, các căn kia cũng vậy.
Hỏi : Nếu do nghiệp sinh, cớ sao không lấy một căn biết
khắp hết các trần ?
Đáp : Nghiệp nầy có 5 thứ sai khác. Có nghiệp có thể làm
nhân của thấy, như bố thí đèn đuốc, được quả báo nhãn căn.
Thanh v.v... cũng vậy. Vì nghiệp sai khác, nên sức căn cũng khác.
Thành Thật Luận Trang 117 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu là sức nghiệp, cần gì nhờ các căn; chỉ cần do sức
nghiệp, thức cũng có thể thủ các trần ?
Đáp : Không phải vậy. Hiện thấy không căn thì thức không
sinh. Sở dĩ vì sao ? Vì như người mù không thấy, người điếc
không nghe. Trong việc hiện thấy nhân duyên vô dụng. Đó không
phải nạn vấn.
Lại pháp là phải như vậy. Nếu không các căn, thì thức không
sinh. Ngoại trừ 4 đại v.v..., không căn mà sinh. Pháp phải nhờ đó.
Lại các căn còn là trang nghiêm thân chúng sinh nữa, cho
nên do nghiệp mà sinh. Như vì nghiệp nhân duyên được lúa, nên
lúa sinh, mà cũng nhờ hạt giống rồi mộng, cọng, nhánh, lá thứ lớp
mà sinh. Thì điều này cũng vậy.
Hỏi : Vì sao tâm không phải vậy ? Như nhãn thức lấy nhãn
làm căn, cũng do diệt tâm thứ lớp; tâm chỉ lấy thứ lớp diệt tâm
làm căn, lại không chỗ ở như nhãn v.v... các căn, cần phải nói
nhân duyên ?
Đáp : Nhất định có 5 trần, nhất định có 5 thức, tâm không
phải như vậy.
Lại tâm pháp phải như vậy. Có điều là do thứ lớp diệt tâm
làm căn, lại không cần thứ gì khác. Như pháp quá khứ vị lai tuy
không mà ý có thể duyên, tâm pháp cũng như vậy. Điều này cũng
vậy.
Lại điều này cũng đồng với pháp ông. Trong pháp ông sắc
v.v... các trần, thức đợi căn mới sinh, đợi thứ lớp diệt tâm, ý thức
mới sinh được.
Hỏi : Nếu ý thức mà không căn thì nương vào đâu ?
Đáp : Nương thân tứ đại.
Hỏi : Nếu ở cõi vô sắc thì nương vào đâu ?
Đáp : Thức ở cõi vô sắc không chỗ nương. Pháp là như vậy,
không nương mà trụ. Sở dĩ vì sao ? Vì tướng sai khác, nên ý thức
có thể biết có không. Nếu có sắc thì nương, không sắc cũng vẫn
Thành Thật Luận Trang 118 Tuệ Quang Foundation
có thể trụ. Lại các duyên hòa hợp nên thức mới sinh. Như trong
kinh nói do ý duyên pháp thì ý thức sinh. Đó nương vào đâu ?
Đâu phải như người dựa vào vách v.v.... Tất cả các pháp đều trụ
nơi tự tính.
Phẩm 47 : Căn và đại đồng nhau
Hỏi : Các ngoại đạo nói 5 căn do 5 đại sinh. Sự thật như thế
nào ?
Đáp : Không. Sở dĩ vì sao ? Vì hư không là không có, điều
này đã nói rõ. Cho nên không do 5 đại sinh được.
Hỏi : Các ngoại đạo nói trong mắt nhiều hỏa đại. Sở dĩ vì sao
? Vì giống nghiệp nhân. Nhân bố thí ánh sáng nên được quả báo
mắt. Như trong kinh nói : Thí áo được sắc, thí ăn được sức, thí xe
được vui và thí đèn được mắt. Cho nên trong mắt hỏa đại nhiều.
Lại mắt nhờ sáng mới thấy, rời sáng thì không thấy. Cho nên
biết hỏa đại nhiều.
Lại lửa có thể soi xa, vì trong mắt có ánh sáng nên có thể xa
đối sắc.
Lại nói người chết mắt về lại mặt trời. Cho nên mặt trời là
bản tính.
Lại mắt nhất định có thể thấy sắc, vì sắc thuộc hỏa nên thấy
lại tự tính. Như vậy hư không, địa, thủy và phong v.v..., tùy theo
căn mà lệch nhiều. Người chết nhĩ căn trở về với hư không; tai
nhất định có thể nghe tiếng, tiếng thuộc hư không. Các căn khác
cũng như vậy. Cho nên các đại trong căn, phải có nhiều ít ?
Đáp : Ông nói giống nghiệp nhân. Điều này không đúng. Sở
dĩ vì sao ? Vì hoặc thấy có quả không giống nghiệp nhân. Như nói
bố thí ăn được 5 việc quả báo.
Lại nếu như trong mắt sáng nhiều, thì lẽ ra không nhờ sáng
bên ngoài như đèn đuốc v.v....
Thành Thật Luận Trang 119 Tuệ Quang Foundation
Lại như vì mắt nhờ sáng bên ngoài nên gọi hỏa nhiều thì
trong tai v.v... các căn, hư không v.v... cũng phải nhiều, không
cần nhờ hư không bên ngoài v.v...., mà thật thì phải nhờ ngoài.
Cho nên không phải nhân.
Lại nước có thể làm tốt cho mắt, như người rửa mắt, mắt liền
sáng tỏ, thì phải nước nhiều ?
Lại lửa có thể làm hại mắt, như ánh sáng mặt trời chẳng hạn.
Nếu là tự tính, không nên tự hại. Cho nên biết không phải trong
mắt hỏa nhiều vậy.
Lại thiên nhãn lìa sáng cũng có thể thấy sắc. Cho nên mắt
không phải thuộc hỏa.
Lại trong ánh sáng mặt trăng cũng được thấy sắc. Mặt trăng
không phải hỏa tính.
Lại nhãn pháp có thể như vậy. Hoặc có mắt đợi sáng mới có
thể thấy, có mắt không đợi sáng vẫn thấy. Như mắt được nhân
duyên hư không v.v... tuy không đến sắc mà có thể thấy từ xa.
Nhãn pháp là như vậy. Không nên nhớ tưởng phân biệt gọi hỏa
đại nhiều.
Lại ông nói lìa sáng thì không thấy, thì nếu lìa hư không, nhớ
nghĩ và sắc thì cũng không thấy được. Vậy thì hư không v.v...
cũng đều phải nhiều ?
Lại không phải tất cả mắt đều nhờ sáng bên ngoài, như loại
chim cú vọ, cú mèo v.v... loại thú mèo chồn v.v... không nhờ ánh
sáng bên ngoài cũng vẫn thấy được. Nên không phải hỏa nhiều.
Lại hỏa là soi sáng thường có tướng nóng, mắt đâu phải như
vậy ? Nếu ông nói mắt có ánh sáng có thể xa đối với sắc. Điều
này đã bị phá, vì mắt không có ánh sáng. Nếu nói trở về mặt trời
thì mắt là thường ?
Lại mặt trời v.v... không phải là căn, mắt làm sao trở về
được.
Thành Thật Luận Trang 120 Tuệ Quang Foundation
Lại như mặt trời chết thì căn của mặt trời và mặt trời lại trở
về đâu ? Cho nên không đúng.
Lại nữa, khi ở trên trời chết, mắt về chỗ nào ? Vì trên ấy
không có mặt trời.
Lại hư không là vô tác, thì chỗ đâu mà về ?
Lại các căn không đi, vì pháp hữu vi diệt trong từng mỗi
niệm.
Lại như ông nói mắt nhất định có thể thấy sắc, vì sắc thuộc
hỏa trở lại thấy tự tính. Điều này không đúng, vì là nhân vô dụng.
Tiếng thuộc hư không v.v... cũng như vậy. Vậy ông nói trong 5
căn các đại lệch nhiều. Điều này đã bị phá.
Hỏi : Có luận sư nói mỗi căn mỗi tính, vì trong địa nhiều
Cầu-na. Có hương có thể phát ra biết hương. Trong thủy, hỏa,
phong, vì có vị, sắc và xúc nên có thể phát ra biết vị sắc xúc. Sự
thật như thế nào ?
Đáp : Tôi trước đã nói không nhất định. Trong địa có hương
các vật khác cũng có. Cho nên không phải nhân.
Lại các đại hợp lại sinh, không thấy có địa lìa thủy v.v....
Nếu vì địa có hương nên có thể phát ra biết hương, thì lẽ ra cũng
phát ra biết sắc v.v...,vì trong địa có đủ 4 Cầu-na.
Hỏi : : Hương chỉ là địa vì có mũi thuộc địa nên xúc là có thể
biết hương ?
Đáp : Cầu-na trong địa chỉ là địa. Có mũi lẽ ra phải biết hết
các thứ.
Lại nước chỉ có xúc lạnh, lửa chỉ có xúc nóng, lẽ ra lấy lưỡi
mắt có thể biết, mà thật không đwocj như vậy.
Lại vì không có Đà-la-phiêu, tức không có căn.
Lại lực dụng các căn là cùng hợp lại với trần mới sinh biết.
Hòa hợp đã bị phá thì không căn dụng. Cho nên không có một
tính là một căn.
Thành Thật Luận Trang 121 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 48 : Căn vô tri
Hỏi : Căc căn là đến với trần nên biết hay không đến mà biết
được ?
Đáp : Không phải căn có thể biết được. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu
căn có thể biết trần thì có thể cùng một lúc biết hết các trần, mà
thật không thể được. Cho nên do thức mới có thể biết. Trong ý
ông hoặc bảo căn đợi thức cùng biết, vì căn không rời thức mà
biết thì điều này không đúng. Vì không có một pháp nào đợi các
pháp khác mới có sở tác. Nếu mắt có thể biết cần gì đợi thức.
Lại như căn có thể biết, thì cần phải phân biệt đây là nghiệp
của căn, đây là nghiệp của thức.
Hỏi : Chiếu soi là nghiệp của căn, biết là nghiệp của thức ?
Đáp : Đó không phải phân biệt thế nào là chiếu soi. Trong
pháp ông, tai v.v... các căn không phải hỏa tính, nên không thể
chiếu soi được. Nếu các căn đối với thức như đèn thì các căn lại
chiếu soi được, như đèn thì chiếu soi lại có chiếu soi, như vậy vô
cùng. Nếu lại không chiếu soi thì chỉ căn có thể chiếu soi thì cũng
không cần căn, chỉ thức có thể biết. Cho nên chiếu soi không phải
nghiệp của căn.
Lại căn không phải có thể biết, như đèn có thể soi mà không
có thể biết, chắc chắn có thể làm chỗ nương cho thức, mới gọi là
nghiệp của căn. Cho nên chỉ thức mới có thể biết chứ không phải
các căn. Nếu có thức thì biết, không thức thì không biết, như có
lửa thì nóng, không lửa thì không nóng. Phải biết do lửa có nóng.
Hỏi : Trong kinh nói : Dùng mắt thấy sắc, không nên thủ
tướng. Tai v.v... cũng vậy. Cho nên biết mắt có thể thủ sắc.
Lại mắt v.v... gọi là căn, nếu nó không thể biết sao gọi là căn
?
Lại trong kinh nói : Các đệ tử ta, với việc vi tế có thể biết
như mắt xem thấy. Nếu mắt không có thể thấy, thì các đệ tử Phật
Thành Thật Luận Trang 122 Tuệ Quang Foundation
không thấy gì cả. Điều này không thể được. Cho nên các căn nhất
định có thể thủ trần.
Lại vì căn thủ trần do thức phân biệt, vậy căn thức có khác
nhau ?
Đáp : Trong kinh Phật tự nói : Mắt là cửa vì làm cho thấy
sắc. Cho nên mắt không thấy sắc được, vì mắt là cửa, thức ở trong
đó thấy, cho nên nói mắt thấy.
Hỏi : Cũng nói ý là cửa, vì biết pháp. Có thể lấy ý làm cửa,
mà nó không phải biết sao ?
Đáp : Ý cũng do thứ tự diệt tâm làm cửa. Cho nên ý không
thể biết. Ý thức mới có thể biết.
Lại trong kinh Phật nói : Mắt muốn sắc đẹp. Mắt là sắc pháp,
vì không phân biệt, nên thật không muốn, mà là thức muốn.
Lại như Phật nói : Sắc là cái bị biết của mắt. Thức mới có thể
biết sắc, thật sự mắt không biết.
Lại người thế gian, vì thế tục nên mới nói mắt có thể thấy, tai
có thể nghe, Phật cũng tùy theo mà nói. Tại sao chỉ sắc có thể
thấy, ngoài ra không thể thấy ? Phật cũng nói thấy lỗi tham dục
v.v....
Lại người đời nói hết tháng, Phật cũng tùy theo đó mà nói.
Như người nghèo mà đặt tên là Phú Quý, Phật cũng theo tên đó
mà gọi. Ý Phật không muốn tranh cãi với người đời, như Ma-giàla
mẫu v.v.... Cho nên phải biết đó là tùy theo thế tục mà nói, cho
nên Phật mới nói mắt thấy.
Hỏi : Vì sao người đời nói những lời như vậy ?
Đáp : Tùy chỗ nhân mắt biết; trong nhân nầy gọi là thấy.
Như nói người kia thấy, người nầy thấy. Như nói người làm tội
phúc v.v..., có chư Phật và trời thần thấy. Như nói mắt phải thấy,
mắt trái thấy.
Lại nói do mặt trời sáng thấy, mặt trăng sáng thấy, hoặc hư
không thấy hoặc hướng vào trong thấy, hoặc trong cửa trông ra
Thành Thật Luận Trang 123 Tuệ Quang Foundation
thấy. Như trong việc nấu đồ vật nói người nầy nấu, người kia nấu,
hoặc nói dùng cỏ củi cây nấu, phân bò nấu, dầu nấu, bơ nấu, lửa
nấu, mặt trời nấu. Sự thật là lửa nấu, các vật kia gọi tên mà thôi.
Như vậy chỉ có thức có thể thấy, mà mắt được tên.
Lại đây là lời bất tận, lẽ ra phải nói do cửa mắt thấy sắc.
Lại mắt là dụng cụ của người, người là giả danh tác giả cần
có dụng cụ.
Lại nhờ nhãn thức mà thấy, gọi là mắt thấy. Như người ngồi
trên giường cười gọi là giường cười.
Lại vì mắt liên hệ nghiệp của thức nên trong đó nói thức
nghiệp. Như tay chân v.v... liên hệ nơi người, nghiệp ở nơi người
gọi là nghiệp tay.
Lại nhãn thức làm nhân cho mắt, trong nhân nói quả. Như
nói người nào đó đốt xóm làng nào đó. Như nói ăn vàng, gọi ăn là
mạng. Cỏ là bò dê. Đều là trong nhân nói quả. Như vậy do mắt
sinh thức, vì có thể thấy sắc nên gọi là mắt thấy.
Lại thức gần mắt thấy sắc bèn gọi mắt thấy. Như lừa bò đến
gần nước bèn gọi bò ở nước. Lại vì mắt nên mới phân biệt nhãn
thức. Cho nên trong mắt giảm bớt nhãn thức nghiệp, như gậy Bàla-
môn.
Lại mắt có thể thành nhãn thức, cho nên trong đó nói nhãn
thức nghiệp, cũng như tốn hao của vật mà gọi người tốn hao, của
vật tăng trưởng, mà gọi người tăng trưởng.
Lại nhãn thức cùng với mắt hòa hợp, cho nên có thể thấy gọi
là mắt thấy. Như cây hợp cùng người mà có thể đánh, gọi là cây
đánh người. Như màu đen hợp nhuộm áo, nên gọi là áo đen.
Lại các pháp thay đổi nhau mà nói, như nói tuệ nghiệp trong
thụ v.v....
Lại phải nói do nhãn thức thấy sắc vì trong lời nói bớt cho
nên chỉ nói mắt thấy.
Lại như vị dược thạch tùy nhận một tên.
Thành Thật Luận Trang 124 Tuệ Quang Foundation
Ông nói nếu không có thể thấy sao gọi là căn. Nay sẽ đáp :
Mắt v.v... 5 pháp nầy hơn các sắc v.v... nên gọi là căn.
Hỏi : Mắt v.v... 5 pháp cùng các sắc v.v... là 10 pháp nầy đều
không biết trần, như lìa mắt v.v... thì thức không sinh. Nếu lìa sắc
v.v..., thức cũng không sinh, thì lấy gì gọi là hơn ?
Đáp : Vì các căn nên thức có sai khác, gọi nhãn thức nhĩthức
v.v.... Như trống với dùi hợp đánh mà có tiếng, vì trống hơn
dùi nên gọi tiếng trống, như đất cùng lúa v.v... hợp mà sinh mộng,
vì lúa hơn nên gọi mộng lúa. Các thức cũng vậy. Tùy nơi chỗ
nương, được tên khác nhau, không vì cảnh duyên mà hoặc gọi sắc
thức thì dễ sinh nghi cho đó là nhãn thức, hay là ý thức, hay là ý
thức duyên sắc.
Lại trong căn có thức, trong trần không thức.
Lại đối với trong mắt v.v... sinh tâm ngã si.
Lại chỗ sở y của thức là căn chứ không phải trần.
Lại trong danh số của tự thân là gọi căn chứ không phải gọi
trần.
Lại cái con người sử dụng là căn chứ không phải trần. Lại
căn là chúng sinh số chứ không phải trần.
Lại căn không thông lợi thì thức không sáng tỏ; nếu căn
thanh tịnh thì thức sáng suốt.
Lại vì các căn có thượng, trung, hạ, nên thức cũng tùy theo
mà có sai khác. Vì các lý do nầy nên gọi là thắng hơn.
Lại căn là không chung, chứ một trần có thể được nhiều
người chung sở hữu.
Lại căn và thức là một nghiệp quả báo, chứ trần không phải
như vậy.
Lại căn là nhân, trần là duyên. Sở dĩ vì sao ? Vì căn khác nên
thức mới có sai biệt, chứ không phải do trần. Như giống là nhân,
đất v.v... là duyên, tùy giống khác nên mới có sai khác. Vì nhân
thắng hơn duyên, nên được gọi là căn. Ông nói : Đệ tử ta đối với
Thành Thật Luận Trang 125 Tuệ Quang Foundation
việc vi tế, như mắt xem thấy. Đó là lời nói tùy tục. Vì người đời
nói trong mắt thấy, nên mới nói như mắt xem thấy. Như Phật nói
kệ :
Sáng suốt gần trí,
Như lưỡi biết vị.
Lưỡi tuy không biết,
Không đồng gáo bầu.
Ý nói nương nơi lưỡi sinh thiệt thức nên mới nói lưỡi biết
vị, nương nơi mắt sinh nhãn thức gọi là mắt thấy. Cho nên nói đệ
tử Phật như mắt xem thấy.
Ông nói do căn thủ trần, nhờ thức phân biệt. Điều này đã
đáp, vì căn là vô tri.
Lại các ông cũng không nói căn suy nghĩ biết ngã có tướng
sai khác. Cho nên các căn không thể thủ trần.
Lại biết của các ông không đợi căn sinh. Sở dĩ vì sao ? Vì đại
và ngã v.v..., trước có căn mà sau sinh.
Lại các đại v.v… các đế của các ông, vì không bản tính nên
lẽ ra đều không có. Bản tính của pháp ông biến làm đại v.v.... Bản
tính pháp là không. Điều này đã nói. Vậy thì không căn.
Phẩm 49 : Căn trần hợp nhau lìa nhau
Hỏi : Ông nói thức có thể biết chứ không phải căn biết. Điều
này đã thành. Nay vì là căn trần hợp nhau nên thức sinh, hay là lìa
nhau mà sinh ư ?
Đáp : Nhãn thức không đợi đến mới biết trần. Sở dĩ vì sao ?
Vì mặt trăng v.v... vật xa, cũng có thể thấy được; sắc của mặt
trăng không phải rời mặt trăng mà đi đến.
Lại nhờ hư không và ánh sáng nên thấy được sắc. Nếu mắt
đến sắc thì không có khoảng giữa trống không và ánh sáng, như
mắt bị đắp miếng thuốc dán, thì mắt không thấy được. Phải biết
nhãn thức không đến mà biết. Nhĩ thức 2 thứ hoặc đến nên biết
Thành Thật Luận Trang 126 Tuệ Quang Foundation
hoặc không đến mà cũng biết. Tai, tiếng kêu do đến nên biết,
tiếng sấm không đến mà cũng biết. Còn 3 thức kia đều đến căn
mới biết. Sở dĩ vì sao ? Vì hiện thấy 3 thức nầy căn với trần hòa
hợp mới có thể biết được. Ý căn vì không sắc nên không chỗ nào
không đến.
Hỏi : Ông nói nhãn thức không đến mà biết. Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong mắt có ánh sáng; ánh sáng nầy có
thể đi thấy sắc. Ánh sáng là vật lửa. Mắt do hỏa sinh. Vì hỏa có
ánh sáng.
Lại nếu không đến có thể thấy, thì sao không thấy tất cả sắc ?
Vì nhãn quang đi có bị ngăn ngại không đến khắp nên không thấy
tất cả.
Lại trong kinh nói : Ba việc hòa hợp nên gọi là xúc. Nếu
không đến làm sao hòa hợp ?
Lại vì 5 căn đều là hữu đối. Bởi trần ngăn ngại nên gọi là
hữu đối. Mũi trong hương, lưỡi trong vị, thân trong xúc, mắt trong
sắc và tai trong tiếng nếu không đến thì không ngăn ngại.
Lại hiện tại biết sinh trong 5 trần. Cho nên 5 thức đến mới có
thể biết. Nếu không đến mà có thể biết, thì cũng phải biết sắc quá
khứ vị lai, mà thật không biết.
Lại do nhiều duyên hợp lại nên biết mới sinh. Cho nên nhãn
quang đi hợp với trần, vì nhãn quang đến sắc nên gọi là hòa hợp.
Tiếng cũng vì đến tai nên mới nghe. Sở dĩ vì sao ? Vì người ở chỗ
xa, nói nhỏ thì không nghe. Nếu tiếng giống như sắc không đến
mà biết, thì nói nhỏ tiếng, đáng lẽ cũng nghe được, mà thật không
nghe. Cho nên biết vì đến mới nghe.
Lại tiếng có thể nghe xa. Nếu không đến mà nghe thì không
có xa gần.
Lại tiếng vì bị vách ngăn, thì không nghe được. Nếu không
đến cũng nghe thì dù bị ngăn cũng phải nghe được.
Thành Thật Luận Trang 127 Tuệ Quang Foundation
Lại tiếng nghe xa thì không rõ, nghe gần thì rõ. Nếu không
đến mà nghe, thì không có sai khác. Vì đến tai nên có sai khác.
Cho nên biết có âm thanh đến nên mới nghe được.
Lại tiếng thuận gió thì nghe rõ, nghịch gió không rõ. Cho nên
biết có đến mới nghe được.
Lại tiếng có thể nghe hết, nếu không đến mà nghe, thì nghe
không hết. Như sắc không đến mà thấy nên thấy không hết. Vậy
mới biết tiếng không đồng như sắc. Nếu không đến vẫn nghe là
đồng với sắc. Như sắc thấy được một phần, thứ khác cũng đợi có
ánh sáng mới thấy. Tiếng lẽ ra cũng phải vậy, mà thật ra không
phải vậy. Cho nên không đến tai thì không nghe.
Ông nói tai v.v... căn trần không đến mà biết. Điều này
không đúng. Thanh, hương, vị và xúc, phải đi đến căn, nếu khiến
căn đi, thì điều này không đúng. Vì tai v.v... các căn không có ánh
sáng, chỉ một hỏa đại có ánh sáng cho nên không đi.
Lại tiếng nếu bị vật dày, đục và nước v.v... ngăn, tai cũng
vẫn nghe được. Nếu căn có ánh sáng thì không thể như vậy được.
Cho nên biết nhĩ căn không có ánh sáng.
Lại tai ở trong tối cũng biết trần được. Nếu căn có ánh sáng
thì tối không thể biết được.
Lại như căn có ánh sáng thì tối không thể biết được.
Lại như căn có ánh sáng, đợi có phương hướng mới biết,
thấy được một phương hướng, không thể đồng thời biết hết các
phương. Như người hướng về Đông, thì thấy sắc phương Đông,
không thấy các phương khác được.
Lại nói ý có thể đi, cho nên đến trần mới biết được. Như
trong kinh nói : Tâm này một mình đi xa, ẩn tàng không hình
dạng.
Lại tâm nầy tản đi như ánh sáng mặt trời chiếu. Lại tâm này
thường động, như cá mất nước.
Thành Thật Luận Trang 128 Tuệ Quang Foundation
Lại tâm này vốn tùy ý hành. Cho nên 6 trần đều đến mới biết
?
Đáp : Ông nói ánh sáng đi đến, điều này không đúng. Sở dĩ
vì sao ? Vì như người thấy xa thấy gốc cây trụi lá, nghi cho là
người. Nến ánh sáng đến, đâu có sinh nghi.
Lại như quá gần mắt thì không thấy được, như mắt đắp
miếng thuốc dán thì đâu thấy được. Cho nên dù cho ánh sáng đi
tới, nhưng vì quá gần nên cũng không thấy gì được.
Lại mắt lìa ánh sáng thì không thể thấy, quá gần thì ánh sáng
mất.
Lại nếu ánh sáng đến nơi kia, cớ sao thấy vật lớn mà không
thấy vật nhỏ ?
Lại trong v.v... sắc còn có phương hướng sai khác, nghĩa là
sắc phương Đông, phương Tây, cũng có xa gần sai khác nữa. Nếu
mắt đến nên biết, thì không sai khác. Sở dĩ vì sao ? Vì trong
hương, vị và xúc, không có sai khác đó. Cho nên ánh sáng mắt
không đến mà biết.
Lại ánh sáng mắt nếu đã thấy trước thì cần gì phải đi ? Nếu
trước không thấy thì đi đến chỗ nào ?
Lại sắc gần sắc xa đồng thời đều thấy đi, thì không thể như
vậy được. Cho nên ánh sáng mắt không đi.
Lại như ánh sáng đi, giữa đường lẽ phải thấy các sắc, mà thật
không thấy, cho nên biết là không đi.
Lại ánh sáng đi, ánh sáng ấy phải lìa thân, thì không gọi là
căn. Như ngón tay dứt lìa thân, thì không còn cảm giác của thân.
Lại không thấy có mắt nào có thể bỏ chỗ nương của mình, vì
không có giống loại thì không phải chỗ nương.
Lại ánh sáng mắt nầy không thể thấy gì, thì tức là không có.
Hỏi : Mắt nầy có ánh sáng, nhưng vì bị ánh sáng mặt trời làm
chói nên không thấy, như trong ánh sáng mặt trời các ngôi sao
không thể hiện ra được.
Thành Thật Luận Trang 129 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu như vậy ban đêm phải thấy chứ ?
Hỏi : Sắc pháp cần nhờ sáng bên ngoài mới có thể thấy được.
Đêm không có ánh sáng ngoài, cho nên không thấy.
Đáp : Nếu ánh sáng nầy ngày đêm đều không thể có được,
vậy thì hoàn toàn không thấy rồi.
Hỏi : Mèo, chồn, chuột v.v... và các loại trùng đi đêm, ánh
sáng mắt nó có thể thấy mà ?
Đáp : Sắc có thể thấy nầy trụ ở trong mắt mèo v.v..., như sắc
sáng loài đom đóm là ở nơi thân, chứ không phải ánh sáng.
Lại như trùng đi đêm trong tối chúng có thể thấy mà người
không thấy được. Vậy thì chỉ các loài ấy có ánh sáng, các vật khác
không có. Pháp tự như vậy.
Lại ông nói : Nếu không đến có thể thấy, thì lẽ ra phải thấy
tất cả sắc. Nếu sắc ở trong cảnh của biết, thì thấy được. Như trong
kinh nói : Nếu mắt không hỏng, sắc ở trong cảnh của biết, như
vậy thì thấy.
Hỏi : Thế nào gọi là cảnh của biết ?
Đáp : Tùy theo lúc sắc và mắt hợp lại gọi là cảnh của biết.
Hỏi : Nếu mắt không đến, đâu có lúc nào hợp ?
Đáp : Điều này cũng đồng như ông nói mắt đi đến sắc, hoặc
có có thể thấy, hoặc không có thể thấy. Như mắt đi đến mặt trời
có thể thấy vầng mặt trời mà không thấy nghiệp của mặt trời. Tôi
cũng nói như vậy; mắt tuy không đi nếu sắc ở trong cảnh của biết
vậy là có thể thấy, nếu không ở cảnh của biết thì không thấy được.
Hỏi : Ánh sáng mắt đi xa, vì thế lực cùng tột nên không thấy
nghiệp của mặt trời ?
Đáp : Nếu vì thế cùng tột, nên không thấy nghiệp nhỏ, chứ
lượng của vầng mặt trời to, tại sao không thấy ? Điều này không
đúng.
Lại nếu ánh sáng đến kia có thể thấy thì cớ sao xa thấy vầng
mặt trời mà không thấy các làng nước gần Ba-liên-phất ư ? Nếu
Thành Thật Luận Trang 130 Tuệ Quang Foundation
trong ý ông cho rằng các làng ở Ba-liên-phất v.v... không ở cảnh
của biết nên không thấy, thì tôi cũng cho rằng mắt không đến,
cũng vì sắc không ở trong cảnh của biết cho nên không thấy được.
Hỏi : Đã biết các sắc ở trong cảnh của biết nên có thể thấy.
Nay tại vì sao thấy được và tại sao không thấy được ?
Đáp : Vì đời ngăn nên không thấy, như sắc quá khứ vị lai.
Vì ánh chói quá nên không thấy, như ánh sáng mặt trời che
các ngôi sao và ánh sáng ngọc lửa v.v....
Vì không hiển rõ nên không thấy được, như trong đêm có thể
thấy lửa, những thứ khác không thể thấy.
Vì thứ bậc hơn nên không thấy, như mắt Sơ thiền không thấy
sắc của Nhị thiền.
Vì tối ngăn nên không thấy, như tối trong bình.
Vì thần lực nên không thấy, như thân các loài quỷ.
Vì dày đục ngăn nên không thấy như sắc bên kia núi.
Vì xa nên không thấy, như các thế giớ.
Vì quá gần nên không thấy, như không tự thấy được lông mi.
Vì thứ lớp chưa đến nên không thấy, như bụi nhỏ trong ánh
sáng thấy được, ngoài sáng thì không thấy.
Vì nhỏ nên không thấy, như gốc cây trụi giống người không
phân biệt được.
Vì giống nhau nhiều nên không thấy, như cho một hạt gạo
vào trong đống gạo lớn. Và như một con quạ vào trong bầy quạ.
Trái lại với những cảnh như trên thì gọi là ở trong cảnh của biết.
Hỏi : Sao là gọi mắt hỏng ?
Đáp : Gió, nóng, lạnh v.v... các bệnh làm hỏng.
Như vì gió làm hỏng mắt thì thấy các sắc xanh đen xoay
tròn.
Nếu vì nóng làm hỏng mắt thì thấy các sắc vàng đỏ lửa cháy.
Nếu vì lạnh làm hỏng mắt thì thấy nước ao nhiều sắc trắng.
Nếu cực nhọc làm hỏng mắt thì thấy cây cối lay động.
Thành Thật Luận Trang 131 Tuệ Quang Foundation
Mệt mỏi làm hỏng mắt thì thấy sắc không rõ.
Dụi vào một mắt thì thấy 2 mặt trăng.
Bị quỉ quấy phá thì thấy việc quái lạ.
Vì sức của tội nghiệp thì thấy ác sắc. Vì sức của phúc nghiệp
thì thấy sắc tinh diệu.
Vì khí nóng hư mắt thì thấy các sắc đỏ lửa cháy.
Lại vì chúng sinh được mắt không hoàn toàn nên thấy không
đầy đủ.
Lại mắt kéo mây, che nên không thấy. Hoặc nhãn căn hỏng
nên không thấy. Đó gọi là mắt hỏng. Trái với trên, gọi là không
hỏng. Tai v.v... các căn cũng cần theo nghĩa này mà phân biệt.
Hỏi : : Đã hiểu 5 trần ở trong cảnh bị biết mới biết được. Pháp
trần thế nào gọi không ở cảnh biết?
Đáp : Vì bậc trên nên không biết, như tâm người Sơ thiền không
biết pháp Nhị thiền trở lên.
Vì căn vượt trội nên không biết, như tâm người độn căn
không biết pháp trong tâm người lợi căn.
Vì người vượt trội nên không biết, như Tu-đà-hoàn không
biết pháp trong tâm Tư-đà-hàm. Lực có sai khác nên không biết,
như có ý thức mà vô lực đối với pháp ấy. Bởi vì ý thức chăng biết
pháp nầy, như nhiếp tâm thì ý thức biết đối với pháp ấy.
Bởi vì ý thức không biết pháp nầy, như nhiếp tâm thì ý thức
biết được pháp. Loạn tâm ý thức không thể biết được, như ý thức
Bích-chi-phật biết được pháp, mà ý thức Thanh Văn không thể
biết được. Ý lực Phật biết được pháp, mà ý lực Thanh Văn và
Bích-chi-phật không thể biết được, như pháp thượng phẩm, ý thức
hạ phẩm không thể biết được.
Lại vì pháp trần vi tế nên không thể biết được, như trong Atì-
đàm nói : Những tâm nào có thể nghĩ ? Nghĩa là trước đã từng
trải dùng qua rõ ràng có thể nghĩ. Không phải không dùng qua,
như việc người chết sống. Pháp trước đã có dùng là có thể nghĩ,
Thành Thật Luận Trang 132 Tuệ Quang Foundation
mà chưa từng dùng thì không nghĩ được. Thánh nhân nếu đã dùng
qua, hoặc không từng dùng qua, v.v... đều có thể nghĩ biết, vì sức
Thánh trí. Lại vì thắng trần nên biết, như dùng tâm cõi Sắc, biết
pháp cõi Dục. Lại vì điên đảo chướng ngại nên không biết, như
thân kiến duyên 5 ấm không thấy vô ngã. Vô thường, khổ cũng
như vậy.
Lại vì sức mạnh chướng ngại nên không biết như người độn
căn bị người lợi căn làm chướng ngại, nên khiến tâm không biết.
Trái với trên, gọi là ở trong cảnh của biết.
Hỏi : Thế nào gọi là ý hỏng ?
Đáp : Điên cuồng quỉ ám, kiêu mạn, phóng túng, thất tâm,
hoặc say rượu, hoặc bị thuốc mê hôn muội loạn tâm. Hoặc có
tham giận v.v... các thứ phiền não bùng lên, phóng túng hư hoại
tâm, như thuật Bà-già, như người bắt cá vậy; hoặc bị bệnh Nanhã-
bà, có thể phá hoại tâm.
Lại như già bệnh chết cũng có thể phá hoại tâm. Nếu tâm ở
trong thiện pháp, hoặc không ẩn chìm trong pháp vô ký, gọi là
không hư hoại. Vì các nhân duyên như vậy, dù có trần cảnh, cũng
không biết được. Cho nên ông nói nếu không đến có thể thấy, cớ
sao không thấy tất cả sắc, điều này là không đúng.
Lại nữa ông nói 3 việc hòa hợp nên gọi là xúc, Đó là tùy theo
khi căn biết trần, thì gọi là xúc, không cần phải đến nhau. Sở dĩ vì
sao ? Vì ý căn cũng nói 3 việc hòa hợp, trong đó không do đến
nhau, mới gọi là xúc.
Lại ông nói vì đến nhau, nên gọi hữu đối, Điều này không
đúng. Vì đã nói không phải tướng đối vậy.
Lại ông nói hiện tại sinh biết thì thức thứ 6 cũng có, nhưng
chỉ biết hiện tại, như tha tâm trí.
Lại ông nói các duyên hợp nên biết sinh thì trong ý căn thứ 6
đã đáp. Nghĩa là tùy khi biết trần, gọi là hòa hợp, lại do ý duyên
pháp, ý thức sinh. Lời nói ấy chỉ là trống không, vì không đi đến.
Thành Thật Luận Trang 133 Tuệ Quang Foundation
Lại vì quyết định nên gọi là hòa hợp. Nhãn thức chỉ nương
mắt, không nương gì khác cũng không phải không nương, chỉ
duyên sắc, không duyên gì khác, cũng không phải không duyên.
Cho nên ý thức cũng như vậy.
Phẩm 50 : Thanh Văn
Ông nói người ở chỗ xa, nói nhỏ thì không nghe, nên biết
tiếng đến. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì như ông nói :
Lời nói người ở chỗ xa là do tiếng, có tiếng nối nhau chuyển nhỏ
dần, rồi không sinh nữa, cho nên không nghe. Tôi cũng nói như
vậy. Mặc dầu tai không đến, nhưng tiếng nhỏ nên không nghe.
Lại như ông nói : Nhãn quang tuy đến mà chi thấy vầng mặt
trời, không thấy nghiệp của mặt trời. Tôi cũng nói như vậy. Tuy
tai không đến, vì tiếng lớn nên nghe được, nhỏ thì không nghe.
Lại như ông nói : Nhãn quang tuy đi xa, nhưng không thể
đến trăm ngàn vạn do-tuần. Tuy có thể thấysuốt sự ngăn ngại của
thủy tinh v.v..., mà sự ngăn ngại của vách v.v... thì không thấy
được. Và có thể thấy mặt trời mà không thấy nghiệp của mặt trời.
Tai tôi cũng như vậy, tiếng tuy không đến, vì to nên nghe được,
mà không phân biệt kỹ.
Lại ông nói thuận gió thì rõ. Điều này không đúng. Sở dĩ vì
sao ? Vì không có ai nghịch gió mà nghe được. Giống như hương
nghịch thì không nghe, tiếng cũng như vậy, nghịch gió lẽ ra
không nghe được chút nào, mà thật ra thì nghe được. Cho nên biết
tiếng không đến mà nghe. Nếu tiếng nghe được chút ít nhưng vì bị
gió ngăn.
Lại tiếng không phải như hương bị gió thổi, cần gì phải phân
biệt gió thuận hay nghịch ?
Lại như ông nói : Tiếng có thể nghe hết, cho nên biết đi đến
không đồng sắc. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì lẽ thanh
pháp nghe hết, sắc pháp thì không. Muôn vật đều có đồng tướng
Thành Thật Luận Trang 134 Tuệ Quang Foundation
dị tướng; cho nên biết trần là đồng, biết hết không hết là dị, không
vì đến không đến mà cho là dị.
Lại nữa, tiếng của chuông linh có thể nghe trong chuông
linh. Làm sao biết ? Như người muốn nghe tiếng chuông linh, thì
đưa tai vào cái linh.
Lại tiếng là Cầu-na cho nên không đi, vì các Cầu-na là không
tác nghiệp.
Hỏi : Do tiếng nối nhau sinh Cầu-na của tiếng, như sóng
trong nước, gọi là tiếng đi ?
Đáp : Tiếng nầy cùng sóng dụ làm sao được ? Vì tướng nước
gió quạt động thì có sóng sinh, chứ ở trong tiếng lại có tiếng gì có
thể sinh tiếng khác ? Nếu ý ông bảo tiếng có thể sinh tiếng khác
thì cớ sao không tức nơi bản xứ mà sinh cũng không ở xứ khác
sinh ? Vì nước với nước đập vào nhau mới có sóng sinh. Nếu nói
rằng người là tạo tiếng, tai phải là nói, mà thật sự không phải. Cho
nên biết tiếng không nói mà đi.
Lại như tiếng chuông linh chuyển dần nối nhau sinh, mà cái
chuông linh không phải không tiếng. Nếu tiếng như sóng liên tục
sinh, thì trước tiên nước không có sóng. Như vậy do cái chuông
linh có tiếng, cái chuông linh phải không có tiếng, mà thật ra
không phải vậy. Cho nên biết tiếng ở trong cái chuông linh.
Lại như nắm cái linh thì tiếng dứt mất, nên biết tiếng thường
nương ở linh. Nếu tiếng nương nơi cái linh thì cũng lìa cái linh.
Vậy khi nắm cái linh tiếng phải diệt mất, khi buông tay nắm ra
tiếng phải còn.
Lại hiện trong lời nói không có như linh liên tục sinh, lại
trong tiếng có phương sai khác, nghĩa là tiếng phương Đông,
phương Tây, cũng có tiếng gần tiếng xa. Nếu tiếng đến tai, thì
không có việc sai khác nầy.
Lại nếu tiếng đến, thì thiên nhĩ vô dụng. Sở dĩ vì sao ? Vì
tiếng nhiều trăm ngàn thế giới làm sao đến được.
Thành Thật Luận Trang 135 Tuệ Quang Foundation
Lại như tiếng bắn, có thể trúng chỗ tiếng; nếu tiếng đến tai,
phải là tai tự bị bắn. Nếu không phải vậy, không gọi tiếng bắn.
Lại như tiếng xa gần có thể đều nghe được.
Lại vì tiếng niệm niệm diệt, nên không sinh tiếng khác,
không có thấy pháp nào niệm niệm diệt có thể sinh pháp khác
được ! Cho nên tiếng không sinh tiếng khác. Như nghiệp niệm
niệm diệt không sinh nghiệp khác được. Tiếng cũng như vậy,
niệm niện diệt nên chắng sinh tiếng khác. Nếu tiếng sinh tiếng
khác, nghiệp cũng phải sinh nghiệp khác. Vậy thì nghiệp không
sinh nghiệp, lời nói này hỏng.
Lại trong pháp của ông tiếng với tiếng khác trái nhau, trái
nhau vì đôi bên không ở đồng chỗ. Nếu tiếng với tiếng khác ở
đồng chỗ, thì không gọi trái nhau. Nếu không ở đồng chỗ, thì
tiếng trước diệt rồi, tiếng sau mới tự sinh. Cho nên tiếng không
sinh tiếng khác.
Lại tiếng là một pháp, làm sao có thể sinh tiếng khác; không
thấy một vật mà có có thể sinh.
Hỏi : Như hợp là một, có thể sinh thành vật, thì tiếng cũng
như vậy, tuy là một pháp, mà có thể sinh tiếng khác.
Đáp : Ông thấy hợp pháp là một, có thể có sinh được. Tiếng
cũng như vậy. Sắc cũng là một, lẽ ra phải sinh sắc khác. Hương vị
xúc cũng như vậy. Thế thì Đà-la-phiêu tức chủ vạn vật, hoặc có 5
tính 3 tính 2 tính.
Lại vì đồng nghiệp, nên tiếng với nghiệp đồng tướng. Như
nói tuy tiếng Cầu-na diệt cùng với nghiệp đồng, như lấy ngón tay
búng con dao, con dao động gọi là nghiệp, tức cũng có tiếng động
không rời con dao. Tiếng cũng như vậy, lấy tay nắm con dao thì
tiếng và động đều dứt. Cho nên biết nghiệp không sinh nghiệp
khác. Tiếng cũng phải không sinh tiếng khác được. Nếu ông phân
biệt do thế lực nghiệp ban đầu, lại sinh nghiệp sau. Như vậy cũng
từ tiếng ban đầu sinh thế lực, do thế lực đó sinh các nghiệp sau.
Thành Thật Luận Trang 136 Tuệ Quang Foundation
Trong đây không khác, do nghiệp có thể sinh thế lực, mà tiếng thì
không thể.
Lại vì nghiệp diệt nên không gọi là nhân Đà-la-phiêu. Sở dĩ
vì sao ? Vì nghiệp trước diệt rồi, Đà-la-phiêu mới sinh. Tiếng
cũng như vậy, tiếng trước diệt rồi tiếng sau mới tự sinh, tiếng sau
không nên có nhân. Nếu ông hãy còn bảo tiếng trước sinh tiếng
khác thì tiếng không gọi là niệm niệm diệt. Sở dĩ vì sao ? Vì khi
sinh tiếng nầy, là niệm thứ nhất, khi sinh tiếng khác là niệm thứ
hai, tiếng khác sinh rồi là niệm thứ ba, khi tiếng trước diệt là niệm
thứ tư. Cho nên không phải niệm niệm diệt.
Lại tiếng làm sao cùng tiếng khác trái nhau ? Hay là như độc
với thuốc độc trái nhau, thuốc với bệnh trái nhau ư ? Nếu không
như vậy, thì cái chuông linh không nên có 2 tiếng. Nếu trong một
niệm, chuông linh có 2 tiếng, thì trong ngàn niệm, cũng phải chỉ
có 2 tiếng.
Lại như không có Cầu-na, Đà-la-phiêu cùng lửa hợp lại mới
sinh, Cầu-na diệt, bản sắc đen lại sinh sắc đỏ. Tiếng cũng như
vậy, tướng trước diệt rồi, tiếng khác lại sinh. Nếu không phải vậy,
lẽ ra trong cái linh một niệm có 2 tiếng, mà thật không có 2 tiếng.
Cho nên không đúng.
Lại nếu tiếng sinh tiếng khác, thì không theo nhân. Mà thật
ra là do từ chuông linh sinh tiếng, vậy tức là theo nhân.
Lại tiếng khác nầy phải là tiếng chuông linh.
Lại tiếng khác nầy quyết không nên dứt, vì không có nhân
dứt.
Hỏi : Do từ tiếng ban đầu nầy, chuyển sinh tiếng nhỏ dần,
cho nên mới có dứt ?
Đáp : Vì sao chuyển sinh tiếng nhỏ dần ? Phải chăng tùy thế
đánh trúng, tùy trúng mới có tiếng đầu tiên. Phần các tiếng thứ 2
thứ 3 v.v..., cũng tùy đánh trúng sai khác mà có. Vì không nhân
Thành Thật Luận Trang 137 Tuệ Quang Foundation
đánh cho nên thế đánh giảm, vì thế đánh giảm nên tiếng chuyển
nhỏ dần.
Lại nếu nhân tiếng sinh tiếng khác thì cũng phải nhân sắc
sinh sắc trong bóng nước. Như vậy trăng dưới nước, tức gọi là
sắc. Vậy thì kinh của Vệ-thế sư, tất cả đều bị hủy bỏ.
Lại các ông nói do lìa sinh tiếng. Điều này cũng không đúng.
Sở dĩ vì sao ? Vì không phải do tay lìa sinh tiếng, mà hợp mới có
tiếng. Dùng dao, tre v.v... các phần đụng vào nhau, khi lìa sự
chạm nhau thì có tiếng.
Lại chúng tôi không nói hợp sinh tiếng. Sở dĩ vì sao ? Vì
ngón tay hợp với hư không thì không sinh tiếng. Nếu ngón tay
không chạm nhau cũng không sinh tiếng, cho nên không do hợp
mà sinh tiếng. Chỉ do 4 đại hoặc hợp hoặc lìa thì có tiếng sinh;
như các nghiệp của các đại thường còn, các đại không bỏ mà đi.
Phẩm 51 : Nghe mùi
Hỏi : Ông nói hương đến mũi thì nghe. Đó cũng không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu như tiếng có thể nghe xa, thì hương ở
chỗ xa cũng có thể nghe được. Trong ý ông hoặc bảo do vật có
hương này nối nhau sinh nhân của hương. Trong tiếng nối nhau,
đã nói lỗi ấy mà ?
Đáp : Hương làm sao nghe được ?
Hỏi : Phần rất nhỏ trong hoa bay đi, hương cũng nương nhờ
đó mà bay đi theo ?
Đáp : Không phải. Nếu phần của hoa bay đi, thì phần của hoa
là sắc, lẽ ra phải thấy được, mà thật sự không thấy, nên biết không
đi.
Hỏi : Phần sắc của hoa nầy vì vi tế nên không thấy ?
Đáp : Hương cũng vi tế nên không nghe được.
Thành Thật Luận Trang 138 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Thế lực hương lớn mạnh nên nghe được, như mùi
hưng-cừ trong bát canh, tuy không thấy sắc, nhưng nghe được
hương ?
Đáp : Nay hiện thấy sắc theo phần của hoa cũng nghe được
hương, phần vi tế trong sắc, cớ sao không thấy ?
Lại như đốt hoa, hương nó tăng thêm, sắc chỉ có diệt cho nên
hương không phải phần của hoa.
Lại nếu hương là phần của hoa, lẽ ra cũng nghe chút ít, mà
thật ra là không nghe.
Lại nếu là phần của hoa bay đi, thì hoa phải tổn giảm, mà
thật ra không giảm. Tại sao biết ? Vì như một cân uất kim, hương
thường bay đi, mà vẫn thường đủ một cân.
Hỏi : Chỗ tổn giảm ít nên không biết được, như nước trong
bình rơi đi một giọt, nào có biết giảm ?
Đáp : Nếu thường giảm, thì hoa cũng không còn huống là
không biết giảm.
Lại nếu hoa thường giảm thì không thấy nghe được, vì
thường giảm nên niệm niệm sinh diệt. Niệm niệm diệt cho nên
phải sinh ra Đà-la-phiêu khác, huống lại không sinh Cầu-na khác
ư ? Mà thật hoa nầy có thể thấy nghe được. Cho nên biết phần của
hoa không đi.
Hỏi : Nếu chỉ hương bay đi, hương cũng phải hết, vì thường
tổn.
Lại vì hương không phần nên lẽ ra phải hết cả.
Đáp : Chúng tôi cho phần của hoa đi theo gió, cũng không
cho gió thổi hoa hương đi. Chỉ bởi hương trong hoa, lại sinh
hương khác. Bởi gió hương này, lại sinh hương nữa, đi đến mũi
nghe, cho nên không có lỗi đây. Vì sao biết ? Như nghe hương
trong mè vừng không phải hương của phần của hoa, vì đem hoa
xông ướp. Nếu là phần của hoa, làm sao xông mè vừng được ?
Cho nên biết hương này không ở trong phần của hoa.
Thành Thật Luận Trang 139 Tuệ Quang Foundation
Lại hoa hương nầy hoặc xoa hoặc bóp, hoặc cho vào trong
nóng, thì hương kia diệt mất. Nếu ở trong mè, thì không mất
được.
Lại hoa hương này, chỉ ở trong dầu, không ở trong cặn, nên
không phải phần của hoa.
Lại hương này còn lâu trong mè, mà trong hoa không còn lâu
được. Nên không phải phần của hoa.
Hỏi : Nếu không phải phần của hoa thì hương của vật gì ?
Đáp : Là gọi hương mè, nhân hoa mà sinh, lìa mè không
được. Như vậy nhân gió hoa hương, lại sinh hương khác, Điều
này đã rõ.
Lại nữa, hoặc có gió nóng gió lạnh cảm giác được, mà sắc
lửa nước trong ấy không thể thấy được. Nên phải biết trong gió lại
sinh xúc khác, mà không phải thổi phần nước lửa đi. Nếu cảm xúc
nóng trong gió là thuộc lửa, xúc lạnh thuộc nước, xúc không
nóng, không lạnh, thì phải biết thuộc đất. Như sắc nước lửa không
thể được thì sắc đất vì vi tế nên cũng không thể được. Nếu như
vậy thì gió không có xúc, tức là có lỗi. Người ta cũng có thể nói
rằng vì như gió hợp với nước lửa nên mới có xúc lạnh nóng. Như
vậy vì gió hợp với đất nên có xúc không lạnh không nóng. Trong
đây không có nhân duyên quyết định phần nào nước, phần nào lửa
được theo gió mà đi, mà phần đất không đi. Như trong kinh ông
nói có xúc, xúc thân mà không phải là đất nước lửa. Cho nên biết
gió là tướng không thấy được. Vì lời nói nầy nên 3 thứ xúc đối
với gió hoặc là khách tạm hoặc không phải khách. Sở dĩ vì sao ?
Vì 3 thứ xúc nầy, nếu tướng không thấy thì là gió.
Lại trong ý ông nếu cho rằng vì thấy có xúc lạnh nóng trong
nước lửa là không phải phần của gió. Như vậy vì thấy có xúc
không lạnh không nóng trong đất thì lẽ ra cũng không phải là
phần của gió. Nếu trước riêng thấy có xúc gió không hợp với đất
thì lẽ ra nên nói xúc nầy thuộc gió, mà thật bam đầu không thấy,
Thành Thật Luận Trang 140 Tuệ Quang Foundation
làm sao được biết không lạnh không nóng chỉ là xúc gió mà
không phải phần của đất ư ?
Lại chúng tôi cũng nói sắc hương vị xúc chỉ là vật đất chứ
không phải nước v.v... mà có được. Ý ông nếu cho rằng thấy trong
nước v.v... có sắc v.v... , vì cùng hợp với đất, nên ở trong nước
v.v... thấy không phải trong nước v.v... có được, như tướng nóng
trong nước. Trong đó không có nhân quyết định. Vì nước hợp với
lửa nên có tướng nóng, mà hợp với đất thì không có tướng sắc
v.v.... Ban đầu không từng thấy riêng có nước v.v... không hợp
với đất, nếu đã từng thấy thì nên nói sắc nầy thuộc nước, chứ
không phải thuộc đất mà có, lẽ ra cũng phải phân biệt nước v.v...
như vậy.
Hỏi : Tại sao trong gió sinh được hương khác, mà không sinh
được xúc của sắc vị khác ?
Đáp : Pháp của gió là phải vậy. Pháp có nhiều thứ không thể
nghĩ bàn. Các vật khác sinh được xúc của sắc vị. Như hoa xông
mè sinh vị cay đắng. Quả A-ma-lặc ngâm vào sữa, tức trở thành
quả ngọt. Yến chi xông hột Ma-đầu-lâu-già thì sinh lá đỏ. Màu
xanh pha với thư hoàng thì thành màu lục. Màu xanh đỏ hợp lại
biến thành sắc tím v.v... như vậy với các vật khác, sinh mùi sắc
khác.
Hỏi : Ông nói trong gió lại sinh hương khác. Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Như trong nhà không có gió mà nghe được
hương ở xa.
Lại hương ngược gió nghe được, như mùi cây thiên thụ Balê-
chất-đa. Cho nên biết trong gió không sinh hương khác, chỉ là
do hương lại sinh hương khác.
Đáp : Do có 2 thứ hương. Nếu trong gió lại sinh hương gió,
nếu không gió thì nhân hương sinh hương. Đây nào có lỗi chi ?
Trước ông nói vì hương có thể nghe xa nên không phải đến. Điều
Thành Thật Luận Trang 141 Tuệ Quang Foundation
này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì không đồng sắc vậy. Nếu
không đến mà nghe thì cùng đồng với sắc không đến mà nghe.
Lại như xa thấy khói hương, thì không nghe được, khi đến
mới nghe. Cho nên biết không đến thì không nghe.
Lại vì không có phép thiên tỹ, nên biết có đến mới nghe. Nếu
không đến mà nghe, thì phải có thiên tỹ như thiên nhãn vậy.
Phẩm 52 : Biết xúc
Hỏi : Xúc cũng phải không đến mà biết được ? Sở dĩ vì sao ?
Vì mặt trời xúc ở xa.
Đáp : Mặt trời xúc làm sao biết được ?
Hỏi : Phần của hỏa từ mặt trời đi đến thân mới biết.
Đáp : Nếu từ mặt trời có phần của hỏa đi đến, khi trời lặn
phần của hỏa phải còn, mà thật không còn. Nên biết không đến.
Hỏi : Mặt trời tuy lặn mà nóng hãy còn, vì xúc nên biết.
Đáp : Nếu như vậy, thì hỏa không sắc. Trong kinh ông không
có hỏa không sắc, đó tức là lỗi.
Hỏi : Trong ấy có sắc vi tế.
Đáp : Hỏa sắc nhiều mà xúc ít, như thấy sắc đèn mà chưa
cảm biết xúc được.
Hỏi : Xúc quyết định đến mới biết hay sao ?
Đáp : Xúc quyết định đến mới biết. Sở dĩ vì sao ? Vì như
nhân hương trong gió, có hương khác sinh. Như vậy nhân mặt trời
lại có hỏa sinh.
Hỏi : Mặt trời lặn sao không thấy hỏa sắc ?
Đáp : Hoặc có hỏa chỉ xúc mà không sắc, như khí nóng khi
mặt trời đã lặn, như người bị bệnh sốt hỏa nương nơi thân, như
hơi ấm trong nhà khi hỏa đã diệt. Các nóng trong nước sôi lửa
v.v..., đều có xúc mà không sắc. Cho nên hỏa hoặc có sắc không
sắc, phải tin nhận điều này.
Thành Thật Luận Trang 142 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 53 : Về ý
Ông nói ý đi. Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì ý niệm
niệm sinh diệt, như gió như nghiệp. Pháp mà niệm niệm diệt, thì
không có tướng đi.
Lại như ý đi, thì nếu đã biết rồi đi, hay không biết rồi đi, cả
2 đều không đúng. Nếu trước đã biết rồi thì cần gì phải đi, nếu
không biết mà đi, thì đi đến nơi nào ?
Lại nếu tâm ở nơi mắt, làm sao lại đến nơi tai được ? Nếu
tâm sinh ý niệm rằng ta sẽ đến tai, tức là ý nghĩ tai rồi. Nếu nói
muốn nghe tiếng, như vậy tức là ý niệm về tiếng. Nếu tâm ở nơi
mắt thì không sinh ý niệm được. Ở các căn khác cũng vậy. Cho
nên biết ý không đi.
Lại như người trước đã từng thấy thành thị xóm làng v.v...,
nay nghĩ theo việc đã thấy thuở trước, mà không biết hiện tại, nên
biết ý không đi.
Lại nếu pháp mà đi, thì phải trước gần sau xa, nhưng nay xa
gần đều nghĩ đến, cho nên biết là không đi.
Lại nếu pháp mà đi thì giữa đường phải biết các trần, như
người đi trên đường biết sắc các vật, mà ý thì không phải vậy.
Lại như tâm có thể biết không, nghĩa là quá khứ, vị lai, sừng
thỏ, lông rùa, chân rắn, sắc màu của gió, mùi thơm của muối
v.v..., cũng biết đều không đi đến. Cho nên biết không có đi.
Lại nếu tâm đến duyên, thì không nên có không biết, biết
nghi, biết tà, mà thật ra là có. Cho nên biết không đi đến.
Lại tâm duyên Nê-hoàn, nếu tâm đi đến, thế là đem hữu vi
đến trong vô vi, vậy là không đúng. Rồi lại từ vô vi ra nhập vào
trong hữu vi, đó cũng không đúng.
Lại nếu sinh tâm nghĩ có đời sau, tâm liền đến đời sau, thì
thân này phải chết, không còn sống lại được. Cho nên không đi.
Lại tâm nghĩ vị lai, tức đến vị lai, không thể đem phép hiện
tại mà làm vị lai.
Thành Thật Luận Trang 143 Tuệ Quang Foundation
Lại tâm nghĩ quá khứ tức ở quá khứ, không thể đem pháp
quá khứ và vị lai mà làm hiện tại. Nên biết không đi.
Lại do dục tâm mà sắc mặt biến khác, tâm giận giữ v.v...
cũng vậy. Nếu tâm đến chỗ khác, thì sắc mặt phải không khác.
Nên biết không đi.
Lại tâm đang ở trong cảnh duyên, gọi đó là thụ. Ba thứ thụ
nầy, hoặc khổ hoặc vui hoặc không khổ không vui. Nếu tâm đến
chỗ khác, thì không có mấy thứ thụ nầy. Cho nên biết không đi.
Lại tâm nương nơi thân, như trong kinh nói : Tâm nương
danh sắc. Cho nên không rời thân đi đến chỗ khác.
Lại thân hợp với thức nên gọi là thân. Nếu tâm ở chỗ khác,
thì thân không thức. Cảnh duyên hợp với thức mới gọi là có thức.
Cho nên không đi.
Hỏi : Tâm trong chiêm bao đi đến các phương ?
Đáp : Không phải. Như hành vi mộng tinh trong chiêm bao
và các việc v.v... là đều do thân điên đảo nghĩa là ở nơi nào đó,
mà thật ra không đi đâu.
Lại hành vi trong chiêm bao đều là hư vọng, như người nằm
mơ thấy uống nước mà hoàn toàn không trừ được khát. Lại chiêm
bao hành dục v.v... không gọi là đọa. Cho nên biết trong giấc mơ
ý cũng không đi.
Lại tâm chỉ ở trong pháp đã từng thấy nghe hay biết, chứ
không đi đến pháp nào khác. Nếu có đi đến, chắc cũng phải biết
pháp khác.
Hỏi : Có vị thần nào sai khiến ý có thể đi đến các phương
khác ?
Đáp : Điều này ra sao trong Phẩm phá thần sẽ phân biệt rõ.
Cho nên biết ý không đi.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN ( Quyển 5 )


Thành Thật Luận Trang 144 Tuệ Quang Foundation
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 54 : Căn không quyết định
Hỏi : Các căn là quyết định, hay không quyết định ?
Đáp : Thế nào là quyết định, thế nào là không quyết định ?
Hỏi : Do cảnh sở tri, và nhân của mắt v.v... các căn, gọi là
quyết định ?
Đáp : Nếu như vậy căn không quyết định. Sở dĩ vì sao ? Vì
các căn không phải cảnh sở tri và nhân của mắt v.v… .
Hỏi : Tròng mắt lưỡi và thân, dùng mắt thấy được; còn tai và
mũi ở trong nên không thể thấy được.
Đáp : Người chết cũng có tròng mắt lưỡi thân mà thật không
có căn.
Hỏi : Tròng mắt có 2 thứ : căn và phi căn. Người chết diệt
mất căn có tròng, phi căn còn lại.
Đáp : Căn có tròng không thể thấy nó được. Cho nên không
phải sở đắc của mắt v.v.... Như trong kinh nói : Năm căn là sắc
không thể thấy mà có đối. Nếu như có thể thấy thì có thể phân
biệt được tròng mắt này là căn, tròng mắt này là phi căn.
Hỏi : Nếu trong kinh nói : Do 4 đại thành sắc thanh tịnh, gọi
là 5 căn. Thế sao lại nói 5 căn là sắc không thể thấy mà có đối ư ?
Đáp : Vì cho nên có thể nghi nghiệp lực là không thể nghĩ
bàn. Vì nghiệp lực nên 4 đại biến thành căn. Phật sợ các đệ tử cho
rằng 5 căn này do từ nghiệp sinh, nên mới nói đó là sắc.
Lại vì ngoại đạo nói 5 căn từ ngã mà sinh. Ngã tức không
phải sắc.
Lại nói 5 căn biết lớn biết nhỏ, nên không quyết định. Người
đó cũng cho vô sắc là căn, cho nên Phật nói các căn là sắc, do sắc
Thành Thật Luận Trang 145 Tuệ Quang Foundation
v.v... làm thành. Hoặc bảo do sắc v.v... mà thành, thì phải thấy
được, nên mới nói không thể thấy, cũng không phải sở đắc của tai
v.v... các căn. Hoặc bảo nếu vậy thì lẽ ra không có đối, cho nên
nói là có đối, là đối với các trần. Nếu sắc có hình có đối, thì đó là
thô sắc, chỉ bị thấy của mắt.
Lại vì ngoại đạo nói : Các số lượng, một khác, hợp lìa, tốt
xấu, tướng chung tướng riêng các tác nghiệp, và Đà-la-phiêu tuy
không phải sắc pháp, nhưng cũng là thấy được. Cho nên Phật nói
rằng : Trong những thứ ấy, chỉ có sắc thấy được mà thôi, ngoải ra
không gì thấy được. Ngăn ngại nơi tay v.v..., gọi là có đối.
Hỏi : Nếu như vậy đều phải bị xúc ?
Đáp : Tuy đều ngăn ngại, nhưng không phải tất cả chỗ đều
sinh. Thân thức tùy theo mà sinh biết, nên phân biệt được các căn.
Lại nữa, các căn thật không quyết định. Sở dĩ vì sao ? Vì
pháp nếu quyết định, như tay lấy vật, chỉ một tay lấy, còn mắt có
thể thấy lớn nhỏ, cho nên không phải quyết định.
Lại nếu vật quyết định, thì tiếp xúc là có tác dụng, như chạm
lửa thì cháy, chạm dao thì đứt, còn mắt ở xa có thể thấy, nên
không phải quyết định.
Lại nếu pháp quyết định, thì ngăn pháp quyết định, như tay
ngăn tay, mà mắt đối với trong thủy tinh, mây mù v.v..., cũng
không ngăn ngại, nên không quyết định.
Lại căn nếu như quyết định, thì phải ở trong thân, vì ở trong
thân nên tuy hợp với ý, cũng phải không thấy trần cảnh bên ngoài,
mà thật ra thì có thể thấy, nên không quyết định.
Lại pháp nếu quyết định, thì có thể đếm là 5 căn, nhưng mắt
tai mũi đều có 2, với lưỡi và thân thành có 8, nên không quyết
định. Chỉ có xứ là nhất định, mà căn không nhất định.
Lại mắt trái thấy, mắt phải cũng biết, không phải thấy khác
biết khác, vì căn không tướng trái phải, nên không quyết định.
Thành Thật Luận Trang 146 Tuệ Quang Foundation
Lại vì pháp căn trần hợp, là không thể được, nên không
quyết định.
Lại được quyết định thì sắc v.v... các pháp không có thể biết
được căn, mà căn thì biết được pháp, nên không quyết định.
Hỏi : Nhãn quang có thể thấy lớn nhỏ và cũng có thể đi xa
thấy sắc không bị ngăn ngại, giống như ánh sáng mặt trời lìa thân
có thể thấy. Ánh sáng do chỗ quyết định của 2 mắt nên hợp làm
một, mới có thể thấy sắc.
Lại mắt là một, tai mũi ở tại trong, nên không thể phân biệt.
Cho nên ông nói thấy khác biết khác, lời nầy bị hỏng.
Lại thần biết chứ không phải căn, căn chỉ là chỗ dùng mà
thôi.
Lại ông nói pháp hợp không thể được. Điều này đã đáp rồi,
nghĩa là ánh sáng mặt trời v.v..., tai v.v... các căn, vì hòa hợp chặt
chẽ, nên cũng không thể được. Như cây ghép sát kín, xem không
biết được là ghép.
Lại vì do thần nên biết không phải các căn; và căn do 4 đại
mà thành, vì 4 đại không biết nên các căn cũng không biết. Lại
như cái bình do vi trần mà thành, vì vi trần không tri giác nên
bình cũng không tri giác.
Lại không biết khác với trần, cho nên biết không có tri giác.
Đáp : Ông nói vì ánh sáng đi, nên căn là quyết định. Ông cho
ánh sáng là căn, nhưng ánh sáng không phải quyết định nên căn
cũng không quyết định.
Lại ánh sáng nầy không có, đoạn trước đã phá rồi.
Lại ông nói một mắt. Điều này không đúng. Một mắt thấy
khác 2 mắt thấy khác. Nếu hỏng một mắt thì thấy không rõ ràng.
Mắt trái mắt phải này trước đã giải đáp rồi.
Hỏi : Nếu một mắt có thể sinh thức, thì 2 mắt chỉ nên cần
một mắt, dùng mắt thứ 2 làm gì ?
Thành Thật Luận Trang 147 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Vì sống mũi ngăn cách nên không được là một, dù
không ngăn cách cũng không được một, như các ngón tay v.v....
Ông nói là chỗ dùng của thần. Điều này trước bác bỏ rồi. Thần
không dùng được. Ánh sáng mặt trời v.v..., trước cũng bác rồi.
Người nói hòa hợp chặt chẽ nên không thấy. Điều này cũng
không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì pháp nếu quyết định thì không hòa
hợp, vì thể khác nhau, như ghép cây tuy kín mà cũng vẫn thấy
đường ghép. Căn trần hòa hợp không thấy như vậy. Ông nói vì
thần nên tri giác. Sẽ nói về vô thần. Ông nói các đại thành căn.
Điều này không đúng. Nghiệp lực biến đại làm căn thì có sai
khác.
Hỏi : Căn là quyết định. Sở dĩ vì sao ? Vì 4 đại làm thành mà
4 đại là quyết định nên căn cũng quyết định.
Lại vì mắt v.v... các căn là quyết định, nên đại v.v... có thể
làm lợi ích.
Lại đại biến làm căn, vì đại quyết định nên pháp bị biến cũng
phải là quyết định.
Lại tương đương căn có trần, tương đương trần có căn. Nếu
không quyết định, thì không tương đương nhau được. Phải như ý
pháp, nên biết quyết định.
Lại người đời đối với tròng mắt v.v... trong pháp quyết định
gọi là các căn.
Lại căn biết 5 thứ pháp quyết định, không phải như ý v.v...,
nên gọi là quyết định.
Lại căn biết hiện lượng, nên gọi quyết định.
Lại căn biết hiện tại, ngoài ra đều do so sánh mà biết, cho
nên gọi là quyết định.
Lại căn biết có duyên, ý cũng không duyên, như biết quá khứ
v.v…
Lại căn trần hòa hợp mới sinh căn biết pháp, nên phải dùng
căn quyết định đôi trần quyết định. Cho nên biết là quyết định.
Thành Thật Luận Trang 148 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Ông nói căn do đại làm thành gọi là quyết định. Tuy
đều do các đại mà có căn và phi căn, như vậy là hoặc có quyết
định hoặc không quyết định. Ông nói lợi ích. Lợi ích là đối với cái
biết, chứ không phải giúp cho căn.
Lại nói đại biến thành căn. Biến cũng là biết, chứ không phải
lợi ích cho căn.
Lại 4 đại thanh tịnh gọi là căn, nên không quyết định. Ông
nói căn trần tương đương nhau cũng là ý. Chắc chắn căn không
phải cái biết. Cho nên các thứ kia đều là sức của ý khác nhau.
Lại tuy nói 6 thức, nhưng chủ chốt do ý thức quyết định. Như
khi thấy 4 đế hiện biết các pháp, mà chính quán pháp tính đều do
ý thức.
Lại như vòng lửa xoay tròn, trò huyễn hóa lửa cháy thành
Càn-thát-bà đều là không mà vọng thấy có. Thấy sắc cũng vậy.
Cho nên mắt v.v... đều là tà duyên. Ông nói : Căn trần hợp nên
sinh ra cái biết. Hoặc đến nên biết, hay không đến mà biết, đều
trước đã giải đáp rồi.
Phẩm 55 : Tướng của sắc nhập
Lại nói xanh vàng các sắc gọi là sắc nhập. Như trong kinh
nói : Nhãn nhập diệt sắc tướng lìa, chỗ nầy cần biết.
Hỏi : Có người nói nghiệp lượng cũng là sắc nhập. Sở dĩ vì
sao ? Như trong kinh nói đen trắng dài ngắn, thô tế các sắc ?
Đáp : Hình v.v... là sai biệt của sắc. Vì sao biết được ? Vì
nếu lìa sắc thì không sinh tâm biết hình lượng v.v.... Nếu hình
v.v... khác màu, lìa sắc cũng phải sinh tâm, mà thật ra không sinh.
Cho nên biết không khác.
Hỏi : Trước sinh tâm biết sắc, sau mới sinh tâm biết hình. Sở
dĩ vì sao ? Vì tâm biết đen trắng vuông tròn không sinh đồng thời
?
Thành Thật Luận Trang 149 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Vì các tướng dài ngắn đều duyên nơi sắc nên sinh
trong ý thức, như trước thấy sắc nhiên hậu ý thức mới sinh nghiệp
tướng nam nữ. Cũng vì các pháp hữu vi niệm niệm diệt nên không
có diệt pháp nào không đi, vì đi nên gọi là nghiệp.
Hỏi : Đi gọi là thân nghiệp, nếu không đi thì không thân
nghiệp ?
Đáp : Vì danh tự thế tục nên có thân nghiệp, chứ không phải
đệ nhất nghĩa.
Hỏi : Nếu trong đệ nhất nghĩa không có thân nghiệp, thì
trong đệ nhất nghĩa cũng không có tội phúc. Vì không tội phúc
nên cũng không quả báo ?
Đáp : Pháp khi khởi ở chỗ khác, hoặc lợi hoặc hại người
khác nên thành có tội phúc, không nên nạn vấn như vậy.
Phẩm 56 : Tướng của tiếng
Hỏi : Vì sao không nói do tiếng thành đại ?
Đáp : Tiếng rời sắc v.v..., sắc v.v... không rời nhau, cho nên
không nói. Lại tiếng không như sắc v.v... thường nối nhau, lại
cũng không cùng sắc v.v... đồng sinh.
Lại cùng sắc v.v... sinh khác. Sở dĩ vì sao ? Vì sắc v.v... sinh
lẫn nhau lần lượt rễ mộng tuần tự mà có. Tiếng thì không như
vậy.
Lại tiếng từ vật được tên, như nói tiếng cái bình, không nói
tiếng trong bình.
Lại người hoặc nói thấy cái bình, hoặc nói thấy màu sắc cái
bình. Ban đầu không nói nghe cái bình, mà chỉ nói nghe tiếng cái
bình.
Lại nữa, vì đời trước chúng sinh trồng nghiệp nhân yên lặng.
Nếu muôn vật đều thường có tiếng động, thì không lúc nào tạm
thời yên lặng. Cho nên tiếng không phải thành nhân các đại.
Thành Thật Luận Trang 150 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vật đều có tiếng. Tại sao biết ? Vì động thì tiếng phát,
các đại thường động nhau, nên tất cả đều phải có tiếng ?
Đáp : Không phải muôn vật động nhau đều là nhân của tiếng.
Sở dĩ vì sao ? Vì mắt thấy 2 ngón tay động nhau mà không sinh
tiếng được.
Hỏi : Trong đó có sinh tiếng, vì nhỏ nên không biết ?
Đáp : Không sinh, cho đến tiếng nhỏ cũng không nghe. Nếu
nói có tiếng, thì không hiện tín. Người ta cũng có thể nói trong
nước có tiếng, vì nhỏ nên không nghe. Trong lửa có vị, trong gió
trong không, đều có sắc v.v... mà thật ra không có. Cho nên không
phải tất cả động nhau đều có thể sinh tiếng.
Hỏi : Người đời thường nói tiếng là Cầu-na của hư không.
Nay do đâu mà biết từ 4 đại sinh ?
Đáp : Nay hiện thấy tiếng sinh từ 4 đại, nên chúng tôi chỉ tin
hiện thấy.
Lại nói tiếng chuông tiếng trống, cho nên biết là tiếng
chuông trống.
Lại vì 4 đại khác nên có tiếng sai khác, như tiếng chuông
trống.
Lại vì 4 đại khác nên có tiếng sai khác, như tiếng chuông
trống khác nhau.
Lại như đánh đồ bằng đồng thì đều có tiếng động, tay nắm
thì đều dứt tiếng, nên phải biết tiếng đồ vật động cũng như vậy.
Lại sắp muốn có tiếng, tất chuẩn bị chất tượng 4 đại. Cho
nên biết tiếng từ 4 đại sinh ra.
Lại vì nghiệp nhân duyên nên tiếng có sai khác, như tiếng
chúng sinh hoặc hay hoặc dở, không nên vì nghiệp duyên mà sinh
Cầu-na hư không. Cho nên không phải. Lại vì tướng của nhân.
Tướng của nhân là tùy theo pháp nào đó nên mới có, tức gọi là
nhân. Như vậy nhân nơi đại mà có tiếng, không thì không tiếng.
Như có lửa thì nóng, không lửa không nóng; phải biết do lửa có
Thành Thật Luận Trang 151 Tuệ Quang Foundation
nóng; do đại sinh tiếng cũng như vậy. Như hư không có nóng, hư
không vẫn tồn tại, mà khi nóng hoặc khi không. Phải biết hư
không không phải nhân của nóng, tiếng cũng như vậy. Như có hư
không có tiếng, hư không vẫn tồn tại, mà tiếng hoặc có khi không
có. Cho nên biết không phải nhân.
Lại tiếng là hư không Cầu-na, đây không thể tin được, vì
trong hiện sự, trước không thấy nhân của tiếng, với hư không
cũng không lấy gì so sánh để biết, vì trong đó không so sánh
được.
Lại trong các kinh sách phần nhiều cũng trái nhau, như vậy
không một điều nào đáng tin, cho nên biết không đúng.
Phẩm 57 : Tướng của hương
Hỏi : Đa-ma-la-bạt v.v... là các hương hợp lại nên hương
khác với hương gốc. Vậy nên các hương nầy lại sinh hương khác
chăng ?
Đáp : Bởi hòa hợp nên sinh hương khác, như màu xanh vàng
pha vào nhau lại sinh màu lục.
Lại vì nhiều thứ nghiệp nhân duyên, nên sinh nhiều thứ
hương.
Hỏi : Đệ tử phái Ưu-lâu-khư bảo hương chỉ là Cầu-na của
địa. Điều này thế nào ?
Đáp : Không có Đà-la-phiêu, điều này đã nói rõ, nên biết là
không đúng.
Lại như người phái Vệ-thế sư bảo hợp kim chì thiếc, chì,
thiếc, vàng, bạc, đồng v.v..., đều là hỏa vật, mà trong đó có
hương. Cho nên biết không phải chỉ địa mới có.
Hỏi : Hợp kim chì thiếc, các thứ hợp cùng với địa, nên có
hương ?
Đáp : Không phải khách hương. Sở dĩ vì sao ? Vì trong các
vật kia trước ngửi không nghe thấy hương. Nếu đã từng nghe nên
Thành Thật Luận Trang 152 Tuệ Quang Foundation
nói là khách, như trước nghe hương hoa, sau nghe trong áo, nên
gọi là khách, mà hương hợp kim chì thiếc v.v... không phải như
vậy. Cho nên không phải nhân.
Lại hợp kim chì thiếc v.v... lúc không hương không nên nói
là khách.
Lại chúng tôi cũng có thể nói trong nước v.v... không có màu
sắc v.v..., chỉ cùng đất hợp nên mới có màu sắc v.v.... Nếu ông nói
trong nước v.v... tự có màu sắc. Chúng tôi cũng nói trong hợp kim
chì thiếc tự có hương.
Lại như trong vật có pháp không rời nhau, tức vật ấy có. Cho
nên hương tùy theo chỗ không rời nhau, gtức hương của vật này.
Lại trong nước v.v..., nếu có hương, mà vì nhỏ nhiệm cho
nên không biết có, thì có lỗi gì ? Như nói trong mặt trăng có lửa,
lửa quyết định nóng.
Lại ông nói hơi ấm trong nhà là do lửa diệt, còn thừa khí
nóng nên có chút sắc vi tế, cũng nói trong nước nóng có chút
tướng lạnh vi tế, hương trong nước cũng vậy. Trong đó không có
nhân quyết định nói nước không hương.
Lại các Đà-la-phiêu của ông không có tướng quyết định. Sở
dĩ vì sao ? Vì ông tự nói trong đất có hương, mà kim cương, pha
lê v.v... đốt thì biến đổi khác, nên đều là vật của đất, mà đều
không có hương.
Lại ông nói tướng nước quyết định lạnh, tướng sữa v.v...
cũng như vậy, mà bơ v.v... có hương, nên gọi là vật của đất.
Lại nói lửa quyết định là nóng, vì hợp kim chì thiếc là hỏa
vật, mà trong đó không nhất định là nóng.
Lại mặt trăng v.v... thật lạnh mà ông nói là vật của lửa. Vì
các cớ nầy, nên các Đà-la-phiêu không có tướng quyết định. Cho
nên hương chỉ đất có, điều này không đúng. Ông cho hợp kim chì
thiếc v.v... là vật của lửa. Đó cũng không phải nữa. Sở dĩ vì sao ?
Thành Thật Luận Trang 153 Tuệ Quang Foundation
Vì không có nhất định nóng. Các đệ tử phái Ưu-lâu-khư nói lửa
nhất định nóng, mà hợp kim chì thiếc v.v... không nóng.
Hỏi : Vật hợp kim chì thiếc v.v... nóng ở trong quả, không ở
trong xúc ?
Đáp : Bơ quả lạnh, cho nên phải là vật của nước, mà ông
quyết định có hương, nên gọi là vật của đất, cho nên không gọi là
nhân của dụng.
Lại như quả Ha-lê-lặc, khi còn là quả nhất định nóng nên là
vật của lửa, mà thật có hương, có 5 vị nên không gọi vật của lửa,
vì nói quả không phải là nhân. Hợp kim chì thiếc v.v... không phải
vật của lửa.
Lại nữa tướng lửa nhẹ, hợp kim chì thiếc v.v... nặng. Sắc lửa
trắng mà hợp kim chì thiếc v.v... sắc khác.
Lại hợp kim chì thiếc v.v... không đồng tướng với lửa có thể
biết được là vật của lửa.
Lại hợp kim chì thiếc v.v... với lửa trái nhau. Sở dĩ vì sao ?
Vì gặp nóng là tiêu. Nếu là vật của lửa, gặp được lửa phải tăng
thêm, mà thật không tăng, nên không phải vật của lửa. Các ông
không khéo suy nghĩ nên cho hương chỉ là vật của đất. Mà hương
nầy là đều ở trong 4 thứ.
Phẩm 58 : Tướng của vị
Vị là ngọt, chua, mặn, cay, đắng và nhạt. Sáu vị nầy đều tùy
theo vật mà khác nhau, không bởi 4 đại lệch nhiều mà có. Như nói
đất nước nhiều thì ngọt. Điều nầy không đúng. Vì vị ngọt có vô
số sai khác. Phải biết vật sinh tự có sai khác nhau.
Hỏi : Thầy thuốc nói chỉ có 6 vị. Điều này thế nào ?
Đáp : Chẳng hạn định trong 6 vị. Bởi vì sao ? Hoặc 2 vị hợp
lại, hoặc 3 hoặc 4, như vậy nhiều vô lượng. Không bởi ngọt chua
hợp mà gọi vị chua ngọt. Ngọt chua hòa hợp lại sinh một vị khác.
Như vậy nhiều vô lượng.
Thành Thật Luận Trang 154 Tuệ Quang Foundation
Lại vì tùy thế tục nên các vị sai khác, như người cho ngọt gọi
là ngọt.
Lại khi các vị chín đều làm nhân cho nhau, như khi vị ngọt
chín thì hoặc ngọt hoặc biến đổi khác. Các vị khác cũng vậy. Cho
nên biết các pháp có sức như vậy.
Phẩm 59 : Tướng của xúc
Xúc là cứng, mềm, nặng, nhẹ, mạnh, yếu, lạnh, nóng, ráp,
trơn, khô, ướt, khoái vui, mệt mỏi, không mệt mỏi, bệnh hoạn,
lành mạnh, thân nhanh nhẹn, thân chậm lụt, biếng nhác, tối tăm,
nhức đầu, tê thấp, rên rỉ, đói khát, no nê, thèm thuồng, không
thèm thuồng, mờ mịt v.v....
Hỏi : Có người nói xúc có 3 thứ là lạnh, nóng, không lạnh
không nóng. Điều này thế nào ?
Đáp : Trong cứng v.v... sinh biết, nếu lìa cứng v.v... thì
không biết lạnh nóng.
Hỏi : Ưu-lâu-khư nói xúc vào đất là không lạnh không nóng,
xúc gió cũng vậy, xúc nước lạnh, xúc lửa nóng. Việc ấy thế nào ?
Đáp : Trước đã nói không có quyết định, nghĩa là bơ v.v...
định là lạnh, hợp kim chì thiếc v.v... không nóng.
Lại trước nói 3 xúc, nếu gió là khách, thì gió không có xúc
riêng, nên không có tướng quyết định.
Lại trong nước nóng không thể được tướng lạnh, nên nước
không phải quyết định tướng lạnh.
Hỏi : Trong nước nóng tướng lạnh có ít vì lửa thắng nên
không biết. Vì sao biết được? Vì nếu khi thế lửa hết thì nước trở
lại lạnh như thường ?
Đáp : Hợp kim chì thiếc v.v..., bơ v.v... vật cứng hợp cùng
lửa thì chảy. Nếu tướng cứng không mất, mà có tướng chảy, thì
tướng cứng tức là tướng chảy. Nếu mất tướng cứng mà có tướng
chảy, ấy là xúc lạnh diệt rồi lại sinh xúc lạnh, như xúc đất là
Thành Thật Luận Trang 155 Tuệ Quang Foundation
không lạnh không nóng, khi hợp cùng lửa, xúc nếu không mất thì
không gọi chín thì biến đổi. Nếu mất xúc nầy, lại sinh xúc khác.
Như vậy thì xúc lạnh mất rồi lại sinh xúc lạnh. Như vậy các Cầuna
trong nước cũng phải chín thì biến đổi. Ông có lỗi nói tráo trở,
lại sinh pháp mâu thuẫn, cho nên phải biết các tướng vô thường,
như lửa hợp thì tướng cỏ v.v... diệt mất. Nếu bảo xúc nóng che
xúc lạnh thì người ta cũng có thể nói tướng sữa không mất, chỉ bị
tướng bơ che. Cho nên không thể được. Nếu ông bảo không thấy
sữa thành lại sữa. Vậy thì không có chín thì biến đổi. Sở dĩ vì sao
? Vì từ trong vô thủy sinh tử đến nay, vật gì mà không bị lửa dốt
cháy !
Lại cũng tìm thấy được trong lòng đất có bùn đen. Phải biết
đó cũng do chín thì biến đổi mà có lại. Như vậy thì xúc lạnh mất,
lại sinh xúc lạnh. Hoặc có vật hợp cùng với lửa nên sắc đen diệt
mất, sinh lại sắc đen, sắc đỏ mất, sinh lại sắc đỏ. Như vậy xúc
lạnh diệt rồi, lửa sinh lại, điều đó nào có lỗi ?
Lại như người phái Vệ-thế sư nói chỉ có đất có tướng chín thì
biến đổi, nước v.v... thì không có. Mà các thầy thuốc nói, nếu
uống thuốc lúc nóng thì được kết quả khác. Nếu trong nước nóng
sắc v.v... không mất, thì đâu có kết quả khác. Cho nên biết nước
v.v... cũng chín thì biến đổi. Như vì lửa đốt vật cháy mất bản
tướng, nên mới có tướng khác. Cho nên biết vật có tướng khác,
nước cũng như vậy.
Lại các tướng nầy mâu thuẫn nhau nên vô thường, như nước
có thể diệt lửa, lửa có thể tiêu nước; sức lửa không vật gì không
làm tiêu, huống là hợp với nước mà xúc lạnh không diệt ? Cho
nên kinh Vệ-thế sư nói nước quyết định lạnh. Điều này không
đúng.
Phẩm 60 : Lập vô số nhóm khổ đế trong thức luận
Thành Thật Luận Trang 156 Tuệ Quang Foundation
Tâm, ý, và thức một thể mà khác tên. Nếu pháp có thể duyên
thì gọi là tâm.
Hỏi : Nếu vậy thì thụ, tưởng, hành v.v... và các tâm số pháp,
cũng gọi là tâm ? Vì đều có thể duyên ?
Đáp : Thụ tưởng hành v.v... đều là tên khác nhau của tâm.
Như trong Phẩm Đạo nói một niệm có 5 tên là niệm xứ, niệm căn,
niệm lực, niệm giác chính và niệm tinh tiến v.v... cũng như vậy.
Lại một vô lậu tuệ mà có khổ tập trí v.v... nhiều tên sai khác.
Lại trong một Định pháp mà cũng gọi là thiền, giải thoát, trừ
nhập. Như vậy tâm một, chỉ vì tùy thời nên có tên sai khác. Cho
nên biết chỉ là một tâm. Sở dĩ vì sao ? Vì như trong kinh nói :
Người nầy tâm dục lậu được giải thoát, tâm hữu lậu, vô minh lậu
được giải thoát. Nếu riêng có tâm số, thì phải nói tâm số được giải
thoát.
Lại trong kinh nói : Phật nếu biết chúng sinh tâm hoan hỷ,
tâm nhu nhuyến, tâm điều hòa, kham nổi được giải thoát, nhiên
hậu mới vì nói 4 pháp chân đế. Trong đây không nói đến tâm số.
Lại trong kinh nói : Vì tâm cấu bẩn nên chúng sinh cấu bẩn,
lại vì tâm thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh.
Lại nói : Nếu Tì-kheo vào trong tứ thiền được tâm thanh tịnh
bất động, nhiên hậu như thật biết khổ thánh đế, tập diệt đạo đế.
Lại trong 12 nhân duyên nói hành duyên thức.
Lại nói 6 thứ là người.
Lại nói nhẹ nhõm dễ chuyển không gì bằng tâm.
Lại trong kinh nói : Sứ giả đến chủ thành tấu bày sự thật, tấu
rồi trở về. Chủ thành tức là tâm.
Lại nói trong có thức thân ngoài có danh sắc, danh đó là 2.
Lại chỉ nói có thức thân, không nói có tâm số.
Lại nói vì 3 thứ hòa hợp nên gọi là xúc. Nếu có tâm số thì
không gọi là 3, mà thật có nói 3. Cho nên biết chỉ có tâm, không
riêng có tâm số.
Thành Thật Luận Trang 157 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 61 : Lập hữu số
Hỏi : Tâm khác, tâm số pháp khác. Sở dĩ vì sao ? Vì tâm và
tâm số pháp cùng tương ưng nhau. Nếu không có tâm số thì
không có tương ưng, mà thật có tương ưng. Cho nên biết có tâm
số pháp.
Trong ý ông, nếu bảo tâm cùng các tâm khác tương ưng.
Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì trong kinh nói : Tâm đi
riêng, đi xa, ẩn kín, không hình. Trong đây chỉ ngăn đồng tính,
tuy với tâm số cùng đi, nhưng cũng gọi là đi riêng. Như nói Tìkheo
ở riêng, tuy có loài trùng thú, nhưng vì không đồng loại nên
cũng gọi ở riêng một mình. Cho nên biết tâm không cùng tâm
khác tương ưng, mà thật có tương ưng. Cho nên biết có tâm số.
Lại tâm nhiếp thuộc 7 giới 1 nhập 1 ấm. Còn tâm số nhiếp
thuộc 1 giới 1 nhập 3 ấm.
Lại tâm làm chỗ nương ở cho tâm số. Như trong kinh nói :
Tâm số pháp nầy đều nương tâm hành.
Lại nếu không tâm số thì không 5 ấm, vậy là không thể được.
Lại 2 tâm nầy sinh khác nhau. Do từ 2 sinh tâm, từ 3 sinh số.
Như trong kinh nói : Do nhãn duyên sắc sinh nhãn thức. Ba việc
hòa hợp gọi là xúc. Xúc nhân duyên sinh thụ.
Lại nói : Danh sắc nhóm nên thức nhóm, xúc nhóm nên thụ
nhóm.
Lại tâm số pháp tương ưng với chỗ bị nương, vì đồng chung
một cảnh duyên, trong một đời. Tâm không phải như vậy vì sai
khác. Cho nên biết tâm khác, tâm số pháp khác.
Lại trong 4 y nói : Y trí không y thức. Trí nếu là thức, làm
sao nói y ? Cho nên biết trí không phải thức.
Lại Phật tự nói tâm số pháp, nếu từ tâm sinh, nương nơi tâm
thì gọi là tâm số.
Thành Thật Luận Trang 158 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật không nói nghĩa này là chỉ độc có tâm, là không có
tâm số. Người ta cũng có thể nói chỉ có tâm số mà không có tâm.
Nếu ông đem danh tự để phá tâm số, thì tôi cũng đem danh
tự mà phá lại tâm.
Lại vì chỗ sở tác khác, nên tướng các pháp khác, như nước
có thể thấm ướt, lửa có thể đốt cháy. Như vậy thụ v.v... vì sở tác
khác nên biết có tướng khác.
Lại trong các kinh đều nói : Trong tâm sinh giác. Nên biết
tâm số khác với tâm. Vì không lẽ trong tâm tự sinh tâm.
Lại như nói vì tâm cấu uế nên chúng sinh cấu uế. Tâm thanh
tịnh nên chúng sinh thanh tịnh. Nếu chỉ là tâm, thì không nhân
đâu mà có cấu uế hay thanh tịnh. Người nầy không vì vô minh
nên cấu uế, tuệ minh nên thanh tịnh. Cái lý tự cấu uế tự thanh tịnh
là không thể được. Cho nên có tâm số pháp.
Phẩm 62 : Không phải không số
Tuy ông nói cái có thể duyên pháp gọi là tâm. Tâm sai khác
gọi là số, như trong Phẩm Đạo nói. Điều này không đúng. Sở dĩ
vì sao ? Vì trong kinh nói : Tướng tâm khác, tướng tâm số khác.
Có thể nhận thức là tướng của thức. Cảm giác khổ vui là tướng
của thụ. Biết riêng là tướng của tưởng. Khởi tạo tác là tướng của
hành. Cho nên biết tâm khác, tâm số cũng khác. Ông nói tâm
được giải thoát. Điều này không đúng. Vì trong các kinh đều nói
lìa vô minh, nên tuệ được giải thoát, cho nên không chỉ nói tâm
được giải thoát.
Lại vì tâm thắng nên chỉ nói tâm.
Lại vì người đời phần nhiều đều biết tâm, mà không biết tâm
số pháp, nên Phật nói tâm nhiều hơn.
Lại trong kinh Phật có những lời không nói hết, chính là lời
này vậy.
Thành Thật Luận Trang 159 Tuệ Quang Foundation
Lại như trong kinh nói : Các Tì-kheo ! Có thể dứt một pháp,
ta bảo đảm các ông được đạo A-na-hàm. Nói tham dục, mà thật
không phải chỉ riêng dứt tham dục. Điều này cũng vậy. Tâm hoan
hỷ v.v... đều lấy đây đáp. Ông nói trong ngoài 2 pháp. Điều này
cũng không đúng. Nói ngoài có danh sắc, tức nói tâm số, vì nhiếp
từ ngoài vào nên gọi là ngoài.
Lại trong đây Phật nói 3 việc : Trong có thức thân, tức nói
thức và căn, ngoài có danh sắc, tức là nói trần. Ông nói có thức
thân. Điều nầy cũng không đúng. Trong kinh nầy nói : Tất cả
tướng ngoài, tức là tâm số. Ông nói 3 thứ hòa hợp gọi là xúc. Điều
này không đúng. Xúc với thụ v.v... làm nhân cho tâm số, cho nên
nói riêng.
Phẩm 63 : Không phải có số
Đáp : Ông nói vì tương ưng nên có tâm số pháp. Điều nầy
không đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì các pháp độc hành, sau sẽ nói rộng,
cho nên không có tương ưng. Tâm này độc hành cũng lấy đây mà
đáp. Không phải ngăn đồng tính mà ngăn tâm số pháp. Ông nói
nhiếp thuộc khác, nên có tâm số. Người làm ra kinh nầy, tự lập
danh tự, chứ trong kinh Phật không nói nhiếp thuộc nhau, cho nên
không đúng. Ông nói chỗ y, như ý ông nói thức y nơi tâm, không
phải vì y mà gọi là tâm số. Như vậy thì tâm y nơi tâm không được
gọi tên khác. Ông nói không có 5 ấm. Điều nầy không đúng. Tôi
cho rằng vì tâm sai khác nên có gọi là thụ, có gọi là tưởng v.v....
Ông lấy tâm số phân biệt làm 3 ấm. Tôi cũng lấy tâm phân biệt
làm 3 ấm. Ông nói sinh khác. Điều nầy không đúng. Vì nếu tâm
với tâm số pháp cùng sinh, sao còn nói 2 sinh tâm, 3 sinh tâm số ?
Nếu chỉ nói tâm thì còn có lý. Sở dĩ vì sao ? Vì người nầy khi
trước nói thức, sau mới nói tưởng v.v.... Ông nói tương ưng duyên
đời, nên biết có khác. Điều nầy trước đã phá rồi, vì không phù
hợp. Ông nói y trí chứ không phải y thức. Tôi nói tâm có 2 thứ :
Thành Thật Luận Trang 160 Tuệ Quang Foundation
một gọi là trí, hai gọi là thức. Cho nên tâm y trí, không y thức.
Ông nói Phật nói y tâm sinh pháp gọi là tâm số. Tâm sinh ra pháp
gọi là tâm số, vì tâm do tâm sinh nên gọi là tâm số.
Ông nói Phật cũng không nói không tâm số. Tôi cũng không
nói không tâm số pháp, nhưng chỉ nói vì tâm sai biệt nên gọi là
tâm số.
Lại nếu có cái đạo lý : không thể nói cũng gọi là nói, thì nếu
không có cái đạo lý ấy dù có nói cũng như không nói. Cho nên
không thể lấy cái nói làm nhân.
Lại chúng tôi sẽ nói nghĩa của danh tự tâm tâm số pháp. Vì
tập khởi nên gọi là tâm. Thụ v.v… cũng có thể tập khởi thân đời
sau. Vì tương đồng với tâm, nên cũng gọi là tâm.
Lại tâm với tâm số vì đều do tâm sinh, nên gọi là tâm số.
Nếu người nói chỉ có tâm số pháp, thì người ấy cần phải thuyết
minh danh nghĩa của tâm số pháp, mà thật ra không thể thuyết
minh được, cho nên không phải nhân.
Ông nói tạo tác khác và tâm sinh giác, đều lấy đây mà giải
đáp. Sở dĩ vì sao ? Vì tôi cho rằng tâm sai biệt nên nghiệp tạo tác
khác, rồi cũng trong tâm sinh tâm, gọi là tâm sinh giác. Ông nói
cấu uế thanh tịnh không có nhân. Điều nầy không đúng. Tuy
không có tâm số pháp, mà có cấu uế thanh tịnh.
Lại vì không tướng khác nên không có tâm số pháp. Sở dĩ vì
sao ? Vì ông lấy tâm tương ưng cho là tâm số, mà pháp tương ưng
thì không có, sau sẽ nói rộng, cho nên không do tâm riêng có tâm
số pháp.
Phẩm 64 : Thuyết minh không số
Ông nói tướng khác nên có tâm số. Điều này không đúng Sở
dĩ vì sao ? Vì hoặc thức hoặc giác là các tướng đồng đẳng không
có sai biệt. Như tâm nhận thức sắc, tức gọi là giác, cũng gọi là
tưởng v.v.... Như người đời nói ông rõ người này tức gọi là biết.
Thành Thật Luận Trang 161 Tuệ Quang Foundation
Do cảm thụ khổ vui cũng tức là biết. Phải biết nhận thức tức là thụ
tưởng. Nếu các pháp này nhất định có tướng khác nhau, nay cần
phải nói, mà thật không nói được, cho nên không có tướng khác.
Ông nói tuệ được giải thoát. Điều này không đúng, vì không
nhân duyên. Tùy tâm có nhiễm cũng có vô minh, tâm này trong
nhóm nhiễm và vô minh đều cùng tương ưng với nhau. Nếu nói
vô minh làm nhơ tuệ, nhiễm làm bẩn tâm thì không có nhân
duyên. Như vậy vì lìa vô minh nên tuệ được giải thoát. Vì lìa
nhiễm bẩn nên tâm được giải thoát, cũng đều không có nhân
duyên.
Lại gọi kinh nầy là không liễu nghĩa. Như trong kinh nói : Vì
lìa 3 thứ lậu nên tâm được giải thoát. Cho nên biết cũng từ vô
minh tâm được giải thoát. Nếu như nói từ nhiễm tâm được giải
thoát, lời này là ngăn đoạn. Nói từ vô minh tuệ được giải thoát, là
rốt ráo đoạn. Nếu do từ nhiễm nên tâm được giải thoát, từ vô
minh nên nên tuệ được giải thoát. Vậy nếu từ giận dữ v.v... thì vật
gì được giải thoát ? Điều này cần phải đáp. Phải biết lìa tâm
không được giải thoát, cho nên chỉ có tâm.
Ông nói vì tâm vượt trội nên chỉ nói tâm. Tâm có nghĩa gì
mà vượt trội còn tuệ v.v... các pháp lại không có ?
Ông nói người đời phần nhiều biết tâm, nên chỉ nói tâm.
Người đời cũng biết nhiều khổ vui, cần phải nói thụ v.v....
Ông nói có các kinh cớ sao không chỉ nói tâm số, mà chỉ nói
tâm. Ông nói chỉ đoạn một pháp, lời nầy có duyên, vì Phật tùy
chúng sinh nào phiền não nhiều hơn, hoặc thường che nơi tâm,
mới nói một pháp nầy, vì đoạn được pháp ấy, thì các pháp kia tự
đoạn. Cho nên không phải nhân.
Ông nói vì nói danh tướng tức là nói tâm số. Ông tự nhớ
tưởng phân biệt, chứ kinh nầy không nói nghĩa ấy. Nếu ông tự
sinh nhớ tưởng phân biệt, sao không nói bởi danh tướng nên nói
tâm duyên, thì có lý.
Thành Thật Luận Trang 162 Tuệ Quang Foundation
Ông nói xúc và thụ v.v... làm nhân cho tâm số. Lời nói nầy bị
nhiều lỗi, vì đều là pháp tương ưng mà nói xúc làm nhân thụ
v.v..., chứ không phải thụ v.v... làm nhân cho xúc. Có các lỗi như
vậy cho nên biết chỉ có tâm, mà không riêng có tâm số.
Phẩm 65 : Không tương ưng
Không có pháp tương ưng. Sở dĩ vì sao ? Vì không có tâm số
pháp thì tâm tương ưng với cái gì ?
Lại các tướng thụ v.v... không được đồng thời.
Lại nhân quả không cùng lúc. Thức là nhân của tưởng v.v...
các pháp. Pháp nầy không phải đồng có một lúc, nên không có
tương ưng.
Lại Phật nói trong pháp nhân duyên rất sâu. Vì việc này sinh
nên việc kia được sinh.
Lại như hạt giống, mộng, cây, nhánh, lá, hoa, quả v.v..., hiện
thấy nhân quả lần lượt nhau. Cho nên thức v.v... cũng cần theo
thứ tự sinh. Nếu ý ông bảo tham v.v... các phiền não cùng sắc
cùng chung nhân nên đồng sinh, điều này không đúng. Vì sắc
không có tính hiểu biết, nên không có thể duyên. Còn tâm và tâm
số có duyên có hiểu biết, cho nên một lúc không được cùng có, vì
không có nhiều hiểu biết.
Lại do một thân gọi là chúng sinh, vì một hiểu biết. Nếu
trong một niệm có nhiều tâm số pháp, thì có nhiều hiểu biết, vì có
nhiều hiểu biết nên phải là nhiều người, việc ấy không thể được.
Cho nên trong một niệm không có các pháp thụ v.v....
Lại vì sao 6 thức không cùng sinh một lúc ?
Hỏi : Các thức đều đợi tuần tự duyên sinh, nên không một
lúc ?
Đáp : Bởi các chướng ngăn nên duyên một thứ lớp không
được, mà thứ lớp sinh 6 thức ư ? Phải biết vì nhân trước quả sau
thứ lớp mà sinh.
Thành Thật Luận Trang 163 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Mắt thấy sắc không lấy tướng. Lấy tướng
tức là nghiệp của tưởng. Nếu như Phật cho nghiệp thức mà ngăn
nghiệp tưởng, thì phải biết hoặc có thức mà không có tưởng. Nếu
ai lấy tướng, là thấy khi đã lấy, chứ không phải lúc thấy, cho nên
biết thức v.v... sinh theo thứ lớp.
Lại trong kinh nói : Mắt thấy sắc rồi tùy theo vui vẻ suy nghĩ.
Trong đó cũng trước nói nghiệp thức sau nói thụ v.v....
Lại trong kinh nói : Thấy cái thấy v.v.... Cho nên biết không
phải tất cả tâm đều có thụ v.v....
Lại bởi tướng 5 thức. Điều này có thể rõ. Sở dĩ vì sao ? Vì
nếu người trong nhãn thức không thể lấy tướng người oan, người
thân và tướng bình đẳng, tức là không có tưởng, cũng không buồn
vui, vì không phân biệt. Hoặc có người nói : Trong đó cũng không
có tham v.v... các phiền não. Cho nên biết không suy nghĩ. Vì có
thể tìm cầu thân đời sau, nên gọi là suy nghĩ. Điều này sẽ nói sau,
cho nên biết 5 thức cũng không suy nghĩ.
Lại các ông nói 5 thức không thể phân biệt. Trong đó làm
sao mà có giác quán ? Vì suy nghĩ phân biệt trước thô sau tế, nên
gọi là giác quán.
Lại nếu trong 5 thức có giác quán, như nói muốn ta biết ông,
là vốn đều do nghĩ giác sinh ra. Vậy thì khi giác không muốn, khi
biết làm sao có giác ? Hoặc có người nói trong 5 thức có tưởng
không có giác, giác này do tưởng sinh thì làm sao khi tưởng có
giác ? Cho nên phải chấp nhận 5 thức không tưởng, không giác,
không quán. Sở dĩ vì sao ? Vì trong 5 thức không có phân biệt là
nam nữ, cũng không phân biệt thụ v.v..., thì trong đây phân biệt
những gì ?
Lại các ông nói 5 thức thứ lớp ắt sinh ý thức, vì 5 thức không
phân biệt. Nếu trong 5 thức có phân biệt thì cần gì thứ lớp sinh ý
thức ư ?
Thành Thật Luận Trang 164 Tuệ Quang Foundation
Lại giác quán không phải sinh trong một tâm niệm, vì thô tế
trái nhau. Ví như rung chuông linh, tiếng đầu là giác, các tiếng
tiếp sau là quán. Dụ kia cũng vậy. Nếu trong 5 thức có giác quán,
thì phải nói hành nghiệp của nó, mà thật không nói được. Phải
biết tâm và tâm số pháp sinh theo thứ lớp.
Lại si và tuệ trái nhau phải không hiện hữu cùng một lúc.
Vậy làm sao trong một niệm có cũng biết, cũng không biết.
Lại trong một tâm niệm không dung có nghi. Sở dĩ vì sao ?
Vì hoặc là cây trơ trụi hoặc là người, không được cùng hiện hành
trong một tâm niệm. Vì nghiệp của tâm không có có thể lực này.
Lại có người nói trong tâm số pháp ký ức đi duyên đời quá
khứ, thì tâm hiện tại làm sao hiện hữu được ?
Lại như nghĩ người nầy là bạn tri thức của ta, vì đã từng làm
lợi ích cho ta, nghĩ rồi sinh vui. Việc ấy làm sao ở trong một tâm
niệm ?
Lại muốn, không muốn làm sao ở trong một tâm niệm ? Như
trong kinh nói : Nếu các Tì-kheo ưa thích pháp ta, thì pháp tăng
trưởng, nếu không ưa thích thì pháp tổn giảm. Làm sao ở trong
một tâm niệm ?
Lại như trong một tâm niệm có tâm số pháp thì pháp sẽ thác
loạn. Sở dĩ vì sao ? Vì trong một tâm mà có biết không biết, nghi
không nghi, tin không tin, tinh tiến, biếng nhác… các lỗi như vậy.
Lại tất cả tâm số nên đều ở trong một tâm, lấy cái gì ngăn,
mà khổ vui tham giận v.v... không ở trong một tâm ? Nếu ông bảo
vì khổ vui v.v... trái nhau nên không ở trong một tâm, thì biết và
không biết v.v... cũng trái nhau, lẽ ra cũng phải không ở trong một
tâm ? Cho nên không tương ưng.
Lại trong Kinh Thất Bồ-đề Phần, Phật thứ lớp nói tâm số
pháp : Nếu Tì-kheo tu 4 niệm xứ; bấy giờ mới tu tập niệm Bồ-đề
phần được. Tâm ở trong niệm, chọn lựa các pháp. Do chọn lựa
các pháp nên sinh tinh tiến. Do sức tinh tiến nên có thể nhóm họp
Thành Thật Luận Trang 165 Tuệ Quang Foundation
pháp lành. Tâm sinh hoan hỷ thanh tịnh. Do tâm hoan hỷ nên
được khoan khoái. Do được khoan khoái nên giữ được tâm. Do
giữ được tâm nên được định. Do được định nên có thể bỏ tham
dục ưu phiền. Do bỏ tham dục ưu phiền nên mới biết tâm số thứ
lớp sinh.
Lại trong Kinh Bát Đạo Phần cũng thứ lớp nói : Nếu được
chính kiến, thì từ chính kiến sinh chính tư duy cho đến chính định.
Lại trong kinh thứ lớp Phật bảo A-nan rằng : Người trì giới
không nên cầu tâm không lo buồn, ăn năn. Vì tâm pháp người trì
giới là không lo buồn ăn năn. Người không lo buồn ăn năn, không
nên cầu tâm được vui tươi. Tâm không lo buồn ăn năn pháp tự vui
tươi. Vui tươi thì tâm hoan hỷ. Tâm hoan hỷ thì thân được khoan
khoái. Thân khoan khoái thì cảm thụ vui. Thụ vui thì tâm nhiếp.
Tâm nhiếp thì được thật trí. Được thật trí thì chán lìa. Chán lìa thì
giải thoát. Cho nên mới biết tâm pháp theo thứ lớp sinh.
Lại trong Kinh Bát Đại Nhân Giác cũng thứ lớp nói : Nếu Tìkheo
tu thiểu dục thì tri túc. Tri túc thì xa lìa. Xa lìa thì tinh tiến.
Tinh tiến thì nghĩ nhớ chân chính. Nghĩ nhớ chân chính thì tâm
nhiếp. Tâm nhiếp thì được tuệ. Được tuệ thì dứt hí luận.
Lại trong Kinh Thất Tịnh cũng thứ lớp nói : Giới tịnh là tâm
tịnh. Tâm-tịnh là kiến tịnh. Kiến tịnh là độ nghi tịnh. Độ nghi tịnh
là đạo phi đạo tri kiến tịnh. Đạo phi đạo tri kiến tịnh là hành tri
kiến tịnh. Hành tri kiến tịnh là hành đoạn tri kiến tịnh.
Lại trong Kinh Nhân Duyên cũng thứ lớp nói : Do mắt duyên
sắc mới sinh si nghi phần và nghĩ nhớ ô trược. Trong đây si phần
là vô minh. Chỗ tìm cầu của người si là ái. Chỗ tạo tác của người
ái là nghiệp. Tất cả là như vậy.
Lại trong Kinh Đại Nhân cũng thứ lớp nói : Ái đứng đầu
trong 9 pháp. Do ái sinh tìm kiếm, do tìm cầu nên được, do được
nên so sánh, do so sánh nên sinh nhiễm, do nhiễm nên tham đắm,
do tham đắm nên lấy, do lấy sinh lòng tham đắm, do tham đắm
Thành Thật Luận Trang 166 Tuệ Quang Foundation
nên giữ gìn, do giữ gìn nên mới có roi gậy tranh kiện bao nhiêu
khổ não.
Lại trong pháp Tu-đà-hoàn cũng thứ lớp nói : Nên gần gũi
người lành được nghe chính pháp, vì nghe chính pháp nên có thể
sinh chính niệm, nhờ nhân duyên chính niệm có thể tu hành đạo.
Lại trong kinh nói : Do mắt duyên sắc sinh nhãn thức. Ba thứ
hòa hợp gọi là xúc. Nếu nói tâm và tâm số pháp sinh cùng một
lúc, thì không có 3 thứ hòa hợp. Nếu nói mỗi mỗi sinh riêng thì có
3 thứ hòa hợp. Vì các lý do trên đây nên không có tương ưng.
Phẩm 66 : Có tương ưng
Hỏi : Có pháp tương ưng. Sở dĩ vì sao ? Nếu như người thấy
thụ là thần, thức tâm nương vào đó, vì có tương ưng. Tưởng ấm
v.v... cũng như vậy. Nếu không tương ưng, do đâu có như vây ?
Lại trong kinh ông nói : Do mắt duyên sắc sinh nhãn thức.
Ba thứ hòa hợp sinh xúc, cùng sinh thụ, tưởng, hành v.v.... Trong
pháp này có nhiều thứ tên, như là chúng sinh, trời, người, trai, giá,
lớn, nhỏ. Các tên ấy đều do các ấm. Nếu nói tâm và tâm số pháp
thứ lớp sinh thì nhân 2 ấm. Có người cho rằng không nên nhân 5
ấm. Sở dĩ vì sao ? Vì không thể nhân các ấm quá khứ vị lai mà gọi
là người. Ông nói hiện tại không có 5 ấm, thì làm sao nói nhân 5
ấm gọi trời người v.v.... mà trong đó nói nhân các ấm, chứ không
phải chỉ có 2. Cho nên nhân 5 ấm có tên chúng sinh.
Lại trong kinh nói có lời tương ưng, nghĩa là có căn trí tương
ưng tín.
Lại trong kinh nói xúc tức cùng với thụ tưởng tư cùng sinh.
Lại nói 5 chi Sơ thiền. Cũng nói thụ v.v... là chỗ trụ của thức.
Nếu thức không tương ưng làm sao thức trụ trong pháp thụ v.v...
được ? Gọi trụ nầy là nương dựa mà trụ. Sở dĩ vì sao ? Vì không
nói thức là chỗ thức trụ.
Thành Thật Luận Trang 167 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Tâm cùng pháp nầy đều từ tâm sinh, rồi
nương đậu nơi tâm.
Lại nói tâm chúng sinh trong đêm dài bị tham giận v.v... làm
ô nhiễm. Nếu không tương ưng làm sao nhiễm được !
Lại vì tâm và tâm số pháp tính yếu ớt, nên nương nhau mới
duyên được, thí dụ như bó tre nương nhau mới đứng vững.
Lại trong kinh nói : Khi tâm chao động không nên tu 3 thứ
giác là : trạch pháp, tinh tiến và hỷ, vì lại động thêm, mà nên tu 3
thứ giác là : thư thái, định và xả, vì ngăn sự phát động. Còn niệm
thì có thể điều hòa khắp. Nếu tâm mỏi mệt lặn chìm thì không nên
tu 3 thứ giác là : thư thái, định và xả, vì càng lặn chìm. Cho nên
cần tu 3 giác là : trạch pháp, tinh tiến và hỷ, vì có thể làm tâm
phấn chấn. Niệm có thể điều hòa khắp.
Lại có luận sư nói : Nên đồng tu tập pháp trợ Bồ-đề, không
được lìa nhau. Cho nên biết có tương ưng.
Phẩm 67 : Không phải tương ưng
Ông nói thấy thụ là thần, điều này không đúng. Người phàm
phu si mê, vọng sinh thấy đó, không có thể phân biệt đó là thụ, đó
là thức nương đậu. Người này, nếu có thể phân biệt được như vậy,
cũng có thể vào được lý không. Người này thấy tâm tương tục
không phân biệt được, chỉ chấp lấy lời nói, nên mới nói như vậy,
đó là lời si mê lầm lạc không thể tin được.
Ông nói do các ấm nên gọi là người. Là do 5 ấm nối nhau gọi
là người, nên nói là các ấm. Như người đời nói : người vui, người
khổ và người không vui khổ, không đồng thời có 3 thụ cùng một
lúc. Các ấm cũng vậy.
Ông nói có căn trí tương ưng với tín. Trong kinh cũng nói
các việc tương ưng. Như nói 2 Tì-kheo tương ưng với trong một
việc làm.
Thành Thật Luận Trang 168 Tuệ Quang Foundation
Lại nói oán ghét tương ưng thì khổ, yêu thương chia lìa thì
khổ. Trong pháp của ông sắc không tương ưng, mà đây vì thế tục,
nên cũng gọi tương ưng. Trí tín cũng vậy. Tín có thể tin vô
thường v.v...; tuệ tùy theo hiểu biết, chung thành một việc, nên
gọi tương ưng.
Ông nói do xúc liền có thụ v.v... cùng sinh. Điều này không
đúng. Thế gian có việc tuy có chút trái nhau, cũng gọi là cùng
chung, như bảo đệ tử cùng đi, cũng như nói vua Đảnh Sinh, sinh
tâm nghĩ, liền lên đến trời. Điều này cũng vậy. Phàm phu khi thức
đến duyên cảnh, 4 pháp ắt thứ lớp sinh thức, tiếp đến sinh tưởng;
kế tưởng sinh thụ, kế thụ sinh suy nghĩ, rồi suy nghĩ rồi lo buồn,
mừng vui v.v... Từ đó sinh tham, giận, si. Cho nên nói liền sinh.
Ông nói 5 chi Sơ thiền. Tức là trong bậc thiền này có 5 chi,
không phải nhất thời, như cõi Dục có 3 thứ thụ. Sở dĩ vì sao ? Vì
trước nói pháp, sau nói đến bậc.
Lại giác quán không tương ưng nhau được, trước đã đáp rồi.
Ông nói thức xứ. Trong kinh nầy nói thức duyên xứ, không
nói y xứ. vì sao biết được ? Tức trong kinh này nói thức duyên sắc
vui nhuận nên mới trụ.
Ông tuy nói nếu thức duyên thức trụ, thì phải có 5 thức xứ.
Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ? Là vì khi thức biết sơ qua,
thức biết việc rồi tâm mới sinh tưởng v.v... Rồi trong đó khởi ái,
do nhân duyên khởi ái mới nói là thức xứ. Cho nên không nên nói
thức là thức xứ.
Lại trong 7 thức xứ cũng nói thức là thức xứ.
Lại phải suy nghĩ kinh này, đừng chỉ theo lời nói, như nói tin
có thể vượt qua sông, là lời nói bất tận, mà thật nhờ tuệ mới vượt
qua được. Điều này cũng phải như vậy.
Ông nói tâm số nương nơi tâm. Điều này không đúng. Tâm
trước biết việc sau sinh tưởng v.v....
Thành Thật Luận Trang 169 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Thụ v.v... nương nơi tâm. Chứ không
phải như bức vẽ nương nơi vách mà gọi là tâm số nương tâm.
Ông nói tâm số nương nhau như bó tre. Điều này trái với các
kinh. Nếu cùng tương ưng, tại sao tâm số nương tâm, mà tâm
không nương tâm số ?
Nếu ông bảo vì tâm sinh trước lớn nên tâm số pháp phải
nương vào, vậy là thành nghĩa của tôi rồi, vì khi tâm sinh không
có tâm số pháp.
Ông nói vì phiền não nhiễm tâm nên biết có tương ưng. Điều
này không có đạo lý. Nếu tâm trước sạch mà bị tham v.v... đến
làm nhiễm bẩn, tức là tịnh pháp có thể bẩn, tức hại pháp tướng.
Cũng như trước có nói tâm tính vốn sạch mà bị khách trần đến
làm bẩn, vì tâm tịnh nên chúng sinh tịnh. Vậy thì chúng sinh cũng
cần tương ưng ? Nếu chúng sinh không tương ưng được, thì tham
v.v... cũng không tương ưng được. Vì hiện hành trong tâm nối
nhau sinh bẩn v.v... tâm bẩn nối nhau, nên mới nói nhiễm tâm.
Như nói từ nhiễm tâm được giải thoát. Trong tâm nối nhau nầy,
nếu tịnh tâm sinh được gọi giải thoát. Điều này cũng vậy. Như
mây mù v.v... tuy không tương ưng với mặt trời mặt trăng, nhưng
cũng có thể làm mờ. Tham v.v... cũng vậy, tuy không tương ưng
với tâm, nhưng cũng có thể làm ô nhiễm.
Lại vì khói mây mù v.v... có thể che mặt trời mặt trăng nên
gọi là mờ. Tham v.v... cũng vậy, có thể chướng tịnh tâm nên gọi
là bẩn.
Hỏi : Mây mù mặt trời mặt trăng chỉ là nhất thời, còn phiền
não với tâm thì không như vậy, cho nên dụ nầy không đúng ?
Đáp : Vì cùng chướng ngại. Điều này đã thành, nên không có
lỗi. Phiền não nầy có thể làm bẩn cái tâm tương tục, nên gọi là
nhiễm.
Ông nói tâm số từ tâm sinh rồi nương tựa nơi tâm. Điều này
trước đã giải đáp.
Thành Thật Luận Trang 170 Tuệ Quang Foundation
Ông nói tâm và tâm số pháp tính yếu ớt ấy. Vì niệm niệm
diệt, nên gọi yếu ớt, chứ không phải giúp nhau mới có thể hiện
hành nơi cảnh duyên. Nếu giúp nhau thì phải tạm trụ lại, mà thật
không thấy có sức tương trợ cần gì phải tương ưng ?
Ông nói giác ý hợp nhau. Lời nói nầy là tùy lúc nên tu 3 giác,
không phải trong một niệm. Như Xá-lợi-phất nói : Trong 7 giác
tôi có thể vào tự tại. Nếu tâm chao động, bấy giờ nên tu thư thái
v.v... 3 giác.
Lại Phật cũng nói thứ lớp của giác pháp.
Ông nói đồng thời tu Bồ-đề phần. Điều này không đúng.
Nếu đồng thời tu 37 phẩm thì nên đồng thời tu 2 thứ tín và 5 niệm
v.v.... Nếu ý ông bảo tùy được chỗ tu tức là lìa tu.
Lại tùy theo người khác tu được như Nhị thiền v.v..., nên gọi
là không lìa.
Lại đồng thời 37 phẩm thì không có đạo lý ấy. Sở dĩ vì sao ?
Vì trong một niệm không thể tu được nhiều pháp như vậy.
Phẩm 68 : Nhiều tâm
Hỏi : Đã biết không có riêng tâm số, cũng không có tương
ưng. Vậy tâm này là một hay là nhiều ? Có người bảo tâm là một,
mà tùy sinh nên nhiều ?
Đáp : Nhiều tâm. Sở dĩ vì sao ? Vì biết gọi là tâm, mà sắc thì
biết khác, hương v.v... biết khác, cho nên có nhiều tâm.
Lại nhãn thức sinh khác, nghĩa là đợi có ánh sáng, hư không
và các duyên. Nhĩ thức thì không phải vậy. Ba thức trần đến mới
sinh. Ý thức thì do nhiều duyên sinh. Cho nên biết không phải
một.
Lại thức biết tướng của trần thường như vậy, thì làm sao biết
thứ trần khác ? Nếu nhiều tâm sinh thì mới có thể biết được nhiều,
như tà chính biết khác. Hoặc quyết định hoặc nghi ngờ, hoặc
thiện, bất thiện, hoặc vô ký đều biết sai khác. Trong thiện lại có
Thành Thật Luận Trang 171 Tuệ Quang Foundation
thiền định, giải thoát, 4 vô lượng, thần thông v.v... khác nhau.
Trong bất thiện cũng có tham dục, giận dữ, ngu si v.v... khác
nhau. Trong vô ký cũng có đi đến v.v... khác. Có thức có thể khởi
thân nghiệp khẩu nghiệp, có khởi oai nghi, hoặc hợp hoặc ly, bởi
thứ lớp duyên tăng thưọng, mỗi mỗi sai khác, nên các tâm cũng
khác.
Lại sạch không sạch các thụ sai khác, nên tâm cũng khác.
Lại sở tác sai khác nên tâm có khác.
Lại sạch không sạch tâm tính đều khác; nếu tâm tính sạch thì
không bị bẩn, như ánh sáng mặt nhật vốn sạch quyết không bẩn
được. Nếu tính không sạch không thể khiến sạch, như lông của
những thú đen đều không thể khiến trắng. Mà trong bố thí v.v...
thật có tịnh tâm. Trong pháp sát-sinh v.v... thật có bất tịnh tâm.
Cho nên tâm không phải một.
Lại tùy các thụ khổ vui sai khác, nên tâm cũng không phải
một. Như nói Tì-kheo dùng thức để biết việc gì đó, nghĩa là biết
khổ vui và không khổ vui.
Lại nếu tâm là một, thì một thức nên có thể thủ lấy tất cả
trần. Mà nói nhiều tâm, là tùy căn sinh thức, cho nên không thể
thủ lấy tất cả trần. Nếu tâm là một, thì vì cái gì ngăn mà không thủ
lấy tất cả trần được ? Cho nên biết nhiều tâm.
Lại pháp có thể bị lấy khác, nên có thể lấy cũng khác. Như
người nói hoặc tự biết tâm mình, làm sao tự biết tự thể được ?
Như mắt không tự thấy, dao không tự cắt, ngón tay không tự xúc,
nên tâm không một.
Lại trong Kinh Viên Dụ nói : Ví như con khỉ con vượn bỏ
một nhánh liền vịn một nhánh khác. Tâm cũng như vậy, sinh diệt
mới luôn.
Lại nếu tâm là một, mà nói có cả sáu thức, thì lời nầy hỏng.
Lại trong kinh nói : Thân hoặc trụ 10 năm, mà tâm thì niệm
niệm sinh diệt.
Thành Thật Luận Trang 172 Tuệ Quang Foundation
Lại nói : Phải quán trụ tâm vô thường. Tâm này mà nói là
trụ, vì nối nhau niệm niệm không dừng.
Lại như một nghiệp không thể lấy lần thứ 2, thức cũng như
vậy, không trùng tại duyên cảnh.
Lại như lửa cỏ không dời được đến củi. Cũng như vậy nhãn
thức không đến trong tai. Cho nên biết có nhiều tâm.
Phẩm 69 : Một tâm
Hỏi : Tâm là một. Sở dĩ vì sao ? Như trong kinh nói : Tâm
nầy thời gian lâu tăm tối bị tham v.v... làm ô nhiễm. Nếu tâm khác
áy, không gọi là thường ô nhiễm.
Lại trong Kinh Anh Lạc nói : Nếu tâm thường tu tín, giới,
thí, văn và tuệ, thì chết sinh lên cõi trên.
Lại trong Kinh Thiền nói : Người được Sơ thiền, vì tâm điều
hòa nhu nhuyến, nên có thể từ Sơ thiền đến Đệ nhị thiền.
Lại trong Phẩm Tâm nói : Tâm nầy thường động, như cá mất
nước, cho nên các ông phải phá quân ma. Cho nên biết tâm một,
động ở đây đến nơi kia.
Lại trong Tạp Tạng Tì-kheo, nói : Trong hang 5 cửa, khỉ đột
nhảy múa, khỉ tạm đứng yên, đừng cho như xưa. Cho nên biết một
tâm, ở trong hang thân, 5 căn cửa cựa động, nay tức là xưa, cho
nên mới nói : Đừng cho như xưa.
Lại nói tâm này đi khắp như ánh sáng mặt trời soi. Người trí
có thể chế ngự, như cái móc điều khiển con voi. Cho nên biết tâm
là một, chạy rông duyên trong các cảnh.
Lại vì vô ngã, nên tâm mới khởi nghiệp, vì tâm là một nên có
thể khởi các nghiệp, rồi tự chịu quả báo; tâm chết tâm sống, tâm
buộc mở, vốn tự chịu lấy. Tâm có thể nghĩ nhớ, nên biết tâm một.
Lại vì tâm là một, nên có thể tu nhóm, nếu niệm niệm diệt,
thì không sức nhóm họp.
Thành Thật Luận Trang 173 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật pháp là vô ngã, vì tâm một nên gọi tướng chúng
sinh. Nếu tâm nhiều thì không phải tướng chúng sinh.
Lại bên tả thấy bên hữu biết, không lẽ thấy khác biết khác ?
Cho nên biết tâm một, tự thấy tự biết.
Phẩm 70 : Không phải nhiều tâm
Ông tuy nói sắc v.v... biết khác, nhưng điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì nếu tâm là một, làm nhiều thứ nghiệp thủ
lấy sắc hương v.v…, như một người ở trong nhà có 5 hướng, khắp
chỗ lấy trần, tức là tâm này trụ ở trong mắt, đợi các duyên sáng
v.v... mới có thể thấy sắc. Như người nầy, ở chỗ khác đợi bạn, tức
là tâm nầy chỗ biết sai khác. Như người này, trước là người biết,
sau lại không biết. Như vậy biết tà lại là biết chính. Như người
này, trước là người tịnh, sau lại bất tịnh. Như vậy biết nghi ngờ
tức là biết quyết định. Như người nầy, trước là người nghi, sau lại
người quyết định. Là tâm bất thiện tức lại là thiện, cũng là vô ký.
Như người này, hoặc nghĩ thiện, hoặc nghĩ bất thiện, hoặc nghĩ vô
ký. Tức là tâm nầy có thể làm oai nghi đến đi sai khác. Như người
này, làm các hành nghiệp đi đến các oai nghi. Như vậy tịnh tâm
tức là bất tịnh, bất tịnh tức là tịnh. Như người này trước là thanh
tịnh, sau lại bất tịnh. Tức là tâm này tương ưng với vui, sau lại
tương ưng với khổ. Như người này trước là người vui, sau lại là
người khổ. Cho nên nói tâm là một dùng làm nhiều nghiệp.
Ông nói 1 thức không lấy 6 trần, nên không phải 1 tâm. Điều
này không đúng. Tôi cho vì căn sai khác nên thức mới có sai
khác. Nếu thức trụ trong mắt, chỉ có thể lấy sắc mà không lấy trần
khác, các thức khác cũng vậy.
Ông nói thủ và khả thủ khác. Điều này không đúng. Tâm
pháp có thể biết tự thế; như đèn tự chiếu sáng và chiếu sáng các
vật; như người tính toán cũng có thể tính toán mình, và tính toán
Thành Thật Luận Trang 174 Tuệ Quang Foundation
cho người khác. Như vậy tâm một có thể biết tự thể, cũng biết
người khác.
Ông nói ví dụ con khỉ. Điều này không đúng. Như một con
khỉ bỏ một nhánh lại liền bắt lấy một nhánh khác. Tâm cũng vậy
bỏ một cảnh duyên, lại lấy một duyên. Ngoài ra lời ông đã nói :
Có thể tự khởi nghiệp, tự chịu quả báo đều đã đáp chung. Sở dĩ vì
sao ? Vì nếu tâm khác, thì phải làm khác, chịu khác, chết khác, và
sống khác, có các lỗi như vậy, cho nên biết một tâm.
Phẩm 71 : Không phải một tâm
Đáp : Ông nói tâm một, bị tham v.v... làm bẩn dài lâu. Điều
này không phải vậy. Trong cái tâm luôn nối nhau thấy là một
tướng. Như nói gió chiều qua tức là gió sáng nay. Sông ngày nay
tức sông ngày xưa. Đèn buối sáng nay tức là đèn ngày hôm qua.
Như cái răng mọc gọi là tái sinh, mà cái răng cũ thật không tái
sinh. Vì giống nhau ấy nên gọi là tái sinh. Cũng như vậy, tâm
khác nhưng vì nối nhau liên tục nên bảo là một tâm.
Ông nói nghĩ nhớ, là người hoặc tự nghĩ bản tâm, nếu bản
tâm đến nay nghĩ việc gì ?
Lại làm sao đem tâm nầy mà nghĩ tâm này ? Không có một
trí nào có thể biết tự thể, cho nên không phải một tâm.
Ông nói tu nhóm. Nếu tâm thường một, tu sao được ích ?
Nếu có nhiều tâm thì hạ, trung, thượng thứ lớp nối nhau sinh, nên
mới có tu nhóm.
Ông nói tâm là một tướng. Nếu tâm là một tướng, tức đó là
thường, thường tức chân ngã. Sở dĩ vì sao ? Vì nay làm, sau làm,
thường một không biến đổi nên mới cho là ngã.
Lại không thể biết tướng sai biệt của tâm nên cho là một.
Như rót nước liên tục nối nhau luôn, trong tâm cho là một. Như
người bệnh mắt thấy đùm tóc cho là một. Nếu trong việc này,
người có thể phân biệt thì biết kia là khác.
Thành Thật Luận Trang 175 Tuệ Quang Foundation
Lại người có trí sâu sắc có thể biết tâm khác. Sở dĩ vì sao ?
Vì các Phạm Vương v.v... ở trong cơn mê muội thốt nói như vầy :
Thân nầy vô thường, mà tâm thức nầy là thường. Nếu các Phạm
Vương v.v... mà hãy còn mê muội, huống chi người khác mà
không chấp trước là thường ư ? Cho nên phải khéo suy nghĩ các
pháp duyên sinh, thì ý nghĩ điên đảo cho là thường kia mới diệt.
Ông nói bên tả thấy bên hữu biết là sức của trí, cho nên thấy
khác biết khác, như người nầy làm sách nhiều người khác c ó thể
biết.
Lại như các người đã được là Thánh nhân có thể biết những
việc vị lai chưa sinh, chưa có mà Thánh trí có thể biết.
Lại việc quá khứ không nghĩ nhớ, nên biết chưa đến chưa có
mà trí lực có thể biết. Điều này ra sau sẽ nói rộng.
Phẩm 72 : Nói rõ nhiều tâm
Ông nói tâm một dùng làm nhiều nghiệp. Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì chính lấy nghĩa rõ biết là tâm. Mà rõ biết
sắc khác, rõ biết thanh khác, tâm làm sao một được ?
Lại như nghiệp tay cầm bình, thì chính tay nầy không cầm
được vật khác nữa. Như vậy vì tùy tâm nào lấy sắc, thì chính tâm
ấy không còn nghe tiếng được.
Lại nhãn thức này lấy nhãn căn làm chỗ nương, lấy sắc làm
cảnh duyên, 2 thứ nầy là vô thường niệm niệm sinh diệt, thì nhãn
thức làm sao tránh khỏi niệm niệm diệt được ? Ví như không có
cây, bóng cũng không có. Như vậy vì nhãn sắc niệm niệm diệt,
nên chỗ bị nương để sinh thức cũng niệm niệm diệt; pháp niệm
niệm diệt không có sức đi.
Lại trước đã có các lời đáp trong Phẩm Ý, nên ý không đi.
Tuy ông nói thức trụ trong mắt, đợi sáng có thể thấy, như người
nầy có thể thấy nghe v.v.... Điều này không đúng. Sở dĩ vì sao ?
Thành Thật Luận Trang 176 Tuệ Quang Foundation
Vì nay trong luận này tìm thật nghĩa của pháp, còn người là giả
danh không nên đem làm thí dụ.
Lại nếu cần tìm tướng người, thì tôi nói các ấm là người,
cũng nói nghi, biết v.v..., khác với các biết quyết định. Không
đem các nghi, biết, mà cho là các biết quyết định. Như vậy tất cả.
Ông nói vì căn sai khác nên thức mới có sai khác. Điều này
không đúng. Căn là nhân duyên sinh thức. Nếu thức là một, thì
nhiều căn để làm gì ?
Ông đem cái đèn, người tính toán làm thí dụ. Thí dụ nầy
không đúng. Như vì không soi đốt đèn mà thể đèn không phải
không soi, nên không tự soi, nhờ đèn mà thể đèn không phải
không soi, cho nên không tự soi. Vì đèn phá tối, nhãn thức được
sinh; nhãn thức sinh rồi cũng có thể thấy đèn và bình v.v... các
vật.
Lại người tính toán, có thể biết sắc mình, cũng biết sắc người
khác, nên gọi biết nhau.
Ông nói nghiệp v.v.... Trong vấn nạn về nghiệp v.v... đã giải
đáp rồi, nên không lỗi này.
Lại nếu tâm thường một thì không nghiệp không báo. Sở dĩ
vì sao ? Chính vì tâm và chỗ sỏ y là nghiệp. Nếu tâm là một, đâu
có nghiệp báo ? Buộc hay mở v.v... đều như vậy.
Lại ông nói làm khác chịu khác. Đó cũng không đúng. Vì các
ấm nối nhau luôn, không phải một, không phải khác, vì sa vào nhị
biên.
Lại thế tục danh tự nói các nghiệp v.v… không phải
nghĩa chân thật nên trong ấm tương tục nói các danh tự kia thì
không lỗi. Cho nên biết có nhiều tâm.
Phẩm 73 : Thức tạm trụ
Hỏi : Đã rõ biết nhiều tâm. Nay các tâm là niệm niệm diệt
hay là có trụ một thời gian ngắn ? Có người nói : Tâm trụ một
Thành Thật Luận Trang 177 Tuệ Quang Foundation
thời gian ngắn. Sở dĩ vì sao ? Vì rõ biết sắc v.v.... Nếu niệm niệm
diệt, thì không thể rõ biết được. Cho nên không phải không trụ.
Lại nếu niệm niệm diệt thì quyết không biết được các sắc
v.v...các pháp. Sở dĩ vì sao ? Vì như điện sáng tạm trụ còn không
nhận biết được, huống là niệm niệm diệt mà rõ được ư ? Nay thật
có rõ biết nên mới biết các thức không phải niệm niệm diệt.
Lại nhãn thức nương nhãn căn duyên sắc, 2 thứ nầy không
khác, thức cũng không khác.
Lại tâm đủ có thể lực lấy xanh v.v... các màu sắc, nên biết
không phải niệm niệm diệt. Nếu ý ông bảo vì nối nhau liên tục,
nên có thể quyết rõ. Điều đó cũng không đúng. Vì nếu mỗi tâm
không thể định rõ, thì dù cho nối nhau liên tục cũng không rõ biết
được. Như một người mù không thể thấy sắc, thì nhiều người mù
cũng không thấy gì. Nếu ông lại bảo : Như mỗi mỗi sợi chỉ không
thể buộc voi, nhóm lại nhiều sợi thì được. Như vậy một tâm
không thể quyết rõ, mà nối nhau thì được. Đó cũng không đúng.
Vì trong mỗi mỗi sợi chỉ đều có chút sức mạnh, hòa hợp thì có
thể. Tâm trong một niệm không có chút sức mạnh rõ biết. Cho
nên nối nhau liên tục cũng phải không thể hiểu rõ, mà thật có hiểu
rõ. Cho nên biết không phải niệm niệm diệt.
Lại nếu tâm niệm niệm diệt, thì các hành nghiệp quá khứ vị
lai đều thành vô dụng, vì có chút thì gian ngắn tạm trụ, nên mới
có thể khiến thành hữu dụng. Cho nên biết tâm không phải niệm
niệm diệt. Tuy là vô thường phải có trụ một thời gian ngắn.
Phẩm 74 : Thức không trụ
Đáp : Ông nói vì tâm có rõ biết, nên không phải niệm niệm
diệt. Điều này không đúng. Vì sức các tướng tại tâm có khả năng
quyết rõ, chứ không phải vì trụ lại. Nếu không phải vậy, thì trong
âm thanh cũng không thể quyết rõ được. Sở dĩ vì sao ? Vì hiện
Thành Thật Luận Trang 178 Tuệ Quang Foundation
thấy điều này niệm niệm diệt, mà thật ra thì có quyết rõ. Cho nên
biết không phải vì tạm trụ mà có thể hiểu rõ.
Lại chính vì biết rõ là tâm, như biết xanh tức không phải biết
vàng; Cho nên dù tạm trụ đi nữa, biết xanh cũng không thể rõ biết
vàng được.
Lại khi biết xanh khác, khi biết không phải xanh khác. Một
pháp không nên 2 thời, là pháp với thời cùng lúc, thời với pháp
cũng vậy.
Lại nhận lấy có 2 cách : một là quyết rõ, hai là không quyết
rõ. Nếu thức không niệm niệm diệt, thì tất cả những gì nhận lấy
đều phải quyết rõ. Tôi cho là tùy thức sinh nhiều nối nhau, thì sự
nhận lấy mới rõ ràng. Nếu ít nối nhau thì không rõ.
Lại thức lấy trần, hoặc chậm hoặc nhanh tâm không nhất
định.
Ông nói nương cảnh duyên không khác. Nghĩa nầy đã thành.
Sắc niệm niệm diệt, nên nương duyên cũng khác.
Ông nói có thể lấy đầy đủ, là thức có thể lấy khắp thân phần,
nên gọi là lấy đầy đủ. Cho nên không có một thức có thể lấy khắp.
Sở dĩ vì sao ? Vì chưa lấy đầy đủ tâm đã diệt theo, thì đâu được có
tâm có thể lấy tất cả ?
Ông nói tác nghiệp vô dụng. Điều này không đúng. Như đèn
tuy niệm niệm diệt nhưng có tác dụng chiếu soi. Các nghiệp và
gió tuy niệm niệm diệt, cũng có thể lay động các vật. Thức nầy
cũng vậy.
Lại như đèn v.v... tuy niệm niệm diệt, cũng có thể lấy được.
Thức cũng như vậy, tuy niệm niệm diệt, cũng có thể lấy được.
Lại nữa, các tâm ý thức đều niệm niệm diệt. Sở dĩ vì sao ? Vì
xanh v.v... các màu sắc nhóm hiện tại trước mặt mà có thể mau
sinh diệt, nên biết không trụ.
Lại người hoặc khi sinh tâm tự bảo một lúc có thể lấy các
cảnh, cho nên thức không trụ. Nếu thức tạm trụ, thì người kia
Thành Thật Luận Trang 179 Tuệ Quang Foundation
không thể sinh tâm nghĩ lầm nầy. Sở dĩ vì sao ? Vì như giống rễ
nối nhau mới có tạm trụ, cho nên người kia trong đó không sinh ý
nghĩ sai lầm cho là mầm, thân v.v... đồng thời mà có. Cho nên biết
thức niệm niệm diệt.
Lại như người thấy cái bình liền sinh nhớ cái bình, vì thấy rồi
mới sinh nhớ, cho nên niệm niệm diệt.
Lại nếu các thức không niệm niệm diệt, thì một trí cũng phải
là tà cũng là chính. Như thấy người này, nhận là người, cũng nhận
là không phải người. Như vậy lấy nghi ngờ tức cũng lấy quyết
định là không được. Cho nên biết niệm niệm diệt.
Lại các phân biệt v.v… các nhân duyên, cho nên biết niệm
niệm diệt.
Lại tướng âm thanh nối nhau niệm niệm diệt, trong đó sinh
biết. Cho nên biết tâm niệm niệm diệt.
Phẩm 75 : Thức cùng sinh
Hỏi : Đã rõ tâm niệm niệm diệt. Nay các thức là đồng thời
cùng sinh hay là thứ lớp sinh ? Có luận sư nói thức đồng thời
cùng sinh. Sở dĩ vì sao ? Vì có người đồng thời có thể lấy các trần
như người thấy bình cũng nghe tiếng nhạc, mũi ngửi hoa thơm
miệng cũng ngậm vị thơm, gió thổi xúc thân, cũng suy nghĩ âm
điệu khúc hát. Cho nên biết đồng thời có thể lấy các trần.
Lại nếu một thức ở trong thân có thể khắp biết khổ vui. Vậy
thì đem một nhãn thức cũng có thể lấy các cây. Điều này là không
thể. Vì làm sao một thức đều biết rễ, cộng, nhánh, lá, hoa quả ?
Cho nên biết nhiều thức đồng thời cùng sinh khắp lấy các xúc.
Lại trong nhiều thứ màu sắc đồng thời sinh biết, mà biết
xanh tức không phải biết vàng. Cho nên biết đồng thời nhiều thức
cùng sinh.
Lại các phần trong thân có thể mau sinh biết, khi lấy một
phần tức có thể khắp lấy.
Thành Thật Luận Trang 180 Tuệ Quang Foundation
Lại trong Phật pháp không có hữu phần, không thể một thức
khắp lấy các phần. Cho nên biết đồng thời có thể sinh nhiều thức
khắp lấy các phần.
Phẩm 76 : Thức không đồng thời cùng sinh
Đáp : Ông nói các thức đồng thời cùng sinh. Điều này không
đúng. Sở dĩ vì sao ? Vì thức đợi nghĩ mới sinh. Như trong kinh
nói : Nếu mắt nhập vào sắc không hoại, nhập trong cảnh biết mà
nếu không nghĩ có thể sinh thức, thì nhãn thức không sinh. Cho
nên biết các thức vì đợi nghĩ vậy, chứ không phải đồng thời sinh.
Lại tất cả pháp sinh đều thuộc nghịêp nhân, vì tâm mỗi mỗi
sinh nên quả báo địa ngục v.v... không phải đồng thời thụ báo.
Nếu nhiều tâm cùng sinh, thì phải đồng chịu quả báo một lúc, mà
thật ra là không thể. Cho nên biết các thức không phải đồng một
thời sinh.
Lại thức có thể mau lấy cảnh duyên, như vòng lửa quay tròn,
vì quay nhanh nên không thấy ranh giới. Các thức cũng vậy, vì
thời gian trụ ngắn nên không phân biệt được.
Lại các thức nếu đồng thời sinh thì tất cả pháp sinh đều có
thể một niệm một thời cùng sinh, có gì ngăn ngại ? Vậy thì tất cả
pháp sinh không cần công đức, không cần tạo nghiệp công đức
cũng vẫn được giải thoát ? Điều này là không thể được. Cho nên
biết các thức không phải một thời sinh.
Lại thân bị tâm sai khiến, nếu các tâm đồng sinh thì thân bị
tan nát, vì các tâm đi lại một thời sinh, mà thật thân không hư
hoại, cho nên biết các thức không phải một thời sinh.
Lại mắt thấy vật bên ngoài như giống, rễ, mộng v.v... và
trạng thái Ca-la-la lúc mới đậu thai v.v... rồi đến hình hài thiếu,
tráng, lão tuần tự mà có, tâm cũng phải như vậy.
Lại như trong kinh nói : Nếu khi thụ vui, thì 2 thụ diệt, đó là
khổ thụ và bất khổ bất lạc thụ. Và như vậy v.v.... Nếu thức đồng
Thành Thật Luận Trang 181 Tuệ Quang Foundation
thời sinh thì phải sinh 3 thứ thụ cùng một lúc, mà thật đâu phải
vậy. Cho nên biết các thức không một thời sinh.
Lại vì trong một thân một tâm sinh, nên gọi là một người.
Nếu thức đồng sinh thì một thân phải có nhiều người mà thật đâu
phải. Cho nên trong một thân thức không cùng sinh một lúc.
Lại nếu thức cùng sinh, thì phải một lúc biết, biết tất cả pháp.
Sở dĩ vì sao ? Vì trong mắt có vô lượng trăm ngàn thức sinh. Cho
đến trong ý cũng đều như vậy. Như vậy thì phải biết tất cả pháp,
mà thật đâu phải. Cho nên biết các thức không sinh cùng một lúc.
Hỏi : Các thức vì sao phải thứ tự sinh ?
Đáp : Vì một thứ lớp duyên, nên mỗi mỗi thức sinh.
Hỏi : Cớ sao chỉ có một thứ lớp duyên ?
Đáp : Pháp phải như vậy. Như một thần một ý của ông, tôi
cũng như vậy, một ý một thứ lớp duyên. Như mộng thuộc hạt
giống, cần phải thứ lớp sinh mộng, mà không sinh cộng v.v....
Cũng như vậy pháp nào tùy thuộc tâm, cần phải kế tâm đó mà
sinh, không sinh các pháp khác.
Lại tướng thức quyết định, mỗi mỗi khởi diệt thứ lớp thuộc
nhau, như tướng lửa và nóng. Cho nên các thức phải thứ lớp
sinh. ( còn tiếp)
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 6 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 77 : Tưởng ấm trong nhóm khổ đế
Hỏi: Pháp gì là tưởng ?
Đáp : Vì lấy tướng giả pháp nên gọi là tưởng. Bởi vì sao ? Vì
như trong kinh nói : Có người tưởng ít, có người tưởng nhiều, có
Thành Thật Luận Trang 182 Tuệ Quang Foundation
người tưởng vô lượng, hoặc không có tưởng, mà thật không có
các pháp nhiều ít v.v... nầy, cho nên biết tưởng là lấy tướng giả
pháp. Tưởng nầy phần nhiều ở trong điên đảo mà nói. Như nói,
trong vô thường, điên đảo tưởng thường, trong khổ điên đảo
tưởng vui, trong vô ngã điên đảo tưởng ngã, trong bất tịnh điên
đảo tưởng tịnh. Cũng nói trong tín giải quán tất cả nhập v.v....
Con người vì tưởng 3 thứ sai khác lấy cảnh duyên nghĩa là trong
oán thân con người trong cảnh duyên ấy tiếp sinh 3 thứ thụ. Thụ
sinh 3 thứ độc, nên tưởng có lỗi. Vì tưởng có lỗi, nên Phật dạy cần
phải đoạn dứt. Như nói mắt thấy sắc đừng lấy tướng. Cho nên biết
lấy tướng giả pháp, gọi là tưởng.
Hỏi : Lấy giả pháp là tưởng ?
Nghĩa nầy không phải. Bởi vì sao ? Vì tưởng nầy có thể dứt
phiền não. Như trong kinh nói : Vì khéo tu vô thường tưởng, nên
có thể dứt được tất cả nhiễm cõi Dục, nhiễm cõi Sắc, và nhiễm cõi
Vô sắc, tất cả hý động, ngã mạn và vô minh. Cho nên biết không
phải chỉ lấy giả pháp là tưởng. Lấy giả pháp là tưởng thì phải
không dứt được các phiền não ?
Đáp : Thật tuệ này lấy tưởng gọi tên. Như nói người thụ giả,
đối với tất cả được giải thoát. Cũng nói dùng ý dứt tất cả phiền
não.
Lại như nói dùng nghiệp không đen không trắng có thể hết
các nghiệp. Cũng nói tín có thể qua sông, nhất tâm qua biển, tinh
tiến trừ khổ, tuệ có thể sinh thanh tịnh. Mà thật dùng tuệ mới được
qua, chứ không phải dùng tín v.v.... Như vậy trí tuệ mà lấy tưởng
gọi tên.
Lại trong kinh nói : Lấy tuệ làm dao. Như nói thánh đệ tử
dùng gươm trí tuệ có thể dứt phiền não. Cho nên biết trí tuệ có thể
dứt kết, chứ không phải tưởng.
Lại trong 37 phẩm thánh đạo không nói tên của tưởng nên
không đoạn dứt kết.
Thành Thật Luận Trang 183 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Người biết, người thấy có thể được hết
lậu, chứ không phải người không thấy không biết.
Lại trong 3 căn vô lậu nói : căn chưa biết muốn biết, căn biết,
căn đã biết, đều lấy cái biết mà gọi tên.
Lại Phật nói : Tuệ là tuệ phẩm, giải thoát tri kiến phẩm.
Lại nói không thiền nào không trí, không trí nào không thiền.
Lại trong kinh thứ lớp nói người giữ gìn tịnh giới thì tâm
không ăn năn, cho đến giữ tâm nơi cái biết, được như thật.
Lại pháp trí v.v... đều lấy tuệ làm tên.
Lại trong 3 môn học, tuệ học là vượt trội hơn hết. Cũng nói
trí tuệ đầy đủ là tri kiến giải thoát đầy đủ.
Lại trong Thất tịnh nói tri kiến tịnh.
Lại Phật gọi là hiểu biết đúng đắn tất cả pháp nên gọi là trí
tuệ vô thượng. Tưởng, thì không nói như vậy. Lại lẽ ra phải dùng
tuệ dứt các phiền não, không phải dùng tưởng. Bởi vì sao ? Như
Kinh Đại Nhân Duyên nói : Nếu nghĩa nào ăn nhập vào trong tuđa-
la, và không trái với pháp tướng, tùy thuận Tì-ni, thì nghĩa ấy
nên lấy.
Lại nói trong chính nghĩa để riêng lời tùy nghĩa, trong chính
ngữ để riêng nghĩa tùy ngữ. Cho nên trong kinh tuy nói vô thường
tưởng v.v... có thể dứt trừ các kết mà lý đúng ra phải là tuệ.
Lại nói vô minh là gốc phiền não, vì lìa vô minh nên tuệ
được giải thoát. Cho nên lấy tuệ dứt các phiền não.
Hỏi : Ông nói các tưởng lấy tướng giả pháp. Vậy cái gì là
tướng ?
Đáp : Có người lấy giả pháp làm tướng. Giả pháp có 5 thứ :
1. Quá khứ. 2. Vị lai. 3. Danh tự. 4. Tướng. 5. Người. Điều này
không đúng. Bởi vì sao ? Vì người do 5 ấm tạo thành, tướng
không có nhân tạo thành. Cho nên không phải giả danh.
Hỏi : Vậy nghĩa của tướng là gì ?
Thành Thật Luận Trang 184 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Cảnh duyên tức là tướng. Vì sao biết được ? Như nói
sư tử chúa loài thú, đứng bên nầy bờ sông, lấy tướng bờ bên kia,
rồi cắt ngang dòng mà qua. Nếu không như vậy thì vẫn ở bờ nầy,
đến chết không rời bỏ. Trong kinh nầy lấy cây cối v.v... làm
tướng.
Lại nói Tì-kheo nêu tướng, trong ấy cũng lấy áo v.v... làm
tướng.
Lại nói Vậy Tôn hiện tướng như vậy.
Lại quan Tể tướng nhân khi vua ăn, nên mới lấy tướng thèm
thuồng.
Lại nói sớm mai là tướng mặt trời mọc.
Lại nói 3 tướng là nhiếp tướng, phát tướng và xả tướng.
Trong ấy lấy nhiếp v.v... làm tướng. Tùy nghĩ pháp nào, buộc tâm
nơi cảnh duyên, gọi là nhiếp tướng.
Lại chư thiên khi thoái đọa, có 5 tướng hiện ra, trong đó lấy
5 pháp làm tướng. Cho nên biết không lấy giả pháp làm tướng,
cũng không phải nhiếp thuộc hành ấm.
Lại Xá-lợi-phất lấy diện mạo các tướng của Phú-lâu-na.
Lại trong kinh nói mắt thấy sắc không lấy tướng.
Lại trong pháp ấn nói nếu Tì-kheo tự thấy đoạn sắc thanh các
tướng, ta chưa nói người nầy được tri kiến thanh tịnh . Vì các lẽ
đó nên biết duyên tức là tướng, không phải giả pháp.
Hỏi : Duyên không phải tướng. Bởi vì sao ? Vì Vô tướng
Tam-muội cũng có duyên. Lại nói thấy sắc rồi không lấy tướng.
Nếu duyên là tướng, làm sao lấy sắc mà không lấy tướng ?
Đáp : Tướng có 2 thứ : Có tướng có lỗi, có tướng không lỗi.
Vì ngăn tướng lỗi, nên nói thấy sắc không lấy tướng. Vô tướng
mà duyên cũng có lỗi, sau sẽ nói rộng ở phần diệt đế. Nghĩa là
diệt 3 thứ tâm, nên gọi vô tướng. Hành giả mới nhập đạo thì
không phải tất cả tướng đều là lỗi. Nếu lấy nhiếp tướng, phát
tướng và xả tướng v.v... thì không lỗi.
Thành Thật Luận Trang 185 Tuệ Quang Foundation
Lại Niết-bàn gọi là vô pháp, cho nên không nên nạn vấn.
Như nói nếu lấy pháp tướng, không thể là ô nhiễm, mà lấy giả
danh tướng, thì sinh phiền não. Bởi vì sao ? Vì lấy tướng sai khác
oan, thân v.v... nên sinh buồn, vui v.v.... Do đó có thể sinh các lỗi
tham, giận v.v.... Cho nên biết lấy tướng giả pháp, đó gọi là
tưởng.
Phẩm 78 : Tướng của thụ
trong luận về thụ của nhóm khổ đế
Hỏi : Vậy nào là thụ ?
Đáp : Khổ, vui, không khổ vui.
Hỏi : Sao gọi là khổ, sao gọi là vui, sao gọi là không khổ vui
?
Đáp : Nếu tăng ích thân tâm là vui, tổn giảm thân tâm là khổ,
trái với 2 điều trên là không khổ không vui.
Hỏi : Ba thứ thụ này không có tướng quyết định. Bởi vì sao ?
Vì như một việc, hoặc tăng ích thân tâm, hoặc làm tổn giảm, hoặc
đều trái cả 2 ?
Đáp : Đó là cảnh duyên bất đinh, chứ không phải thụ bất
định. Bởi vì sao ? Vì như cùng là một thứ lửa, mà khi thì sinh vui,
khi sinh khổ, khi sinh không khổ không vui. Từ duyên sinh thụ là
quyết định. Như một việc mà tùy lúc làm nhân cho vui, hoặc làm
nhân cho khổ; hoặc làm nhân cho không vui không khổ.
Hỏi : Do lúc nào duyên nầy làm nhân cho khổ vui v.v...?
Đáp : Tùy lúc có thể ngăn chận khổ, thì lúc đó sinh tướng
vui. Như người đang bị lạnh, bấy giờ tiếp xúc hơi nóng là sinh
tướng vui.
Hỏi : Tiếp xúc nóng nầy nếu quá nhiều lại có thể làm khổ,
đâu phải vui, cho nên biết thụ vui cũng không có ?
Đáp : Theo danh tướng vậy tục nên mới có thụ vui, không
phải nghĩa chân thật. Tùy theo người nầy khi thích tiếp xúc nóng
Thành Thật Luận Trang 186 Tuệ Quang Foundation
thì tăng ích, lại ngăn được khổ trước, bây giờ trong khi ấy thì sinh
tướng vui. Nếu lìa khổ trước, thì tiếp xúc nóng này không có thể
làm vui nên không phải thật có.
Hỏi : Ông nói chỉ vì danh tướng nên có vui. Điều này không
đúng. Bởi vì sao ? Vì trong kinh, Phật tự nói 3 thụ, nếu thật không
vui, làm sao nói 3 thụ ?
Lại nói sắc nếu quyết định là khổ, thì chúng sinh trong đó
không sinh tham đắm.
Lại nói những gì là ý vị trong sắc ? Như nói vì do sắc có thể
sinh vui mừng.
Lại nói khi lạc thụ sinh thì vui, khi trụ thì vui, mà khi hoại thì
khổ. Khổ thụ khi sinh thì khổ, khi trụ thì khổ, mà khi hoại thì vui.
Cái thụ không khổ không vui thì không biết khổ không biết vui.
Lại lạc thụ là phúc báo, khổ thụ là tội báo. Nếu thật không có
lạc thụ, thì tội phúc chỉ có quả khổ, mà thật không phải vậy.
Lại trong cõi Dục cũng có lạc thụ, nếu thật không có lạc thụ
thì cõi Sắc, cõi Vô sắc phải không có thụ, mà thật không phải vậy.
Lại nói trong lạc thụ là tham sai khiến, nếu không có lạc thụ
thì tham sai khiến chỗ nào ? Không nên nói trong khổ thụ là tham
sai khiến. Cho nên biết thật có lạc thụ ?
Đáp : Nếu thật có lạc thụ thì phải nói ra tướng vậy nào là
vui, mà thật không thể nói được. Phải biết chỉ vì trong khổ có sai
khác mà gọi là tướng vui mà thôi. Tất cả vậy giới, từ dưới đại địa
ngục lên đến cõi Hữu đỉnh, đều là tướng khổ, bị nhiều khổ bức
bách. Trong khổ ít sinh tướng vui đó thôi. Như người bị khổ nóng
bức, thì lấy cảm xúc lạnh làm vui. Cho nên trong các kinh đều nói
như vậy, không có phương hại gì.
Hỏi : Cũng có thể nói tất cả vậy gian đều là vui, vì do trong ít
vui, mà sinh tưởng khổ. Nếu không phải vậy, thì cũng không được
nói do trong ít khổ, mà sinh tưởng vui ?
Thành Thật Luận Trang 187 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tướng của khổ thụ thô, cho nên không thể cho ít vui là
khổ.
Lại vui dù ít, cũng không phải tướng bức bách. Bởi vì sao ?
Vì không thấy có người thụ chút vui mà đưa tay lên kêu gào.
Lại lạc thụ chuyển ít dần nên gọi là tướng tịch diệt, giống
như bậc trên chuyển dần tịch diệt. Cho nên nói trong ít vui sinh
tướng khổ là chỉ có lời nầy : Phàm phu ngu nhân, trong ít khổ,
vọng sinh tưởng vui thì có đạo lý.
Phẩm 79 : Hành khổ
Các thụ đều khổ. Bởi vì sao ? Các vật áo cơm v.v... đều là
nhân khổ, không phải nhân vui. Vì sao biết được ? Vì hiện thấy áo
cơm tăng quá thì khổ cũng tăng, nên gọi là nhân khổ.
Lại đau tay các khổ có thể chỉ tướng được, mà tướng vui
không chỉ được.
Lại áo cơm các vật đều vì để trị bệnh, như người không khát,
uống không thấy vui.
Lại người bị khổ bức bách, đối với khổ khác mà sinh tưởng
vui. Như người sợ chết, cho hình phạt là vui.
Lại roi gậy dao xà mâu, các nhân duyên khổ đều là quyết
định, mà các nhân vui thì không phải vậy.
Lại vì tất cả đồ cần dùng rốt ráo là khổ, nên phải biết trước
có, sau rồi mới hiểu, như guốc mòn dần.
Lại với nữ sắc v.v... trước sinh tưởng vui. Lìa nhớ tưởng tà
vạy mới thấy tội lỗi của nó.
Lại nữ sắc v.v... đều là nhân khổ khô héo tiêu mòn sinh các
bệnh hoạn. Cho nên không phải là vui.
Lại khi lìa dục đều xả duyên này. Nếu thật là vui thì sao lại
xả ?
Lại người ta tùy việc sinh vui, về sau cũng chính việc ấy lại
sinh tâm khổ. Cho nên biết không phải vui.
Thành Thật Luận Trang 188 Tuệ Quang Foundation
Lại thân là ruộng khổ, không phải ruộng vui, như trong
ruộng đồng, lúa mạ khó trồng, mà cỏ lác dễ sinh. Giống như vậy
ruộng thân thì các khổ dễ tụ, mà vui hão khó sinh.
Lại người trong khổ trước, khởi sinh vui điên đảo, sau sinh
tham đắm. Cái vui nếu có chút thật, thì không gọi là điên đảo.
Như Thường, Ngã, Tịnh, chút thật cũng không có. Cái vui cũng
như vậy, vì đều là điên đảo.
Lại người trong khổ cực, mà sinh lòng vụi, như gánh nặng
đổi vai, nên biết không có vui.
Lại trong kinh Phật nói : Phải quán vui là khổ, quán khổ như
mũi tên đâm vào tim, phải quán không khổ không vui, là vô
thường niệm niệm sinh diệt. Nếu quyết định có vui, không nên
quán khổ. Phải biết phàm phu nhận khổ làm vui, cho nên Phật nói
người phàm phu tùy chỗ sinh tưởng vui. Ông nên quán khổ.
Lại 3 thứ thụ nầy đều gồm trong khổ đế. Nếu thật là vui Vì
sao gồm trong khổ đế ?
Lại khổ là chân thật, mà tướng vui là hư vọng. Vì sao biết
được ? Vì tâm quán khổ có thể dứt các kết, không phải tâm vui,
nên biết đều là khổ.
Lại tất cả muôn vật đều là nhân khổ, giống như oán tặc. Có 2
thứ oán tặc : Hoặc có thể làm khổ tức thì, hoặc trước tuy có chút
thiện, sau lại hại người. Muôn vật cũng vậy, hoặc ban đầu sinh
thiện, sau trở lại làm hại, cho nên biết đều là khổ.
Lại chúng sinh được dục không chán, như uống nước mặn
không đã khát nên khổ.
Lại không cầu dục vọng thứ gì, mới gọi là vui, tìm cầu nên
gọi là khổ. Không thấy trong vậy gian có người nào không cầu,
cho nên biết không có vui.
Lại tất cả chjúng sinh thường bị thân khổ tâm khổ đuổi theo
cho nên biết thân là khổ.
Thành Thật Luận Trang 189 Tuệ Quang Foundation
Lại thân như lao ngục thường bị xiềng xích. Vì sao biết được
? Bởi diệt thân này mới gọi là giải thoát khổ xiềng xích.
Lại tất cả vật dần dần tuần tự đều trở nên xấu ác. Như thân
địa ngục v.v… mùa đông mùa hạ v.v…, căn trẻ nhỏ v.v… biết các
tướng lạnh nóng, đợi về sau đều chán ghét, nên biết đều là khổ.
Lại thân có nhiều oán tặc, như cái rương nhốt rắn độc, như 5
tên giặc cầm dao rượt, như kẻ giặc giả làm thân thiện, và như giặc
giã phá hoại xóm làng, như ở bên này bờ con sông lớn bị các khổ
rượt đuổi, cho nên biết đều là khổ.
Lại biết thân chúng sinh bị các khổ rượt đuổi, như sinh khổ,
già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thương yêu
chia lìa khổ, trái điều mong ước khổ v.v… thường đuổi theo, cho
nên biết thân là nơi hội tụ các khổ.
Lại vì có thân cho nên có cái sở hữu của cái ta và tham đắm
v.v… tụ tập các suy não, cho nên biết thân là nhân duyên các khổ.
Lại 5 đường chúng sinh hành 4 oai nghi đều không có vui.
Bởi vì sao ? Như trong kinh nói sắc là khổ, thụ tưởng hành thức là
khổ. Nếu khi sắc sinh, phải biết tức là già, bệnh, chết v.v… các
suy não sinh. Thụ tưởng hành thức cũng như vậy.
Lại thân thường gặp những việc đột xuất, bởi thân miệng ý
tạo tác các việc. Tạo tác các việc đều gọi là khổ.
Lại các hiền thánh lấy thân làm vui, nếu thật có vui, sao mất
vui mà sinh hoan hỷ ? Cho nên biết đều là khổ.
Phẩm 80 : Hoại khổ
Hỏi : Ông tuy đem nhiều nhân duyên để thuyết minh khổ, mà
người đời hãy còn tham vui, tùy được sở dục cho là vui ?
Đáp : Điều này trước đã đáp. Vì phàm phu điên đảo nên lấy
khổ làm vui. Lại bị ngu si làm hại thì làm sao tin được ! Tuy được
sở dục cũng nên quán là khổ. Bởi vì sao ? Vì những thứ đó đều vô
thường, khi hư hoại sẽ sinh khổ. Như trong kinh Phật nói : Người,
Thành Thật Luận Trang 190 Tuệ Quang Foundation
trời yêu sắc thích sắc tham sắc. Khi sắc đó hư hoại sinh sầu khổ
lớn. Thụ tưởng hành thức cũng như vậy. Vì đều bị hư hoại nên
phải biết cũng đều là khổ.
Lại người thụ cái vui giả dối mà sinh lòng tham đắm. Do
nhân duyên tham đắm sinh các lỗi giữ gìn v.v…. Nên phải quán
vui là rất khổ.
Lại vui là cửa ngõ cho khổ vào. Bởi tham vui, nên từ 3 độc
khởi các nghiệp bất thiện, đọa địa ngục v.v... chịu các khổ não.
Nên phải biết đều bởi vui là cội gốc của khổ.
Lại tất cả hội họp đều là tướng của biệt ly. Khi mất chỗ yêu
thương, sẽ chịu các khổ rất sâu nặng nề, do yêu thương mà ra.
Cho nên biết rằng hưởng thụ vui còn khổ hơn là chịu khổ.
Lại sinh ra những thứ để làm vui đều là lừa dối chúng sinh
khiến đọa các khổ, như dã cầm ăn phải bả độc, như cá cắn mồi,
đều bởi tự rước lấy tại hại. Vật vui cũng vậy, nên phải quán khổ.
Lại trong sự hưởng lạc, được chút mùi vị, mà bị tội lỗi nhiều
vô lượng. Như chim cá được vị rất ít mà bị hoạn nạn rất nhiều,
nên phải quán khổ.
Lại lạc thụ là chỗ sinh phiền não. Bởi vì sao ? Vì tham thân
nên muốn đồ cần dùng; vì nhân duyên dục vọng nên giận dữ v.v...
các phiền não lần lượt phát sinh.
Lại lạc thụ là cội gốc sinh tử. Bởi vì sao ? Vì nhân vui sinh
ái. Như trong kinh nói ái là gốc khổ.
Lại tất cả chúng sinh có những tạo tác không gì không vì vui,
nên gọi là gốc khổ.
Lại lạc thụ khó trừ bỏ còn hơn gông cùm.
Lại trong sinh tử bị tham vui trói buộc. Bởi vì sao ? Vì tham
vui nên không thoát sinh tử.
Lại lạc thụ này thường hay sinh khổ như khi tìm cầu thì dục
vọng là khổ, khi mất thì nhớ tiệc là khổ, khi được cũng khổ vì
không biết chán, như biển cả nuốt các dòng sông, đó cũng là khổ.
Thành Thật Luận Trang 191 Tuệ Quang Foundation
Lại lạc thụ là nguyên nhân không mỏi mệt. Bởi vì sao ? Vì
chúng sinh khi tìm nhân vui, dù trải qua gian nan nguy hiểm đến
đâu cũng cho là vui, nên tâm không mỏi mệt. Cho nên người trí
cần phải quán khổ.
Lại lạc thụ là nguyên nhân khởi các khởi các nghiệp. Bởi vì
sao ? Vì tham vui nên có thể khởi nghiệp thiện, vì tham vui hiện
tại nên khởi nghiệp bất thiện, tất cả cũng là nhân để thụ thân. Bởi
vì sao ? Vì lấy vui để sinh ái; ái nên mới thụ thân.
Lại lạc thụ với Niết-bàn trái nhau. Bởi vì sao ? Vì chúng sinh
tham đắm cái vui sinh tử, nên không vui Niết-bàn.
Lại người chưa lìa dục ưa lạc thụ này; bởi ưa nên sinh khổ.
Cho nên biết lạc thụ là gốc các khổ.
Lại trong kinh nói 2 cầu khó dứt : một là cầu được, hai là cầu
sống. Cầu theo ý muốn các thứ là cầu được. Cầu được thọ mạng
để hưởng thụ các dục này gọi là cầu sống. Hai thứ cầu nầy, đều
lấy lạc thụ làm gốc. Cho nên người trí nên dứt những điều khó
dứt, nghĩa là có thể như thật quán tướng lạc thụ.
Lại mùi vị của lạc thụ cũng có thể làm nhiễm ô người chưa
được lìa dục. Tâm của người đại trí cho là khó dứt còn hơn khổ
thụ.
Lại mùi vị của lạc thụ là nhân của tham v.v..., nếu không có
lạc thụ, thì không có tham.
Lại mùi vị của lạc thụ, người có chân trí có thể cắt đứt. Bởi
vì sao ? Vì các trí vậy gian là muốn lấy mùi vị của bậc trên, mới
có thể xả bậc dưới. Cho nên biết lạc thụ còn quá hơn khổ thụ.
Lại tâm chúng sinh ràng buộc nơi sinh ra. Thậm chí như súc
sinh cũng tham tiếc sắc thân, nên phải biết đều bởi mùi vị của lạc
thụ. Cho nên phải quán lạc thụ là khổ.
Phẩm 81 : Luận về 3 thụ
Hỏi : Đã biết tất cả đều khổ. Do sai khác nào nên có 3 thụ ?
Thành Thật Luận Trang 192 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tức một khổ thụ, vì thời gian sai khác nên có 3 thứ. Có
thể não hại gọi là khổ. Não hại rồi lại cầu khổ khác để ngăn khổ
trước. Vì mong cầu nên khổ lớn kia được chút tạm ngừng, bấy giờ
gọi là vui. Buồn vui không phân biệt, không mong không cầu, bấy
giờ gọi là không khổ không vui.
Hỏi : Không khổ không vui không gọi là thụ. Bởi vì sao ? Vì
khổ vui cảm giác được, mà không khổ vui, không thể cảm giác
được ?
Đáp : Người này vì cảm xúc 3 thứ xúc là xúc khổ, xúc vui và
xúc không khổ không vui. Vì có nhân nên phải biết có quả. Như
người đang rất nóng gặp được xúc lạnh thì cảm giác vui, mà bị
xúc nóng thì cảm giác khổ, được xúc không lạnh không nóng, thì
cảm giác không khổ không vui. Cho nên biết có thụ không khổ
không vui nầy. Ý ông cho rằng trong xúc không khổ không vui,
không thể sinh thụ. Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì người
cảm giác xúc không nóng không lạnh nầy, cảm biết được cảnh sở
duyên, tức gọi là thụ, sao nói không có ?
Lại cảnh duyên có 3 trường hợp khác nhau. Trường hợp oán
thân thì với người thân sinh vui, với người oan sinh buồn. Còn với
người không oan thân thì không vui buồn. Cho nên biết do tưởng
sai khác mới có 3 thứ thụ này. Vì duyên sai khác nên khởi 3 thứ
tưởng nầy.
Lại cảnh duyên có 3 thứ là làm tăng ích, làm tổn giảm, hoặc
đều trái cả 2. Có vui, không vui, và có đều trái cả 2. Cũng có chỗ
tham, chỗ sân chỗ si. Có mừng, không mừng, có đều trái cả 2. Có
phúc quả, tội quả, có bất động quả. Trong các cảnh duyên này tùy
trường hợp sinh 3 thụ. Cho nên biết có thụ không khổ không vui
nầy.
Lại chỗ khá vừa lòng gọi là lạc thụ; chỗ trái nghịch lòng gọi
là khổ thụ, không nghịch không thuận gọi là không khổ không lạc
thụ.
Thành Thật Luận Trang 193 Tuệ Quang Foundation
Lại tám pháp của vậy gian là được, mất, chê, khen, tán
dương, bài bác, khổ, vui, người phàm phu đối với mất v.v... 4
pháp là nghịch ý, đối với được v.v... 4 pháp cho là vừa ý. Chắc
phải có Thánh nhân lìa dục mới có thể bỏ cả 2, bỏ gọi là thụ
không khổ không vui. Cho nên không phải là không có thụ ấy.
Hỏi : Nếu vì nhân duyên xúc v.v... nên có 3 thụ thì tất cả tâm
hành đều gọi là thụ. Bởi vì sao ? Vì có bao nhiêu tâm hành ở trong
thân, đều là khổ, vui, không khổ không vui ?
Đáp : Như vậy tất cả tâm hành đều gọi là thụ. Bởi vì sao ? Vì
trong kinh nói 18 ý hành. Trong đó chỉ là một ý có 18 thứ sai
khác. Đó là: 6 hỷ hành, 6 ưu hành, 6 xả hành. Vì tưởng phân biệt
nên có khổ phần, lạc phần, xả phần. Cho nên biết tất cả tâm hành
không không phải là thụ.
Lại trong kinh nói : Các thụ đều khổ. Cho nên biết tâm hành
ở trong thân đều là khổ.
Lại nói nếu sắc sinh tức là khổ sinh. Vì sao sắc gọi là khổ ?
Vì là nhân của khổ. Cho nên biết cảnh duyên và các căn đều có
thể sinh khổ. Cho nên tất cả tâm hành đều gọi là thụ. Vì hành khổ
nên tất cả các hành cần phải quán là khổ. Vì hoại khổ nên phải
quán lạc thụ là khổ. Khổ khổ tức khổ. Ba thứ khổ này đều từ các
duyên hòa hợp sinh ra, vì niệm niệm diệt nên Thánh nhân quán
khổ. Cho nên tất cả tâm hành đều gọi là thụ.
Hỏi : Các thụ vô lậu cũng là khổ sao ?
Đáp : Cũng khổ. Bởi vì sao ? Vì các thụ vô lậu Thánh nhân
cũng thứ tự xả. Từ Sơ thiền trở đi cho đến chứng tất cả diệt đều có
khổ.
Lại vui hữu lậu thiền với vui vô lậu thiền đâu có khác gì ?
Tùy hữu lậu thiền vì nhân nào đó nên khổ. Các thiền vô lậu cũng
bởi khổ nầy.
Lại như Thánh nhân trụ tâm vô lậu rất nhàm chán tất cả. Cho
nên sinh tâm vô lậu thì sinh nhàm chán, như lông mi đâm vào
Thành Thật Luận Trang 194 Tuệ Quang Foundation
mắt. Phàm phu không biết đều lấy khổ làm vui. Trí Thánh nhân
biết sâu nên chán lìa cõi Hữu đỉnh, hơn cả những người khác chán
ghét cõi Dục. Cho nên khổ vô lậu dụ với hữu lậu.
Lại các bậc Thánh nhân được tâm vô lậu, chỉ hướng về Niếtbàn.
Bởi vì sao ? Vì bấy giờ người nầy thấy rõ tất cả khổ của pháp
hữu vi, nếu thụ vô lậu là vui, thì nên vui mừng, không nên lại sinh
tâm hướng về Niết-bàn.
Hỏi: Nếu các tâm hành đều gọi là thụ, thì sao còn riêng có
các tâm pháp v.v...?
Đáp : Tức là trong một thụ duyên này, hành khác nên có sai
khác, các tâm pháp v.v... cũng hành duyên khác, chỉ khi thức
duyên, hành nầy gọi là tâm. Các điều này như trước đã nói là tất
cả pháp, khi ở trong thân, vì có lợi ích v.v... các sai khác, cho nên
gọi là thụ.
Lại phần nhiều vì tâm có thể khởi phiền não, bấy giờ gọi là
thụ. Như trong kinh nói : Trong lạc thụ tham sai khiến. Trong khổ
thụ sân sai khiến. Trong không khổ không lạc thụ là vô minh sai
khiến. Cho nên trong cảnh duyên tưởng phân biệt, mừng v.v... các
pháp gọi là thụ. Bởi vì sao ? Vì khi ấy có thể sinh các phiền não.
Hỏi : Nếu trong mỗi mỗi thụ đều bị 3 phiền não ấy sai khiến,
Vì sao quyết định nói trong lạc thụ tham sai khiến ?
Đáp : Trong khổ thụ không nên tham sai khiến. Si khiến tất
cả chỗ vì sức mạnh của si. Trong khổ sinh tưởng vui, vì không
thấy biết việc nên bị khổ mới sinh sân. Vì thụ không khổ không
vui vi tế nên không biết tham sân. Bởi vì sao ? Vì người nầy trong
đó không sinh tưởng khổ vui, vì không thấy biết việc nên chỉ sinh
si sai khiến mà thôi.
Lại trong cảnh duyên xả, không khổ vui, nếu tham sân không
hiện hành, nên phàm phu trong đó bảo là cảnh duyên có thể thắng.
Cho nên Phật nói ông không thắng duyên nầy đâu, chỉ vì chưa hay
biết nên tham sân không hiện hành đó thôi. Như trong kinh nói :
Thành Thật Luận Trang 195 Tuệ Quang Foundation
Phàm phu trong sắc sinh tâm xả là đều y chỉ nơi sắc. Nếu thắng
duyên nầy với ngã làm tăng ích hay tổn giảm, thì trở lại sinh tham
sân. Cho nên biết chưa thắng được cảnh duyên.
Lại thụ không khổ không vui, tướng đó tịch diệt, như định vô
sắc. Vì tịch diệt nên phiền não hiện hành rất vi tế, phàm phu trong
đó sinh trưởng là giải thoát. Cho nên Phật nói trong đó có vô minh
sai khiến.
Lại vì chưa biết được cảnh duyên nên khổ vui chưa hiểu rõ.
Nếu biết khổ vui trong cảnh duyên ấy thì hiểu rõ được, bấy giờ
mới sinh tham sân.
Hỏi : Nếu biết được cảnh duyên nầy thì sinh tưởng khổ vui.
Cho nên chỉ phải có thụ khổ vui ?
Đáp : Người nầy có khi trong cảnh duyên ấy tâm không sinh
vui không sinh khổ. Cho nên không chỉ có khổ vui. Như trước đã
nói đều là khổ mà có 3 thứ sai khác.
Hỏi : Ông nói biết cảnh duyên nầy lại sinh tưởng vui. Vì sao
cái biết không thể lấy vô minh biết ?
Đáp : Người ấy trong cảnh duyên nầy, vì trước lấy tướng,
nên trong cảnh duyên nầy, hoặc vô minh sai khiến, hoặc tham sân
sai khiến.
Hỏi : Chỉ trong khổ vui sinh si. Như trong kinh nói : Người
nầy đối với các thụ, không như thật biết mùi vị của tập, diệt quá
xuất v.v..., vì không biết nên trong không khổ không vui nói là vô
minh sử sai khiến. Cho nên chỉ trong khổ vui khởi vô minh sử,
không phải trong không khổ không vui ?
Đáp : Kinh nầy tự nói đối với các thụ không như thật biết
mùi vị của tập, diệt v.v..., nên trong không khổ không vui bị vô
minh sử sai khiến.
Hỏi : Tuy có lời nầy, nhưng trong nghĩa ấy không đúng. Vì
Vì sao với khổ vui, mà không biết tập, diệt v.v..., nên trong thụ
không khổ không vui vô minh sử sai khiến. Bởi vì sao ? Vì ở
Thành Thật Luận Trang 196 Tuệ Quang Foundation
trong các việc mà không biết các việc sử sai khiến. Cho nên kinh
ấy phải nói như vậy. Người nầy ở trong thụ không khổ không vui,
vì không biết tập v.v... nên bị vô minh sử trong thụ không khổ
không vui sai khiến. Còn nếu trong thụ không khổ không vui, vô
minh không khiến ?
Đáp : Người nầy trong thụ không khổ không vui, sinh 3 thứ
tâm. Vì tịch diệt tưởng, bất khổ bất lạc tưởng, nên sinh tâm không
khổ không vui. Nếu đem tà trí lấy tướng, thì sinh tâm vui. Nếu
lấy mùi vị vui bậc trên thì sinh tâm khổ. Cho nên trong kinh nói
nhiều về các thứ thụ. Bởi vì sao ? Vì tất cả các thụ đều do vô minh
sai sử. Thứ thụ bất khổ bất lạc nầy vì tùy thời nên có 3 thứ sai
khác.
Lại nếu chưa thông đạt được tập đế khổ v.v..., bấy giờ trong
khổ thụ sinh tưởng vui, cũng sinh tưởng không khổ không vui.
Cho nên mới nói vì không biết các thụ tập v.v... nên bị vô minh sử
sai khiến. Chỉ trong thụ không khổ không vui nhiều vô minh sử
sai khiến hơn.
Phẩm 82 : Hỏi về thụ
Hỏi : Trong kinh nói : Người nầy khi thụ lạc thụ, như thật
biết ta thụ lạc thụ nầy. Như thật biết thụ gì ư? Quá khứ vị lai
không thể thụ được, thụ hiện tại không tự biết được ?
Đáp : Kinh nầy ý nói người thụ, cho nên không lỗi.
Lại vui v.v... các thụ đến nơi thân, do ý có thể duyên, nên
cũng không lỗi.
Lại trong các thứ làm vui mà nói ra tên vui v.v.... Vậy gian
cũng có trong nhân nói quả vậy.
Lại người nầy trước thụ lạc thụ, sau mới lấy tướng, cho nên
gọi khi thụ lạc thụ biết như thật.
Hỏi : Vì bởi người thụ nên gọi là thụ, hay có thể thụ nên gọi
là thụ ? Nếu cho người thụ gọi là thụ, thì thụ và vui v.v... khác
Thành Thật Luận Trang 197 Tuệ Quang Foundation
nhau. Mà trong kinh nói lạc thụ khổ thụ và bất khổ bất lạc thụ.
Nếu cho rằng có thể thụ thì gọi là thụ, vậy ai là người thụ ? Bởi
thụ nên gọi là thụ ?
Đáp : Ở trong cảnh duyên nói vui, như nói nửa khổ nửa vui.
Cho nên vì biết cảnh duyên, nên gọi là thụ vui.
Lại chúng sinh thụ thụ nầy, nên gọi có thể thụ là thụ.
Hỏi : Chúng sinh không gọi là thụ, vì trong kinh nói thụ là
thụ ?
Đáp : Danh nghĩa là như vậy, có tướng thì có tác. Trong giả
danh có tướng là khổ, vui, không khổ không vui ở tại thân, thì tâm
có thể biết, nên nói thụ là thụ.
Hỏi : Trong kinh nói trong các thụ quán thuận thụ. Hành giả
bấy giờ, Vì sao sinh tưởng khổ, vui, không khổ không vui, người
nầy bấy giờ không đều sinh khổ tưởng ư ?
Đáp : Người ấy chưa được tất cả đều khổ, chỉ nghĩ nhớ 3 thụ.
Hỏi : Nếu dùng ý thức tu 4 niệm xứ, thì sao nói là thân vui ?
Đáp : Trong tất cả thụ, phải buộc niệm như vầy : Thân nầy
vui, tâm nầy vui.
Lại khi tu niệm xứ, trong thân sinh tướng vui, buộc niệm
trong đó, nên gọi là thân vui.
Hỏi : Nếu tất cả thụ đều là tâm pháp, vì sao nói thân thụ ?
Đáp : Vì ngoại đạo nên nói như vậy. Ngoại đạo bảo các thụ
nương nơi thần, nên Phật nói các thụ y chỉ thân tâm.
Hỏi : Những gì là thân thụ ?
Đáp : Do 5 căn sinh ra thụ, đó gọi là thân thụ. Do căn thứ 6
sinh ra thụ, gọi là tâm thụ.
Hỏi : Thụ nầy sao gọi là bẩn, sao gọi là sạch ?
Đáp : Các phiền não là bẩn. Các phiền não nầy sai khiến thụ,
nên gọi là bẩn. Phiền não không sai khiến thụ thì gọi là sạch.
Hỏi : Vì sao khổ thụ gọi là sạch ?
Đáp : Khổ thụ để dứt trừ phiền não, đó gọi là sạch.
Thành Thật Luận Trang 198 Tuệ Quang Foundation
Lại khổ thụ cùng phiền não trái nhau, gọi là sạch.
Hỏi : Đã nói bẩn sạch, sao lại nói nương tham, nương xuất,
tham tức phiền não, xuất tức là sạch ?
Đáp : Trước đã nói chung là bẩn, nay lại nói riêng tham là
nhân của bẩn. Như trong kinh nói : Có cái mừng bẩn, có cái mừng
sạch, có cái mừng sạch trong sạch. Mừng bẩn là mừng do 5 dục
sinh. Mừng sạch là mừng của Sơ thiền. Mừng sạch ở trong sạch
là mừng của Nhị thiền. Nếu thụ chỉ vì Nê-hoàn, đó là nương xuất.
Cho nên lại nói.
Hỏi : Trong 5 căn, vì sao khổ thụ lạc thụ đều phân chia làm
2, mà xả thụ thì không ?
Đáp : Buồn mừng cần tưởng phân biệt mới sinh, khổ vui
không cần do tưởng phân biệt. Còn xả thụ thì tưởng phân biệt vi
tế nên không phân chia làm 2.
Hỏi : Trong Đệ tam thiền, những gì ý thức thụ được vì sao
gọi là vui, mà không gọi là mừng ?
Đáp : Thứ vui nầy sâu dày đủ khắp thân tâm nên gọi là vui.
Còn mừng chỉ có thể khắp tâm, mà không khắp thân. Nên trong
Tam thiền Phật y vào cái mừng sai khác mà nói thân thụ vui.
Hỏi : Trong 3 thụ nầy cái nào có thể sinh phiền não sâu dày ?
Đáp : Có luận sư nói lạc thụ có thể sinh. Bởi vì sao ? Vì như
trước đã nói các nhân duyên bại hoại nên thụ khổ lớn.
Lại có luận sư khác nói khổ thụ có thể sinh. Bởi vì sao ? Vì
chúng sinh bị khổ bức bách, nên mới cầu vui mà khởi sâu phiền
não.
Lại nhiều thứ vui mà chút khổ có thể thắng, như người khi
hưởng đầy đủ 5 dục mà bị ruồi muỗi chích thì liền sinh cảm giác
khổ. Biết sắc v.v... 5 dục không phải như vậy.
Lại như cái vui còn sống trăm đứa con, không bằng cái khổ
chết mất một đứa.
Thành Thật Luận Trang 199 Tuệ Quang Foundation
Lại trong sinh tử, tướng khổ thụ nhiều, mà lạc thụ thì không
như vậy. Bởi vì sao ? Vì có nhiều chúng sinh ở 3 ác thú, mà ít
sinh về trời người.
Lại không phải gia công, tự nhiên bị khổ, mà gia công cầu
vui thì khi được khi không. Như trong ruộng cỏ dại tự mọc mà lúa
thì không.
Lại do khổ thụ khởi tội nghiệp nặng. Bởi vì sao ? Vì trong
khổ thụ có sân sai khiến. Như trong kinh nói : Sân là tội nặng.
Lại có luận sư khác nói có thụ không khổ không vui sinh.
Bởi vì sao ? Vì trong đó có si sai khiến. Ssi là cội gốc tất cả phiền
não.
Lại thụ nầy vi tế vì phiền não trong đó khó biết được.
Lại thụ nầy là bản tính của chúng sinh, mà khổ vui là khách.
Lại thụ nầy phổ biến khắp 3 cõi, còn 2 thụ kia không như
vậy.
Lại thụ nầy là nhân của sống lâu, vì tham thụ nầy nên được
sống lâu 8 vạn đại kiếp, chịu tướng khổ các ấm.
Lại thụ nầy với Nê-hoàn trái nhau. Bởi vì sao ? Vì trong đó
lầm sinh tướng tịch diệt, tướng Nê-hoàn, nên không còn có thể
được Nê-hoàn chân thật.
Lại thụ nầy nhờ Thánh đạo nên có thể được qua, như nói nhờ
tính lìa mà được giải thoát. Khổ thụ lạc thụ nhờ vậy gian đạo cũng
có thể được qua.
Lại thụ nầy tận cùng biên giới sinh tử mới đoạn khi đoạn dứt
sự tiếp nối. Cho nên có thể sinh phiền não sâu dày.
Phẩm 83 : Năm thụ căn
Hỏi : Lạc căn ở tại đâu ? Cho đến xả căn ở tại đâu ?
Đáp : Khổ lạc tại thân, tùy chỗ được thân cho đến Tứ thiền.
Còn 3 căn kia tại tâm, tùy chỗ được tâm, cho đến cõi Hữu đỉnh.
Thành Thật Luận Trang 200 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Như trong kinh nói : Trong Sơ thiền diệt ưu căn, trong
Tam thiền diệt hỷ căn, trong Tứ thiền diệt lạc căn, trong Diệt tận
đinh diệt xả căn. Cho nên lời ông nói không đúng ?
Đáp : Nếu ông tin kinh này, thì khổ căn phải ở tại Sơ thiền.
Mà trong pháp ông, Sơ thiền thật không có khổ căn. Cho nên kinh
này không đáng tin.
Hỏi : Cõi Sắc và Vô sắc tu sâu thiện pháp, phải không có ưu
khổ ?
Đáp : Ba cõi đều khổ. Trong 2 cõi trên tuy không có khổ về
mặt thô, cũng có khổ về mặt vi tế. Vì sao biết được ? Trong Tứ
thiền nói có 4 oai nghi. Đã có oai nghi, tức đều có khổ.
Lại cõi Sắc có mắt tai thân thức. Trong thức này có bao
nhiêu thụ, đều là khổ vui. Từ một oai nghi cầu một oai nghi khác,
nên biết có khổ.
Lại trong kinh hỏi : Trong sắc có mùi vị gì ? Như là bởi sắc
sinh vui sinh mừng. Trong sắc có những lỗi gì ? Như là có sắc là
tướng vô thường, khổ, bại hoại. Vì cõi Sắc có sắc nên có tâm đắm
vị, có tâm tội lỗi, cho nên có khổ vui.
Lại có hành giả đối với các thiền định cũng tham, cũng bỏ,
ắt phải vì nhân duyên lạc thụ nên tham, nhân duyên khổ thụ nên
bỏ. Cho nên biết có khổ vui.
Lại Phật nói âm thanh v.v... là tác động kích thích đối với Sơ
thiền. Giác quán là tác động kích thích đối với Nhị thiền, cho đến
có tưởng thụ là tác động kích thích đối với phi tưởng phi vô tưởng
xứ. Tác động kích thích là nghĩa của khổ. Cho nên biết tất cả có
khổ.
Lại tất cả 5 ấm đều là khổ. Chính vì não hại là khổ. Như cõi
Dục vì chịu não hại nên khổ. Hai cõi trên cũng có chịu não hại, vì
sao không khổ ? Như cõi Dục nói có bệnh v.v... 8 hành nghiệp,
cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng đồng nói 8 hành nghiệp, vì sao không
khổ ?
Thành Thật Luận Trang 201 Tuệ Quang Foundation
Lại cõi Sắc nói ánh sáng có hơn kém, nên biết nghiệp cõi Sắc
cũng có sai khác. Vì nghiệp sai khác nên quyết phải có nghiệp báo
khổ.
Lại trong kinh nói trong đó có các phiền não ganh ghét v.v....
Như có Phạm Thiên bảo các Phạm chúng rằng : Chính nơi đây là
Thường, các ngươi đừng đến Sa-môn Cù-đàm. Cũng có Phạm
Thiên đến nạn hỏi Phật.
Lại trong kinh nói, vào Đệ tứ thiền mới dứt pháp bất thiện.
Lại trong kinh cũng nói trong đó có phiền não tà kiến. Các
phiền não đó tức bất thiện, phải bị khổ báo, vì sao không khổ ?
Lại có luận sư nói tất cả phiền não đều là bất thiện. Trong đó
làm sao không có khổ thụ.
Lại trong kinh nói : Các người trời yêu sắc, thích sắc, tham
sắc và đắm sắc. Các người trời nầy vì yêu, thích, tham, đắm sắc,
cho nên khi sắc ấy bại hoại thì sinh sầu khổ, cho đến thức cũng
như vậy. Cho nên biết tất cả người chưa lìa dục đều có buồn
mừng.
Lại ái duyên sinh mừng, lìa ái duyên nầy, quyết sinh buồn
rầu. Phàm phu vô trí đâu có sức gì gặp được ái duyên mà không
sinh mừng, mất không sinh buồn ? Như trong kinh nói : Chỉ có
người đắc đạo, khi sắp mạng chung không hiện sắc buồn mừng.
Cho nên biết tất cả phàm phu, buồn mừng thường bám theo.
Lại Phật nói : Không buồn không mừng một lòng hành xả,
đó là công đức La-hán.
Lại 6 xả hành duy chỉ Thánh hành, không phải phàm phu
thực hành được. Phàm phu hoặc khi tu hành xả đều vì chưa có thể
biết kiến duyên. Như trong kinh nói : Phàm phu trong sắc, có tâm
xả đều nương dựa sắc, tham sắc không rời, cho nên biết phàm phu
không có tâm xả .
Lại trong kinh nói : Trong lạc thụ tham sai khiến. Nếu không
có lạc thụ thì tham sai khiến chỗ nào ? Ý ông hoặc cho rằng trong
Thành Thật Luận Trang 202 Tuệ Quang Foundation
bất khổ bất lạc thụ tham sử sai khiến. Trong kinh không chỗ nào
nói như vậy.
Lại trong bậc trên càng càng chuyển tăng vui tịch diệt, càng
lợi lớn thân tâm. Như nói vị trời nầy một khi ngồi là một ngàn
kiếp. Nếu khổ thì hành giả không thể trụ lâu trong các oai nghi
được. Như trong kinh nói : Ngồi yên 7 ngày thụ vui giải thoát.
Lại trong đó khoan khoái vui đệ nhất. Như trong kinh nói :
Người khoan khoái mới hưởng thụ vui. Cho nên biết trong tất cả
bậc đều có cái vui. Ý ông hoặc bảo khoan khoái khác, thụ vui
khác. Điều này không đúng. Vì có bao nhiêu lợi ích đến nơi thân
thì gọi là vui. Cho nên khoan khoái vui không khác thụ vui.
Hỏi : Nếu cõi trên quyết định có khổ, vui, buồn, mừng, thì
sao thuận với kinh Thiền ?
Đáp : Kinh ấy trái hại với pháp tướng, nếu bỏ nào có lỗi gì ?
Lại trong ấy lạc hành tịch diệt không hiển lộ, không thể phát
khởi tham giận về mặt thô. Cho nên nói là không khổ không vui.
Lại trong đó khổ vui vi tế không rõ, không có các thứ khổ về
đao, gậy; các thứ buồn rầu về mất người thân v.v… Cho nên gọi
không buồn mừng. Như nói cõi Sắc không lạnh không nóng.
Trong đó cũng có tứ đại, sao nói là không lạnh không nóng được ?
Như nói chúng sinh ở Tam thiền một thân một tướng. Trong ấy
cũng có ánh sáng sai khác. Như nói nếu người hành thiền không
thể khéo trừ sự buồn ngủ, sự đùa giỡn thì ánh sáng không trong
sạch.
Lại như người ít trí gọi là không có trí.
Lại như người đời thức ăn ít mặn nói là không mặn. Như vậy
trong đó buồn mừng không hiển hiện, nên gọi là không có.
Lại các ông nói trong đó không giác. Trong kinh Phật nói
tưởng làm nhân duyên cho giác. Trong đó có tưởng mà Vì sao
không giác ? Cho nên phải biết giác pháp cho đến cõi Hữu đỉnh
vẫn còn là thô giác, nên mới nói vào Nhị thiền mới diệt được.
Thành Thật Luận Trang 203 Tuệ Quang Foundation
Cho nên trong 2 cõi trên cũng có khổ vui v.v....
Xong phần luận về thụ ấm.
( không chia quyển )
Phẩm 84 : Luận về tư trong hành ấm của nhóm khổ đế
Trong kinh nói tư duy là hành ấm.
Hỏi : Những gì là tư duy ?
Đáp : Nguyện cầu là tư duy. Như trong kinh nói : Tư duy
thấp, cầu thấp, nguyện thấp.
Hỏi : Vì sao biết cầu là tư duy ?
Đáp: Như trong kinh nói : Vì khởi làm nên gọi là hành. Thụ ấm
khởi làm, gọi là cầu. Như trong kinh nói : Khởi làm đều nương
nơi ái.
Lại trong kinh nói : Như một bó lúa mạch để giữa đường ngã
tư, 6 người đến đập, có người thứ 7 lại đến đập nữa. Ý các Tìkheo
nghĩ sao ? Là thành thục chưa ? Thành thục rồi thưa Vậy
Tôn ! Phật nói : Người si cũng vậy, thường bị 6 thứ xúc nhập
đánh đập. Khi bị đập như vậy là nghĩ thân sau, tức là đến thành
thục. Phải biết cầu tức là tư duy.
Lại nói ý nghĩ đến cái ăn nên quán như đống lửa. Lửa dụ cho
cái gì ? Là người cầu thân sau; thân sau như lửa, vì thường sinh
các khổ.
Lại trong kinh nói : Ngã tức là chỗ động, cũng là hý luận.
Tác khởi nương nơi ái, tùy chỗ có ngã thì có động niệm hý luận.
Tác khởi nương ái. Nếu pháp tác khởi, thì nói là nương nơi ái.
Phải biết cầu tức là tư duy.
Lại nói nếu đứa trẻ từ khi sinh tập lòng từ, có thể khởi nghiệp
ác, suy nghĩ nghiệp ác chăng ? Thưa không, Vậy Tôn ! Nghĩa nầy
là cầu muốn tạo nghiệp ác.
Lại nói nghiệp là tư duy, tư duy rồi thì trong tư duy là ý
nghiệp. Tư duy rồi là thân khẩu nghiệp. Tư duy rồi gọi là cầu rồi.
Thành Thật Luận Trang 204 Tuệ Quang Foundation
Lại trong Kinh Hòa Lợi nói : Ni-kiền tử dứt thụ nước lạnh,
mà thụ nước nóng; khi sắp chết cầu nước lạnh cuối cùng không
được mà chết, sinh ý mong lên trời. Vậy thì vì suy nghĩ cái lạnh
nên sinh. Cho nên biết cầu tức là tư duy.
Hỏi : Ông nói cầu là tư duy. Đó là tướng của ái, chứ không
phải tư duy. Bởi vì sao ? Vì trong Kinh Hữu Nhân Hữu Duyên nói
: Cái tìm cầu của người si tức là ái.
Lại trong Kinh Đại Nhân nói : Do ái nên mới cầu v.v...
Lại trong kinh nói : Người khổ cầu nhiều, người vui không
cầu.
Lại nói nếu người muốn hành 5 dục, muốn tức là cầu…
Lại nói ái nhân duyên nên lấy. Trước cầu sau lấy. Cầu tức là
ái. Cho nên ông cho cầu là tư duy, cũng không đúng. Bởi vì sao ?
Vì trong Kinh Hòa Lợi nói : Không tư duy mà tạo nghiệp, thì
nghiệp ấy không nặng. Không tư duy là không biết trước. Vậy
gian cũng cho biết là tư duy, như nói làm sao người trí có thể làm
điều này. Ai có tư duy, sẽ làm điều này. Nghĩa của lời nầy là
người trí cho nên biết, biết tức là tư duy ?
Đáp : Nguyện gọi là nhóm. Muốn, một phần của nguyện gọi
là tư duy. Như người nguyện nói : Đời sau tôi sẽ được thân như
vậy.
Hỏi : Nếu muốn là một phần của tư duy, thì không có tư duy
vô lậu.
Lại tư duy là nhân của ái. Như trong kinh nói : Nếu biết,
thấy, ý nghĩ ăn, tức là biết, thấy, dứt, 3 thứ ái. Cho nên biết tư duy
là nhân của ái ?
Đáp : Ông nói không có tư duy vô lậu. Tôi cũng không nói
có tư duy vô lậu. Bởi vì sao ? Vì hành tướng khởi làm, nên gọi là
tư duy. Pháp vô lậu không có tướng khởi làm. Cho nên tư duy là
khởi làm, không phải diệt pháp.
Thành Thật Luận Trang 205 Tuệ Quang Foundation
Lại ông nói tư duy là nhân của ái. Đó cũng không đúng. Bởi
vì sao ? Vì tư duy là quả của ái, cũng là một phần của ái, không
phải nhân của ái. Vì quả đoạn nên nói nhân đoạn, nghĩa là ý, tư,
thực đoạn nên 3 ái đoạn. Hành v.v... các nhân duyên đều lấy đây
giải đáp. Cho nên biết ái phần là tư duy. Ái có 2 thứ : có nhân có
quả. Nhân gọi là ái, quả gọi là cầu. Cầu tức là tư duy.
Hỏi: Nếu lúc ở trong nhân gọi ái, lúc ở trong quả gọi tư duy,
thì tư duy không phải ái phần. Bởi vì sao ? Vì nói pháp ở trong
nhân tướng khác, ở trong quả tướng khác. Cho nên biết tư duy
không phải ái phần. Như trong Kinh Hữu Nhân Hữu Duyên nói :
Chỗ tìm cầu của người si tức là ái, chỗ ra làm của người ái tức là
nghiệp. Cho nên tư duy tùy theo nghiệp tướng mà khác với ái.
Lại nếu người vì tham việc này nên tìm cầu việc này, cho
nên từ tham sinh cầu. Cầu tức là tư duy. Cho nên tham là nhân
của tư duy ?
Đáp : Tôi trước đã nói ái phần là tư duy, ái phần tức là ái, chỉ
có ái mới khởi gọi là tham, tham rồi gọi là cầu.
Lại ông nói nguyện, điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì
nguyện là một phần của tư duy. Trước nguyện là nghiệp, sau
nghiệp là hồi hướng.
Hỏi : tư duy với ý là một hay là khác ?
Đáp : Ý tức là tư duy. Như trong Pháp Cú nói : Ác tâm làm
ra, nói ra đều chịu quả khổ. Thiện tâm cũng như vậy. Cho nên biết
ý tức là tư duy. Nếu ý không phải là tư duy, thì cái gì là nghiệp
của ý ? Ý nghiệp là ý hành trong cảnh duyên. Cho nên tư duy tức
là ý. Tuy tướng chung nói ý hành là tư duy, mà tư duy ấy phần
nhiều nói trong thiện và bất thiện. Tư duy này có nhiều phần. Nếu
người vì chúng sinh cầu thiện cầu ác, bấy giờ gọi là tư duy. Nếu
việc cầu chưa được, bấy giờ gọi là cầu. Nếu cầu thân sau, bấy giờ
gọi là nguyện. Cho nên biết một thứ tư duy mà gọi bằng nhiều tên.
Thành Thật Luận Trang 206 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 85 : Xúc
Thức ở trong cảnh duyên gọi là xúc. Vì 3 thứ hòa hợp gọi là
xúc. Đó không phải tướng của xúc. Bởi vì sao ? Vì căn không đến
duyên. Cho nên căn, duyên không phải hòa hơp. Vì 3 thứ nầy có
thể lấy duyên nên gọi là hòa hợp.
Hỏi : Riêng có tâm số pháp gọi là xúc. Bởi vì sao ? Vì trong
12 nhân duyên nói Xúc nhân duyên thụ.
Lại nói xúc làm nhân cho thụ, tưởng, hành v.v.... Nếu không
có pháp, làm sao làm nhân ? Cho nên biết có tâm số pháp nầy gọi
là xúc.
Lại trong Kinh Lục Lục nói có nhiều lục xúc.
Lại trong kinh nói : Nên quán vô minh các xúc. Nếu nói các
nhân của thành giả pháp, không nên lại nói riêng giả pháp.
Lại trong kinh có 2 thứ xúc: Một là 3 việc hòa hợp là xúc.
Hai là 3 việc hòa hợp nên xúc. Cho nên biết xúc có 2 thứ. Một là
có tự thể. Hai là giả danh. Như mặt trời và phân trâu, 3 thứ khác
với lửa, mặt trăng khác với nước, đất v.v... khác với mộng. Như
vậy xúc khác với mắt v.v... có lỗi gì sao ?
Lại như các Tì-kheo hòa hợp không khác các Tì-kheo. Các
ấm hòa hợp không khác các ấm. Hai cây hòa hợp không khác 2
cây. Hai tay hòa hợp không khác 2 tay. Các bệnh hòa hợp không
khác các bệnh. Xúc cũng như vậy, không khác mắt v.v... lại có lỗi
gì ?
Đáp : Tôi trước đã nói tâm có thể lấy duyên, bấy giờ gọi là
xúc. Cho nên, khi tâm làm nhân sinh thức, rồi sau thụ v.v... các
pháp mới sinh. Trong Kinh Lục Lục cũng nói bấy giờ gọi là xúc.
Đó là có đạo lý.
Lại chúng tôi không công nhận 2 thứ xúc đó. Thường nói 3
thứ hòa hợp gọi là xúc. Dù cho có 2 thứ xúc đó, cũng nên bỏ hẳn
kinh ấy đi, vì trái với pháp tướng. Cho nên dẫn kinh không phải là
nhân.
Thành Thật Luận Trang 207 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu xúc nầy khác nhau như nước với lửa, thì làm cũng
phải khác mà thật không thấy có khác với làm. Cho nên biết xúc
nầy không khác với 3 thứ kia.
Lại nếu xúc là tâm số thì khác nhau với các tâm số khác. Bởi
vì sao ? Vì xúc là các tâm số duyên mà xúc, chứ không phải xúc
duyên để sinh khác, nên không phải tâm số pháp.
Hỏi : Vì xúc thắng nên xúc duyên, tâm số không phải xúc
duyên. Xúc như thụ duyên ái, không phải ái duyên thụ ?
Đáp : Xúc có thắng tướng gì mà các tâm số không có, cần
nói tướng nó ra, mà thật nói không được. Cho nên không phải là
nhân. Thụ là thời gian đầu, ái là thời gian sau, cho nên thụ duyên
ái, không phải ái duyên thụ.
Lại nếu xúc là tâm số pháp đặc biệt cần nói tướng nó, nhưng
thật không thể nói được, nên phải biết là không khác.
Lại Phật với trong pháp khác, cũng có nói tên xúc. Như nói
nếu có khổ não đến xúc thân người.
Lại nói : Thụ lạc, xúc, không buông lung, thụ khổ xúc không
giận dữ. Trong các thụ này là nói tên của xúc.
Lại Phật nói con quỷ mình có lông nhọn như mũi tên ngươi
chạm xúc thì nhám rít không thể lại gần thân. Như người đời nói
xúc lửa thì vui, cũng nói xúc là ăn, cũng nói tay chạm xúc. Các
việc trên đây đều do thân thức biết mà nói tên là xúc.
Lại các chỗ khác nói người mù không xúc sắc màu. Cũng đối
với duyên sắc v.v... mà nói tên là xúc. Xúc này vì lời nói không
nhất định, nên không phải riêng có tâm số pháp này. Nếu nói xúc
là tâm số thì với xúc tướng trái nhau. Bởi vì sao ? Vì Phật nói 3
thứ hòa hợp nên gọi là xúc. Cho nên biết thật không riêng có tâm
số pháp. Nếu pháp đến nơi thân đều gọi là xúc.
Lại tùy có thể cùng với thụ v.v... làm nhân cho tâm số, bấy
giờ mới gọi là xúc.
Thành Thật Luận Trang 208 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 86 : Niệm
Tâm tác phát gọi là niệm. Niệm nầy là tướng của tác phát
nên niệm niệm mới có thể sinh lại tâm khác.
Lại nói niệm tướng có thể thành xong công việc. Như trong
kinh nói : Nếu nhãn nội nhập sắc không hư hoại, ngoại nhập tại
trước mắt, mà trong đó không thể có niệm hay sinh tâm khác, thì
nhãn thức không sinh.
Hỏi : Biết của các thức đều do niệm lực sinh khởi phải không
?
Đáp : Không phải. Bởi vì sao ? Vì các thức sinh biết không
hẳn quyết định. Hoặc do sức tác phát sinh, như cưỡng trừ dục
v.v... Hoặc do sức của căn sinh, như người tỏ mắt có thể quan sát
từng đầu sợi lông. Hoặc do sức của duyên sinh, như xa thấy ánh
sáng đèn, thấy ánh sáng không xao động. Hoặc do khéo tập nên
sịnh, như nghề nghiệp tinh xảo v.v... Hoặc do đế lấy tướng nên
sinh, như đắm say nơi sắc. Hoặc do pháp tự phải sinh, như thiền
định trong thời kiếp tận. Hoặc do thời tiết nên sinh, như chúng
sinh ác tâm bị đoản mạng. Hoặc do chỗ sinh nên sinh như tâm bò
dê v.v... Hoặc tùy thân lực nên sinh, như tâm nam nữ v.v... Hoặc
tùy theo năm nên sinh như tâm trẻ nhỏ v.v... Hoặc do mỏi mệt nên
sinh, hoặc do nghiệp lực nên sinh, như thụ các thứ dục. Hoặc do
định lực nên sinh, như buộc tâm một chỗ là tăng tăng trưởng htri
thức. Hoặc do quyết định nên sinh, như kế tiếp vô ngại đạo ắt sinh
giải thoát. Hoặc do lâu chán nên sinh, như chán mùi cay đắng thì
nghĩ đến vị ngon ngọt. Hoặc theo sở thích nên sinh, như đối với
sắc v.v... hoặc thích xem sắc, mà không ưa nghe tiếng, như màu
xanh đỏ v.v... cũng vậy. Hoặc do mềm mại nên sinh, như lông
đâm vào mắt thì sinh khổ tâm mà đâm vào nơi khác thì không
vậy. Hoặc do hết khổ nên sinh, như chữa thiện bệnh mắt thì ăn
mới biết ngon. Hoặc do diệt chướng nên sinh như diệt trừ dục
v.v..., thì mới biết nó là tội lỗi. Hoặc lần lượt nên sinh, như do
Thành Thật Luận Trang 209 Tuệ Quang Foundation
dưới mà sinh giữa, do giữa mà sinh trên. Hoặc tùy chỗ thiên vị mà
sinh.
Hỏi : Nếu tất cả tri thức đều do thứ lớp tùy thuộc nhau, cớ
sao nói không có thể sinh tâm niệm khác ư ?
Đáp : Là vì ngoại đạo. Các ngoại đạo nói vì thần ý hợp nên
biết của thức mới sinh. Vì muốn phá thuyết này, nên mới chỉ rõ
các biết của thức đều thuộc thứ lớp duyên, cho nên nói lời như
vậy. Nếu người không có thể sinh tâm niệm khác, thì biết của thức
không sinh. Bởi vì sao ? Vì thứ lớp duyên, tức biết của thức có
nhân, mỗi mỗi mới sinh.
Lại tùy chỗ nghiêng về đó mà mỗi mỗi thức sinh, như đốn
cây, cây thường ngã về phía nghiêng nặng.
Lại như trước đã nói các thức không phải sinh đồng thời. Vì
nhân duyên ấy mà biết các thức mỗi mỗi theo thứ lớp sinh.
Lại các thức pháp phải theo thứ lớp sinh, chứ không đợi thần
ý hòa hợp. Như ngoại vật mộng, cây, nhánh, lá, hoa quả theo thứ
lớp sinh. Nội pháp cũng như vậy, biết của mỗi mỗi thức theo thứ
lớp sinh. Niệm ấy có 2 thứ. Một là chính. Hai là tà. Chính là
thuận lý, như nói chính vấn chính nạn. Đó là nên đáp, vì nạn vấn
có lý.
Lại như hỏi thật tướng các pháp, tính vô thường v.v..., đó gọi
là chính.
Lại tùy chỗ có thể thành nên gọi là chính. Cho nên biết tùy
thuận đạo niệm chân thật niệm v.v... gọi là chính niệm.
Lại tùy khi tùy người niệm gọi là chính niệm. Như người
nhiều dục quán bất tịnh là chính niệm. Khi tâm chìm lặng mà phát
khởi tướng lên là chính niệm. Trái lại trên đây gọi là tà niệm.
Chính niệm có thể sinh tất cả công đức, tà niệm có thể khởi tất cả
phiền não.
Phẩm 87 : Dục
Thành Thật Luận Trang 210 Tuệ Quang Foundation
Tâm có điều cần, gọi là dục. Bởi vì sao ? Kinh nói dục dục.
Vì cần các điều mình muốn nên gọi dục dục.
Lại trong kinh nói : Dục là gốc của pháp. Vì muốn tìm cầu
nên được tất cả pháp, cho nên nói dục là gốc của pháp.
Lại nói : Nếu các Tì-kheo thâm dục pháp ta, thì pháp trụ lâu
dài. Nếu nhất tâm cần đến gọi là thâm dục.
Lại trong như ý túc nói : Dục Tam-muội, tinh tiến Tammuội,
tâm Tam-muội, tư duy Tam-muội. Tùy tâm cần đến gọi là
dục. Pháp dục này, lấy tinh tiến giúp tu tập định tuệ. Từ 4 việc
nầy, chỗ cần đến đều được gọi là như ý phần.
Lại nói : Ông muốn bay đi.
Lại có một Tì-kheo thường ưa đọc tụng. Vị nầy tu thiền
chứng được A-la-hán, nên không đọc tụng nữa. Có vị trời hỏi rằng
: Ông thường ưa đọc tụng, nay sao không tụng nữa ? Tì-kheo đáp
: Trước kia tôi chưa lìa dục nên phải cần kinh sách. Nay đã lìa 3
cõi nên không cần đến nữa. Có bao nhiêu kinh sách, thiền định, trí
tuệ, Thánh nhân đều nói là pháp có thể xả bỏ. Cho nên biết cái cần
đến là nguyên nhân của dục. Vì cần đến nên tham các thứ mình
muốn, đó gọi là tham dục.
Phẩm 88 : Hỷ
Nếu tâm ưa thích, gọi là hỷ. Như nói chúng sinh tính loại
theo nhau. Thích ác theo ác, ưa thiện theo thiện, gọi là hỷ.
Hỏi : Tính không gọi là hỷ. Bởi vì sao ? Phật biết chúng sinh
có nhiều thứ tính, tính đó là trí lực. Biết nhiều thứ hỷ là dục trí
lực. Cho nên biết tính của hỷ đều khác nhau.
Đáp : Tu lâu, nhóm họp tâm, thì gọi là tính, tùy tính sinh hỷ.
Cho nên biết nhóm họp tâm lâu gọi là tính trí lực. Trí tùy theo tính
sinh hỷ, gọi là dục trí lực. Cho nên nói chúng sinh tùy tính theo
nhau, nhóm họp lâu ác tâm thì ưa thích điều ác, nhóm họp lâu
thiện tâm thì ưa thích điều thiện. Như lúc lạnh ưa thích nóng. Đó
Thành Thật Luận Trang 211 Tuệ Quang Foundation
là nhân duyên hiện tại không phải từ tính sinh. Đó sự khác nhau
của tính hỷ..
Phẩm 89 : Tin
Quyết định là tướng của tin..
Hỏi : Quyết định là tướng của tuệ. Quyết định là dứt nghi, là
tướng của tuệ ?
Đáp : Tự mình chưa thấy pháp, theo lời dạy của hiền thánh,
tâm được thanh tịnh. Đó gọi là tin.
Hỏi : Nếu vậy thì tự thấy pháp rồi không cần tin nữa ?
Đáp : Phải. A-la-hán gọi là người không tin. Như trong Pháp
cú nói : Người không tin, người không biết ơn, gọi là bậc Thượng
nhân.
Lại trong kinh nói : Bạch Vậy Tôn ! Tôi đối với việc này là
tin theo lời Phật. Nếu tự thấy pháp tâm được thanh tịnh, thì đó gọi
là tin. Trước nghe pháp, sau dùng thân chứng, khởi ý niệm như
vầy : Pháp nầy chân thật chắc chắn không hư dối, tâm được thanh
tịnh, đó gọi là tin trong 4 thứ tin. Ví như người bệnh, trước tin lời
thầy, uống thuốc thiện bệnh, sau đối với thầy sinh tâm thanh tịnh,
đó gọi là tin. Tin nầy có 2 thứ : một sinh từ si, một sinh từ trí.
Sinh từ si là không nghĩ thiện ác, như đối với các ác sư Phú-lan-na
v.v... sinh tịnh-tâm. Sinh từ trí là như trong 4 thứ tin, đối với Phật
v.v... sinh tịnh tâm. Tin nầy 3 thứ : thiện, bất thiện, vô ký.
Hỏi : Tin bất thiện nầy tức là phiền não. Pháp bất tín trong
đại địa không phải là tin vậy ?
Đáp : Không phải pháp bất tín. Tín nầy là tịnh tướng, bất
thiện tín đó cũng là tịnh tướng. Nếu không phải vậy thì bất thiện
thụ không nên gọi là thụ, mà thật không phải vậy. Cho nên mới có
3 thứ sai khác. Nếu như tin ở căn số tùy thuận giải thoát, ở 37
phẩm trợ đạo thì quyết định là thiện.
Thành Thật Luận Trang 212 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 90 : Cần
Tâm phát hành động gọi là cần. Thường nương các pháp
hoặc nghĩ nhớ hoặc định, trong đó phát động nhất tâm thường
hành gọi là cần. Cần có 3 thứ là thiện, bất thiện và vô ký. Nếu ở
trong 4 chính cần thì gọi là thiện, ngoài ra không gọi là thiện. Nếu
hành giả tin bất thiện là tội lỗi, thiện pháp là lợi ích, sau đó sinh
siêng năng là dứt bất thiện, và tụ tập pháp thiện. Cho nên kế tiếp
tín căn mới nói tinh tiến căn. Cần nầy khi vào trong thiện pháp gọi
là tinh tiến, vì có thể làm căn bản cho tất cả việc lợi ích. Nhờ tinh
tiến nầy trợ giúp các pháp ức niệm v.v... mới có thể được quả lớn,
như lửa gặp được gió đốt cháy càng nhiều.
Phẩm 91 : Hồi ức
Biết cảnh từng trải qua từ trước gọi là nhớ lại. Như trong
kinh nói : Đã trải qua lâu xa có thể nhớ không quên. Đó gọi là
nhớ.
Hỏi : Nhớ nầy ở trong 3 đời. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói
nhớ tất cả đều là đúng.
Lại nhớ nầy ở trong 4 ký ức. Bốn chỗ ký ức nầy cũng duyên
3 đời, vì sao chỉ nói quá khứ ư ?
Đáp : Đó nói đều đúng, là không phải 3 đời. Nếu tâm dao
động, lặng chìm thì nhớ theo 2 chỗ, đó gọi khắp đi. Ông nói 4 chỗ
ký ức duyên 3 đời, trong đó tuệ có thể duyên hiện tại, mà không
phải là nhớ. Cho nên Như Lai trước nói tên nhớ, hiểu thì nói là
tuệ.
Hỏi : Vì sao một thức khác trải qua biết, lại một thức khác có
thể nhớ ?
Đáp : Pháp về nhớ là như vậy. Trong pháp tự nối nhau sinh
diệt, liền sinh thức khác rồi trở lại có thể tự duyên.
Thành Thật Luận Trang 213 Tuệ Quang Foundation
Lại pháp tri thức là như vậy. Một thức khác trải qua, một
thức khác có thể biết. Như nhãn thức nhận thức sắc, ý thức có thể
biết.
Lại một người khác đã dùng qua, một người khác có thể biết.
Như các Thánh nhân cho đến các thân đời trước đã từng trải qua,
nhờ sức ký ức nên biết.
Hỏi : Nếu biết cảnh đã trải qua từ trước gọi là nhớ, thì nay
thức v.v… các pháp đều nên gọi là nhớ. Bởi vì sao ? Vì pháp ấy
cũng đi qua cảnh đã từng trải từ trước ?
Đáp : Các thức pháp cũng gọi là nhớ. Như Phật bảo Tát-giàni-
diên tử rằng : Ngươi nhớ lại việc trước thì hãy đáp.
Lại nói : Nếu nhớ việc hý lạc từ trước thì phiền não phát
sinh. Cho nên các thức v.v… các pháp nhớ việc trước, nên cũng
gọi là hồi ức. Hồi ức nầy do lấy tướng mà sinh, tùy pháp nào đó
rồi lấy tướng thì hồi ức phát sinh, khác thì không sinh. Về định
tuệ, sẽ nói trong Phẩm định tuệ.
Phẩm 92 : Giác quán
Nếu tâm thường khởi sinh tán hành, gọi là giác.
Lại trong tán tâm, cũng có thô, tế. Thô gọi là giác, vì không
giữ sâu nên gọi thô tâm. Như trong kinh nói : Phật nói hạnh của ta
có hạnh giác quán. Cho nên Sơ thiền chưa giữ sâu được, nên gọi
là hữu giác quán. Tán tâm vi tế thì gọi là quán. Hai pháp này phổ
biến khắp 3 cõi, vi tướng thô, tế của tâm này.
Lại tâm tán loạn gọi là giác quán, vì tướng này ứng tất cả
chỗ.
Lại việc chưa hiện biết việc, phải dùng trí so sánh mới biết.
Suy nghĩ so lường nên vậy hay không nên vậy, gọi là giác. Cho
nên suy nghĩ so lường việc hiện chưa biết nên có tên chính giác và
tà giác. Lìa phân biệt suy nghĩ so lường thì gọi là chính kiến. Ba
thứ biết nầy là : Tà giác là suy nghĩ điên đảo cho rằng trong vô
Thành Thật Luận Trang 214 Tuệ Quang Foundation
thường là thường v.v... Chính giác là chưa được chân trí, dùng
tướng so sánh mà biết. Hành giả này trong đạt phần thiện căn gọi
là nhẫn. Như vậy các điều thuận đạo so sánh biết, gọi là chính
giác. Trong đó nếu xa lìa tướng nghĩ nhớ phân biệt, gọi là biết
trong hiện tại. Trong giác này suy nghĩ tính toán, cho rằng do
nhân duyên này nên như vậy, nhân duyên kia nên không như vậy,
đó gọi là quán.
Hỏi : Có thuyết cho rằng giác quán ở trong một tâm. Việc ấy
vậy nào ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì các ông tự nói dụ như
đánh chuông linh, tiếng đầu là giác, các tiếng sau là quán.
Lại như dụ sóng nước, thô là giác, tế là quán. Là vì thời gian
và phương hướng khác, nên không phải một tâm.
Lại 5 thức không phân biệt nên không có giác quán.
Phẩm 93 : Các tâm số
Nếu không làm điều thiện, hoặc làm điều thiện mà không
chính đáng, gọi là phóng dật. Không riêng có một pháp gọi là
phóng dật. Khi tâm hành, gọi là phóng dật. Trái với đây gọi là
không phóng dật. Nến tâm hành thiện gọi là không phóng dật,
cũng không có pháp riêng khác.
Lại tâm chạy theo bất thiện gọi là phóng dật. Thuận theo
thiện pháp gọi là không phóng dật. Người có thiện căn thì không
tham, sân, si. Lấy suy nghĩ so lường làm đầu, có thể không tham
đắm gọi là không tham. Lấy từ bi làm đầu, không sinh giận dữ gọi
là không sân. Lấy chính kiến làm đầu, không sai lầm gọi là không
si. Không riêng có một pháp gọi là không tham. Có người nói
không tham gọi là không tham. Điều này không đúng. Bởi vì sao
? Vì không tham gọi là không pháp. Không pháp làm sao làm
nhân cho pháp ? Không sân không si cũng như vậy.
Thành Thật Luận Trang 215 Tuệ Quang Foundation
Lại cùng với 3 bất thiện căn trái nhạu nên chỉ nói 3. Kiêu
mạn v.v... cũng phải là bất thiện căn. Vì lược bớt nên chỉ nói là 3
bất thiện căn. Sẽ nói đến trong Phẩm bất thiện. Vô ký căn, có
người nói có 4 là : vô ký, ái kiến, mạn và vô minh.
Lại có người nói có 3 là : ái, vô minh và tuệ. Đó không phải
Phật nói. Tùy tâm vô ký mà nhân duyên nào sinh, thì gọi nhân
duyên đó là vô ký căn.
Lại vì nghiệp thân khẩu phần nhiều từ tâm vô ký sinh khởi,
cho nên vô ký tâm gọi là vô ký căn. Khi tâm hành có thể khiến
thân tâm yên tĩnh, diệt trừ được thô trọng, bấy giờ gọi là khoan
khoái. Khi có nhiều tâm hành gọi là xả. Nếu trong các thụ, tâm
hành không rõ gọi là xả. Trong các Thiền lìa khổ vui mặc cho tâm
hành gọi là xả. Trong 7 giác không chìm lặng, không động, tâm
hành bình đẳng gọi là xả. Lìa lo buồn mừng vui, được tâm bình
đẳng gọi là xả. Trong 4 vô lượng, lìa tâm yêu ghét gọi là xả. Như
vậy tùy nhiều thứ pháp trái nhau thì có vô lượng tâm số sai khác.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 7 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 94 : Bất tương ưng hành
Tâm bất tương ưng hành là : đắc, bất đắc, vô tưởng định, diệt
tận định, vô tưởng xứ, mạng căn, sinh, diệt, trụ, dị, lão, tử, danh
chúng, cú chúng, tự chúng và phàm phu pháp v.v....
Đắc là các pháp thành tựu, vì chúng sinh nên mới có đắc.
Chúng sinh thành tựu 5 ấm thân, đời hiện tại gọi là đắc.
Thành Thật Luận Trang 216 Tuệ Quang Foundation
Lại trong đời quá khứ nghiệp thiện bất thiện, quả báo chưa
chịu, chúng sinh đã thành tựu pháp nầy. Như trong kinh nói :
Người này thành tựu thiện pháp và cũng thành tựu bất thiện pháp.
Hỏi: Có người nói thành tựu nghiệp thân khẩu thiện bất
thiện đời quá khứ, như người xuất gia thành tựu giới luật nghi đời
quá khứ. Việc này vậy nào ?
Đáp : Đều đã thành tựu. Bởi vì sao ? Trong kinh nói : Nếu
người làm tội phúc tức là đã có 2 việc thường bám theo thân, như
bóng theo hình.
Lại trong kinh nói : Họa phúc không hư hoại, nghĩa là có thể
được quả . Nếu không thành tựu nghiệp tội phúc thì không nên
đắc quả, tức mất các hành nghiệp.
Hỏi : Luật nghi quá khứ không nên thành tựu. Bởi vì sao ? Vì
ông đã nói pháp quá khứ diệt, vị lai chưa có, hiện tại không có thể
thường có thiện tâm, thì làm sao thành tựu giới luật nghi được ư ?
Đáp : Người nầy thành tựu luật nghi hiện tại, không phải quá
khứ. Như bởi hiện ô nhiễm nên nhiễm. Như vậy lấy giới hiện tại
nên gọi là trì giới, chứ không lấy quá khứ. Nhưng vì trước đã thụ
mà không xả, nên gọi thành tựu quá khứ.
Hỏi : Có luận sư nói chúng sinh thành tựu tâm thiện bất thiện
trong đời vị lai. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Không thành tựu. Bởi vì sao ? Vì chưa tác nghiệp mà
đã được. Cho nên vị lai không thành tựu. Đó gọi là đắc, là không
riêng có tâm bất tương ưng pháp gọi là đắc. Trái với đó gọi là bất
đắc. Và cũng không riêng có pháp bất đắc.
Vô tưởng định là không có pháp nhất định. Bởi vì sao ? Vì
phàm phu không có thể diệt tâm và tâm số pháp. Điều này sẽ nói
sau. Tâm và tâm số pháp nầy vi tế khó giác sát biết được, nên gọi
là vô tưởng. Vô tưởng xứ cũng như vậy.
Diệt tận định là tâm diệt không còn hành nữa nên gọi là diệt
tận, không có pháp riêng, giống như Nê-hoàn.
Thành Thật Luận Trang 217 Tuệ Quang Foundation
Mạng căn là vì nghiệp nhân duyên nên 5 ấm nối nhau gọi là
mạng. Mạng nầy lấy nghiệp làm căn bản nên gọi là mạng căn.
Sinh là 5 ấm ở đời hiện tại gọi là sinh.
Xả bỏ đời hiện tại gọi là diệt.
Nối nhau nên trụ.
Trụ nầy biến đổi khác nên gọi là dị. Không phải riêng có
pháp gọi là sinh trụ diệt.
Lại trong nghĩa sâu xa của Phật pháp, thì các duyên hòa hợp
là có pháp sinh. Cho nên không có pháp nào có thể sinh pháp
khác.
Lại nói nhãn, sắc v.v... làm nhân duyên cho nhãn thức. Trong
đó không nói có sinh, cho nên không sinh không có lỗi gì.
Lại nói sinh pháp v.v... đồng thời sinh. Nếu pháp đồng thời
sinh tức diệt. Trong đó sinh v.v... để làm gì ? Điều này cần suy
nghĩ.
Lại trong 12 nhân duyên Phật tự nói nghĩa sinh : Các chúng
sinh nơi nơi sinh, thụ các ấm là sinh. Cho nên trong đời hiện tại
trước tiên được các ấm gọi là sinh. Cũng nói 5 ấm lui mất gọi là
chết. Cũng nói các ấm suy hoại gọi là già, mà không riêng có
pháp già chết.
Danh chúng là do từ chữ sinh danh, tức tên gọi, như nói
người nào đó. Từ chữ thành nghĩa gọi là cú, tức là câu. Các chữ
gọi là chữ. Có người nói có các danh, cú, tự, là tâm bất tương ưng
hành. Điều này không đúng. Vì pháp nầy gồm trong pháp thuộc
về thanh.
Hỏi : Pháp phàm phu là tâm bất tương ưng hành. Việc này
vậy nào ?
Đáp : Pháp phàm phu không khác phàm phu. Nếu riêng có
pháp phàm phu, cũng phải chấp nhận riêng có pháp cái bình v.v....
Lại nữa số lượng, một khác, hợp ly, tốt xấu, v.v... pháp đều
phải có riêng. Trong kinh sách ngoại đạo nói cái bình khác, pháp
Thành Thật Luận Trang 218 Tuệ Quang Foundation
cái bình khác. Do pháp cái bình mới biết là sắc cái bình khác, sắc
của pháp khác. Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì pháp là tự
thể. Nếu ông bảo pháp phàm phu khác, thì sắc không có tự thể,
phải đợi sắc pháp mới có. Điều này không đúng. Cho nên bởi ông
không nghĩ kỹ nên mới nói riêng có pháp phàm phu. Có các luận
sư học ngoại điển nên tạo luận A-tì-đàm nói riêng có pháp phàm
phu v.v.... Cũng có các luận sư khác nói riêng có pháp tính, chân
tế, nhân duyên v.v... các pháp vô vi. Cho nên phải suy nghĩ kỹ lý
nầy, đừng chỉ theo văn tự.
Xong nhóm khổ đế.
Phẩm 95 : Tướng của nghiệp
trong luận về nghiệp của nhóm tập đế
Luận giả nói : Đã nói xong về khổ đế, nay sẽ nói về tập đế.
Tập đế là các nghiệp và phiền não. Nghiệp nầy có 3 thứ :
thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân nghiệp là thân ra làm
gọi là thân nghiệp. Nghiệp này có 3 thứ : đoạt lấy sinh mạng
v.v... là bất thiện, đứng lên nghinh tiếp lễ bái v.v... là thiện, nhổ cỏ
v.v... là vô ký.
Hỏi : Nếu thân ra làm gọi là thân nghiệp, thì cái bình v.v...
các vật cũng phải có thân nghiệp, vì thân nó cũng có tác dụng vậy
?
Đáp : Cai bình v.v... là quả của thân nghiệp, chứ không phải
thân nghiệp, vì nhân quả khác.
Hỏi : Không nên có thân nghiệp. Bởi vì sao ? Vì thân khởi
động tác gọi thân nghiệp, mà pháp hữu vi diệt trong từng mỗi
niệm nên không phải có động tác.
Đáp : Điều này trong Phẩm niệm niệm diệt đã đáp, nghĩa là
pháp khi sinh ở các chỗ khác, làm tổn hại hoặc lợi ích cho người
khác, đó gọi là thân nghiệp.
Thành Thật Luận Trang 219 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu như vậy thì thân tức là thân nghiệp, vì sinh các chỗ
khác, nên không phải thân ra làm gọi là thân nghiệp ?
Đáp : Thân là công cụ tác nghiệp. Thân khi sinh ở các chỗ
khác nhóm họp tội phúc gọi là nghiệp. Cho nên thân không phải
nghiệp.
Hỏi : Nhóm tội phúc là không làm, còn thân làm là vậy nào
?
Đáp : Khi sinh thân ở các chỗ khác có các tạo tác gọi là thân
làm.
Hỏi : Thân này ra làm hoặc thiện hoặc bất thiện, mà thân
không vậy. Cho nên không phải thân làm ?
Đáp : Tùy tâm lực nên khi sinh thân ở chỗ khác có thể nhóm
nghiệp. Cho nên hoặc nhóm thiện, bất thiện, không những là thân,
mà khẩu nghiệp cũng vậy, chẳng những âm thanh ngôn ngữ cũng
lấy tâm lực, tùy âm thanh ngôn ngữ mà nhóm thiện ác gọi là khẩu
nghiệp. Ý nghiệp cũng vậy, nếu tâm quyết định : Ta giết chúng
sinh nầy. Bây giờ nhóm tội phúc cũng như vậy.
Hỏi : Như từ thân khẩu riêng có nghiệp, ý với ý nghiệp là tức
chính nó hay là khác ?
Đáp : Hai thứ : Hoặc ý tức là ý nghiệp. Hoặc do từ ý sinh
nghiệp. Như ý quyết định giết chúng sinh, đó là ý bất thiện, mà
cũng là ý nghiệp. Nghiệp nầy có thể nhóm tội thắng hơn nghiệp
thân khẩu. Nếu tâm chưa quyết định, thì ý này khác với nghiệp.
Hỏi : Đã biết tướng tạo tác là do từ tạo tác mà sinh. Nhóm
nghiệp khác, cái nào là tướng ?
Đáp : Đó tức là không tạo tác.
Hỏi : Chỉ thân khẩu là không tạo tác, ý không có không tạo
tác sao ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì trong đó không có
nhân duyên, nên chỉ nghiệp thân khẩu có không tạo tác, mà ý
không có không tạo tác.
Thành Thật Luận Trang 220 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói có 2 thứ nghiệp là tư nghiệp và tư dĩ
nghiệp. Tư nghiệp, nghĩa là nghĩ tức là ý nghiệp. Tư dĩ nghiệp,
nghĩa là nghiệp do đã nghĩ rồi. Có 2 thứ là do nghĩ nhóm họp
nghiệp và nghiệp thân khẩu. Ý nghiệp là quan trọng nhất, sau sẽ
đề cập. Do trọng nghiệp nhóm họp gọi là không tạo tác, vì thường
nối nhau sinh, nên biết ý nghiệp cũng có trạng thái không tạo tác.
Phẩm 96 : Không tạo tác
Hỏi : Pháp nào gọi là không tạo tác ?
Đáp : Do tâm sinh tội phúc. Ngủ mê, ngất xỉu v.v..., những
khi ấy thường sinh đó gọi là không tạo tác. Như trong kinh nói :
Nếu trồng cây gây vườn rừng, đào giếng, bắt cầu v.v.... Người nầy
tạo phúc ngày đêm thường tăng trưởng.
Hỏi : Có người bảo tác nghiệp hiện có thể thấy. Như bố thí,
lễ bái, sát sinh hại mạng v.v... là phải có. Còn không tác nghiệp, vì
không thể thấy nên không có. Xin làm rõ nghĩa nầy.
Đáp : Nếu không có sự không tạo tác, thì không có pháp lìa
sát sinh v.v....
Hỏi : Lìa là không làm, không làm thì không có pháp. Như
người khi không nói, thì không có pháp không nói sinh. Như khi
không thấy sắc cũng không có pháp không thấy
Đáp : Nhân lìa sát sinh v.v... được sinh lên trời. Nếu không
có pháp làm sao làm nhân ?
Hỏi : Không vì lìa nên sinh trời, mà vì thiện tâm vậy ?
Đáp : Không phải. Trong kinh nói : Người tinh tiến tùy theo
sống lâu được phúc nhiều. Vì tùy theo phúc nhiều nên được
hưởng vui cõi trời lâu dài. Nếu chỉ có thiện tâm làm sao có thể có
nhiều phúc ? Vì người ấy không thể thường có thiện tâm.
Lại nói trồng cây v.v..., phúc ngày đêm tăng trưởng.
Lại nói trì giới kiên cố. Nếu không có không tạo tác, làm sao
nói phúc thường tăng trưởng và trì giới kiên cố ?
Thành Thật Luận Trang 221 Tuệ Quang Foundation
Lại chẳng phải làm tức là sát sinh, làm tuần tự pháp sát sinh
mới sinh, rồi sau bị tội sát sinh. Như người sai bảo giết, tùy lúc sai
bảo, người sai bảo bị tội sát sinh. Cho nên biết có cái gọi là không
tạo tác.
Lại ý không có giới luật nghi. Bởi vì sao ? Vì người tâm ở
trong tâm bất thiện, vô ký, hoặc vô tâm, cũng gọi là trì giới. Cho
nên biết, lúc bấy giờ có cái không tạo tác. Bất thiện luật nghi cũng
như vậy.
Hỏi : Đã biết có pháp không tạo tác không phải tâm. Vậy nó
là sắc, hay là tâm bất tương ưng hành ?
Đáp : Đó là thuộc về hành ấm. Bởi vì sao ? Vì tướng tác khởi
là hành, không tạo tác là tướng tác khởi. Sắc là tướng não hoại,
không phải tướng tác khởi.
Hỏi: Trong kinh nói 6 thứ tư duy là hành ấm, mà không nói
tâm bất tương ưng hành ?
Đáp : Điều này trước đã nói rõ, nghĩa là có tâm không tương
ưng với tội phúc.
Hỏi : Nếu cái không tạo tác tác là sắc tướng thì có lỗi gì ?
Đáp : Năm pháp sắc thanh hương vị xúc, vì không phải tính
tội phúc, nên không lấy sắc tính cho là không tạo tác.
Lại Phật nói sắc là tướng não hoại. Trong cái không tạo tác
nầy không thể tìm được tướng não hoại, cho nên không phải sắc
tính.
Hỏi : Không tạo tác là tính của thân khẩu nghiệp; thân khẩu
nghiệp tức là sắc ?
Đáp : Không tạo tác chỉ gọi là thân khẩu nghiệp, mà thật
không phải thân khẩu làm ra, vì bởi thân khẩu mà ý nghiệp mới
sinh, cho nên mới nói thân khẩu ý nghiệp tính.
Lại hoặc chỉ do ý sinh cái không tạo tác, thì cái không tạo tác
nầy làm sao gọi sắc tính được ?
Thành Thật Luận Trang 222 Tuệ Quang Foundation
Lại trong cõi Vô sắc cũng có cái không tạo tác. Trong Vô sắc
thì làm sao có sắc ?
Hỏi : Làm những gì có thể sinh cái không tạo tác ?
Đáp : Do thiện bất thiện tác nghiệp có thể sinh cái không tạo
tác, chứ không phải vô ký, vì sức nó yếu.
Hỏi: Từ khi làm thì gian bao lâu sinh cái không tạo tác ?
Đáp : Từ đệ nhị tâm sinh. Tùy tâm thiện ác mạnh thì có thể
trụ lâu. Nếu tâm yếu thì trụ không lâu. Như thụ giới một ngày thì
trụ một ngày, thụ giới trọn đời trụ trọn đời.
Phẩm 97 : Cố ý và không cố ý
Hỏi: Trong kinh nói : Cố tác nghiệp không cố tác nghiệp.
Vậy nào là cố ý và không cố ý ?
Đáp : Trước đã biết mà cứ làm gọi là cố làm, trái lại gọi là
không cố làm.
Hỏi : Nếu không cố ý làm, không gọi là nghiệp ?
Đáp : Có nghiệp, nhưng chỉ có tâm cố ý làm thì nghiệp có
quả báo.
Lại tâm quyết định làm nghiệp gọi là cố ý. Tâm không quyết
định làm gọi là không cố ý. Như nói lỡ lời gọi là không cố ý,
không lỡ lời là cố ý. Như trong kinh nói : Ông có tội lỗi, ta sẽ kể
tội, nếu nói lỡ lời thì ta không kể. Hỏi như vậy 3 lần. Nếu trước
không có ý làm mà làm như người khi đi dẫm phải làm chết trùng,
đấy là không cố ý. Nghiệp không cố ý này, vì không nhóm, nên
không có thể sinh quả báo.
Nghiệp có 4 thứ : có làm không nhóm, có nhóm không làm,
có cũng làm cũng nhóm, có không làm không nhóm.
Làm mà không nhóm như làm nghiệp sát sinh v.v..., sau liền
sinh ăn năn làm nghiệp bố thí v.v... , về sau lòng cũng ăn năn và
làm nghiệp rồi sau tâm không nhớ. Đó gọi là làm mà không
nhóm.
Thành Thật Luận Trang 223 Tuệ Quang Foundation
Nhóm không làm là như người khác làm sát sinh v.v... mà
lòng minh sinh vui mừng, người khác làm bố thí v.v... lòng cũng
vui mừng.
Cũng làm cũng nhóm là như tự làm tội sát sinh v.v..., làm
phúc bố thí v.v..., tự sinh lòng vui mừng.
Không làm không nhóm là cũng không làm cũng không sinh
mừng. Trong đây, cũng làm cũng nhóm, nghiệp ấy quyết định
chịu quả báo. Như trong kinh nói nếu nghiệp cũng làm cũng nhóm
là nghiệp chắc chắn thụ quả báo. Cho nên nghiệp làm nhóm, hoặc
hiện đời chịu báo, hoặc đời sau chịu báo, hoặc sau đời sau nữa
chịu báo.
Hỏi : Nếu nghiệp có làm có nhóm quyết định chịu báo thì
không giải thoát ?
Đáp: Nghiệp tuy cố làm, nhưng vì được chân trí nên không còn
nhóm nữa, ví như rang hạt giống thì hạt giống không có thể sinh
lại.
Hỏi : Trong kinh Giám Lượng Phật nói : Có người tạo
nghiệp báo địa ngục mà hiện đời chịu nhẹ ?
Đáp : Nếu ác nghiệp nặng mà có thể hiện chịu nhẹ, cớ sao
không thể khiến hết sạch ư ? Nếu người không thể tu đầy đủ chân
trí, thì ác nghiệp được cơ hội trả báo, nên đời hiện tại ít chịu quả
báo.
Hỏi : A-la-hán tuy tu đủ chân trí mà cũng chịu ác báo ?
Đáp : Thâm nghiêm tu hành thiện pháp thì ngăn được bất
thiện. Cho nên, nếu người ở trong trăm ngàn đời tu nhóm giới
v.v... các nghiệp thiện, thì nghiệp bất thiện không thể sinh khởi
được, giống như chư Phật, bậc Nhất thiết trí. Còn những người
khác không thể như vậy, cho nên nghiệp bất thiện được cơ hội
phát sinh. Cho nên A-la-hán tuy tu đủ chân trí, nhưng vì nghiệp
đời trước nên cũng phải chịu ác báo.
Thành Thật Luận Trang 224 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong kinh cũng nói Phật cũng bị hủy báng v.v... các
nghiệp báo bất thiện ?
Đáp : Phật là bậc Nhất thiết trí, không còn ác nghiệp báo vì
đã dứt tất cả cội gốc các pháp bất thiện. Nhưng dùng vô lượng
thần thông, phương tiện thị hiện làm Phật sự không thể nghĩ bàn.
Như trong kinh Tăng Nhất A-hàm nói có 5 việc không thể nghĩ
bàn.
Nghiệp có 2 thứ : Định báo và Bất định báo. Nghiệp định
báo là hoặc nhiều hoặc ít quyết sẽ chịu quả báo. Nghiệp bất định
là có thể khiến tiêu hết.
Hỏi : Vậy nào gọi nghiệp định báo và những gì là nghiệp bất
định báo ?
Đáp : Trong kinh nói tội ngũ nghịch là nghiệp định báo.
Hỏi : Chỉ tội ngũ nghịch là nghiệp định báo, còn có tội gì
khác không ?
Đáp : Trong các nghiệp khác cũng có phần định báo, nhưng
không thể chỉ ra được. Hoặc vì sự trọng nên quyết định báo, như
đối với Phật và đệ tử Phật, hoặc cúng dường, hoặc khinh chê.
Hoặc vì tâm trọng nên có định báo, như người vì cố tâm giết hại
trùng kiến, nặng đến việc giết người. Những nghiệp như vậy v.v...
quyết chắc có định báo.
Hỏi : Nếu tội ngũ nghịch có thể khiến nhẹ bớt, Vì sao không
thể khiến tiêu hết ?
Đáp : Tội pháp nầy là như vậy, không thể làm tiêu hết được.
Như Tu-đà-hoàn dù giải đãi mấy cũng không đến 8 lần sinh.
Lại tội ngũ nghịch vì bền chắc nặng nề nên không thể làm
tiêu hết được. Như trong phép vua người bị trọng tội, có thể được
giảm khinh, chứ không tha bổng.
Phẩm 98 : Tội nhẹ nặng
Thành Thật Luận Trang 225 Tuệ Quang Foundation
Hỏi: Trong kinh nói có tội nghiệp nhẹ nặng. Vậy nào là nhẹ
nặng ?
Đáp : Nếu nghiệp có thể bị quả báo địa ngục A-tì, gọi là tội
nặng.
Hỏi : Những nghiệp gì có thể bị quả báo ấy ?
Đáp : Như nghiệp phá Tăng ắt chịu báo này. Bởi vì sao ? Vì
chia lìa ngôi Tam Bảo, khiến Tăng bảo lìa Phật bảo cũng phá
Pháp bảo nữa. Lại vì sinh tà kiến hạng nặng nên có thể khởi
nghiệp này. Cũng do rất ghét, giận Phật, nên khởi nghiệp này.
Cũng từ lâu tụ tập ác tính, rất tham lợi dưỡng, nên khởi nghiệp
này.
Lại người này nói phi pháp là pháp phải thời, ngăn nhiều
chúng sinh tu các thiện pháp, nên gọi là tội nặng.
Hỏi : Chỉ có tội phá Tăng bị báo địa ngục A-tì, còn các tội
khác ?
Đáp : Các nghiệp khác cũng có. Như nói không có tội phúc,
cúng dường cha mẹ và các người thiện không có quả báo. Các tà
kiến nầy cũng bị quả báo đó.
Lại làm cho người khác sa vào tà kiến nầy, khiến nhiều
chúng sinh tạo các ác nghiệp nên cũng bị báo đó.
Lại có thể trước tác các kinh sách tà kiến như vậy, như bọn
Phú-lan-na v.v... và các sư tà kiến, làm hại chính kiến, nên mở
đường nhân duyên cho nhiều chúng sinh làm ác.
Lại tội hủy báng hiền thánh cũng bị quả báo ấy, như nói một
bên hông chịu khổ 8 vạn 4 ngàn năm.
Lại như trong Kinh Pháp Cú nói :
Thánh sống lâu vì pháp,
Đem pháp ấy giáo hóa.
Độn căn nương ác kiến
Trái nghịch lời dạy đây,
Như tre gai sinh trái,
Thành Thật Luận Trang 226 Tuệ Quang Foundation
Thì tự hại thân hình,
Người nầy đọa địa ngục,
Đầu xuống chân ngược lên,
Người ác tâm ác khẩu,
Vì bài báng hiền thánh.
Người nầy đọa 10 vạn
Địa ngục Ni-la-phù,
Ba sáu vạn địa ngục,
Và 5 A-phù-đà.
Lại sát sinh v.v..., nếu sự trọng, tâm trọng, tội này cũng đọa
địa ngục A-tì. Trái lại với nặng là nhẹ, như là ở trong địa ngục
nhỏ bị nướng trên lửa nướng v.v... súc sinh, ngạ quỷ và trong
người trời chịu quả báo bất thiện, đó là tội nhẹ.
Phẩm 99 : Nghiệp lợi lớn nhỏ
Hỏi: Trong kinh nói có nghiệp lợi lớn nhỏ. Những gì là
nghiệp lợi lớn ?
Đáp : Tùy theo nghiệp nào có thể đưa đến A-nậu-đa-la Tammiệu
Tam-bồ-đề, đó là nghiệp báo lợi lớn nhất. Nghiệp kế tiếp là
có thể được quả Bich-chi-phật đạo. Nghiệp kế tiếp là được quả
Thanh Văn đạo. Nghiệp kế tiếp là được quả báo cõi Hữu đảnh, có
thọ mạng đến 8 vạn đại kiếp. Đây là nghiệp báo lớn nhất trong
sinh tử. Nghiệp kế tiếp là được quả báo cõi Vô sở hữu xứ, thọ
mạng 6 vạn kiếp. Cứ như vậy lần lượt cho đến cõi Phạm Vậy, thọ
mạng nửa kiếp. Tiếp đến trời Tha Hóa Tự Tại trong cõi Dục
hưởng số trời 1 vạn 6 ngàn tuổi. Cho đến trời Tứ Thiên Vương
hưởng số trời 5 trăm tuổi. Như vậy trong loài người 4 thiên hạ đều
tùy theo nghiệp mà thụ quả báo. Như vậy súc sinh, ngạ quỷ, địa
ngục cũng có nghiệp lợi nhỏ.
Hỏi : Những nghiệp nào có thể được A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề ?
Thành Thật Luận Trang 227 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Bố thí v.v... đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, thì có thể được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Rồi từ thiện nghiệp nầy thứ
lớp càng mỏng dần được Bích-chi-phật Bồ-đề, càng mỏng dần
nữa được Thanh Văn Bồ-đề. Nếu tu tăng thượng 4 vô lượng tâm
thì được sinh về cõi Hữu đảnh. Tu 4 vô lượng thứ lớp mỏng dần,
kế là sinh về bậc dưới. Tu 4 vô lượng càng nhỏ mỏng nữa và tùy
nhân duyên giới định nên sinh cõi Sắc. Do nhân duyên tu bố thí trì
giới tu thiện nên sinh cõi Dục. Nghiệp bố thí v.v... nầy tùy theo
phúc điền dày mỏng nên có sai khác. Nếu tu trong phúc điền chư
Phật thì vượt trội hơn hết. Kế đến là trong phúc điền Bich-chiphật,
v.v... mà tu, thứ lớp càng ít dần.
Hỏi : Trí phúc điền hơn, hay đoạn phúc điền hơn ?
Đáp : Nếu trí có thể đạt tới pháp tướng nghĩa là rốt ráo
không, thì trí ấy hơn. Bởi vì sao ? Vì như Phật do trí nên trong
hàng đệ tử Phật là hơn, chứ không do đoạn. Như trong Tạp Bảo
Tạng nói : Nếu quét đất phòng Tăng rộng bằng một cõi Diêmphù-
đề, không bằng quét tháp Phật một chỗ bằng chừng một bàn
tay. Lại tất cả trí tuệ đều vì để đoạn. Như các Bồ-tát ở lâu trong
sinh tử đều là khéo đoạn. Khéo đoạn nghĩa là tự mình đoạn kết và
cũng đoạn kết cho chúng sinh. Các kết nầy đều dùng trí đoạn dần.
Cho nên biết trí tuệ phúc điền đối với đoạn là hơn.
Hỏi : Như Tu-đà-hoàn lợi căn, Tu-đà-hoàn độn căn, thì 2
phúc điền này đàng nào là hơn ?
Đáp : Lợi căn hơn, không phải độn căn.
Hỏi : Nói vậy không đúng. Như trong kinh nói : Cúng dường
trăm Tu-đà-hoàn, không bằng cúng dường một Tư-đà-hàm. Lại
nói : Cỏ dại hại lúa, tham dục vấy bẩn tâm. Cho nên bố thí người
vô dục, phải được phúc nhiều. Tư-đà-hàm có thể làm mỏng 3 độc,
Tu-đà-hoàn thì chưa, làm sao nói hơn được ?
Đáp : Kinh đó là không liễu nghĩa. Vì sao biết được ? Trong
kinh nầy nói : Thí cho súc sinh được lợi gấp trăm. Mà thật thí cho
Thành Thật Luận Trang 228 Tuệ Quang Foundation
chim chóc v.v... được quả báo hơn thí cho người ngoại đạo có 5
thần thông. Cho nên kinh nầy cần phải biện biệt rõ nghĩa lại. Kinh
nầy theo số nhiều nên mới nói như vậy, trừ lợi trí tuệ.
Lại Tu-đà-hoàn vì trí lực nên tuy thụ các dục mà cũng gọi
phúc điền, không phải phàm phu đoạn dục, cho đến người có thể
được định cõi Hữu đảnh.
Lại trí đa văn ở trong đạt phần còn hơn, chứ không phải định
Hữu đảnh phần không thông đạt.
Lại Bồ-tát Di-lặc tuy chưa được Phật quả, nhưng cũng được
các A-la-hán lễ kính.
Lại như người chỉ có thể phát tâm Bồ-đề suông liền được La-
Hán cung kính. Như có một Sa-di mang áo bát đi theo A-la-hán,
Sa-di nầy bỗng phát tâm vô thượng Bồ-đề, vị A-la-hán liền lấy áo
bát lại tự mang lấy và đi theo sau Sa-di. Như trong thí dụ có nói
rộng. Cho nên biết trí tuệ phúc điền là hơn hết.
Phẩm 100 : Ba nghiệp
Hỏi : Trong kinh nói 3 nghiệp : thiện, bất thiện, và vô ký.
Những gì là nghiệp thiện ?
Đáp : Tùy theo nghiệp nào đó có thể cho người khác việc tốt,
nghiệp đó là thiện. Nghiệp thiện nầy do pháp bố thí, trì giới, lòng
từ v.v… mà sinh, chứ không phải do tắm rửa v.v....
Hỏi : Sao gọi là tốt ?
Đáp : Làm cho người khác được vui, gọi là tốt. Cũng gọi là
thiện, cũng gọi là phúc.
Hỏi : Nếu làm cho người khác được vui gọi là phúc thì làm
cho người khác bị khổ phải có tội ? Vậy như thầy thuốc châm cứu
làm bệnh nhân đau đớn cũng phải đắc tội ?
Đáp : Thầy thuốc châm cứu là vì làm cho được vui nên
không đắc tội.
Thành Thật Luận Trang 229 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu vì cho vui là được phúc, thì như dâm vợ người ta,
khiến họ sinh vui sướng cũng phải được phúc ?
Đáp : Dâm dục quyết định là bất thiện. Nếu ai khiến người
khác làm pháp bất thiện, thì đấy là khổ không phải vui. Nói vui, là
nay vui, sau cũng vui, chứ không phải chút vui hiện tại, mà vì đó
bị khổ lớn về sau.
Hỏi : Có người dùng nhân duyên ăn uống khiến người khác
sinh vui, hoặc ăn uống không tiêu khiến người kia đến chết, thì
người cho ăn nầy bị tội hay được phúc ?
Đáp : Người nầy tâm tốt cho ăn, không có tâm xấu, nên chỉ
được phúc mà không bị tội.
Hỏi : Dâm vợ người khác ấy cũng như vậy. Chỉ vì khoái lạc
nên cũng bị tội, và được phúc ?
Đáp : Điều này trước đã giải đáp. Nghĩa là dâm dục, quyết
định là bất thiện, vì sinh khổ lớn.
Lại trong bố thí ăn uống có phần phúc đức. Bởi vì sao ? Vì
người được ăn uống không phải ai cũng chết. Chúng sinh đều bởi
lòng tham nhiễm mà hành dâm dục, hoàn toàn không phải nhân
phúc, làm sao được phúc ?
Hỏi : Có người vì sát sinh mà lợi ích nhiều người, như người
phá giặc thì đất nước khỏi tại họa. Như giết thú dữ thì lợi nhân
dân. Các trường hợp này có thể dùng sát sinh mà được phúc
chăng ? Hoặc có người dùng nhân duyên trộm cướp mà cúng
dường cha mẹ, nhân duyên dâm dục sinh con cái tốt, nhân duyên
vọng ngữ hoặc cho mạng sống lâu, hoặc do ác khẩu v.v... khiến
người ta được lợi. Đó đều là thuộc về 10 ác, làm sao do đấy mà
được phúc ?
Đáp : Người nầy được phúc mà cũng bị tội. Vì lợi người
khác nên được phúc, vì hại người khác nên bị tội.
Thành Thật Luận Trang 230 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Thầy thuốc nầy trước làm cho người khổ vì đau đớn,
sau khiến được vui vì thiện bệnh, sao không bị tội và được phúc,
mà chỉ được phúc ?
Đáp : Thầy thuốc ấy vì thiện tâm mà châm cứu, không có ác
ý. Nếu hành nghiệp vì thiện ác nên khởi, thì có tội phúc cả hai.
Hỏi : Sát v.v... đều là được phúc. Bởi vì sao ? Vì nhân duyên
sát được việc sở dục. Như làm vua giết giặc được giàu sang. Do
nhân duyên phúc nên được tùy ý sở dục, sao sát sinh mà không
gọi là phúc ?
Lại người có thể sát thì được tiếng khen. Mà tiếng khen là
điều vui của người đời, mà điều vui của người đời là quả báo của
phúc đức.
Lại vì sát, nên được mừng vui, mà mừng vui cũng là quả báo
phúc đức.
Lại trong kinh sách nói : Nếu ra trận bị chết, được sinh lên
trời. Như bài kệ nói : Nếu người ra chiến trận bị chết, thì thiên nữ
tranh nhau làm chồng.
Lại nói : Tuy người thiện giàu sang, vì giặc mà xông ra trước
có thể giết giặc không bị tội, không giết giặc là bị tội.
Lại Kinh Vậy Pháp nói : Có 4 hạng người : Bà-la-môn, Sátlợi,
Tỳ-xá và Thủ-đà-la. Bốn hạng người nầy đều có pháp riêng.
Bà-la-môn có 6 pháp, Sát-lợi 4 pháp; Tỳ-xá 3 pháp và Thủ-đà-la 1
pháp. Sáu pháp là : 1. Tự làm miếu thờ trời. 2. Làm thầy tế trời. 3.
Tự đọc kinh Vi-đà. 4. Cũng dạy người khác. 5. Bố thí. 6. Nhận
của thí. Bốn pháp là : 1. Tự làm miếu thờ trời mà không được làm
thầy tế. 2. Theo người khác thụ học kinh Vi-đà mà không được
dạy người. 3. Bố thí, không được nhận của thí. 4. Bảo vệ nhân
dân. Ba pháp là : 1. Làm miếu thờ trời mà không làm thầy tế. 2.
Tự học kinh Vi-đà mà không dạy người. 3. Tự bố thí mà không
nhận của ai thí. Một pháp là : Lo cung cấp 3 hạng người trên mà
Thành Thật Luận Trang 231 Tuệ Quang Foundation
thôi. Như hạng Sát-lợi vì bảo hộ nhân dân nên có quyền đoạt
mạng sống người khác mà chỉ có phúc không có tội.
Lại kinh Vi-đà nói sát sinh được phúc, như lấy thần chú
trong Vi-đà đọc mà giết dê, dê chết sinh lên trời. Kinh Vi-đà được
người đời tin.
Lại cũng kinh ấy nói nếu thật sự người đáng chết thì giết
không tội. Như tiên ngũ thông hay dùng thần chú giết người,
không thể nói là thần tiên có tội. Nhười có tội làm sao có thể
thành được điều này. Cho nên biết sát sinh được phúc.
Lại người hoặc có tâm lực có thể đoạt mạng sống thì được
phúc, mà thí cho mạng sống là đắc tội. Như người đem thiện tâm
mà sát sinh vì muốn khiến được an vui làm sao có tội ? Như
những người hàng thịt nuôi dưỡng bò dê, tuy thí mà vẫn phải tội.
Như vậy trong việc trộm v.v... cũng có phúc đức ?
Đáp : Ông nói sát sinh được sở dục nên gọi phúc đức. Điều
này không đúng. Bởi vì sao ? Vì do phúc đức nên được tùy ý sở
dục. Việc sở dục đó lại duyên sát sinh mà được. Bởi vì sao ? Vì
do đời trước tạo phúc bất tịnh. Như trong kinh nói : Cướp đoạt sát
hại được của dùng làm bố thí, khiến cho người khác buồn khóc,
và bất tịnh thí, thí như vậy v.v... gọi là bất tịnh. Phải do ác duyên
mới thụ quả báo.
Lại người nầy do đời trước có phúc mà cũng có nghiệp
duyên sát sinh, cho nên thân nay nhân sát mà thụ báo. Cũng có
chúng sinh phải đền của, đền mạng nên do sát hại mà được toại sở
dục.
Lại không phải tất cả chúng sinh đều do sát sinh mà được
giàu sang, như người đời nói : Người ấy bạc phúc, làm nhiều công
đức, mà không được quả. Tiếng khen, mừng vui cũng như vậy,
đều nhờ phúc đức nhân duyên nên được tiếng khen, được thân
mạnh mẽ và vui sướng. Chỉ vì phúc đó bất tịnh nên mới do sát mà
được.
Thành Thật Luận Trang 232 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Sư tử, cọp sói v.v... được thân khỏe mạnh đều từ tội
sinh, Dạ-xoa, La-sát v.v... được vui thân khỏe mạnh vui sướng
cũng do tội sinh ?
Đáp : Điều này như trước đã đáp. Cũng do phúc bất tịnh nên
nhờ tội duyên mà được. Ông nói trong kinh sách có nói nếu ra
trận bị chết, thì được sinh lên trời. Điều này không đúng. Bởi vì
sao ? Vì kinh ấy là lấy lời tà ngữ dụ dỗ người ngu, làm cho họ có
dũng khí. Vì sao biết được ? Vì phải do phúc sinh phúc, do tội
sinh tội. Trong đó hoàn toàn không có nhân của phúc thì do đâu
mà được quả phúc ? Ông nói 4 hạng chúng sinh đều tự có pháp
riêng. Hạng Sát-lợi vì bảo hộ người nên giết không tội. Điều này
cũng như gia pháp, như những người hàng thịt v.v... đời đời gia
truyền thường phải sát sinh mà cũng không khỏi tội. Hạng Sát-lợi
cũng vậy, tuy vương pháp, nhưng cũng phải đắc tội. Nếu Sát-lợi
vì vương pháp nên sát sinh không tội, thì những người thợ thịt,
thợ săn kia cũng phải không tội ? Chỉ hạng Sát-lợi đem lòng
thương xót vì dân trừ hoạn, do đó mà được phúc. Nếu trừ lý do
trên, mà đoạt mạng sống của người khác, thì có tội. Như người
cướp đoạt của cải người khác để nuôi cha mẹ mình, thì người nầy
đều phải chịu cả tội lẫn phúc.
Hỏi : Người nào trộm cướp về nuôi cha mẹ người ấy không
nên đắc tội. Như Kinh Vậy Pháp nói : Nếu thiếu ăn 7 ngày, theo
Thủ-đà-la mà cướp lấy thì không tội. Nếu mạng đói muốn chết,
thì được quyền theo Bà-la-môn mà lấy. Người ấy tuy dùng ác
nghiệp để nuôi mạng sống, nhưng không gọi là người phá giới, vì
lý do nguy cấp, giống hư không bụi đất không làm bẩn được.
Người nầy cũng vậy, không nhiễm bẩn vì tội ?
Đáp : Tức trong pháp Phạm Chí nói : Nếu khi cướp đoạt, tài
chủ đến bảo hộ, bấy giờ Phạm Chí cần phải so sánh tính toán giả
sử công đức của tài chủ không bằng thì nên giết đi. Bởi vì sao ?
Vì Phạm Chí ta là người thắng nhân có thể dùng nhiều phương
Thành Thật Luận Trang 233 Tuệ Quang Foundation
pháp sám hối mà trừ diệt tội nầy. Nếu công đức đôi bên ngang
nhau, thì tự giết giết người tội đó cũng ngang nhau, vì đó là trọng
tội khó trừ diệt. Nếu tài chủ đức thắng hơn, thì nên tự xả thân, vì
đó là trung tội, không thể trừ. Phân biệt như vậy, trong việc giết
người cướp đoạt cũng phải như vậy.
Lại nói dùng ác nghiệp nuôi sống, trong đó vì có ác nghiệp
làm sao gọi là phúc ? Ông nói người xông ra trước giết thì không
tội, không giết là đắc tội. Lời nầy đã bị phá. Bởi vì sao ? Vì nếu
đối phương đức hơn mình, thì nên tự xả thân. Nếu là không tội, cớ
sao phải như vậy ? Ông nói kinh Vi-đà nói sát sinh được phúc.
Lời nói nầy trước đã đáp, là giết thì không phúc… Ông nói người
thật đáng chết, thì giết không tội. Vậy thì giết những người oán
tặc cũng phải không tội ?
Lại tất cả chúng sinh đều là tội nhân, vì khởi tác nghiệp thụ
ấm thân. Vậy thì sát sinh không đắc tội. Điều này không thể được.
Hỏi : Nếu chúng sinh đời trước tự tạo sát duyên, nay giết lại
sao đắc tội. Nghiệp cướp trộm v.v... cũng đều như vậy?
Đáp : Nếu như vậy thì không có tội phúc. Bởi vì sao ? Vì
người ấy đời trước tự tạo duyên giết hại, nên giết nó không tội, thì
lìa sự sát sinh cũng không có phúc đức. Như vậy nếu bố thí người
khác cũng phải không có phúc, vì người thụ thí đời trước đã tự tu
nghiệp bố thí, nay tự được quả báo. Nhưng kỳ thật không thể
không có tội phúc. Nên phải biết chúng sinh tuy tự tạo nghiệp sát,
mà người sát sinh cũng vẫn đắc tội, vì khởi tham sân si các phiền
não. Các phiền não nầy gọi là tà điên đảo; sinh tâm tà điên đảo
còn đáng bị tội huống chi cố ý khởi nghiệp thân khẩu ? Bởi đó mà
khiến sinh tử vô cùng tận. Nếu không như vậy, thì khi các vị thần
tiên khởi phiền não tham sân v.v..., phải không liền bị mất thần
thông. Nếu đó không phải tội lỗi thì với pháp gì trái nhau mới gọi
là phúc đức ? Phải biết chúng sinh tuy đời trước tự tạo duyên sát
sinh, nhưng kẻ sát sinh vẫn phải có tội. Tuy ông nói tội nhân vô
Thành Thật Luận Trang 234 Tuệ Quang Foundation
sở có thể thành. Điều này không đúng. Vì hạng Chiên-đà-la v.v...
cũng có thể dùng chú thuật để giết người. Người tiên cũng vậy, vì
ác tâm nên tùy theo lời chú nên vẫn có thể thành tội.
Lại người này vì phúc lực nên có thể thành, bởi cướp đoạt
mạng sống nên bị tội. Ông nói hoặc có tâm lực do đoạt mạng sinh
phúc, thí mạng đắc tội. Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì
phải do tâm lực và phúc nhân duyên nên mới được phúc, chứ
không những chỉ do tâm. Nếu đem thiện tâm dâm vợ của thầy,
giết Bà-la-môn có thể được phúc chăng ? Những người ở vùng
biên giới xa xôi như ở các xứ An-tức v.v... đem tâm phúc đức
dâm mẹ, dâm chị liệu có phúc chăng ? Cho nên biết do nhân
duyên phúc, mới có phúc sinh, chứ không phải chỉ có tâm mà
thôi. Cướp trộm v.v... cũng như vậy. Cho nên biết sát sinh v.v...
đều là bất thiện.
Lại sát sinh này v.v... chẳng phải vì lợi cho người khác nên
gọi là bất thiện, tuy với đời hiện nầy được chút vui chốc lát,
nhưng đời sau chịu khổ lớn, vì hại tổn người khác nên gọi là
tướng bất thiện.
Lại hiện thấy có nhiều chúng sinh gây những nghiệp sát sinh
v.v... cũng phần nhiều ở trong tam đồ và loài người chịu các khổ
não. Nên phải biết khổ não là kết quả của sát sinh v.v..., vì quả
giống nhân.
Lại trong 3 ác đạo tội khổ rất dữ dội. Cho nên biết vì nhân
duyên sát sinh v.v... mà sinh vào trong đó.
Hỏi : Trong người, trời cũng như vậy. Các trời cũng thường
cùng chiến tranh với A-tu-la, giết hại lẫn nhau. Trong loài người
cũng dùng hầm hào, lưới, thuốc độc, giết hại chúng sinh ?
Đáp : Trong cõi người, cõi trời có pháp lìa sát sinh v.v..., mà
trong 3 ác đạo không có. Phải biết trong đó, tội khổ rất lớn.
Lại trong loài người bởi nhân duyên sát sinh v.v... nên mất
những lợi lạc sống lâu v.v... Con người thời thượng cổ có thọ
Thành Thật Luận Trang 235 Tuệ Quang Foundation
mạng vô lượng, ánh sáng từ thân phóng ra, sáng như mặt trời mặt
trăng, bay đi tự tại; đất đều tự nhiên sinh các vật tùy ý, gạo thóc tự
nhiên sinh. Nhưng đều bởi phạm tội sát sinh v.v..., nên mất các
việc như vậy. Về sau, đến khi con người thọ mạng chỉ còn 10 tuổi,
lại mất các thứ như bơ, dầu, đường phèn, thóc lúa, bắp v.v..., tất
cả đều không có. Cho nên biết sát sinhv.v... là nghiệp bất thiện.
Lại nếu như lìa sát sinh v.v... được lợi lạc trở lại: Thọ mạng
tăng thêm như tuổi thọ đến 8 vạn tuổi và các sở dục đều tùy ý.
Cho nên biết sát sinh là bất thiện.
Lại như hiện nay, Châu Uất-đan-việt tự nhiên có gạo bắp, áo
mặc do cây sinh ra, đều do lìa sát sinh v.v... Nói tóm lại, chúng
sinh có tất cả những vui sướng gì đều do lìa sát sinh v.v... mà
được. Cho nên biết sát sinh v.v... là nghiệp bất thiện.
Lại pháp sát sinh v.v…là pháp những người thiện đã xả bỏ.
Như chư Phật, Bồ-tát, Duyên Giác, Thanh Văn và bao nhiêu
những người có công đức , v.v... đều lìa bỏ, cho nên biết là bất
thiện.
Hỏi : Sát sinh v.v... nầy, người thiện cũng cho phép. Như
trong Kinh Vi-đà nói : Vì cúng trời nên cho phép giết dê ?
Đáp : Đó không phải là người thiện. Người thiện là thường
cầu lợi tha, tu tâm từ bi, bình đẳng với kẻ oán, người thân. Những
người như vậy, đâu có cho phép sát sinh ? Người nói như vậy là
do lòng tham sân đục vẩn nên tự tạo kinh nầy để cầu sinh lên trời.
Chú chúng sinh kia, nhờ phúc lực nên có thể thành điều này.
Lại sát sinh v.v... nầy, người được giải thoát không bao giờ
làm. Cho nên biết là bất thiện.
Hỏi : Những người được giải thoát cũng không làm các việc
khác nữa, như ăn quá trưa v.v... Điều này cũng nên là bất thiện
sao ?
Đáp : Đó là nhân duyên sinh tội, nên người thiện cũng bỏ.
Nếu pháp không lỗi không nên lìa bỏ. Ăn quá giờ trưa v.v... có thể
Thành Thật Luận Trang 236 Tuệ Quang Foundation
hại hạnh tu hành, cho nên cũng bỏ. Có pháp vì thể tính bất thiện
nên bỏ, như sát sinh, trộm cắp v.v... Có pháp vì nhân duyên bất
thiện nên cũng bỏ, như uống rượu, ăn quá trưa v.v.... Cho nên biết
sát sinh thể tính bất thiện.
Lại người sát sinh bị nhiều người ghét như sư tử, cọp, sói,
các oán tặc và Chiên-đà-la v.v.... Nếu vì pháp nhân duyên nầy mà
bị nhiều người ghét gớm lẽ đâu chẳng phải bất thiện ?
Lại nếu người không sát sinh được nhiều người thương mến,
như các vị hiền thánh tu hạnh từ bi. Cho nên biết sát sinh là bất
thiện.
Hỏi : Có người sát sinh vì sức mạnh mẽ nên được người ưa,
như người vi vua giết các oán giặc thì được vua yêu mến ?
Đáp : Vì nhân duyên nên không phải yêu mến cho lắm. Như
nói nếu người đem ác nghiệp làm cho chủ vui lòng, nếu khi chủ
sinh chán, thì trở lại nghi người nầy. Nếu vì ác sự sinh nghi thì
làm sao gọi gọi là thứong mến ?
Lại những người làm điều bất thiện là tự không thương mình
huống chi người khác ? Cho nên biết sát sinh là pháp bất thiện.
Lại pháp sát v.v... là đánh phá sự trói buộc v.v… các nhân
khổ não. Cho nên biết là bất thiện.
Hỏi : Pháp bất sát v.v... cũng có nhân khổ, như vua ra lệnh
cho người phải giết giặc, nếu không giết chắc bị vua hại ?
Đáp : Nếu vì không giết bèn bị hại. Vậy thì những người
không giết đều bị hại chết ? Người nầy vì tự trái lệnh vua . Nếu
vua biết thâm tâm người nầy không giết, thì không gia hại mà lại
cúng dường. Cho nên biết giết v.v... là nhân duyên khổ, chứ
không phải không giết v.v....
Lại người làm sát sinh, khi sắp chết đều sinh tâm ăn năn.
Cho nên biết là bất thiện.
Lại làm việc sát sinh v.v... nên bị người không tin, trong
đồng bọn còn không tin nhau, huống chi người thiện.
Thành Thật Luận Trang 237 Tuệ Quang Foundation
Lại người làm việc sát sinh còn bị đồng bọn chê bai, huống
chi những người khác.
Lại người làm việc sát sinh v.v... người thiện lánh xa, như
những Chiên-đà-la, người hàng thịt, thợ săn v.v....
Lại những người làm việc sát sinh v.v... không gọi là người
vui, như người hàng thịt, thợ săn v.v... trọn đời không nhờ nghề
nghiệp đó mà được quý trọng.
Lại người thiện gắng công lìa bỏ sát sinh v.v.... Nếu không
phải bất thiện, cớ sao gắng công cầu lìa bỏ làm gì ?
Lại hiện thấy sát sinh v.v... có quả báo không ưa thích. Phải
biết đời sau cũng bị quả báo khổ.
Lại nếu sát sinh v.v... không phải bất thiện, thì còn có pháp
nào gọi bất thiện sao ?
Hỏi : Nếu pháp sát sinh v.v... là bất thiện, thì không có thân
người đẹp. Bởi vì sao ? Vì không có lúc nào không sát sinh. Như
những lúc đi đến, chân cất lên dẫm xuống, hằng thường giết hại
những chúng sinh vi tế. Cũng thường vì ý tưởng của mình mà lấy
vật của người khác. Cũng tùy ý tưởng của mình mà nói dối. Cho
nên chắc không có thân đẹp ?
Đáp : Cố ý làm thì bị tội, chứ không phải không cố ý. Như
trong kinh nói : Thật có chúng sinh, trong đó sinh tâm tưởng
chúng sinh, có tâm muốn giết, giết rồi bị tội giết. Trộm v.v... cũng
như vậy.
Hỏi : Như người ăn thứ độc, cố ý hay không cố ý đều có thể
chết người.
Lại như sa hầm lửa, biết cùng không biết đều có thể cháy
người. Dẫm gai v.v... cũng như vậy. Phải biết sát sinh cố ý hay
không cố ý đều phải bị tội ?
Đáp : Dụ nầy không đúng. Độc để giết hại thân nên chết, còn
tội phúc do tâm, làm sao đem ví dụ được.
Thành Thật Luận Trang 238 Tuệ Quang Foundation
Lại lửa gai v.v..., nếu không cảm giác, không thể sinh khổ.
Cho nên dụ này không đúng. Nếu không biết thì không cảm giác
đau, có biết mới có cảm giác. Như vậy nếu không cố tâm, thì tác
nghiệp không thành, cố tâm thì thành, dụ nầy mới đúng. Có cố thì
có tội; không cố thì không. Các nghiệp đều do tâm sai khác, nên
có thượng có hạ, nếu không cố tâm làm sao có thượng có hạ ?
Như thầy thuốc với không phải thầy thuốc, đều làm cho bệnh
nhân sinh khổ, nhưng vì tâm lực nên có tội phúc sai khác.
Lại như con sờ vú mẹ thì không bị tội, vì không nhiễm tâm.
Nếu nhiễm tâm mà sờ thì có tội. Nên phải biết tội phúc đều do
tâm sinh.
Lại nếu không cố tâm mà có tội, thì những người được giải
thoát cũng có không cố mà não hại chúng sinh thì phải bị tội, và
không có giải thoát, vì lẽ các tội nhân thì không giải thoát.
Lại nếu không cố mà có tội phúc, thì một hành nghiệp phải là
thiện và bất thiện. Như người làm phúc nghiệp lầm giết chúng
sinh, thì nghiệp nầy cũng tội mà cũng phúc ? Điều này không
đúng. Phải biết không cố, thì không nên có tội có phúc gì cả.
Lại nếu vô tâm mà có nghiệp báo, thì làm sao phân biệt được
đâu là thiện, đâu là bất thiện và đâu là vô ký ư ? Nên đều do tâm
mới có sai khác. Như có 3 người đồng đi nhiễu quanh tháp. Một
người nghĩ nhớ công đức Phật. Một người để lấy trộm đồ. Một
người vì dạo mát. Tuy thân nghiệp đồng mà có thiện, bất thiện và
vô ký khác nhau. Phải biết là do ở tâm.
Lại có nghiệp quyết định có quả báo; có nghiệp không quyết
định có quả báo. Có nghiệp thượng, trung, hạ. Có nghiệp có quả
báo hiện tại, có quả báo đời sau, có quả báo sau các đời sau nữa
v.v.... Nếu không do tâm mà có tội phúc thì sao có sai khác như
vậy ?
Lại nếu lìa tâm có nghiệp, thì chẳng phải chúng sinh cũng
phải có tội phúc. Như gió xô sập núi hại chết chúng sinh, gió cũng
Thành Thật Luận Trang 239 Tuệ Quang Foundation
phải có tội. Nếu thổi hoa thơm đến chùa tháp, gió cũng phải được
phúc. Điều đó không thể được. Cho nên biết lìa tâm không có tội
phúc.
Lại có ngoại đạo nói : Tu pháp nhịn ăn, nằm trên tro, đất,
chông gai v.v..., gieo mình xuống vực, nhảy vào lửa, tự lao mình
xuống núi v.v..., dùng những nhân duyên khổ mà có phúc đức.
Có người trí hỏi vặn lại rằng : Nếu vậy chúng sinh ở địa ngục
thường bị đốt nướng, loài ngạ quỷ bị đói khát, loài trùng thiêu
thân bay vào lửa, loài cá rùa ở nước, heo, dê, chó v.v... thường
nằm trên phân đất, Chúng cũng phải được phúc ? Ngoại đạo kia
đáp : Phải đem cố tâm chịu khổ não nầy mới có phúc đức, chứ
không phải không cố tâm mà được. Địa ngục v.v... không phải
dùng cố tâm chịu khổ đốt v.v... Nếu không do cố tâm nên không
có phúc, thì do không cố tâm nên không tội. Nếu do không cố tâm
mà có tội phúc, thì trong địa ngục v.v... cũng phải có phúc ? Có
những lỗi như vậy.
Lại nếu không cố tâm mà có tội phúc, thì đời không có người
thiện. Bởi vì sao ? Vì trong 4 oai nghi thường giết chúng sinh.
Điều này là không thể được. Phải biết không cố tâm, thì không tội
phúc.
Lại không được sinh nơi tốt đẹp là thường vì tội. Mà thật có
các Phạm vương có các thân hình tốt đẹp, cho nên biết nghiệp
không cố tâm là không tội phúc.
Lại trong pháp của các ông, ăn thức ăn bất tịnh, thì đều có
tội. Nếu suy nghĩ cho kỹ, tất cả đồ uống ăn đều là bất tịnh, ăn thức
ăn bất tịnh đều phải đắc tội. Như vậy đụng đến rượu v.v..., thì
không phải Bà-la-môn. Nếu không thấy nghe, đem tịnh tâm mà
ăn, bèn không tội. Phải biết lìa tâm, thì không tội phúc gì cả.
Lại trong việc cúng trời, đem phúc tâm nên giết dê, khiến dê
sinh lên trời. Vì phúc tâm mà giết nên có phúc. Nếu không phải
vậy, tất cả sát sinh đều được phúc mà cũng bị tội.
Thành Thật Luận Trang 240 Tuệ Quang Foundation
Lại như Bà-la-môn nói : Hoặc có khi trộm cướp mà không
tội. Như thiếu ăn bảy ngày được theo Thủ-đà-la mà lấy. Nếu đói
gần chết thì theo Bà-la-môn mà lấy. Cũng vì muốn sinh con đẹp
nên dâm dục không tội. Nếu không vì cố tâm, thì sẽ không có các
khác biệt này. Cho nên biết, nếu người không cố tâm ác ý mà cho
người khác uống độc, thì do đâu đắc tội ? Nếu cố tâm cho người
chất độc, mà độc trở lại làm thiện bệnh, thì phải được phúc ? Như
bố thí cho người ăn, thức ăn ấy không tiêu, khiến người phải chết,
vậy là đắc tội sao ? Nếu không cố tâm mà có tội phúc thì pháp
loạn.
Lại người đời, tất cả việc đều tin nơi tâm, như ngay một câu
nói có thể sinh vui hoặc giận. Đánh đập v.v... cũng vậy. Cho nên
biết các nghiệp đều do nơi tâm.
Lại ý nghiệp thắng hơn hết, phẩm sau sẽ nói, cho nên biết
các nghiệp tại tâm.
Lại như người trí tuệ tuy ở nơi ngũ dục mà không đắc tội,
đều nhờ sức của ý. Bởi vì sao ? Vì người trí thấy sắc không khởi
tâm tưởng tà vạy, nên không lỗi đắm sắc. Thanh v.v... cũng như
vậy. Nếu không khởi vọng tưởng mà có lỗi ấy, thì tất cả mọi thấy
nghe, phải đều có lỗi. Vậy thì ý nghiệp vô dụng. Người trí lấy trí
tuệ làm đầu, tuy thụ 5 dục mà không tham đắm. Ngũ dục tuy có
đấy, nhưng tâm nhàm chán nên có thể không đắm nhiễm, đó
không phải là sức của ý nghiệp ư ? Cho nên không có việc không
cố tâm mà đắc phúc hay đắc tội.
Hỏi : Ông nói tướng thiện và bất thiện là tổn hại hay lợi ích
cho người khác. Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu người
tự đem vật nuôi thân mà làm phúc nghiệp, người ấy tự ăn cũng
vẫn có phúc đức.
Lại tháp chùa, chẳng phải chúng sinh, tưới quét cũng được
phúc.
Thành Thật Luận Trang 241 Tuệ Quang Foundation
Lại lễ kính v.v... đối với người khác là vô ích. Chỉ tổn hại
công đức người khác, không nên có phúc.
Lại không chỉ phát tâm nên có phúc đức mà tùy đem áo cơm
lợi ích cho người khác bấy giờ mới được phúc. Như vậy thì người
tu hạnh từ bi, không nên có phúc.
Lại như tháp chùa v.v... nếu chẳng phải thuộc loài chúng
sinh, thì hoặc đoạt lấy của cải đồ vật, hoặc làm hư hại, phải không
có tội.
Lại không ra trước mặt mà ác khẩu mắng sau lưng người ta,
phải không có tội, vì người ta không nghe, đâu tổn giảm chi mà
tội ?
Lại đối với người khác, chỉ sinh ác tâm mà không động thân
mở miệng, thì đâu có hại gì, đó đều không phải tội.
Lại hoặc tự mắng mình hoặc tự sát, hoặc tự làm hạnh tà cũng
có khi đắc tội. Cho nên tướng thiện và bất thiện, không phải chỉ
có tổn hại hay lợi ích người khác.
Đáp : Ông nói tự đem đồ nuôi thân là có phúc đức. Điều này
không đúng. Nếu tự cúng dường cho mình mà có phúc đức, thì
không ai cúng dường người khác. Mà thật có người cúng dường
người khác để cầu phúc đức.
Lại do mình vị kỷ mà phúc trở nên mỏng, cho nên biết tự vì
mình thì không có phúc.
Lại ông nói tự ăn là làm phúc nghiệp. Nếu tự nuôi thân là lợi
ích cho người khác, đó là do nơi tâm mới có thể sinh phúc đức,
chứ không phải do tự nuôi mình mà được phúc.
Ông nói tháp chùa, là chẳng phải chúng sinh, tưới quét cũng
được phúc. Đó là người nầy nghĩ công đức của Phật, đối với trong
chúng sinh Phật là bậc cao cả, cho nên tưới quét. Điều này cũng
do chúng sinh nên được phúc.
Hỏi : Phật đã diệt độ, không gọi chúng sinh. Như trong kinh
nói : Phật không phải có, không phải không, cũng không phải có
Thành Thật Luận Trang 242 Tuệ Quang Foundation
không, cũng không phải không có không phải không không. Làm
sao gọi là chúng sinh được ?
Đáp : Nếu đã diệt độ không gọi chúng sinh. Người ấy nghĩ
Phật khi chưa diệt độ mà cúng dường, cho nên được phúc. Như
người thờ cúng cha mẹ là nghĩ tưởng lúc sinh thời. Nếu không
như vậy, không gọi là cúng cha mẹ. Việc này cũng vậy.
Ông nói lễ kính v.v... với người khác vô ích. Điều này
không đúng. Bởi vì sao ? Vì lễ kính v.v..., có nhiều lợi cho người
khác, là khiến cho người kia được trọng vọng, được người khác
cung kính, đó là lợi ích. Cũng khiến người khác bắt chước theo
cung kính, cũng được phúc đức.
Lại khi lễ kính người khác, tự mình phá bỏ được sự ngạo
mạn, vì phá được một phần bất thiện, nên được nhiều lợi ích.
Cũng để hiển dương công đức của người khác, nên lễ kính v.v...
có những lợi ích như vậy.
Lại ông nói lễ kính v.v... tổn công đức người khác. Điều này
không đúng. Đem hảo tâm mà lễ kính, không phải như ngoại đạo
muốn làm tổn người kia mà hành lễ kính.
Lại như bố thí, nếu người kia không tiêu, thì cũng tổn công
đức. Vậy thì bố thí cũng phải không có phúc. Nên khi lễ kính
v.v... cần phải suy nghĩ kỹ, có phúc thì làm. Như trong kính nói:
Có một Tì-kheo ở trong nhà tắm, đem tay thoa thân người khác.
Phật bảo các Tì-kheo rằng : Người cúng dường này là A-la-hán,
người thụ cúng dường là người phá giới. Các người nên học.
Không nên đem sư tử cúng dường chồn mèo v.v...
Ông nói không chỉ phát tâm mà được phúc. Tâm là gốc tất cả
công đức. Như người làm lợi mình và người, lợi đời nầy và đời
sau, đều lấy thiện tâm làm gốc. Như người làm tổn mình và
người, tổn hại đời nầy và đời sau, đều do tâm bất thiện làm gốc.
Lại người tu hạnh từ, lấy quả báo từ tâm làm lợi ích cho tất
cả. Như là gió mưa phải thời, nhật nguyệt tinh tú không sai lệch,
Thành Thật Luận Trang 243 Tuệ Quang Foundation
nước biển lớn không dâng cao, lửa dữ không thiêu đốt, gió mạnh
không làm đổ sập. Đây đều là quả báo của sức từ. Như trong kinh
nói : Nếu tất cả vậy gian đều làm hạnh từ tâm thì điều mong muốn
tự nhiên được.
Ông nói cướp lấy của tháp chùa không phải tội, người này
đem tâm chúng sinh mà cướp đoạt tùy theo tháp gì mà cướp đoạt
đây ? Do nhân duyên đó nên nếu có thể làm tổn hay nếu không
thể làm tổn đều là chủ nên đắc tội.
Nếu tâm ông bảo đối với Phật không thể sinh não cho nên vô
tội, thì dùng ác khẩu v.v… với A-la-hán không thể sinh khổ, cũng
phải không có tội.
Ông nói không ở trước mặt mắng nhiếc thì phải không có tội,
điều này không đúng. Người này dùng ác tâm với người. Bởi ác
tâm cho nên tuy người kia không nghe, nếu nghe ắt phải sinh khổ,
cho nên phải đắc tội.
Ông nói nếu sinh ác tâm mà không động thân mở miệng thì
không có tội, điều này cũng không đúng. Cái tâm xấu ác ô trược
này là vì não hại người mà sinh, nếu người kia biết ắt sinh khổ
não. Như giặc đến cướp của người, tuy không hay biết cũng làm
não hại người.
Ông nói tự sát, tự mắng nhiếc mình cũng bị tội, điều này
không đúng. Nếu tự làm khổ thân mà bị tội, thì không có ai được
sinh chỗ tốt. Bởi vì sao ? Con người trong 4 oai nghi thường bị
khổ thân. Vậy thì tất cả chúng sinh thường phải bị tội như não hại
người khác, cho nên không có ai được sinh chỗ tốt. Điều này
không đúng. Phải biết không do tự thân có tội phúc, mà vì đạo
nhân duyên, cho nên trong Tì-ni kết giới này. Nếu người ác tâm
mà tự sát, do phiền não nên bị tội.
Nghiệp vô ký, là nghiệp không phải thiện không phải bất
thiện. Đối với chúng sinh khác không làm tăng ích cũng không
tổn giảm gọi là vô ký.
Thành Thật Luận Trang 244 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì sao gọi là vô ký ?
Đáp : Đây là tên gọi của nghiệp này. Nếu nghiệp không phải
thiện, không phải bất thiện thì gọi là vô ký.
Lại, nghiệp thiện bất thiện đều có thể được quả báo, nghiệp
này không thể sinh quả báo nên gọi là vô ký. Bởi vì sao ? Nghiệp
thiện bất thiện là kiên cường, còn nghiệp này sức yếu. Ví như hạt
giống hỏng không thể nảy mầm.
Lại báo có 2 thứ, thiện được báo yêu thích, bất thiện bị báo
không không yêu thích, vô ký không có báo.
Hỏi : Trong đây có lấy chẳng phải yêu chẳng phải ghét là báo
vô ký. Nói vậy có lỗi gì ?
Đáp : Phật nói báo có 2 thứ. Tà thân mà làm, được báo
không yêu thích. Chính thân mà làm được quả báo ưa thích.
Không nói có báo thứ 3.
Lại quả báo phúc đức thì được yêu thích như ý muốn, mà
quả báo tội lỗi thì trái lại với trên.
Lại khổ, vui là quả báo của tội, phúc. Không khổ không vui
cũng là quả báo của thiện hành. Cho nên biết vô ký không có quả
báo.
Phẩm 101 : Tà hành
Phật nói 3 tà hành : Thân tà hành, miệng tà hành, ý tà hành.
Thân tạo tác ác nghiệp gọi là thân tà hành. Tà hành nầy có 2 thứ.
Một là nhiếp thuộc vào 10 bất thiện đạo, như giết, trộm, tà dâm.
Hai là không nhiếp, như roi, gậy, trói buộc, tự dâm vợ v.v... và bất
thiện đạo trước sau ác nghiệp.
Hỏi : Sát sinh v.v... nầy là 3 nghiệp bất thiện, chỉ là tính của
thân nghiệp ư ?
Đáp : Tội sát gọi sát bất thiện nghiệp. Tội nầy thân cũng có
thể tạo, tùy đem thân mình sát hại chúng sinh. Miệng cũng có thể
tạo, tùy đem lời sai bảo khiến người sát chúng sinh, hoặc đem tâm
Thành Thật Luận Trang 245 Tuệ Quang Foundation
rủa nộp mà sát cũng có thể tạo được. Có người phát tâm có thể
khiến người khác chết. Tội trộm, dâm cũng như vậy. Có điều tự
làm thì bị tội đầy đủ.
Lại thân nghiệp bất thiện, hoặc lấy thân làm tướng, hoặc
miệng làm tướng, hoặc phát tâm thì người khác biết, lấy nhân
duyên nầy cũng tạo được tội sát v.v.... Nhưng phần nhiều là do
thân tạo tác, nên thông thường gọi là thân nghiệp. Tà hành của
miệng cũng như vậy. Miệng gây ra ác nghiệp gọi là tà hành của
miệng. Trong đây cũng có 2 thứ. Như khi có người quyết định
hỏi, mà hiện trước mặt dối người ta, đó thuộc về bất thiện đạo.
Ngoài ra là không nhiếp thuộc. Tham sân tà kiến v.v... là tà hành
của ý.
Hỏi : Vì sao trong 10 bất thiện đạo nói là tà kiến ? Trong 3
bất thiện căn nói là si ?
Đáp : Tà kiến là tên khác của si. Si nầy tăng trưởng bền chắc
gọi là tà kiến. Si lại không có tướng riêng, chỉ lấy điên đảo tham
đắm, nên gọi là si.
Hỏi : Trong kinh nói : Các tà hành được quả báo bất ái, chính
hành được quả báo ái. Tướng ái và bất ái nầy không quyết định.
Như có một sắc, mà có ái và bất ái. Cho nên cần nói rõ tướng đó ?
Đáp: Vui là tướng ái. Như trong kinh nói : Phúc báo gọi là
vui. Khổ là tướng bất ái. Như trong kinh nói : Các ông đối với tội,
phải sinh lòng khiếp sợ, vì đó là nhân duyên khổ.
Hỏi : Nếu vui là tướng ái thì heo chó v.v..., ăn phân nhơ lấy
làm vui, đó là quả phúc đức sao ?
Đáp : Là phúc quả bất tịnh. Như Kinh Nghiệp nói : Nếu phi
thời thí, bất tịnh thí, tâm khinh khi, tâm đục vẩn mà bố thí nơi phi
phúc điền. Thí như vậy v.v... thì được quả báo ấy.
Hỏi : Như trong kinh nói chính hành được ái báo. Vì sao lại
nói do nhân duyên chính hành được sinh lên trời ?
Thành Thật Luận Trang 246 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Có những người tà hành cũng được sinh lên trời, hoặc
bảo sinh trời là quả báo tà hành. Nên trong kinh lại nói nhân
duyên chính hành mới sinh về nơi ấy.
Lại tà hành chính hành có thể được thân 2 đường thiện ác
khác nhau. Khi thụ thân rồi trong đó chịu những khổ vui. Như
nhân duyên tà hành trong ác đạo chịu khổ; nhân duyên chính hành
thì được hưởng vui cõi trời cõi người.
Phẩm 102 : Chính hành
Thân làm điều thiện gọi là thân chính hành. Miệng, ý cũng
như vậy. Lìa sát sinh v.v... 3 nghiệp bất thiện gọi là thân chính
hành. Miệng lìa 4 lỗi gọi là miệng chính hành. Ý lìa 3 bất thiện
gọi là ý chính hành. Ba thứ nầy nhiếp thuộc về Luật nghi. Như là
giới, định vô lậu luật nghi.
Lại có những lễ kính, bố thí v.v... là thiện nghiệp của thân,
đều gọi là thân chính hành. Như nói lời chân thật dịu dàng v.v...
đều gọi miệng chính hành. Ý nghiệp không tham v.v... đều gọi ý
chính hành. Gọi chung là 3 chính hành.
Hỏi : Ngoại đạo, thần tiên không có quả báo được giải thoát
giới, những người nầy có thể được giới luật nghi chăng ?
Đáp : Các ngoại đạo ấy từ nơi tâm sinh giới luật nghi, hoặc
cũng gọi giới khẩu thụ.
Lại các người đó v.v... cũng có thể được nhiếp thuộc về
chính hành giới luật nghi. Như khi loài người thọ mạng chỉ còn 10
tuổi mà nhờ thụ pháp bất sát thì đẻ con thọ mạng được 2 0 tuổi.
Hỏi : Trong kinh nói chính hành, tịnh hành và tịch diệt hành.
Có gì sai khác ?
Đáp : Có luận sư nói : Người phàm phu tu thiện nơi nghiệp
thân, miệng, ý gọi là chính hành. Học nhân đã đoạn kết thì ngay
nơi chính hành nầy gọi là tịnh hành. Vô học nhân đoạn kết, vì từ
không kết sinh lời nói, nên gọi là tịch diệt hành.
Thành Thật Luận Trang 247 Tuệ Quang Foundation
Lại vô học nhân rốt ráo không khởi nghiệp bất thiện nên gọi
là tịch diệt hành. Như nói thân tịch diệt, miệng tịch diệt, ý tịch
diệt.
Lại có người nói 3 thứ hành nầy nghĩa đồng mà tên khác. Chỉ
đẹp nơi chất trực nên gọi là chính. Lìa các phiền não nên gọi là
tịch. Lìa các bất thiện nên gọi là tịch diệt. Nên tuy có 3 tên mà
nghĩa không khác.
Hỏi : Có luận sư nói chỉ có tâm là tịch diệt hành chứ không
phải tư duy. Nghĩa ấy vậy nào ?
Đáp : Ba thứ hành nầy đều do tâm. Bởi vì sao ? Vì lìa tâm
không có tư duy, cũng không có nghiệp thân miệng.
Hỏi : Trong kinh nói: “Người thấy chính hành thành tựu, tức
là thấy trời. Nếu thấy số trời không phải tất cả người chính hành
đều sinh lên trời, sao nói quyết định như vậy ?
Đáp : Vì nói số trời nên điều này đã rõ. Những người chính
hành tuy không nhất thiết sinh lên trời, nhưng nếu sinh về nơi tôn
quý, thì cũng tương tự như trời, nên mới nói thấy số trời. Những
người chính hành đáng lẽ đều sinh lên trời mà hoặc bị các duyên
thừa phá hoại, cho nên không sinh, như là tà chính tạp hành. Vì tà
hành mạnh hơn nên không được sinh lên trời. Như trong kinh
Phật bảo A-nan rằng : Ta thấy có người tu 3 chính hành mà sinh
vào ác đạo. Đó là người quả báo tà hành đời trước đã chín mùi,
nay tuy tu chính hành nhưng chưa đầy đủ.
Lại có người khi sắp lâm chung khởi tâm tà kiến, nên bị đọa
ác đạo. Còn những người tà hành sinh về nơi thiện cũng như vậy.
Cho nên pháp phàm phu là không nên tin. Phải biết tùy theo
nghiệp lực mạnh nên thụ sinh có sai khác.
Phẩm 103 : Nghiệp buộc
Hỏi : Kinh nói có 3 thứ nghiệp: Nghiệp buộc cõi Dục, nghiệp
buộc cõi Sắc, nghiệp buộc cõi Vô sắc. Sao như vậy ?
Thành Thật Luận Trang 248 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu nghiệp từ địa ngục đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại,
trong đó chịu báo gọi là nghiệp buộc cõi Dục. Từ cõi Phạm Vậy
đến cõi trời A-ca-ni-tra, trong đó chịu báo gọi là nghiệp buộc cõi
Sắc. Từ Hư Không Xứ đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ,
trong đó chịu báo gọi là nghiệp buộc cõi Vô sắc.
Hỏi : Nghiệp vô ký và nghiệp bất định báo, không ở trong 3
thứ nầy sao ?
Đáp : Nghiệp nầy và quả báo đều gọi là buộc ở cõi Dục. Bởi
vì sao ? Vì pháp nầy là nghiệp quả báo cõi Dục.
Hỏi : Pháp cõi Dục, không phải tất cả đều là nghiệp báo, cho
nên không phải ?
Đáp : Tất cả pháp ở cõi Dục đều là nghiệp báo buộc ở cõi
Dục.
Hỏi : Nếu vậy thì ngoại đạo tà luận cho rằng tất cả những sự
thụ khổ vui đều là nghiệp nhân duyên đời trước ? Lại nghiệp quả
báo đời trước là thiện, bất thiện có báo không có báo ? Lại công
phu tinh tiến là không có chỗ dùng ? Nếu đều là nghiệp báo lại
cần gì nhọc công ? Và nếu các phiền não và nghiệp đều là nghiệp
báo, thì không giải thoát được, vì nghiệp báo không thể hết ?
Đáp : Ông nói là ngoại đạo tà luận. Điều này không trúng.
Ngoại đạo nói : Khổ vui tốt xấu chỉ là nghiệp quả báo đời trước.
Vậy thì không cần nhờ nhân duyên hiện tại. Mà thật thấy muôn
vật từ hiện tại duyên sinh, như hạt giống chẳng hạn. Cho nên
không được nói tất cả đều từ nghiệp nhân duyên đời trước.
Lại do nhân do duyên muôn vật mới được sinh, như lấy hạt
giống làm nhân, đất, nước, thời gian, không gian v.v... làm duyên.
Nhãn thức lấy nghiệp làm nhân, nhãn sắc v.v... làm duyên.. Cho
nên không đồng với tà luận ngoại đạo. Ông nói nghiệp quả báo
đời trước. Điều này không đúng. Vì hiện thấy do quả mới có quả
khác nối nhau sinh, như do lúa sinh lúa. Như vậy do báo sinh báo,
đâu có lỗi gì ?
Thành Thật Luận Trang 249 Tuệ Quang Foundation
Lại như người ái nam, và sự dâm dục của loại chim sẻ, chim
uyên ương v.v..., sự giận dữ của loại rắn độc v.v..., phải biết đều
là nghiệp quả báo đời trước.
Hỏi : Nếu từ báo sinh báo, vậy là vô cùng ?
Đáp : Tôi nói 3 thứ nghiệp báo : Thiện, bất thiện và vô ký.
Từ thiện và bất thiện sinh báo vô ký không sinh, nên không phải
vô cùng. Như từ lúa sinh lúa, trong đó từ hạt giống sinh mộng,
không từ bắp v.v... sinh. Như vậy từ quả báo thiện và bất thiện
mới có quả báo khác sinh không từ vô ký báo mà sinh. Ông nói
không cần nhọc công lao. Nhưng tuy từ nghiệp sinh báo cũng cần
phải gia công sau mới thành. Như nhờ được nghiệp lúa mới có lúa
sinh, nhưng cần phải gieo trồng v.v... mới được thành. Ông nói
không có giải thoát. Điều này không đúng. Được chân trí là ác
nghiệp diệt hết, cũng như hạt giống đã rang cháy không còn sinh
được, nên không bị lỗi không giải thoát.
Lại các pháp có sinh ra đều lấy nghiệp làm gốc. Nếu không
có nghiệp làm gốc làm sao có thể sinh.
Lại vạn pháp sinh ra đều có định phần, như pháp nầy quyết
từ thân người nầy sinh, mà không ở thân các người khác. Nếu
không có nghiệp làm gốc, thì làm sao quyết định sự sai khác.
Hỏi : Nếu pháp chỉ từ nhân mà sinh, như từ đậu sinh đậu có
lỗi gì ?
Đáp : Điều này cũng lấy nghiệp làm gốc, vì nghiệp nhân
duyên được đậu, nên mới có từ đậu sinh đậu. Làm sao biết được ?
Là thời kỳ thượng cổ người ta tu hạnh thiện, nên lúa thóc tự sinh,
cho nên biết nghiệp là gốc mới có đậu sinh đậu.
Hỏi : Vậy thì chúng sinh số, vật, từ nghiệp đời trước mà sinh
?
Đáp : Không phải, chẳng phải chúng sinh số, vật cũng lấy
nghiệp làm gốc. Tất cả chúng sinh có quả báo cộng nghiệp, nghĩa
là được chỗ ở, nhờ nghiệp nhân duyên nên có đất v.v..., nhờ
Thành Thật Luận Trang 250 Tuệ Quang Foundation
nghiệp nhân duyên sáng nên có mặt trời mặt trăng v.v.... Nên phải
biết vật sinh ra đều lấy nghiệp làm gốc.
Hỏi : Nếu pháp sinh ra đều do nghiệp làm gốc thì hữu vi và
vô lậu là vậy nào ?
Đáp : Cũng lấy nghiệp làm gốc. Bởi vì sao ? Vì là đời trước
đều có nguyên do của sức bố thí, trì giới v.v..., cho nên cũng từ
nghiệp v.v... sinh.
Hỏi : Nếu pháp vô lậu cũng từ nghiệp sinh, thì đó cũng là
pháp bị ràng buộc. Vậy thì không được, vì lẽ trong kinh nói có thụ
pháp không bị buộc kia mà ?
Đáp : Pháp vô lậu lấy chân trí làm nhân, lấy nghiệp làm
duyên, vì sức lớn mạnh nên gọi là không buộc.
Hỏi : Nghiệp nào thụ quả báo cõi Dục ? Nghiệp nào thụ quả
báo cõi Sắc, và cõi Vô sắc ?
Đáp : Nếu ở trong 3 cõi Dục, Sắc, Vô sắc khởi 10 nghiệp bất
thiện, thì thụ quả báo cõi Dục.
Hỏi : Nếu ở trong cõi Sắc, Vô sắc cũng có thể khởi nghiệp
bất thiện chăng ?
Đáp : Trong đó có thể khởi nghiệp bất thiện. Như trong kinh
nói trong kia có tà kiến. Tà kiến không phải bất thiện sao ?
Hỏi : Trong đó tà kiến là vô ký không phải bất thiện ?
Đáp : Không phải vô ký. Làm sao biết được ? Vì trong kinh
Phật nói : Tà kiến là nhân khổ não. Người tà kiến khởi các nghiệp
thân, khẩu, ý. Mọi tạo tác đều là quả báo khổ. Như trái mướp
đắng, toàn tứ đại đều một vị đắng. Như cõi Dục tà kiến bất thiện;
cõi Sắc và Vô sắc cũng lấy tướng nầy nên cũng gọi là bất thiện, vì
tướng đồng nhau. Như Phạm chí Bà-già bảo các Phạm kia rằng :
Các ông đừng đến Sa-môn Cù-đàm sa môn, ta ở đây có thể độ
thoát cho các ông. Đó là khởi tâm khẩu bất thiện ở cõi Sắc.
Lại có các Phạm thiên ở cõi kia nạn hỏi Phật. Có các việc
như vậy. Lại người ở cõi Sắc, Vô sắc bảo đó là Nê-hoàn. Đến khi
Thành Thật Luận Trang 251 Tuệ Quang Foundation
mạng chung thấy ấm thân ở trong cõi Dục, cõi Sắc liền sinh tà
kiến cho rằng không có Nê-hoàn, nên bài báng Pháp vô thượng.
Làm sao không phải bất thiện ư ? Vì những điều này nên biết
trong đó có nghiệp bất thiện.
Hỏi : Nếu ở trong đó khởi nghiệp bất thiện, nghiệp nầy bị
buộc nơi nào ?
Đáp : Nghiệp bât thiện nầy thụ quả báo cõi Dục, nên buộc ở
cõi Dục. Nghiệp thiện có 3 bậc: thượng, trung, hạ. Nghiệp hạ chịu
quả báo cõi Dục; trung, chịu quả báo cõi Sắc; thượng chịu quả
báo cõi Vô sắc.
Lại có người nói nghiệp thiện chịu báo ở cõi Sắc là nhiếp
thuộc về Tứ thiền, chịu báo cõi Vô sắc là nhiếp thuộc về Tứ Vô
sắc định. Ngoài ra tâm tán loạn khởi nghiệp thì chịu quả báo ở cõi
Dục.
Hỏi : Vì sao trong đó khởi nghiệp thiện mà chịu quả báo cõi
Dục ?
Đáp : Như trong đây nhiếp tâm khởi nghiệp thiện, thì trong
kia chịu báo. Như vậy trong kia tâm tán loạn khởi nghiệp thiện,
thì trong đây chịu báo.
Lại như cõi Sắc, Vô sắc khởi nghiệp bất thiện thì ở trong cõi
Dục chịu báo. Nghiệp thiện trong kia cũng như vậy.
Hỏi : Nếu ở cõi Sắc, Vô sắc không thể khởi nghiệp thiện
buộc về cõi Dục ?
Đáp : Trong đó không có nhân duyên nầy. Nếu ở cõi Dục có
thể khởi nghiệp thiện cõi Sắc, Vô sắc, mà ở cõi Sắc, Vô sắc lại
không có thể khởi nghiệp thiện cõi Dục sao ?
Lại các ông nói ở trong cõi Sắc có thể sinh tâm vô ký cõi
Dục. Nếu có thể sinh tâm vô ký, Vì sao không thể sinh tâm thiện
ư ?
Lại trong kinh, Phật bảo Thủ Thiên tử rằng : Phải niệm trụ
tâm thụ thô tướng. Thô tướng tức là tâm buộc cõi Dục. Người nầy
Thành Thật Luận Trang 252 Tuệ Quang Foundation
tùy đem thiện tâm nghe pháp lễ Phật, đều là buộc tâm ở cõi Dục.
Nếu không như vậy không gọi thô tướng.
Lại trong đó nghĩ cầu tài phúc. Như nói : Vậy Tôn ! Tôi đối
với 3 việc không chán đủ nên trong đây mạng chung sinh về cõi
trời Vô Nhiệt. Nghĩa là chiêm bái Phật, nghe Pháp, và cúng dường
Tăng mà nghĩ cầu tài phúc là buộc tâm về cõi Dục.
Lại trong đây có người niệm Phật v.v... mà không cầu tài
phúc nên phải biết có thiện buộc về cõi Dục.
LUẬN THÀNH THẬT
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
LUẬN THÀNH THẬT
( Quyển 8 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 104 : Ba nghiệp báo
Hỏi : Trong kinh Phật nói 3 thứ nghiệp báo : Nghiệp hiện
báo, nghiệp sinh báo, nghiệp hậu báo. Vậy là vậy nào ?
Đáp : Nếu thân này gây nghiệp tức ngay thân này chịu, gọi là
hiện báo. Đời nầy gây nghiệp đời sau chịu báo, gọi là sinh báo.
Đời nầy gây nghiệp, qua các đời sau nữa mới chịu báo, gọi là hậu
báo, vì qua sau đời sau nên gọi là hậu.
Hỏi : Báo nghiệp thân trung ấm chịu ở chỗ nào ?
Đáp : Chịu ở 2 chỗ. Nghiệp trung ấm thứ tự chịu ở chỗ sinh
báo, vì sinh có sai khác gọi trung ấm; nên nghiệp các trung ấm
khác chịu ở chỗ hậu báo.
Hỏi : Ba thứ nghiệp này là báo quyết định hay đời quyết định
?
Đáp : Có người nói báo quyết định. Nghiệp hiện báo ắt hiện
chịu báo. Hai thứ kia cũng vậy.
Thành Thật Luận Trang 253 Tuệ Quang Foundation
Tuy có thuyết nầy, nhưng nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao ?
Vì nếu như vậy không chỉ ngũ nghịch gọi là định báo mà trong
Lục Túc A-tì-đàm cũng nói ngũ nghịch là định báo.
Lại trong kinh Giám Lượng cũng nói bất định. Có nghiệp
phải chịu quả báo địa ngục mà người nầy vì tu thân giới tâm tuệ
nên có thể chịu quả báo đời hiện này. Cho nên 3 thứ nghiệp phải
là đời quyết định, vì báo nghiệp hiện đời không nhất thiết hiện
đời này chịu. Nếu chịu thì nên hiện chịu chứ không phải các chỗ
khác. Hai thứ nghiệp kia cũng như vậy.
Hỏi : Những nghiệp gì có thể thụ hiện báo ?
Đáp : Có người nói nghiệp nhanh nhạy chịu hiện báo. Như
đối với Phật các vị Thánh nhân và cha mẹ v.v... mà khởi nghiệp
thiện, ác là hiện chịu ngay quả báo. Nếu nghiệp không nhạy mà
nặng thì đời sau chịu báo. Như ngũ nghịch v.v.... vừa nhạy vừa
nặng, thì sau đời sau mới chịu. Như nghiệp Vua Chuyển luân,
hoặc nghiệp Bồ-tát.
Lại có người nói 3 thứ nghiệp này tùy thuận được quả báo.
Nếu nghiệp nguyện đời nay thụ tức là hiện thụ. Như bà Mạt Lỵ
phu nhân đem phần ăn của mình cúng dường Phật, nguyện hiện
đời được làm phu nhân của vua. Hai nghiệp kia cũng như vậy.
Lại tùy nghiệp nào chín muồi thì thụ trước.
Hỏi : Nghiệp quá khứ sao gọi là chín muồi ?
Đáp : Đầy đủ tướng nặng, thì gọi là chín muồi.
Hỏi : Liệu có một niệm khởi nghiệp, một niệm kế thụ báo
không ?
Đáp : Không có. Lần lượt rồi mới thụ, như hạt giống lần lượt
sinh mầm. Nghiệp pháp cũng như vậy.
Hỏi : Như những người còn ở trong thai, khi ngủ mê, hoặc
điên cuồng v.v..., có thể tụ tập nghiệp không ?
Đáp : Những trường hợp như vậy, hễ có suy nghĩ tư duy thì
có thể tụ tập nghiệp, nhưng không đầy đủ.
Thành Thật Luận Trang 254 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu lìa địa vị cõi Dục nầy có thể khởi nghiệp địa vị
này không ?
Đáp : Người có ngã tâm đều tụ tập nghiệp này, nếu lìa ngã
tâm thì không tụ tập lại.
Hỏi : A-la-hán cũng kính lễ tu phúc v.v..., nghiệp nầy Vì sao
không tụ tập ?
Đáp : Vì tâm chúng sinh nên các nghiệp mới nhóm. A-la-hán
không ngã tâm nên các nghiệp không nhóm.
Lại A-la-hán tâm vô lậu, mà người vô lậu tâm không nhóm
các nghiệp.
Lại trong kinh nói dứt nghiệp tội phúc gọi là A-la-hán.
Người nầy không tụ tập nghiệp tội phúc và nghiệp bất động, thụ
nghiệp cũ đã xong, nghiệp mới không tạo.
Hỏi : Học nhân có nhóm các nghiệp không ?
Đáp : Cũng không còn tụ tập. Bởi vì sao ? Kinh nói : Người
nầy phá tan các nghiệp, không nhóm, không chứa, diệt hết v.v....
Có luận sư nói : Học nhân này có ngã mạn, nên cũng nhóm các
nghiệp, nhưng nhờ sức của trí vô ngã, nên bất tất chịu báo.
Hỏi : Ba thứ nghiệp nầy ở cõi nào có thể tạo ?
Đáp : Tất cả chỗ trong 3 cõi đều tạo được.
Hỏi : Có hay không có nghiệp bất định ?
Đáp : Có. Nếu nghiệp hoặc hiện báo, hoặc sinh báo, hoặc hậu
báo, đó gọi là bất định. Nghiệp như vậy nhiều.
Hỏi : Nếu biết 3 thứ nghiệp nầy được lợi gì ?
Đáp : Nếu có thể phân biệt 3 thứ nghiệp nầy thì sinh chính
kiến. Bởi vì sao ? Vì hiện thấy có người làm ác mà hưởng giàu có
sung sướng. Người hiền thiện lại chịu khổ. Đối với việc như vậy
hoặc sinh tà kiến cho rằng thiện ác không có quả báo. Nếu biết 3
nghiệp nầy sai khác như vậy, thì sinh chính kiến. Như kệ nói :
Làm ác thấy vui,
Vì ác chưa chín.
Thành Thật Luận Trang 255 Tuệ Quang Foundation
Đến lúc ác chín,
Tự thấy chịu khổ.
Làm thiện thấy khổ,
Vì thiện chưa chín.
Đến khi thiện chín,
Tự thấy hưởng vui.
Lại kinh Phân Biệt Đại Nghiệp nói : Người không đoạn sát
được sinh lên trời, là vì nếu người nầy đời trước có phúc, nên khi
mạng chung phát thiện tâm mạnh mẽ, có thể biết như vậy tức sinh
chính kiến. Cho nên phải biết tướng 3 thứ nghiệp này.
Phẩm 105 : Ba thứ nghiệp thụ báo
Hỏi : Trong kinh Phật nói 3 thứ báo nghiệp: Báo vui, báo
khổ và báo nghiệp không khổ không vui. Thứ nào như vậy nào ?
Đáp : Nghiệp thiện được báo vui. Nghiệp bất thiện bị báo
khổ. Nghiệp bất động được báo không khổ không vui. nghiệp nầy
không nhất thiết quyết định chịu, nếu chịu thì chịu báo vui, không
phải khổ v.v.... Hai nghiệp kia cũng như vậy.
Hỏi : Các nghiệp nầy cũng được báo sắc, Vì sao chỉ nói thụ
thôi ?
Đáp : Trong các quả báo, thụ là vượt trội hơn hết. Thụ là thật
báo, sắc v.v... là như đồ dụng cụ.
Lại trong cảnh duyên nói thụ, như nói lửa khổ lửa vui; hoặc
trong nhân có quả, như người thí thực gọi là thí 5 thứ lợi. Cũng
như nói ăn tiền v.v....
Hỏi : Từ cõi Dục đến trong Tam thiền có được thụ quả báo
không khổ không vui ư ?
Đáp : Được thụ.
Hỏi : Do nghiệp báo nào ?
Đáp : Là nghiệp báo hạ thiện. Nghiệp thượng thiện thì thụ
báo vui.
Thành Thật Luận Trang 256 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu như vậy, Vì sao nói trong đệ Tứ thiền và Vô sắc
định ư ?
Đáp : Kia là tự địa. Bởi vì sao ? Vì trong đó chỉ có một thứ
quả báo nầy mà không có thụ nào khác, vì là tịch diệt vậy.
Hỏi : Có người nói buồn không phải nghiệp báo. Việc ấy vậy
nào ?
Đáp : Vì sao không phải ?
Hỏi : Buồn chỉ do tưởng phân biệt sinh, nghiệp báo không
phải là tưởng phân biệt.
Lại nếu buồn là nghiệp báo thì nghiệp báo nhẹ, nên không
phải báo.
Lại buồn nầy khi lìa dục là dứt, mà nghiệp báo khi lìa dục
không dứt. Cho nên biết buồn không phải nghiệp báo ?
Đáp : Ông nói buồn do tưởng phân biệt sinh nên không phải
báo, thì vui cũng là nghiệp báo. Vui nầy có 2 thứ : một là vui, hai
là mừng. Mà vui mừng cũng do tưởng phân biệt sinh, lẽ ra không
nên gọi là báo sao ? Ông nói nghiệp báo thì nhẹ. Buồn nầy nặng
hơn khổ. Bởi vì sao ? Vì buồn là người ngu, những người có trí
không buồn, cho nên khó trừ, cũng có thể sinh phiền não sâu đậm.
Lại trong Tứ Bách Quán nói : Tiểu nhân thân khổ, quân tử
tâm ưu.
Lại buồn lo nầy cần phải đem trí mới dứt được, thân khổ vui
cũng có thể trừ được.
Lại buồn có thể sinh khổ não trong 3 đời, như nói ta trước
khổ, nay khổ mai sau sẽ khổ.
Lại buồn là chỗ trú của các phiền não. Như trong kinh nói là
chỗ ở của phiền não. Nên nói 18 thứ ý hành, bởi trong 5 thức
không sinh phiền não.
Lại trong kinh nói buồn là 2 mũi tên, vì chịu khổ 2 lần, như
người bị 2 mũi tên đâm vào một chỗ thì chịu khổ gấp đôi. Như
Thành Thật Luận Trang 257 Tuệ Quang Foundation
vậy người ngu bị khổ bức bách lại càng thêm buồn lo, nên thân
tâm khổ não lắm hơn khổ thông thường.
Lại người ngu thường buồn lo. Bởi vì sao ? Vì người ấy trái
lìa ân ái, gặp gỡ oán ghét, tìm cầu không được v.v..., nên thường
lo buồn khổ não.
Lại buồn nầy do 2 nhân sinh : một là do hỷ sinh, hai là do ưu
sinh. Như mất vật mình yêu là do hỷ sinh, như trong kinh nói :
Phật hỏi vua Ba-tư-nặc rằng : Ông yêu nước Ca-thi-kiều-tát-la
không ?
Lại nói : Chư Thiên vui sắc, tham sắc, sắc nầy nếu hoại, thì
sinh buồn khổ. Đó là hỷ sinh.
Do ưu sinh là do việc ghét mà sinh, cũng do ganh ghét v.v...
sinh. Người chưa lìa dục ganh ghét v.v... các thứ kết thường não
hại nơi tâm. Như nói thiên nhân nhiều kết xan tham tật đố.
Lại nhiều chúng sinh bởi chọc tức người khác nên bị quả báo
buồn khổ, như nói tùy trồng giống sinh quả, cho nên biết buồn là
nghiệp báo. Ông nói khi lìa dục thì dứt nên không phải báo. Điều
này không đúng. Tu-đà-hoàn chưa ly dục cũng dứt được báo địa
ngục v.v.... Có thể cho các báo địa ngục là không phải quả báo sao
? Cho nên không thể cho ly dục dứt, mà liền gọi là không phải
quả báo.
Hỏi : Báo nghiệp không khổ không vui, gọi là bất động.
Nghiệp nầy là thiện, lẽ ra phải thụ báo vui, sao lại thụ báo không
khổ không vui ?
Đáp : Thụ nầy bất động nên thật vui. Vì tịch diệt nên gọi
không khổ không vui.
Lại trong kinh nói : Trong lạc thụ tham sai khiến. Trong đó
lòng tham ở trong thụ kia sai khiến nên biết là vui.
Phẩm 106 : Ba chướng
Thành Thật Luận Trang 258 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong kinh nói 3 chướng: Nghiệp chướng, phiền não
chướng, báo chướng. Thứ nào như vậy nào ?
Đáp : Nếu các nghiệp phiền não và báo, có thể chướng ngại
đạo giải thoát, thì gọi là chướng.
Hỏi : Có thể chướng pháp gì ?
Đáp : Tu thiện thí, giới hồi hướng 3 cõi, đây thường hay
chướng đạo.
Lại cũng là chướng báo nghiệp quyết định chịu. Như trong
kinh nói : Nếu người nầy quyết định nhóm chịu báo nghiệp, thì
không vào chính vị. Đó gọi là nghiệp chướng.
Lại nếu người phiền não sâu dày thường ở nơi tâm tăng
thượng một cách nhanh chóng, đó là phiền não chướng.
Lại như người phiền não không trừ khiển được, như dục tâm
của những người ái nam v.v..., cũng gọi là phiền não chướng.
Lại ở chỗ do tội ác sinh như địa ngục v.v..., và tùy những chỗ
sinh không thể tu đạo, đều gọi là báo chướng.
Hỏi : Có người trước không hiểu rõ đối tượng, không biết
người ấy là người thiện, nên không bố thí, vì nghĩ rằng người kia
nếu ta thí sẽ được điều kiện gây các việc ác, thì ta có phần trách
nhiệm. Như Phạm Chí v.v... người xuất gia. Cho nên các người
xuất gia, không nên bố thí vì nghiệp mới trói buộc chướng ngại
giải thoát ?
Đáp : Không phải vậy. Vì người khác tạo tội phúc với ta
không can hệ. Bởi vì sao ? Vì trong nhân duyên tội phúc có nhiều
tội lỗi. Bởi vì sao ? Như chúng sinh là nhân duyên sát, nếu không
chúng sinh làm sao có sát ? Vậy thì người chết lẽ ra phải có tội.
Lại như người giàu là nhân duyên của trộm cắp. Sắc đẹp là
nhân duyên của tà dâm. Người khác là nhân duyên của nói dối
v.v.... Ngụy xưng v.v... là nhân duyên của lường gạt. Người mua
lẽ ra cũng có tội ?
Thành Thật Luận Trang 259 Tuệ Quang Foundation
Lại người nhận làm nhân duyên của người thí, lẽ ra cũng
được phúc. Như người đào giếng đào ao v.v..., người dùng nước
lẽ ra đều được phúc ? Như vậy thì tự mình không cần làm phúc
đức. Mà thật không phải vậy. Cho nên trong nhân duyên không
nên có tội phúc.
Lại phúc phần của người nhận lẽ ra phải tiêu hết, thì người
ấy không nên theo người khác mà thụ thí. Bởi vì sao ? Vì đem
phần phúc đức của mình mà đổi lấy đồ uống ăn.
Lại người thí phải nhiều tội mà ít phúc. Bởi vì sao ? Vì đâu
có bao nhiêu người Bà-la-môn hay làm thiện. Phần nhiều đem tâm
3 độc vẩn đục chìm-đắm trong 5 dục, không siêng tu hành. Cho
nên người thí lẽ ra phải tội nhiều mà phúc ít.
Lại các Phạm Chí v.v... tự xưng là người thiện tu hành pháp
thiện. Mà sự thật những người ấy không thể nhiếp tâm chính quán
các pháp thiền định. Nếu lìa thiền định, thì khó điều phục tâm.
Cho nên người thí cho người chưa lìa dục lẽ ra phải bị tội nhiều ?
Lại như người cúng dường cha mẹ, cung cấp cho vợ con,
thân bằng quyến thuộc bè bạn đều phải bị tội, thì không có người
được phúc phần. Mà thật không phải vậy. Cho nên tội phúc không
ở trong nhân duyên.
Lại pháp trì giới v.v... cũng lợi cho người khác, vì người này
không sát sinh nên thí mạng sống cho tất cả, thì người trì giới bị
phần đại tội ? Vì không sát nên đối tượng được sống lâu làm các
điều ác, vậy lẽ ra người trì giới phải chịu một phần, như vậy thì
người cầu phúc nên sát sinh, chứ không nên trì giới ?
Lại như người thuyết pháp khiến cho người khác tu phúc,
nhờ nhân duyên tu phúc về sau được giàu sang; giàu sang thì kiêu
ngạo, phóng dật, kiêu ngạo phóng dật thì gây các việc ác; các ác
nầy người thuyết pháp đều phải có phần trách nhiệm ?
Lại nhân duyên thí khiến người khác giàu, vì nhân duyên
giàu gây làm các tội, vậy người thí cũng phải chịu một phần. Vậy
Thành Thật Luận Trang 260 Tuệ Quang Foundation
thì Phạm Chí không nên nhận thí, cũng không nên thí cho ai. Mà
nay Phạm Chí chỉ nhận thí mà không thí nên biết đó là tà đạo.
Lại như các vị vua đúng như pháp trị dân cũng phải có tội ?
Lại như con làm tội, cha mẹ phải có phần trách nhiệm, vậy
thì lẽ ra không nên sinh con ?
Lại như thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh lẽ ra cũng phải tội, vì
người được sống sẽ làm nhiều tội lỗi.
Lại trời mưa đúng thời vụ, nuôi lớn ngũ cốc lẽ ra trời cũng
đắc tội, vì cứu sống và nuôi nhiều chúng sinh ác.
Lại người thí cho ăn lẽ ra cũng bị tội, vì người ăn nếu không
tiêu thức ăn khiến đến chết, và những người chưa lìa dục vì đắm
say thực vị, nên người thí lẽ ra cũng bị tội. Vậy thì người thí
thường phải buộc người nhận lập lời thề rằng : Nay ăn thức ăn của
ông, quyết sẽ không làm ác, rồi sau mới thí cho. Nếu không làm
vậy thì người thí mất hết cả hai.
Hỏi : Trong kinh cũng nói : Nếu Tì-kheo ăn cơm của thí chủ,
mặc áo của thí chủ, nhập vô lượng thiền định, nhờ nhân duyên
nầy nên thí chủ ấy được phúc vô lượng. Nếu nhờ nhân duyên nầy
mà được phúc ấy, thì sao lại không bị tội ?
Đáp : Nếu Tì-kheo ăn cơm của thí chủ, mặc áo của thí chủ,
nhập vô lượng thiền định, là phúc bố thí của thí chủ tự được tăng
trưởng, chứ không được phúc thiền định. Như ruộng tốt nên thu
hoạch nhiều, ruộng xấu thì thu hoạch ít. Như vậy ruộng phúc tốt
thì quả báo thí phúc nhiều, mà phúc điền xấu thì phúc ít, chứ
không phải do người nhận làm phúc làm tội mà người thí chịu ảnh
hưởng. Cho nên không bởi nhân duyên tội phúc mà bị tội hay
được phúc. Người kia tuy là nhân duyên, mà tội phúc phải do tự
mình khởi 3 nghiệp.
Hỏi : Người chưa lìa dục tâm không tự tại, ắt có tham đắm,
nên người xuất gia không nên tu thí ?
Thành Thật Luận Trang 261 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu như vậy thì người xuất gia trì giới v.v... đều có
phúc đức, điều đó cũng nên bỏ, mà thật ra là không thể. Cho nên
bố thí cũng không nên bỏ, nhưng đừng hồi hướng 3 cõi mà phải vì
Nê-hoàn.
Lại chỉ nên xa lìa phiền não các nghiệp bất thiện. Bởi vì sao
? Vì các nghiệp nầy, trong nhân còn có thể đề phòng, mà đến khi
thành quả thì không thể làm gì hơn được ! Cho nên chư Phật
thường trong khi nhân nói pháp giáo hóa, không phải như Vua
Diêm Vương đến khi quả mới giáo hóa bằng quở trách.
Hỏi : Trong 3 nghiệp chướng nầy thứ nào nặng hơn ?
Đáp : Có người nói báo chướng nặng hơn, vì không giáo hóa
được. Có người nói bởi tùy người nên tất cả đều nặng.
Hỏi : Thứ nào có thể chuyển được ?
Đáp : Đều có thể khiến diệt được. Nếu có chuyển, thì đã
không gọi là chướng.
Phẩm 107 : Bốn nghiệp
Hỏi : Trong kinh Phật nói 4 thứ nghiệp : Báo nghiệp đen đen,
báo nghiệp trắng trắng, báo nghiệp đen trắng đen trắng, và không
báo nghiệp không đen không trắng vì đã diệt hết nghiệp. Thứ nào
như vậy nào ?
Đáp : Nghiệp báo đen đen là tùy theo nghiệp nào đó sinh về
nơi khổ não như địa ngục A-tì và các chỗ khổ não khác không báo
thiện, như súc sinh ngạ quỷ một phần ít. Trái nhau với đây, tức
nghiệp thứ hai. Tùy theo nghiệp nào đó sinh về nơi không khổ
não, như 2 cõi Sắc, Vô sắc và cõi Dục, người trời một phần ít, đen
trắng lẫn lộn, tức nghiệp thứ ba. Tùy theo nghiệp nào đó sinh về
nơi khổ não không khổ não, như địa ngục súc sinh ngạ quỷ người
trời một phần ít. Nghiệp thứ tư là vô lậu vì có khả năng diệt hết 3
nghiệp. Nếu nghiệp 2 đời bị quở trách là đời nay quở trách, đời
Thành Thật Luận Trang 262 Tuệ Quang Foundation
sau quở trách, là người bị tội đọa ở nơi tối đen, không có tiếng
tăm, nên gọi là đen.
Lại 2 đời khổ não là đời nay khổ, đời sau khổ nên gọi là đen.
Hỏi : Nghiệp nầy thứ nào có thể sinh về nơi hoàn toàn khổ
não ?
Đáp : Tâm nối nhau làm ác, không chút ăn năn, không có
điều thiện có thể tiêu diệt nghiệp ác, đó là có thể sinh nơi hoàn
toàn khổ não.
Lại đem tâm tà kiến gây các ác. Lại đối với người quan trọng
mà gây ác, như cha mẹ và các người thiện. Lại đối vói chúng sinh
làm ác không chút xót thương, như giết chúng sinh, hoặc cướp hết
của cải, hoặc nhốt nơi lao ngục mà lại không cho ăn, hoặc đánh
khảo nặng nề khiến không còn chút vui. Các nghiệp như vậy sinh
về nơi hoàn toàn khổ.
Nghiệp báo trắng trắng là như người thuần tụ tập các thiện,
không có gì bất thiện. Vậy lực 2 nghiệp này to lớn nhất, các
nghiệp khác không hơn được. Như khi chịu nghiệp báo đen thì
không dung nghiệp báo trắng, khi chịu nghiệp báo trắng thì không
dung nghiệp báo đen. Bởi vì sao ? Vì tất cả chúng sinh đều tụ tập
thiện, bất thiện, nghiệp lực chướng ngại nhau, nên không được
đồng chịu cùng lúc. Như 2 người cùng kéo giành một vật ai mạnh
lôi đi trước. Nghiệp thứ 3 báo yếu ớt, vì thiện, bất thiện lẫn lộn
cho nên chịu báo cùng thay nhau thắng hơn.
Hỏi: Có người nói nếu nghiệp bất thiện chịu báo ác đạo, đó
là nghiệp đầu tiên. Thiện buộc ở cõi Sắc, là nghiệp thứ hai. Trong
cõi Dục buộc người trời chịu nghiệp báo lẫn lộn, đó là nghiệp thứ
ba. Trong vô ngại đạo, 17 bậc học tư, là nghiệp thứ tư. Nghĩa này
như vậy nào ?
Đáp : Phật tự nói tướng các nghiệp nầy. Nghĩa là nếu người
khởi gây tội nơi thân khẩu ý, thì sinh về nơi khổ não, thân chịu
khổ não, và chịu lấy các thứ phải chịu đều không như ý muốn.
Thành Thật Luận Trang 263 Tuệ Quang Foundation
Cho nên tùy khiến chúng sinh về nơi hoàn toàn khổ, đó là nghiệp
đầu tiên. Cõi Sắc và Vô sắc thì hoàn toàn hưởng lạc. Trời người
cõi Dục cũng có người hoàn toàn hưởng lạc, như trong kinh nói :
Có người vui cũng có 6 thứ xúc, người trời cảm giác các thứ trần,
không gì không được tùy ý. Đó là nghiệp thứ hai. Gây nghiệp đen
trắng lẫn lộn, là nghiệp thứ ba. Tất cả nghiệp vô lậu là hết các
nghiệp, vì trái nhau, chứ không phải chỉ 17 bậc học tư gọi là
nghiệp thứ tư.
Hỏi : Vô lậu thật trắng, sao gọi là không trắng ?
Đáp : Tướng trắng nầy khác không giống trắng của nghiệp
thứ hai. Trắng nầy vượt trội hơn cả, vì không đối đãi nhau. Như
nói vị Chuyển Luân Thánh Vương thành tựu thanh tịnh quá hơn
mắt người trời. Thật mắt người nầy hơn các người khác nên gọi là
hơn người. Nghiệp nầy cũng vậy, hơn các nghiệp trắng khác nên
nói không trắng.
Lại có người nói : Lẽ ra phải nói là nghiệp báo không phải
đen trắng, vậy thì không lỗi.
Lại Nê-hoàn không là không phải trắng. Cho nên nghiệp nầy
phải gọi là không phải trắng.
Lại cũng phải nói không phải trắng không phải đen. Bởi vì
sao ? Vì Nê-hoàn là vô pháp. Nghiệp nầy là Nê-hoàn nên gọi
không đen không trắng.
Lại người đời quí trọng nghiệp thiện hữu lậu, nên gọi là
trắng. Và nghiệp thứ tư có thể bỏ nghiệp nầy, nên gọi không
trắng.
Lại nghiệp nầy không có tướng đen nên cũng không thể có
tướng trắng được.
Lại báo trắng nên nghiệp gọi cũng trắng. Nghiệp nầy không
báo nên không gọi trắng.
Phẩm 108 : Ngũ nghịch
Thành Thật Luận Trang 264 Tuệ Quang Foundation
Thân kế sau chịu quả báo nên gọi không gián đoạn. Nếu đời
hiện nầy chịu thì khổ não nhẹ, báo ít; vì nghiệp ấy nặng, nên theo
thứ lớp mau đọa vào địa ngục A-tì.
Ngũ nghịch là bởi phúc điền đức trọng, nên gọi là nghịch. Đó
là ác tâm phá Tăng, làm thân Phật chảy máu, giết A-la-hán, giết
cha mẹ. Vì không biết ơn dưỡng dục, nên gọi là nghịch. Nghịch
tội nầy chỉ trong đạo làm người có thể sinh khởi, không phải trong
các đạo khác, vì người có phân biệt hiểu biết.
Hỏi : Giết Thánh nhân khác có bị tội nghịch không ?
Đáp : Người giết Thánh nhân phần nhiều đọa địa ngục, nếu
giết A-la-hán chắc chắn phải đọa địa ngục. Nếu người đánh Phật
mà không chảy máu cũng bị trọng tội, vì cố tâm muốn hại Vậy
Tôn.
Hỏi : Nếu người gây một nghịch tội thì đọa địa ngục, hoặc
gây 2, 3, cũng nơi một thân đều chịu báo chăng ?
Đáp : Vì tội nầy nhiều nên chịu khổ nặng lâu. Ở trong đó
chết rồi lại sống lại trong đó.
Hỏi : Trong tội phá Tăng vì sao nặng ?
Đáp : Nếu phi pháp biết là phi pháp, pháp biết là pháp, với
tâm như vậy mà làm thì gọi là nặng. Nếu phi pháp bảo là pháp,
pháp bảo là phi pháp, là không như trước.
Lại như người ở chỗ Phật mà phá Tăng, tự xưng Đại sư đáng
cao cả trong trời người, đó cũng là nặng.
Hỏi : Nếu không phải Thánh nhân, phàm phu có thể phá sao
gọi trọng tội ?
Đáp : Vì chướng ngại chính pháp nên gọi trọng tội.
Hỏi : Pháp phá Tăng là bao lâu ?
Đáp : Pháp không trụ lâu, không trải qua một đêm. Trong đó,
các Phạm Vương, chư thiên, các đại đệ tử như Xá-lợi-phất v.v...,
liền hòa hợp trở lại. Có người nói 5 trăm vị Tì-kheo nầy, đời trước
Thành Thật Luận Trang 265 Tuệ Quang Foundation
vì nhân duyên ngăn thiện căn đắc đạo của người khác nên nay bị
quả báo nầy.
Lại nhân tâm phàm phu vội vã nên dễ có thể phá hoại, như
chỉ chứng được tâm không, vô ngã vậy gian còn không thể phá
được, huống chi bậc vô lậu ! Vì ác dục ở trong tâm, nên mới gây
nhân duyên phá Tăng. Cho nên người cầu phúc cần phải bỏ ác
dục.
Phẩm 109 : Năm giới
Phật nói Ưu-bà-tắc có 5 giới.
Hỏi : Có người nói thụ đầy đủ thì được giới luật nghi. Việc
ấy vậy nào ?
Đáp : Tùy thụ nhiều ít đều được luật nghi. Nhưng chỉ cần lấy
có 5.
Hỏi : Lìa trói buộc v.v... vì sao không gọi là giới, mà chỉ nói
bất sát v.v... ?
Đáp : Vì là bà con quyến thuộc.
Hỏi: Vì sao không nói đoạn dâm, mà chỉ nói không tà dâm ?
Đáp : Vì người còn ở vậy tục khó thường lìa bỏ. Lại như tự
dâm vợ mình không nhất thiết đọa các ác thú. Như Tu-đà-hoàn
v.v... cũng còn hành pháp nầy. Cho nên không nói hoàn toàn dứt
dâm dục.
Hỏi : Lìa 2 lưỡi v.v..., vì sao không gọi là giới?
Đáp : Việc nầy vi tế, khó giữ gìn được. Lại 2 lưỡi v.v... là
một phần của nói dối, nếu nói “nói dối” là đã nói chung tất cả.
Hỏi : Uống rượu là thật tội sao ?
Đáp : Không phải. Bởi vì sao ? Vì uống rượu không làm não
hại chúng sinh, chỉ làm nhân sinh tội. Nếu người uống rượu thì
mở cửa bất thiện. Cho nên, nếu dạy uống rượu thì đắc tội một
phần, vì có thể chướng ngại thiền định và các thiện pháp. Như
Thành Thật Luận Trang 266 Tuệ Quang Foundation
trồng cây ăn trái, ắt phải làm rào ngăn. Như vậy 4 pháp kia là thật
tội, lìa là thật phúc.Vì để bảo vệ nên mới kết giới rượu nầy.
Phẩm 110 : Sáu nghiệp
Nghiệp có 6 thứ. Nghiệp báo địa ngục, nghiệp báo súc sinh,
nghiệp báo ngạ quỷ, nghiệp báo làm người, nghiệp báo sinh về cõi
trời và nghiệp báo bất định.
Hỏi : Thứ nào như vậy nào ?
Đáp : Nghiệp báo địa ngục là như trong phần Lâu thán của
bộ Lục Túc A-tì-đàm có nói rộng.
Lại tội sát sinh v.v... đều là địa ngục. Như trong kinh nói
người ưa sát sinh, sinh trong địa ngục; nếu được làm người thì
chịu quả báo chết yểu. Cho đến tà kiến cũng như vậy.
Hỏi : Đã biết 10 bất thiện đạo chịu báo địa ngục và cũng sinh
trong súc sinh, ngạ quỉ và loài người, mà ông chỉ nói sinh trong
địa ngục và loài người. Nay phải nói riêng nghiệp nào chỉ chịu
báo địa ngục ?
Đáp : Tức tội nghiệp nầy, rất nặng là chịu báo địa ngục, nhỏ
nhẹ chịu báo súc sinh v.v....
Lại nếu đầy đủ 3 thứ tà hành tức là địa ngục, còn các nghiệp
khác không đầy đủ thì làm súc sinh v.v....
Lại cố ý gây trọng tội là địa ngục.
Lại người phá giới phá kiến, gây các ác nghiệp tức là địa
ngục.
Lại thâm tâm làm ác, tâm hoại, hành hoại, người nầy gây ác
nghiệp tức là địa ngục.
Lại gây nghiệp bất thiện vì giúp bất thiện là địa ngục.
Lại như đối với hiền thánh tạo nghiệp bất thiện là địa ngục.
Lại khởi nghiệp bất thiện, rồi tu nhóm bất thiện, về sau ngợi
khen khoái lạc không muốn bỏ lìa, là địa ngục.
Thành Thật Luận Trang 267 Tuệ Quang Foundation
Lại đem tâm ghét giận để gây tội nghiệp, thì là địa ngục. Nếu
vì của cải thì còn chịu báo thừa nữa.
Lại đem tâm tà kiến khởi nghiệp bất thiện, là địa ngục.
Lại người phá giới gây ra tội nghiệp, là địa ngục.
Lại người không hổ thẹn gây ra tội nghiệp, là địa ngục.
Lại người ác tính gây ra tội nghiệp, là địa ngục, ví như đất
ướt mưa ít cũng thành bùn.
Lại người thường làm bất thiện gây ra ác nghiệp, là địa ngục.
Lại nếu không duyên cớ cấp nạn mà gây ác nghiệp là địa
ngục.
Lại nếu người không được chút ít không vô ngã, vì nhiễm
đắm sâu đậm gây tội nghiệp là địa ngục.
Lại nếu người không tu thân giới tâm tuệ, gây ra ác nghiệp,
là địa ngục.
Lại nếu người phàm phu gây ra tội nghiệp là địa ngục. Bởi vì
sao ? Vì người nầy không biết các pháp; ấm, giới, các nhập và 12
nhân duyên v.v..., vì không biết nên làm việc không nên làm,
không làm việc nên làm, nói lời không nên nói, không nói lời nên
nói, nghĩ điều không nên nghĩ, không nghĩ điều nên nghĩ. Người
nầy gây ra tội nghiệp tuy ít nhưng cũng là địa ngục.
Lại nếu không thấy lỗi trong bất thiện, thì người nầy có thể
khởi tội nghiệp nặng, chịu quả báo địa ngục.
Lại nếu người làm tội mà không nương nơi thiện, tức là địa
ngục, như người mắc nợ không nương cậy vua, thì chủ nợ dễ đòi.
Lại nếu người nghiệp thiện yếu ớt gây ra tội ít cũng là địa
ngục, như trong thân người nhiệt lực kém ít, ăn phải thứ ăn khó
tiêu, thì không tiêu được.
Lại nếu người chỉ làm bất thiện, không xen chút thiện
nghiệp, tức là địa ngục. Như người làm giặc, nặng nhẹ đều bị trói.
Lại nếu lìa bỏ tất cả thiện căn, như khi voi chiến ra trận
không giữ tiếc cái đầu, người ấy gây tội tức là địa ngục.
Thành Thật Luận Trang 268 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu hành tiểu pháp, thụ học tiểu sư, người ấy tạo tội tức
là địa ngục. Như người nghèo hèn mắc nợ, bị người giàu lôi kéo.
Lại nếu người thường trưởng dưỡng bất thiện, như mắc nợ
ngày một sinh lời. Như hành nghiệp của những người hàng thịt,
thợ săn v.v..., là địa ngục.
Lại nếu che giấu tội lỗi, tức là địa ngục, như mụt nhọt chảy
mủ.
Lại nếu người bất thiện ở lâu trong tâm, không thể mau dứt,
tức là địa ngục. Như bị trị độc liền có thể giết người.
Lại như người tự làm bất thiện, cũng đem dạy người khác, vì
mở nhiều cửa đau khổ cho chúng sinh, tức là địa ngục. Như các
quốc vương và nhiều người tri thức làm ác tà hạnh khiến nhiều
người học theo, như bọn Phú-lan-na v.v....
Lại nếu gây ra nghiệp hại nhiều chúng sinh, như đốt rừng
v.v..., lại dạy nhiều người khác, khiến sa vào phi pháp, như làm
thợ săn v.v..., lLại nếu người dùng ác nghiệp làm nghề sinh sống,
như làm đầu sỏ đảng giặc cướp, thợ thịt, thợ săn v.v..., lại người
rốt ráo phá giới gây tạo tội nghiệp, tức là địa ngục. Đến chết
không bỏ nên gọi là rốt ráo. Như kệ nói :
Người rốt ráo phá giới
Như dây mây quấn cây.
Tự khiến oán toại nguyện,
Lại vô cớ mà giận.
Lại vô cớ mà nổi giận dữ, vì tâm giận dữ này mà gây tội
nghiệp tức là địa ngục. Nếu có cớ sự mà giận thì tội không đến
như vậy.
Lại vì giận khởi nghiệp là kết nặng, tức là địa ngục. Như
trong kinh nói : Giận là tội nặng mà dễ trừ diệt.
Lại nếu ác tâm thành tính, tức là địa ngục. Nếu vì nhân
duyên mà khởi tội nghiệp thì yếu nhẹ.
Thành Thật Luận Trang 269 Tuệ Quang Foundation
Lại như người phóng túng tạo các ác nghiệp, tức là địa ngục.
Nếu được bạn tri thức ủng hộ thì được sinh lên trời. Như chủ hàng
thịt tên Tá-bà khi sắp lâm chung được Xá-lợi-phất đến tại chỗ,
người ấy liền đưa mắt dữ tợn nhìn Xá-lợi-phất, mà không thể làm
gì được, liền hô lên : Lại đây một chút. Rồi thở dài và thấy sắc
hào quang của Xá-lợi-phất rực rỡ, bền nảy ý nghĩ rằng : Người
này hơn ta, không thể giết. Liền đem tịnh tâm nhìn lên nhìn xuống
Xá-lợi-phất 7 lần như vậy. Nhờ nhân duyên ấy mà được 7 phen
sinh lên trời, bảy phen sinh trong loài người. Về sau tu chứng
được quả Bích-chi-phật.
Lại như Ương-quật-ma-la đã gây nhiều tội nghiệp còn muốn
toan giết mẹ, vì nhờ Phật là vị thiện tri thức, nên liền được giải
thoát.
Lại như người thí việc dùng hầm lửa, cơm độc, muốn Phật
trúng độc và hại Phật. Phật là vị thiện tri thức, nên cũng được giải
thoát. Những người như vậy tuy có ác nghiệp mà không đọa địa
ngục, cho nên mới nói: Nếu người phóng túng tạo các ác nghiệp,
tức là địa ngục.
Lại nếu dứt mất thiện căn không còn chữa được, như Điềuđạt
v.v..., giống như bệnh nhân tướng chết đã hiện, người ấy tạo
tội, tức là địa ngục.
Lại nếu người không thường làm thiện, đến khi mạng sắp
chết thiện tâm khó sinh, người này tâm ăn năn nên đọa địa ngục.
Lại nếu đến khi chết khởi tâm tà kiến, người này bởi trước
lấy bất thiện làm nhân, tà kiến làm duyên, nên đọa địa ngục. Như
vậy có nhiều các nghiệp quả báo địa ngục.
Lại có luận sư nói : Tất cả bất thiện đều là nhân duyên địa
ngục. Ngoài ra dư báo bất thiện sinh trong các loài súc sinh v.v…
Như trong kinh nói : Phật bảo Tì-kheo rằng : Các ông đã thấy
chúng sinh thân tà hành, khẩu tà hành, ý tà hành. Phải biết đó là
thấy người trong địa ngục.
Thành Thật Luận Trang 270 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Đã biết báo nghiệp địa ngục. Còn báo nghiệp súc sinh
là vậy nào ?
Đáp : Nếu người thiện không thuần, khởi nghiệp bât thiện,
nên đọa súc sinh.
Lại kết sử bùng phát mạnh nên đọa súc sinh. Như dâm dục
thịnh nên sinh trong loại chim sẻ, chim cù dục, uyên ương v.v...,
giận dữ thịnh nên sinh trong loại rắn, rết, bò cạp loài có nọc độc
v.v..., ngu si thịnh nên sinh trong loài heo dê v.v..., kiêu ngạo
thịnh nên sinh trong loài sư tử, cọp, sói v.v..., hiếu động thịnh nên
sinh trong loài vượn khỉ v.v..., ganh ghét v.v...thịnh nên sinh trong
loài chó v.v.... Như vậy, các loại phiền não khác thịnh, nên sinh
trong nhiều loài súc sinh khác. Nếu người có chút phần bố thí, tuy
sinh trong súc sinh cũng được hưởng vui, như loài chim cánh
vàng, rồng, voi ngựa v.v....
Lại khẩu nghiệp báo, phần nhiều đọa súc sinh, như người
không biết, không tin nghiệp quả báo, nên khởi các thứ khẩu
nghiệp. Như nói : Người ấy hiếu động như vượn khỉ thì sinh trong
loài vượn khỉ, như nói tham ăn như quạ, nói như chó sủa, hãi như
heo dê, tiếng như lừa kêu, đi như lạc đà, tự cao như voi, hung dữ
như trâu hoang, dâm như chim sẻ, sợ như chồn mèo, nịnh hót như
dã can, hung tợn như dê đen, nhiều như lông bò. Sinh khởi ác
khẩu nghiệp như vậy v.v..., nên phải theo nghiệp mà chịu quả báo.
Lại chúng sinh vì ham muốn nên phát nhiều thứ nguyện ước,
như ham muốn dâm dục thì sinh trong loài chim sẻ v.v.... Nếu
nghe các loài rồng, chim cánh vàng v.v... có vậy lực, nên muốn
sinh trong các loài ấy.
Lại như trong kinh nói : Nếu chết ở chỗ chật hẹp, nguyện
được ở chỗ rộng rãi, thì sinh trong loài chim. Nếu chết vì khát,
cầu nước nên sinh trong loài ở nước, chết vì đói, tham ăn nên sinh
trong nhà xí v.v....
Thành Thật Luận Trang 271 Tuệ Quang Foundation
Lại từ ngu si khởi nghiệp nhẹ yếu, vì thiện lẫn lộn, nên sinh
trong các loài bọ chét, rận, rệp, trùng, kiến v.v....
Lại nếu dạy người khác khiến đọa trong tà pháp thì sinh chỗ
không trí, mù bẩm sinh, mù suốt đời, sinh làm côn trùng trong
thây chết.
Lại gây nghiệp lẫn lộn, nên sinh trong súc sinh. Như trong
kinh nói : Các súc sinh tùy nhiều thứ tâm, được nhiều thứ hình.
Lại nếu khởi nghiệp phải ăn cỏ, như người vọng ngữ, tự trù
ẻo thề rằng : Nếu ăn thứ ăn nầy khiến ta ăn cỏ, hoặc nói ta ăn đất
v.v....
Lại nếu người ác khẩu mắng rằng : Sao ngươi không ăn cỏ,
ăn đất cho rồi ! Người ấy tùy theo lời nói mà thụ sinh ăn cỏ ăn đất
v.v....
Lại người tu bất tịnh thí, thì bị quả báo ăn cỏ v.v....
Lại nếu người mắc nợ không trả đọa trong các loài bò, dê,
cheo, nai, lừa, ngựa v.v... để đền nợ xưa. Các nghiệp như vậy
v.v... đọa trong súc sinh.
Hỏi : Đã biết báo nghiệp trong súc sinh, còn nghiệp nào đọa
trong loài ngạ quỉ ?
Đáp : Đối với ăn uống sinh tâm tham lam, nên đọa ngạ quỉ.
Hỏi : Nếu người có vật của mình không cho ai, sao lại bị tội
?
Đáp : Vì người tham lam keo kiệt nầy, nếu có ai theo xin, thì
tham tiếc mà sinh giận dữ. Do tội nầy nên sinh trong ngạ quỷ.
Lại người tham lam keo kiệt nầy nếu có ai theo xin có mà nói
không, vì vọng ngữ nên đọa trong ngạ quỷ.
Lại người nầy lâu nay tụ tập lòng keo kiệt, thấy người khác
được lợi thì sinh lòng ganh ghét, nên đọa ngạ quỷ.
Lại người tham lam keo kiệt nầy, thấy người khác tu thí thì
ghét giận thí chủ, rồi nói : Người xin nầy vì quen xin được, nên
chắc sẽ lại theo ta xin.
Thành Thật Luận Trang 272 Tuệ Quang Foundation
Lại đã từ lâu tụ tập lòng keo kiệt, nên đã tự không thí lại còn
ngăn người khác thí.
Lại nếu là của chung như vật của chúng Tăng trong chùa và
vật của Bà-la-môn trong các miếu thờ trời, có người độc quyền
chiếm lấy, lẫn tiếc không muốn thí cho người khác nên đọa vào
ngạ quỷ.
Lại nếu người vì cướp đoạt phá hoại đồ uống ăn của người
khác, nên sinh về chỗ không có vật uống ăn.
Lại nếu người không có phúc bố thí, nên không được báo
sinh theo chỗ mong muốn, mà còn bị trách mắng là nghiệp ăn xin,
nên chịu khổ trong đó.
Lại người keo kiệt nầy thấy người đói khát, không lòng
thương tưởng, nên sinh về nơi thường bị đói khát. Nếu nhờ lòng
từ bi được sinh lên trời. Như vậy bởi lòng giận hờn, nên sinh
trong đường ác.
Lại tham đắm thân thuộc, yêu thích nơi ở nên đọa vào loài
chim Ca-lăng-già v.v.... Sinh trong ngạ quỷ, vì tham ái làm nhân
duyên sinh. Như vậy v.v..., như trong Kinh Nghiệp Báo có nói
rộng.
Hỏi : Đã biết 3 ác báo nghiệp, còn do nghiệp gì sinh trong
loài người và trời ?
Đáp : Nếu tu nghiệp thiện như bố thí, trì giới v.v..., bậc
thượng sinh trời, trung, hạ sinh trong loài người.
Lại người lợi căn thì sinh trong loài người, vì có thể tu hành
pháp làm người nên gọi là người.
Lại nghiệp thiện lẫn lộn nên sinh trong người. Nghiệp này có
thượng trung hạ, nhất tâm bất nhất tâm, tịnh bất tịnh v.v.... Vì sao
biết được ? Vì người có nhiều phẩm cách sai khác bất đồng. Như
trong kinh nói: Sát sinh thì đoản mạng, trộm cướp thì bần cùng, tà
dâm thì gia đình không trinh lương, nói dối thì thường bị bài báng
đâm thọc thì dòng họ bất hòa, ác khẩu thì thường nghe tiếng dữ,
Thành Thật Luận Trang 273 Tuệ Quang Foundation
lời thêu dệt thì người không tin, tham lam tật đố thì nhiều dâm
dục, giận dữ thì nhiều tính ác, tà kiến thì nhiều ngu si, kiêu mạn
thì sinh làm người hạ tiện, tự cao thì sinh lùn thấp, ganh ghét thì
không uy đức, keo kiệt thì bần hàn, giận dữ thì thân xấu xí, não
hại người thì nhiều tật bệnh, tạp tâm bố thí thì thèm những thứ
không mỹ vị, bố thí phi thời thì không được quả vừa ý, nghi hối
thì sinh ở biên địa, hành bất tịnh thí thì từ việc khổ mới được quả
báo, phi đạo hành dâm thì sinh thân bất nam. Trong loài người có
nghiệp bất thiện pha tạp như vậy v.v.... Nghiệp thiện thì trái lại
với trên, như không sát sinh thì mạng được sống lâu v.v.... Trong
loài người có nhiều thứ bất đồng như vậy v.v..., cho nên biết là
nghiệp báo xen tạp.
Lại vì nguyện nên sinh trong loài người.
Lại người không ưa phóng túng, cũng không nhiều dục, mà
ưa thích trí tuệ, phát nguyện muốn được thân người, thì sinh trong
loài người.
Lại nếu người ưa thích cúng dường cha mẹ và các bậc tôn
trưởng, cũng biết cúng dường Sa-môn Bà-la-môn v.v... ưa vui làm
sự nghiệp, cũng ưa thích tu phúc, thì sinh loài người, ở trong loài
người hoặc tu nhân duyên tịnh nghiệp, thì sinh về Uất-đan-việt.
Lại nếu người chán ghét ruộng vườn nhà cửa và các ngã sở
sai khác, thì cũng sinh Uất-đan-việt.
Lại nếu, người tu chính hành bạch nghiệp, không não hại
người khác, dùng của để bố thí, cũng không tham đắm, tự trì giới
hạnh lại không phá các giới quyến thuộc trước sau, thì sinh Uấtđan-
việt. Làm điều thiện nhỏ yếu, thì sinh về Câu-da-ni. Lại nhỏ
mà không bằng điều trên, thì sinh về Phất-vu-đãi. Nghiệp báo cõi
trời là giới, thí thiện, thanh tịnh bậc thượng nên sinh về cõi trời.
Lại nếu người được một phần trí tuệ, uốn dẹp được các kết,
nên sinh lên cõi trời.
Thành Thật Luận Trang 274 Tuệ Quang Foundation
Lại cũng tùy tạp nghiệp nên có sai khác, như đã nói trong
phần về loài người.
Lại vì nguyện, như nghe nói nhân duyên hưởng vui trên trời,
rồi ra làm nghiệp thiện, nguyện vãng sinh, như đã nói trong 8 nơi
có phúc được sinh về. Nếu tu từ bi hỷ xả thì sinh cõi Phạm Vậy
cho đến cõi Hữu-Đảnh. Trong đó phẩm loại thiền định có sai
khác, nên quả báo cũng sai khác. Như không khéo dứt trừ sự ngủ
nghỉ vui chơi v.v..., thì ánh sáng nơi thân người nầy đục, nếu khéo
thì dứt thì ánh sáng trong sáng.
Lại thượng thiện nghiệp báo thì sinh lên trời, được các thứ sở
dục, nghĩ là liền được. Nếu lìa sắc tướng thì được Vô sắc định,
sinh Vô sắc xứ. Như vậy v.v... gọi là nghiệp báo thiện. Nghiệp
báo bất định là nghiệp thiện bậc thấp và nghiệp bất thiện. Nghiệp
nầy chịu quả báo hoặc trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người,
trời.
Hỏi: Trong 4 đạo kia khá được thiện nghiệp báo, còn địa ngục thì
sao?
Đáp : Nếu trong địa ngục nhỏ có tạm nghỉ ngơi, như từ địa
ngục lửa tự thoát ra, xa thấy rừng cây lòng mừng chạy đến vào
trong rừng ấy, gió mát cây động, dao gươm chưa rơi xuống, bấy
giờ tạm vui. Hoặc thấy sông nước mặn tưởng là nước ngọt, vội
chạy thẳng đến cũng được chút vui. Như vậy v.v... là phần nghiệp
báo thiện trong địa ngục. Đó gọi là nghiệp báo bất định.
Phẩm 111 : Bảy bất thiện luật nghi
Bảy bất thiện luật nghi là : giết, trộm, tà dâm, đâm thọc, ác
khẩu, nói dối, nói thêu dệt. Nếu người với 7 điều này, hoặc đầy
đủ, hoặc không đầy đủ, đều gọi là người bất thiện luật nghi.
Hỏi : Những gì thành tựu bất thiện luật nghi ?
Đáp: Thành tựu giết bất thiện luật nghi, là những người hàng
thịt, thợ săn v.v.... Thành tựu trộm, là trộm cướp v.v.... Thành tựu
Thành Thật Luận Trang 275 Tuệ Quang Foundation
tà dâm, là hành dâm không phải đạo và dâm nữ v.v.... Thành tựu
nói dối là những con hát, ca vũ kỹ v.v.... Thành tựu đâm thọc là
ưa sàm báng và độc tụng những kinh sách nhảm nhí, cấu hợp
quốc sự v.v.... Thành tựu ác khẩu là quỉ ngục tốt v.v..., cũng dùng
ác khẩu tự sinh sống v.v.... Thành tựu lời nói thêu dệt là hợp tập
những ngôn từ khiến người cười chơi v.v.... Có người nói các
vương hầu tể tướng trị việc vua, thường thành tựu bất thiện luật
nghi này. Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu người gây
tội nối nhau không dứt, đó mới gọi thành tựu bất thiện luật nghi,
chứ vương hầu v.v... không phải vậy.
Hỏi : Làm sao được bất thiện luật nghi nầy ?
Đáp : Tùy khi làm ác nghiệp mà được.
Hỏi : Là do giết một chúng sinh được luật nghi nầy, hay do
tất cả chúng sinh mà được ?
Đáp : Do tất cả chúng sinh mà được. Như người trì giới đối
với tất cả chúng sinh mà được thiện luật nghi. Bất thiện luật nghi
cũng như vậy. Như tùy giết chúng sinh được 2 thứ vô tác : một là
thuộc về tội giết, hai là thuộc về bất thiện luật nghi.
Hỏi : Bất thiện luật nghi nầy thành tựu thời gian bao lâu ?
Đáp : Cho đến khi chưa được xả tâm thì thường thành tựu.
Hỏi : Nếu người do tâm hạ nhuyễn, được bất thiện luật nghi,
nếu tâm tham v.v... được, người ấy thường thành tựu như vậy, hay
là lại được nữa ư ?
Đáp : Tùy tâm tùy phiền não nhân duyên, lại được bất thiện
luật nghi nầy nữa, vì trong niệm niệm thường được. Đối với tất cả
chúng sinh được khởi 7 thứ. Bảy thứ nầy có thượng trung hạ nên
lại có 21 thứ. Như vậy trong mỗi niệm thường đối bên tất cả
chúng sinh mà được.
Hỏi : Làm sao xả bỏ được bất thiện luật nghi này ?
Đáp : Tùy khi thụ thiện luật nghi là bỏ được, khi chết cũng
bỏ.
Thành Thật Luận Trang 276 Tuệ Quang Foundation
Lại phát thâm tâm từ nay không còn tái phạm, bấy giờ cũng
bỏ. Có luận sư nói khi nào chuyển căn là bỏ. Điều này không
đúng. Bởi vì sao ? Vì những người ái nam cũng được thành tựu.
Trong Luật Tì-ni cũng nói: Nếu Tì-kheo chuyển căn không mất
luật nghi. Nên phải biết không vì chuyển căn mà bỏ được.
Hỏi : Trong ngũ đạo, chúng sinh trong đạo nào thành tựu bất
thiện luật nghi ?
Đáp : Chỉ đạo làm người thành tựu, không phải các đạo khác.
Có người nói sư tử cọp sói v.v... thường sinh sống bằng nghiệp ác
cũng phải thành tựu.
Phẩm 112 : Bảy thiện luật nghi
Bảy thiện luật nghi là không giết cho đến không nói lời thêu
dệt.
Hỏi : Đối với phi chúng sinh số, có được thiện luât nghi nầy
không ?
Đáp : Nhưng cần phải nhân nơi chúng sinh, thiện luật nghi
nầy có 3 thứ là giới luật nghi, thiền luật nghi, và định luật nghi.
Hỏi : Vì sao không gọi vô lậu luật nghi ?
Đáp : Vô lậu luật nghi gồm trong 2 thứ sau, nên không nói
riêng. Có luận sư nói : Lại có đoạn luật nghi. Nghĩa là khi lìa cõi
Dục được thiện luật nghi. Vì đoạn dứt phá giới v.v... các điều ác
nên gọi là đoạn. Mà thật ra tất cả luật nghi đều gồm trong 3 thứ.
Hỏi : Các ngoại đạo được giới luật nghi nầy không ?
Đáp : Được vì người nầy cũng nhờ thâm tâm lìa các ác, nên
giới sư dạy rằng : Người từ ngày nay không nên khởi giết v.v...
các tội.
Hỏi : Các đạo chúng sinh khác có được giới luật nghi nầy
không.
Đáp : Trong kinh nói các loại rồng v.v... cũng có thể thụ giới
tu một ngày. Nên biết là có.
Thành Thật Luận Trang 277 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Có người nói có những người không đủ nam căn không
được giới luật nghi nầy. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Giới luật nghi nầy do tâm mà được sinh. Người ái nam
cũng có thiện tâm Vì sao không được !
Hỏi : Vậy sao không cho làm Tì-kheo ?
Đáp : Vì người nầy kết sử sâu dày khó mà đắc đạo. Lại
người nầy không ở trong hàng ngũ Tì-kheo, cũng không thuộc
hàng ngũ Tì-kheo-ni, cho nên không cho.
Lại trong đó cũng có ngăn không cho các người khác nữa,
như lé mắt v.v.... Người ấy cũng được thiện luật nghi nầy.
Hỏi : Trong Luật Tì-ni ngăn cấm người nghịch tội, người tặc
trú và người làm ô uế Tì-kheo-ni v.v... không cho làm Tì-kheo.
Nhưng các người ấy cũng có thiện luật nghi chứ ?
Đáp : Những người ấy nếu là người vậy gian có thể được
thiện luật nghi, như không ngăn những người ấy tu bố thí từ bi các
pháp thiện. Như vậy nếu có vậy gian giới luật nghi, đâu có lỗi gì.
Nhưng vì người ấy bị ác nghiệp làm bẩn cũng chướng ngại Thánh
đạo nữa, cho nên không cho xuất gia.
Hỏi : Là do chúng sinh có thể giết v.v... mà được thiện luật
nghi hay là với tất cả chúng sinh mà được ?
Đáp : Đều đối với tất cả chúng sinh mà được. Nếu không
phải vậy, thì luật nghi có giới hạn, mà có giới hạn là không đầy
đủ.
Lại luật nghi ấy có thể tăng giảm. Vậy là cũng đồng với pháp
của Ni-kiền tử, nghĩa là trong phạm vi một trăm do-tuần không sát
sinh v.v.... Có các lỗi ấy, cho nên luật nghi không có phân biệt.
Nếu có người nói : Ta đối với người ấy lìa giết, mà người ấy
không lìa, người ấy không được luật nghi nầy. Có luận sư nói :
Nếu phân biệt bố thí tu từ tâm v.v... cũng có phúc đức. Giới cũng
như vậy, như giữ một giới cũng được phúc một giới. Như vậy đối
với một chúng sinh cũng được luật nghi.
Thành Thật Luận Trang 278 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Giới luật nghi nầy có 2 thứ : một là trọn đời, hai là một
ngày đêm. Trọn đời như giới Tì-kheo, Ưu-bà-tắc. Một ngày đêm
như thụ 8 giới một ngày đêm, việc ấy vậy nào ?
Đáp : Việc ấy vô định. Hoặc một ngày một đêm, hoặc chỉ
một ngày, hoặc chỉ một đêm; hoặc nửa ngày, hoặc nửa đêm. Tùy
lúc có thể lãnh thụ được. Xuất gia thì chỉ nên trọn đời. Nếu nói tôi
chỉ thụ 1 tháng hay 2 tháng, hoặc chỉ 1 năm thì không gọi là được
pháp xuất gia. Năm giới cũng như vậy.
Hỏi : Nếu được thiện luật nghi trở lại phá, có mất luật nghi
chăng ?
Đáp : Không mất. Chỉ do bất thiện pháp làm bẩn luật nghi
nầy.
Hỏi : Chỉ đối với chúng sinh hiện tại được giới luật nghi hay
là chúng sinh 3 đời được chăng ?
Đáp : Đều phải đối với chúng sinh 3 đời được. Như người
cúng dường Chư Tôn quá khứ cũng có phúc đức.. Luật nghi cũng
như vậy. Cho nên tất cả Chư Phật đồng một giới phẩm. Luật nghi
nầy nhiều vô lượng, như đối với một chúng sinh được khởi 7 thứ,
như do thiện căn không tham v.v... mà khởi, cũng do tâm thượng
trung hạ mà khởi, nên có nhiều thứ. Như một người, hay tất cả
chúng sinh cũng như vậy, trong mỗi niệm thường được, nên có vô
lượng.
Hỏi : Giới luật nghi, thì gian bao lâu mới được ?
Đáp : Có người thụ giới một ngày, là sơ luật nghi. Ngay ngày
thụ giới Ưu-bà-tắc, là luật nghi thứ hai. Ngay ngày xuất gia làm
Sa-di, là luật nghi thứ ba. Ngay ngày thụ giới Cụ túc là luật nghi
thứ tư. Ngay ngày thiền định, là luật nghi thứ năm. Ngay ngày
được Vô sắc định, là luật nghi thứ sáu. Ngay ngày được vô lậu, là
luật nghi thứ bảy. Tùy chỗ được đạo quả lại được luật nghi nữa,
mà những luật nghi đã được từ trước không mất. Chỉ thứ nào
thắng hơn thì được tên gọi. Như vậy là phúc đức càng tăng thêm,
Thành Thật Luận Trang 279 Tuệ Quang Foundation
vì giới luật nghi nầy đối với tất cả chúng sinh trong mỗi niệm
thường được. Cho nên nói giới luật nghi một ngày nầy, 4 kho báu
lớn không bằng 1 trong 16 phần. Thiền luật nghi, vô lậu luật nghi
tùy tâm hành, mà giới luật nghi không tùy tâm hành.
Hỏi : Có người nói khi nhập định có thiền luật nghi, mà xuất
định thì không có. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Xuất nhập đều thường có. Vì người nầy thật được pháp
không tạo ác, và trái với phá giới, thường không làm ác, thiện tâm
càng vượt trội, nên phải thường có.
Hỏi : Như thiền trong cõi Vô sắc, không có pháp phá giới thì
lấy gì trái nhau mà gọi là thiện luật nghi ?
Đáp : Pháp phải như vậy. Các tiên, thánh đều được thiện luật
nghi. Nếu phải lấy trái nhau với phá giới mới có luật nghi, thì chỉ
do nên não hại chúng sinh mới được thiện luật nghi. Có những lỗi
như vây, cho nên không đúng.
Phẩm 113 : Tám giới trai
Tám giới trai gọi là Ưu-bà-ta, nhà Tần dịch là thiện túc, là
người ấy thiện tâm lìa được phá giới một đêm nên gọi là thiện túc.
Hỏi : Vì sao chỉ nói lìa 8 việc ấy ư ?
Đáp : Đây là 8 cửa. Do 8 pháp nầy lìa tất cả ác. Trong đó có
4 pháp thật ác là ụống rượu là cửa của ác; 3 pháp kia là nhân
duyên phóng dật. Người nầy lìa 5 thứ ác là nhân duyên của phúc,
lìa 3 thứ kia là nhân duyên của đạo. Người vậy gian phần nhiều
thiện pháp yếu ớt, chỉ có thể khởi nhân duyên của đạo nhờ 8 pháp
nầy mà thành tựu pháp ngũ thừa.
Hỏi : Tám phần trai giới chỉ nên thụ đầy đủ, hay thụ một
phần nào cũng được ?
Đáp : Tùy sức có thể giữ. Có người nói pháp nầy chỉ trai giới
một ngày đêm. Điều này không đúng. Tùy thụ giới nhiều ít, hoặc
có thể nửa ngày cho đến một tháng, đâu có lỗi chi ? Có người nói
Thành Thật Luận Trang 280 Tuệ Quang Foundation
cần phải theo người khác mà thụ. Đó cũng không nhất định. Nếu
khi không người truyền thì chỉ tâm niệm miệng nói : Tôi giữ 8
giới. Giới nầy có 5 thứ thanh tịnh :
1. Tu 10 thiện đạo
2. Dứt các khổ trước sau
3. Không bị ác tâm não hại
4. Cần nghĩ nhớ giữ gìn
5. Hồi hướng về Niết-bàn.
Có thể được trai giới như vậy, thì 4 kho báu lớn không bì kịp
một phần, phúc báo Thiên Vương cũng không bì kịp. Đế Thích
nói kệ, Phật quở rằng nếu người hết lậu tâm mới nên nói kệ nầy.
Kệ rằng :
Lục trai tháng thần túc,
Vâng tu 8 giới pháp.
Người nầy được phúc đức,
Thì cùng tôi ngang nhau.
Nếu ngày trai người nào thụ trai giới thì phúc như Đế Thích.
Vì thụ trai pháp nầy ứng với quả Nê-hoàn, nên những người hết
lậu tâm mới nên nói kệ nầy. Trong phép thụ trai pháp, có bị trói
buộc, gông cùm đều được tháo xả; cũng cắt đứt được tất cả nhân
duyên bất thiện, nên gọi là thanh tịnh.
Hỏi : Chuyển Luân Thánh Vương muốn thụ trai pháp nầy, thì
nhờ ai truyền dạy ?
Đáp : Đại Thiên Thần là người đã từng yết kiến Phật sẽ dạy
cho thụ.
Phẩm 114 : Tám thứ lời nói
Tám thứ lời nói có 4 thứ bất tịnh 4 thứ tịnh. Bốn thứ bất tịnh
là : Nếu người thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, không
thấy tự bảo thấy, nhưng hỏi thì nói không thấy; thấy tự bảo không
thấy, nhưng hỏi thì nói thấy. Như vậy là sự trái ngược tâm cũng
Thành Thật Luận Trang 281 Tuệ Quang Foundation
trái ngược, nên gọi là bất tịnh. Bốn thứ tịnh là : Nếu thấy nói thấy,
không thấy nói không thấy, thấy tự bảo không thấy, hỏi thì nói
không thấy, không thấy tự bảo thấy, hỏi thì nói thấy. Sự thật tâm
cũng thật, nên gọi là tịnh. Nghe, hiểu, biết, cũng như vậy.
Hỏi : Thấy, nghe, hiểu, biết có sai khác gì không?
Đáp : Có 3 thứ tin : Thấy là tin hiện tại; nghe là tin lời hiền
thánh, biết là so sánh biết, hiểu là phân biệt. Là 3 thứ tin tuệ. Ba
thứ tuệ nầy, hoặc đều là thật, hoặc đều là trái ngược. Bậc thượng
nhân không khởi bất tịnh, chỉ nói lời tịnh ngữ. Cho nên lời nói của
kẻ hạ nhân dùng là bất tịnh. Lời nói của thượng nhân mới gọi là
tịnh. Có người nói trong nghĩa nầy, các người chính trí đều gọi là
thượng vì không những chỉ có người đắc đạo mà người phàm phu
cũng có tịnh ngữ.
Phẩm 115 : Nghiệp
Có 9 thứ nghiệp. Nghiệp buộc cõi Dục có 3 thứ là tạo tác,
không tạo tác, không phải tạo tác, không phải không tạo tác.
Nghiệp buộc cõi Sắc cũng vậy. Cõi Vô sắc 2 thứ và nghiệp vô lậu.
Nghiệp do thân khẩu gây ra gọi là tạo tác. Bởi tạo tác nên
nhóm các tội phúc thường bám theo, đó là pháp tâm bất tương
ưng, gọi là không tạo tác. Cũng có không tạo tác chỉ do tâm sinh.
Không phải tạo tác không phải không tạo tác; tức là ý. Ý tức là ý
nghĩ, ý nghĩ là nghiệp. Cho nên nếu ý tìm cầu thân sau, thì đó gọi
là ý nghiệp, cũng gọi là ý nghĩ. Tư duy nghĩ về thân sau nên gọi là
nghiệp.
Hỏi : Nếu như vậy thì không có tư duy vô lậu ?
Đáp : Nếu cho đó là tư duy, tức là tư duy vô lậu.
Hỏi : Không tạo tác nầy tuy từ thân sinh, nhưng phải có
nhiều ít sai khác chăng ?
Đáp : Tất cả thân phần đều khởi tác nghiệp, nhân đó nhóm
họp nhiều không tạo tác, được quả báo lớn.
Thành Thật Luận Trang 282 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Không tạo tác nầy ở chỗ nào ?
Đáp : Thể của nghiệp đạo quyết định nhóm không tạo tác.
Tạo tác hoặc có hoặc không, các thứ khác thì phải đợi tâm. Nếu
tâm mạnh thì có, tâm yếu thì không.
Lại không tạo tác này cũng từ nguyện sinh, nếu người phát
nguyện : Tôi cần phải bố thí hoặc xây tháp cất chùa. Người ấy
quyết định được không tạo tác.
Hỏi : Không tạo tác này thời gian bao lâu mới được, thời
gian bao lâu thì mất ?
Đáp : Tùy việc làm ra tồn tại, như tạo lập vườn tược tháp
chùa v.v... thí tùy vật thí không hư, bấy giờ thường còn.
Lại tùy tâm không dứt, như người phát tâm : Ta phải thường
làm điều này. Hoặc hội đồng hoặc cúng áo, những việc như vậy ở
nơi tâm không dứt, bấy giờ thường được.
Lại tùy mạng sống chưa qua đời, như người thụ giới xuất gia,
bấy giờ thường được.
Hỏi : Có người nói chỉ trong cõi Dục do tạo tác sinh không
tạo tác mà trong cõi Sắc thì không có. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Hai cõi đều có cả. Bởi vì sao ? Vì chư thiên ở cõi Sắc
cũng có thể thuyết pháp, kính lễ Phật và Tăng. Những người như
vậy v.v..., Vì sao không do tác nghiệp sinh vô tác ư ?
Lại có người nói ẩn mất, vô ký, nên không có không tạo tác.
Điều này không đúng. Ẩn mất, vô ký là phiền não nặng. Phiền
não nầy nhóm họp, gọi là sử, nhưng khong ẩn mất, vô ký thì
không có không tạo tác. Bởi vì sao ? Vì tâm ấy mềm yếu, không
thể khởi nhóm, như hoa có thể ướp mè chứ không phải cỏ cây
v.v.... Có người nói : Vượt lên trên cõi Phạm Vậy không có tâm
có thể khởi tác nghiệp. Bởi vì sao ? Vì có giác quán mới có thể
khởi khẩu nghiệp, kia không có giác quán, chỉ dùng tâm Phạm
Vậy có thể khởi khẩu nghiệp. Điều này không đúng. Chúng sinh
tùy nghiệp thụ thân, nếu được sinh lên bậc trên, thì không được
Thành Thật Luận Trang 283 Tuệ Quang Foundation
dùng báo trong cõi Phạm Vậy. Cho nên biết dùng tâm từ cõi mình
có thể khởi khẩu nghiệp.
Lại ông nói kia không giác quán, ra sau sẽ nói có.
Hỏi : Thánh nhân đoạn các kết chưa hết có thể khởi tác
nghiệp không ?
Đáp : Thánh nhân không thể khởi nghiệp thật tội.
Hỏi : Âm thanh chúng sinh như tiếng chó sủa v.v... có phải
khẩu nghiệp chăng ?
Đáp : Tùy không có ngôn từ sai biệt, nhưng vì do tâm khởi
nên cũng gọi là nghiệp.
Lại như hiện tướng hoặc hiệu lệnh, hoặc tiếng đàn sáo v.v...,
đều gọi khẩu nghiệp. Nghiệp thân khẩu nầy cần có ý thức mới có
thể khởi, chứ không phải các thức khác. Cho nên người có tự thấy
thân nghiệp, tự nghe khẩu nghiệp, dùng ý thức sinh khởi nghiệp,
nối nhau không dứt nên tự thấy nghe.
Phẩm 116 : Mười con đường bất thiện
Trong kinh Phật nói 10 con đường bất thiện là sát sinh v.v....
Năm ấm hòa hợp gọi là chúng sinh. Dứt mạng sống nầy là sát
sinh.
Hỏi : Nếu 5 ấm ấy thường diệt trong từng mỗi niệm thì lấy gì
mà sát ?
Đáp : Năm ấm tuy mỗi niệm diệt mà lại nối nhau sinh. Cắt
đứt sự nối nhau gọi là sát sinh.
Lại vì người ấy có cố tâm sát, nên bị tội sát.
Hỏi : Vì dứt 5 ấm hiện tại mà gọi là sát hay sao?
Đáp : Trong 5 ấm nối nhau có tên chúng sinh. Vì hoại sự nối
nhau nầy nên gọi sát sinh, chứ không bởi trong mỗi niệm diệt có
tên chúng sinh.
Thành Thật Luận Trang 284 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Có người dựa theo cựu pháp của quan mà sát hại chúng
sinh, hoặc vì sức mạnh ép bức sát chúng sinh, tự bảo không có tội.
Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Lẽ ra cũng bị tội. Bởi vì sao ? Vì người ấy đầy đủ nhân
duyên sát tội. Do 4 duyên bị tội sát sinh : 1. Có chúng sinh. 2. Biết
là chúng sinh. 3. Có tâm muốn sát. 4. Dứt mạng sống của nó.
Người ấy đủ 4 nhân nầy làm sao mà không tội ?
Gọi là trộm, là nếu vật ấy thật thuộc của người ấy mà cướp
trộm đấy gọi là trộm. Trong đó cũng có 4 thứ nhân duyên : 1. Là
vật thật thuộc người khác. 2. Biết là thuộc người khác. 3. Có tâm
cướp trộm. 4. Cướp trộm lấy xong.
Hỏi : Có người nói của vật ẩn tàng là thuộc của vua, nếu lấy
vật ấy thì đắc tội với vua. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Bất luận vật gì trong đất, chỉ vật trên mặt đất thuộc của
vua. Bởi vì sao ? Vì như Cấp-cô-độc chẳng hạn, là Thánh nhân
mà cũng lấy vật ấy, nên biết không tội.
Lại như tự nhiên được của không gọi trộm cướp.
Hỏi: Nếu tất cả muôn vật đều là cọng nghiệp sinh, thì trộm
cướp Vì sao bị tội ?
Đáp : Tuy do nhân cọng nghiệp sinh, nhưng nhân có mạnh
yếu, nếu người có sức nghiệp nhân mạnh, lại siêng có thể gia công
thì vật ấy mới thuộc quyền sở hữu.
Hỏi : Nếu người cướp lấy ruộng đất nhà cửa đồ vật v.v... của
tháp, chùa, chúng Tăng thì đắc tội với ai ?
Đáp : Tuy Phật và Tăng đối với vật không có tâm cho là của
mình, nhưng cũng đắc tội, vì vật nầy nhất định thuộc Phật Tăng.
Trong đó sinh ác tâm hoặc cướp hoặc trộm, cho nên đắc tội.
Gọi tà dâm, là nếu hành dâm với người không phải vợ mình
thì gọi là tà dâm.
Lại tuy là vợ mà hành dâm chỗ phi đạo cũng gọi là tà dâm.
Thành Thật Luận Trang 285 Tuệ Quang Foundation
Lại tất cả nữ nhân đều có người giám hộ, như cha mẹ, anh
em, người chồng, dâu con v.v....Nữ nhân xuất gia được vua v.v...
làm giám hộ ?
Hỏi : Hành dâm với gái giang hồ là người không phải vợ, có
phải tà dâm không ?
Đáp : Là vợ thời gian ngắn. Như trong Luật Tì-ni có nói : Đó
là vợ một thời gian ngắn, cho đến lấy một sợi tóc ngăn.
Hỏi : Nếu gái không chồng, tự đến cầu xin làm vợ, việc ấy
vậy nào ?
Đáp : Nếu thật không chồng mà đối trước công chúng đúng
như pháp đến cầu, thì không gọi tà dâm.
Hỏi : Nếu người xuất gia lấy vợ miễn tà dâm chăng ?
Đáp : Không miễn được. Bởi vì sao ? Vì không có pháp nầy.
Pháp người xuất gia là thường lìa dâm dục. Nhưng tội nhẹ hơn
phạm vợ người khác.
Vọng ngữ là, nếu thân khẩu ý dối gạt chúng sinh khác, khiến
hiểu sai lạc, gọi là vọng ngữ. Phật vì trọng tội nên nói trong chúng
định hỏi là vọng ngữ. Cho đến khi một người hỏi cũng gọi vọng
ngữ, đâu cần phải nhiều người.
Lại tùy chỗ muốn dối gạt người thì đắc tội với người đó. Nếu
ai bảo với người khác rằng tôi đã nói với người nào đó việc như
vậy. Việc tuy không thật mà không gọi là vọng ngữ.
Lại vọng ngữ tùy theo ý tưởng. Nếu thấy tưởng không thấy,
hỏi thì nói không thấy, là không bị tội vọng ngữ. Như trong Luật
Tì-ni đã nói.
Hỏi: Nếu người, việc điên đảo không thấy nói thấy, Vì sao
không phải vọng ngữ ?
Đáp : Tất cả tội phúc đều do tâm sinh. Người ấy với việc
không thấy mà sinh tưởng thấy, cho nên không tội. Như với thật
chúng sinh tưởng không chúng sinh, trong phi chúng sinh tưởng
chúng sinh, thì không bị tội sát.
Thành Thật Luận Trang 286 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Như thật có chúng sinh, sinh tưởng chúng sinh mới bị
tội sát. Như vậy nếu thấy sinh thấy tưởng, thì phải không tội,
không phải không thấy thấy tưởng mà được không tội ?
Đáp : Sinh tội là do tâm, do chúng sinh. Cho nên tuy có
chúng sinh mà tưởng không chúng sinh thì không bị tội, vì vô
tâm. Nếu không chúng sinh mà tưởng có chúng sinh, vì chúng
sinh không nên cũng không bị tội. Nếu có chúng sinh tưởng có
chúng sinh, vì đã đủ nhân duyên nên mới bị tội sát sinh. Nếu trong
việc thấy sinh tưởng không thấy, hỏi thì nói không thấy; người ấy
nghĩ tưởng không điên đảo, nên không dối chúng sinh, tuy là việc
điên đảo, nhưng cũng gọi là thật. Nếu trong việc không thấy mà
sinh tưởng thấy, hỏi thì nói không thấy, người ấy tưởng điên đảo
dối gạt chúng sinh; việc tuy không điên đảo, nhưng cũng gọi vọng
ngữ.
Đâm thọc, là nếu người muốn chia rẽ người khác nên khởi
khẩu nghiệp, gọi là đâm thọc. Nếu không cố tâm chia rẽ, mà
người kia nghe tự hoại, thì không đắc tội. Nếu đem thiện tâm giáo
hóa khiến lìa người ác, tuy là chia lìa, nhưng cũng không đắc tội.
Nếu không bởi kết sử trược tâm tuy là miệng nói cũng không đắc
tội.
Ác khẩu, là nếu người đem lời khó nghe mà không có lợi ích
chỉ muốn não hại người khác, gọi là ác khẩu. Nếu vì lòng thương
xót muốn làm lợi ích, nên phải dùng lời khó nghe, thì không có
tội. Như vô sự mà gia hại thì có tội. Y theo phương pháp châm
cứu chữa bênh, tuy làm đau đớn mà không phải tội. Khổ ngôn
cũng vậy, Chư Phật, hiền thánh cũng vì việc ấy, nên như nói :
Ông là người ngu si ! v.v....
Lại nếu không kết sử trược tâm, tuy là khổ ngôn mà không
gọi là tội, như người ly dục v.v.... Nếu vì thiện tâm, trong khổ
ngôn mà khởi phiền não là lập tức đắc tội.
Thành Thật Luận Trang 287 Tuệ Quang Foundation
Lời thêu dệt, là nếu không phải thật, ngữ nghĩa bất chính, gọi
là lời thêu dệt.
Lại tuy là thật ngữ vì phi thời, nên cũng gọi lời thêu dệt.
Lại tuy thật và phải thời, vì tùy thuận suy não không lợi ích,
nên cũng gọi là lời thêu dệt.
Lại tuy lời thật và phải thời, cũng có lợi ích, nhưng vì nói
nghĩa lý không đầu đuôi, không thứ tự, nên cũng gọi lời thêu dệt.
Lại vì si v.v... các phiền não tán tâm mà nói, gọi là lời thêu
dệt. Thân ý bất chính cũng gọi nghiệp nói thêu dệt. Chỉ đa phần
do miệng nói, cũng tùy vậy tục mà nói, nên gọi là lời thêu dệt.
Còn 3 khẩu nghiệp kia lời thêu dệt đều xen lẫn không thể rời
nhau. Nếu vọng ngữ mà không khổ ngôn, cũng không chia lìa thì
có 2 thứ là vọng ngữ và thêu dệt. Nếu là vọng ngữ cũng muốn
chia rẽ, mà không khổ ngôn thì có 3 thứ là vọng ngữ, đâm thọc và
thêu dệt. Nếu vọng ngữ, khổ ngôn, không muốn chia lìa, thì đủ 4
thứ. Nếu không vọng ngữ, khổ ngôn, cũng không chia lìa, nhưng
là lời phi thời, lời vô ích, lời vô nghĩa, thì chỉ là lời thêu dệt. Lời
thêu dệt nầy vi tế khó lìa bỏ, chỉ Chư Phật mới có thể dứt tận gốc.
Cho nên chỉ có Chư Phật độc xưng Vậy Tôn, vì nói là tin thụ, kỳ
dư không ai sánh kịp được.
Hỏi : Đã nói 7 thứ nghiệp đạo, cần gì lại nói 3 ý nghiệp ?
Đáp : Có người bảo tội phúc chỉ cần do thân khẩu, chứ
không phải do tâm. Cho nên mới nói tâm cũng là nghiệp đạo.
Lại 3 thứ nầy ý nghiệp có sức mạnh, nên thân khẩu mới khởi
ác nghiệp. Ba thứ này tuy đều quan trọng, nhưng vì ý nghiệp vi tế
nên phải nói ở sau. Mặc dù tất cả phiền não có thể khởi ác nghiệp,
mà chỉ 3 thứ này làm não hại chúng sinh nhiều hơn, nên mới gọi
là nghiệp đạo bất thiện. Nếu lòng tham ở mức trung, hạ không gọi
là nghiệp đạo. Lòng tham nầy tăng thượng sâu đắm của người
khác khi có phương tiện muốn não hại là có thể khởi nghiệp thân
Thành Thật Luận Trang 288 Tuệ Quang Foundation
khẩu, cho nên lấy tham lam tật đố làm nghiệp đạo. Giận si cũng
vậy.
Lại nếu nói si tức đã nói tất cả phiền não. Trong đây chỉ vì có
thể khởi nghiệp thân khẩu xâm hại chúng sinh nên nói 3 thứ.
Hỏi : Vì sao gọi si là tà kiến ?
Đáp : Si có nhiều thứ sai khác. Bởi vì sao ? Vì không phải tất
cả si đều là bất thiện. Nếu si tăng thượng trở thành tà kiến, thì gọi
nghiệp đạo bất thiện. Tất cả bất thiện đều do 3 cửa này : Như
người vì tài lợi nên khởi nghiệp bất thiện. Như vì tiền bạc tàn sát
chúng sinh. Hoặc vì sân nên sát như giết oán tặc. Hoặc không vì
tại lợi, cũng không giận dữ, chỉ vì sức si không biết tốt xấu nên
giết chúng sinh.
Hỏi : Trong kinh nói nhân duyên ác đạo có 4 thứ hành : Do
tham, do giận, do sợ sệt và do si nên đọa các ác đạo. Nay trong
đây Vì sao không nói do sợ sệt khởi ác nghiệp ?
Đáp : Sợ là gồm trong si. Nếu nói do sợ tức là do si. Bởi vì
sao ? Vì người trí cho đến gặp phải nhân duyên mất mạng vẫn
không khởi ác nghiệp. Lại điều này trước đã đáp. Nghĩa là phiền
não tăng trưởng có thể khởi nghiệp thân khẩu, bấy giờ gọi bất
thiện đạo. Vì 3 thứ nầy phần nhiều khởi bất thiện.
Hỏi : Vì sao gọi là nghiệp đạo ?
Đáp : Ý tức là nghiệp; đi ở trong đó nên gọi là nghiệp đạo.
Trước đi trong 3 thứ sau, sau đi trong 7 thứ trước. Trong 3 nghiệp
là đạo, chứ không phải nghiệp, 7 nghiệp vừa là nghiệp vừa là đạo.
Hỏi: Cũng có roi, gậy và uống rượu v.v... các nghiệp bất thiện, Vì
sao chỉ nói 10 thứ ấy ?
Đáp : Mười tội nầy nặng nên nói.
Lại roi, gậy v.v... đều là quyến thuộc trước sau. Uống rượu
không phải thật tội cũng không làm hại người khác, dù cho có hại
người khác đi nữa cũng không phải chỉ rượu.
Hỏi : Bất thiện đạo nầy là ở chỗ nào ?
Thành Thật Luận Trang 289 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Đều ở trong 5 đạo. Chỉ Uất-đn-việt không tà dâm do 3
việc khởi bởi tham dục mà thành, ngoài ra 3 việc khởi cũng bởi 3
việc thành.
Hỏi : Thánh nhân có thể khởi bất thiện nghiệp chăng ?
Đáp : Cũng khởi ý bất thiện nghiệp, chứ không khởi thân
khẩu.
Lại trong ý nghiệp cũng chỉ khởi tâm sân chứ không khởi
tâm sát.
Hỏi : Trong kinh nói bậc học nhân rủa người tiêu diệt, khiến
người dứt giống. Việc ấy vậy nào ?
Đáp : Cũng có kinh nói A-la-hán rủa. Là người lậu tận, dứt
gốc phiền não còn không khởi tâm, huống nữa là rủa. Nói học
nhân rủa cũng như vậy.
Lại Thánh nhân đối với nghiệp bất thiện được bất tác luật
nghi, thì làm sao còn tác bất thiện ?
Lại Thánh nhân này không đọa ác đạo, nếu có thể khởi bất
thiện, thì cũng phải đọa.
Hỏi : Nếu các Thánh nhân đời nay không gây nghiệp bất
thiện, nên không đọa ác đạo, chứ trong đời quá khứ có nghiệp bất
thiện Vì sao không đọa ?
Đáp : Tâm Thánh nhân này khi trí trung thật sinh, các ác đạo
nghiệp đều bị yếu ớt, như hạt giống hư không còn mọc được.
Lại 3 độc có 2 thứ : Thứ có thể gây ác đạo, thứ không có thể
gây, Thánh nhân đã dứt hết. Vì nghiệp phiền não, nên được thụ
thân, Thánh nhân tuy có các nghiệp phiền não mà không đầy đủ,
cho nên không đọa.
Lại người này nương đại vậy lực, như Tam Bảo có thể tiêu
trừ đại ác, như người nương vua, chủ nợ không dám quấy rầy.
Lại người này trí tuệ sáng suốt linh lợi có thể tiêu ác nghiệp,
như nhiệt lực trong người thịnh nên có thể tiêu thứ ăn khó tiêu.
Lại người này có nhiều phương tiện: hoặc niệm chư Phật, hoặc
Thành Thật Luận Trang 290 Tuệ Quang Foundation
niệm từ bi các nghiệp thiện, nên được thoát khỏi các ác, như gian
tặc nhiều phương kế, nương các chỗ hiểm nạn thì không thể làm
gì được.
Lại Thánh nhân này đã biết được đạo giải thoát, như con bò
chúa đi, như chim nương hư không.
Lại vì thời gian dài lâu tu tập các pháp thiện, nên không đọa
ác đạo. Như trong kinh nói : Nếu người thường tu thân giới tâm
tuệ, thì quả báo địa ngục có thể hiện chịu nhẹ.
Lại như kệ nói :
Tu tâm từ bi,
Vô lượng vô ngại.
Có các nghiệp nặng,
Sẽ không đến thân.
Lại Thánh nhân nầy tâm bất thiện nghiệp không thể bền
chắc, như một giọt nước rơi trên tấm sắt nóng.
Lại Thánh nhân nầy nghiệp thiện sâu xa, như rễ cây Hoànthù-
la.
Lại Thánh nhân nầy nhiều thiện ít ác. Ác ít mà ở trong thiện
nhiều thì không có sức mạnh, như bỏ xuống sông Hằng một lượng
muối, không thể làm hoại vị nước được.
Lại Thánh nhân nầy giàu của tín v.v... Như người nghèo
cùng vì một đồng tiền mà bị tội, người giàu có tuy là trăm ngàn
cũng không đắc tội.
Lại vì vào Thánh đạo nên được cao quý, như người tôn quý
tuy bị tội mà không vào lao ngục.
Lại như cọp sói chó dê, lớn nhỏ giành nhau, con lớn đắc
thắng.
Lại Thánh nhân nầy tâm ngụ nơi Thánh đạo, các tội ác đạo
không thể hại được, như vua ngủ nhà trống, những người khác
không thể vào được.
Thành Thật Luận Trang 291 Tuệ Quang Foundation
Lại Thánh nhân này đi chỗ tự đi, tội nghiệp ác đạo không
làm gì được, như thí dụ chim ưng.
Lại Thánh nhân tâm buộc 4 niệm xứ, nên nghiệp các ác đạo
không làm gì được, như bình tròn đã đặt vào đài.
Lại đủ 2 thứ kết mới vào ác đạo theo nghiệp chịu báo,
Thánh nhân dứt được một thứ, nên không đọa ác đạo.
Lại người nầy thường hưởng quả báo nghiệp thiện, nên các
nghiệp ác đạo không làm gì được.
Lại như trong phẩm Lục nghiệp trước đã nói nghiệp tướng
địa ngục. Thánh nhân không nhân duyên không đọa ác đạo.
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
LUẬN THÀNH THẬT
( Quyển 9 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 117 : Mười thiện đạo
Mười thiện nghiệp đạo, là lìa sát cho đến chính kiến là 10
điều nhiếp thuộc vào trong giới luật nghi. Một thời được nhiếp
thuộc về thiền Vô sắc luật nghi, và một thời được lìa gọi là thiện
nghiệp đạo, tức là vô tác.
Hỏi : Các phúc như lễ kính, bố thí v.v... là thiện nghiệp đạo,
sao chỉ nói lìa là nghiệp đạo ?
Đáp : Vì lìa là hơn, nên 10 thứ nghiệp nầy đối với thí v.v... là
hơn. Bởi vì sao ? Vì bố thí v.v... được phúc báo không bằng trì
giới. Như đến khi con người chỉ còn 10 tuổi, nhờ nhân duyên lìa
giết mà thọ mạng được tăng lên.
Lại 10 nghiệp bất thiện là thật tội, nên lìa được gọi là thật
phúc.
Thành Thật Luận Trang 292 Tuệ Quang Foundation
Lại 3 thứ thiện nghiệp sau là gốc các thiện, cho nên các thiện
bố thí v.v... đều gồm trong nghiệp đạo.
Lại nghiệp đạo nầy có lìa roi gậy v.v..., vì trước sau hợp nói,
nên tất cả các thiện đều thuộc vào trong ấy.
Phẩm 118 : Tội lỗi
Hỏi : Nghiệp bất thiện có những tội lỗi gì ?
Đáp : Do nghiệp bất thiện nên chịu các khổ địa ngục. Như
trong kinh nói : Vì nhân duyên sát sinh nên đọa địa ngục. Nếu
được sinh trong loài người, thì chịu quả báo chết yểu. Như vậy
cho đến tà kiến.
Lại vì nhân duyên nghiệp bất thiện, nên chịu khổ não lâu,
như địa ngục A-tì trải vô lượng tuổi mà thọ mạng không hết.
Lại chúng sinh có tất cả các điều ác bại hoại suy não, đều bởi
nghiệp bất thiện.
Lại chưa từng thấy bất thiện mà có lợi ích lớn, như những
người hàng thịt, thợ săn v.v..., không bao giờ nhờ nghiệp ấy mà
được tôn quý. Hoặc ý ông bảo : Nhờ nhân duyên phá giặc mà
được giàu sang. Điều này trong phẩm Ba nghiệp ở trước đã giải
đáp.
Lại người làm việc bất thiện, bị quở trách và các phần khổ
não.
Lại khiến người khác phải ra làm việc ác, gọi là hung bạo.
Cho nên cần phải lìa nghiệp bất thiện nầy.
Lại trong kinh nói giết có 5 lỗi : Người không tin dùng, bị
mang tiếng ác, xa thiện gần ác, khi chết sinh hối, sau đọa ác đạo.
Lại nhân duyên sát sinh, vui ít khổ nhiều.
Lại làm nghiệp bất thiện, nhiễm ô tâm con người, chất chứa
lâu đời khó mà chữa được.
Lại người làm điều bất thiện, từ chỗ tối vào chỗ tối lưu
chuyển trong tam đồ vĩnh viễn không ngày ra khỏi.
Thành Thật Luận Trang 293 Tuệ Quang Foundation
Lại người làm bất thiện, uổng một đời người, như vào núi
Tuyết tìm thuốc mà hái phải cỏ độc, thật là rất ngu.
Như vậy nhờ 10 thiện đạo nầy mới được làm thân người, có
điều là không làm thiện đã là một lỗi lớn, huống chi còn khởi ác
nghiệp !
Lại người làm bất thiện tuy tự yêu thân mà thật không tự yêu
được; tuy tự hộ thân mà thật không phải tự hộ. Vì nhân duyên
khởi nghiệp mà tự não hại.
Lại người nầy thụ thân giống như người oán tặc tự làm khổ
vậy.
Lại nếu làm bất thiện là mình gây giặc cho bản thân, huống
chi người khác ư ?
Lại làm nghiệp bất thiện, nay tuy không hiện quả báo mà đã
mắc phải. Cho nên tuy ít cũng không thể không tin. Như chất độc
tuy ít có thể hại người; như nợ tuy ít dần dần sinh lợi tức.
Lại làm ác với người, người thường không quên. Cho nên
gây nghiệp tuy lâu xa mà không thể không tin.
Lại người làm bất thiện gọi là mất vui, nghĩa là vì làm bất
thiện nên mất quả vui người trời. Không vui điều đáng vui là
người ngu lắm vậy.
Lại người làm bất thiện là bị khổ dữ dội đáng thương. Hiện
tâm bị ăn năn các khổ, sau chịu khổ nơi ác đạo.
Lại quả báo của nghiệp bất thiện dù bay lên hư không, hay
lặn dưới biển cũng không chỗ trốn thoát được, như cây giáo vàng
truy đuổi theo Phật.
Lại tất cả nghiệp bất thiện đều do si khởi, cho nên người có
trí không nên tùy theo.
Lại trong kinh nói : Phóng túng như người oán, có thể hại
các pháp thiện, nên không đáng theo.
Thành Thật Luận Trang 294 Tuệ Quang Foundation
Lại nghiệp bất thiện, Chư Phật, Bồ-tát các thánh hiền ứng
chân, thần tiên có 5 thần thông và những người rõ thấu tội phúc
không ai không quở trách, cho nên không nên tạo.
Lại hiện thấy người ác tâm mạnh mẽ thì ý chí mờ tối rối loạn
buồn bực khổ đau, nên sắc mặt biến khác, người không muốn
thấy, huống là khởi nghiệp thân khẩu. Vì các duyên do nầy, nên
biết nghiệp bất thiện có tội lỗi nhiều vô lượng.
Phẩm 119 : Ba nghiệp nhẹ nặng
Trong 3 nghiệp, nghiệp nào nặng hơn : thân nghiệp, khẩu
nghiệp, hay ý nghiệp ?
Hỏi : Có người nói 2 nghiệp thân khẩu nặng, chứ không phải
ý nghiệp. Bởi vì sao ? Vì nghiệp thân khẩu định thật. Như tội ngũ
nghịch đều bởi thân khẩu gây nên.
Lại thân khẩu có thể thành xong việc, như người sinh lòng
muốn giết chúng sinh nầy, cần đem thân khẩu có thể hoàn thành
việc ấy, không phải chỉ ý nghiệp gây được tội sát sinh. Cũng
không phải chỉ phát tâm xây chùa tháp mà được phúc đức.
Lại nếu không có thân khẩu, chỉ ý nghiệp thì không quả báo,
như người phát tâm rằng ta phải bố thí, mà thật không bố thí, thì
không có thí phúc.
Lại không chỉ tùy nghiệp mà việc được thành xong, như
người phát nghiệp mở hội Đại thí, mà thật không thí, thì không
hội phúc. Nếu tâm nghiệp lớn thì phải được thí phúc, vậy thì
nghiệp báo lộn xộn.
Lại trong Luật Tì-ni, ý không phạm tội. Nếu ý nghiệp là
trọng đại Vì sao không phạm ?
Lại nếu phát tâm liền được phúc, thì phúc dễ được, Vì sao
hành giả bỏ nghiệp dễ nầy mà tu thí v.v... là những hạnh nghiệp
khó tu ư ?
Thành Thật Luận Trang 295 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu như vậy, thì phúc vô tận, như người chỉ phát tâm
suông hoàn toàn không đâu thì chỗ dùng làm sao cho hết được ?
Vì tài vật có hạn nên phúc mới có thể hết.
Lại không chỉ phát tâm mà có thể làm tổn hại hay lợi ích cho
người khác. Như chúng sinh đói khát cần phải cơm nước, chứ đâu
phải tâm nghiệp có thể trừ được đói khát.
Lại người đời rất quan trọng việc suy tổn hay lợi ích, vì tâm
nhẹ nhàng mau lẹ khó chế phục, nên không điều ác nào không
khởi, thì mình chịu việc suy tổn nặng nề. Nếu phát thiện tâm
muốn gây phúc nghiệp, thì mình được lợi lớn, vậy là quá lắm.
Lại nếu ý nghiệp lớn phát tâm muốn sát sinh thì đọa địa
ngục. Như vậy tuy lâu tụ tập giới v.v... đâu có ích gì !
Lại tu trì giới v.v... các công đức thiện không có an ổn. Bởi
vì sao ? Vì chỉ một khi phát tâm liền bị tội.
Lại trong kinh nói : Nghiệp thân khẩu thô nên dứt trước. Vì
dứt phiền não thô nên tâm được định.
Lại nếu phát dâm tâm làm dâm rồi, liền phải phạm giới. Nếu
phát tâm mà không gọi là dâm, thì lìa dâm tâm nầy lại có pháp gì
gọi là dâm ư ?
Lại có bao nhiêu sinh khởi tác nghiệp đều do thân khẩu,
không phải do ý nghiệp, như dối gạt người khác ắt do khẩu nghiệp
mới bị tội vọng ngữ.
Lại như trước đã nói đủ 4 thứ nhân duyên mới bị tội sát sinh
là : có chúng sinh, có tâm tưởng chúng sinh, có tâm muốn sát, dứt
mạng sống nó. Do 4 việc thành tội, nên phải biết không do ý
nghiệp là trọng.
Lại như Phật nói : Như đứa trẻ nhỏ tập lòng từ từ nhỏ, có thể
khởi ác nghiệp, nghĩ ác nghiệp ư ? Cho nên biết chỉ là thân khẩu
nghiệp ác, chứ không phải ý nghiệp ?
Đáp : Ông nói nghiệp thân khẩu nặng, không phải nghiệp ý,
điều này không đúng. Bởi vì sao ? Trong kinh Phật nói : Tâm là
Thành Thật Luận Trang 296 Tuệ Quang Foundation
gốc các pháp. Tâm cao tột, tâm dẫn đường, tâm nghĩ thiện ác. Tức
nói tức làm. Cho nên biết ý nghiệp là quan trọng.
Lại ý có sai biệt nên nghiệp thân khẩu mới có sai biệt, như
thượng, trung, hạ v.v... Lìa tâm không có thân khẩu nghiệp.
Lại trong kinh nói : Cho nên khởi tác nghiệp ắt phải chịu
báo.
Lại nói bảy thứ tịnh phúc, có 3 thứ chỉ dùng ý nghiệp. Bảy
tịnh phúc nầy, với tài phúc của là hơn.
Lại lòng từ là ý nghiệp, nên kinh nói từ tâm được quả báo
lớn. Như kinh nói : Xưa, ta lên bảy tuổi, nhờ tu tập tâm từ nên ở
trong 7 đại kiếp, không trở lại vậy gian nầy. Cho nên biết ý nghiệp
là quan trọng. Vì quan trọng mới có thể che khắp tất cả vậy giới.
Lại ý nghiệp là trọng, như quả báo ý nghiệp nên sống lâu
được 8 vạn đại kiếp.
Lại vậy lực của ý nghiệp thắng hơn thân khẩu nghiệp, như
người tu thiện khi mạng sắp chết sinh lòng tà kiến, thì đọa địa
ngục. Người làm bất thiện khi sắp chết khởi tâm chính kiến, thì
sinh lên trời. Nên phải biết ý nghiệp là quan trọng.
Lại trong kinh nói: Trong các tội, tà kiến là nặng nhất.
Lại nói : Nếu người được vậy gian thượng chính kiến, tuy
qua lại trong sinh tử cho đến trăm ngàn năm hoàn toàn không đọa
ác đạo.
Lại sức của ý nghiệp vượt trội hơn thân khẩu nghiệp. Như
trong Kinh Hòa Lợi nói : Ngoại đạo thần tiên một khi nổi giận,
liền diệt nước Na-la-vu-đà. Như Đàn-đặc v.v... các chỗ hiểm nạn
đều do người tiên nổi giận gây nên.
Lại ý nghiệp có thể mau được quả báo, như trong kinh nói :
Nếu người nầy nay chết lập tức vào địa ngục, lập tức sinh lên trời,
như cây giáo mau lẹ lìa khỏi tay.
Lại ý nghiệp nầy chứa nhóm pháp nhơ bẩn cho đến đọa vào
địa ngục A-tì, chứa nhóm pháp thiện cho đến được Nê-hoàn.
Thành Thật Luận Trang 297 Tuệ Quang Foundation
Lại tâm có quả báo nên thân khẩu mới có quả báo, vì nghiệp
không cố ý không có quả báo.
Lại không lìa ý nghiệp mà có báo nghiệp thân khẩu, nếu ý
nương nơi thân khẩu làm thiện hay bất thiện, gọi là thân khẩu
nghiệp. Lìa thân khẩu nghiệp, thì ý nghiệp có quả báo; mà lìa ý
nghiệp thân khẩu không quả báo. Cho nên biết ý nghiệp là quan
trọng, chứ không phải thân khẩu nghiệp.
Tuy ông nói thân khẩu nghiệp là định thật, như tội ngũ
nghịch đều do thân khẩu gây nên, cho nên gọi là nặng. Điều này
không đúng. Vì nghĩ nặng, sự nặng nên nghiệp mới nặng, không
phải thân khẩu nặng nên nặng.
Lại vì tâm quyết định nên nghiệp mới định thật, như chỉ
dùng tâm lực vào ngôi vị chính pháp, cũng vì tâm lực có thể đủ
nghịch tội. Nếu người vô tâm dù giết phải cha mẹ cũng không bị
nghịch tội. Nên biết thân khẩu là không có sức.
Ông nói thân khẩu có thể làm xong việc. Điều đó cũng không
đúng. Vì việc rồi gọi là xong. Như cướp mạng sống người khác
rồi, mới bị tội sát sinh, không phải khi khởi nghiệp thân khẩu. Khi
xong việc còn phải cần dùng đến tâm lực nữa, cho nên không phải
thân khẩu.
Ông nói chỉ phát tâm suông không quả báo. Điều này không
đúng. Như trong kinh nói : Phát tâm mạnh nên lập tức sinh lên
trời, lập tức vào địa ngục. Sao nói ý nghiệp không quả báo ư ?
Ông nói không chỉ nhờ nguyện có thể thành sự. Điều đó
cũng không đúng. Vì có người phát thiện tâm sâu, được phúc
thắng hơn đại thí hội.
Ông nói ý không phạm tội, Điều đó cũng không đúng. Nếu
phát ác tâm tức thì bị tội. Như Phật nói có 3 thứ tội là thân, khẩu,
ý. Nên biết chỉ phát ác tâm không được vô tội. Có điều là không
kết giới vì khó hành trì. Thô tội trì giới có thể ngăn được. Tế tội
thì thiền định v.v... mới trừ được.
Thành Thật Luận Trang 298 Tuệ Quang Foundation
Ông nói tội phúc dễ. Điều này không đúng. Bởi người tâm
lực yếu nên bỏ việc dễ, làm việc khó. Như từ tâm v.v... được phúc
rất nhiều, không phải bố thí được như vậy. Chỉ vì chúng sinh trí
lực yếu ớt không thể tu ý nghiệp từ bi v.v.. , nên mới tu bố thí
v.v..., đem các thứ hương hoa và dụng cụ cúng dường, vì tịnh tâm
khó được.
Ông nói phúc vô tận. Cũng lấy đây mà đáp. Người nầy nếu
có trí lực thì có thể được pháp thiện vô tận.
Ông nói ý nghiệp không làm tổn ích. Điều này không đúng.
Vì thân khẩu nghiệp đều do ý nghiệp dẫn đường nên không gọi là
thắng. Vì tùy theo sức tự khởi được mới gọi là thắng.
Lại các điều lợi ích đều do tu từ tâm. Sở dĩ vì sao ? Vì sức tu
hành từ bi nên được mưa thuận gió hòa trăm thứ lúa được thành
thục. Như thời đại kiếp sơ, gạo thóc tự sinh. Đến khi con người
thọ chỉ còn 10 tuổi thì những điều ấy đều mất hết, làm sao nói từ
tâm không lợi ích ư ?
Lại người tu tâm từ, có thể trừ hết tất cả gốc nghiệp bất
thiện. Vì nghiệp bất thiện có các điều suy não, làm sao nói tu tâm
từ không có lợi ích lớn ? Nếu tất cả chúng sinh tu tâm từ thì đều
sinh chỗ thiện, tất cả thụ dụng tự nhiên mà có, không cần gia
công. Cho nên biết phúc của từ là sâu dày hơn hết.
Lại, hoặc có khi vì từ tâm bố thí lợi ích chúng sinh, hoặc chỉ
do từ tâm mà lợi ích.
Lại người tu từ tâm, nếu chúng sinh chạm đến thân phần,
hoặc vào trong bóng của thân đều được an vui. Nên phải biết phúc
của từ tâm thắng hơn phúc đức của bố thí.
Ông nói suy lợi rất lắm. Trước đã đáp việc ấy rồi nghĩa là
dùng sức của ý làm tổn hại hoặc lợi ích chúng sinh, cho nên biết ý
nghiệp là quan trọng.
Ông nói thời gian lâu tụ tập giới v.v... không có ích gì. Điều
này không đúng. Bởi vì sao ? Vì ý tịnh nên trì giỡi mới tịnh. Nếu
Thành Thật Luận Trang 299 Tuệ Quang Foundation
ý bất tịnh, giới cũng bất tịnh như trong Kinh Thất Chủng Dâm
nói.
Lại giới thanh tịnh được quả báo lớn, như trong kinh nói
người trì giới được sở nguyện tùy ý, là vì giới tịnh vậy.
Lại nếu thanh tịnh trì giỡi, thì tâm được yên ổn, chứ không
phải pháp nào khác.
Ông nói nghiệp thân khẩu thô nên dứt trước. Điều này không
đúng. Vì thiện vi tế mới được quả báo lớn, như ý nghĩ trong thiền
định.
Ông nói nếu phát dâm tâm liền bị phá giới. Điều này không
đúng. Nếu người ý nghiệp không tịnh thì giới cũng không tịnh.
Lại được tội phúc khác, phép kết giới khác.
Ông nói khởi ra tác nghiệp là do thân khẩu. Điều này đã giải
đáp chung rồi. Nghĩa là thân khẩu nghiệp pháp khác, ý nghiệp
pháp khác. Nghiệp thân khẩu cần do tác thành, như do 4 nhân
duyên thành tội sát sinh, không lìa tâm nghiệp.
Lại vậy gian chúng sinh cho nghiệp thân khẩu là ác, mà ý
nghiệp không như vậy.
Lại ý nghiệp không gia hại với người, cũng không thể được
là có.
Lại trước đã nói tướng tội phúc vì bởi tướng nầy nên chỉ ý
nghiệp là quan trọng chứ không phải thân khẩu.
Phẩm 120 : Nói rõ nghiệp nhân
Luận giả nói : Đã lược nói các nghiệp. Nghiệp là nhân duyên
thụ thân. Thân là bản tính khổ nên phải diệt trừ. Muốn diệt thân
nầy phải dứt nghiệp nhân, vì nhân diệt nên quả cũng diệt, như
nhân hình có bóng, hình diệt thì bóng diệt. Cho nên, nếu muốn
diệt khổ phải siêng năng tinh tiến dứt nghiệp nhân nầy.
Hỏi : Do nghiệp thụ thân, điều này cần hiểu rõ. Bởi vì sao ?
Hoặc có người nói : Thân do Bà-la-già-đề sinh; có người nói do
Thành Thật Luận Trang 300 Tuệ Quang Foundation
trời Tự Tại sinh, hoặc nói do Đại nhân sinh, hoặc nói do tự nhiên
sinh. Cho nên phải nói lý do Vì sao biết do nghiệp sinh ?
Đáp : Điều này đã dùng nhìều thứ nhân duyên phá rồi. Phải
biết do nghiệp thụ thân.
Lại muôn vật có nhiều thứ tạp loại, nên biết nhân cũng sai
khác, như thấy lúa bắp v.v... khác, biết giống không đồng, thì trời
Tự tại vì không sai khác, nên phải biết không phải nhân. Nghiệp
vì có vô lượng sai khác, nên mới thụ nhiều thứ thân khác nhau.
Lại các người thiện đều tin bởi nghiệp nên thụ thân. Bởi vì
sao ? Vì những người nầy thường tu các pháp thiện như thí, giới,
nhẫn v.v..., lìa các pháp bất thiện như sát sinh v.v... Nên biết do
nghiệp thụ thân.
Lại nếu bởi nghiệp thụ thân thì là có thể trở lại được chân trí,
dứt tà trí. Vì tà trí dứt, nên tham sân v.v... các phiền não đều dứt.
Vì các phiền não dứt, nên nghiệp nặng khởi thân sau cũng dứt. Đó
gọi là có thể trở lại. Trong nhân Tự Tại v.v... thì không trở lại
được, vi Tự Tại v.v... không dứt được, nên biết do nghiệp thụ
thân.
Lại hiện thấy quả cùng nhân giống nhau, như do bắp sinh
bắp, do lúa sinh lúa. Như vậy do nghiệp bất thiện được báo không
ưa thích, do nghiệp thiện được quả báo ưa thích. Trong nhân Tự
Tại v.v... không có giống nhau nầy. Cho nên nghiệp là gốc của
thân, chứ không phải trời Tự Tại v.v....
Lại nay hiện thấy muôn vật đều do nghiệp sinh, vì nhân ác
nghiệp nên bị chịu đánh, bắt, trói, nhốt, roi, gậy chết v.v... các
khổ; nhân thiện nghiệp được tiếng khen, lợi dưỡng v.v... vui
sướng. Người tùy ý nói lời ái ngữ, thì được hưởng quả báo tùy ý,
nên biết do nghiệp thụ thân, không phải Tự Tại v.v....
Lại người đời tự biết muôn vật do nghiệp nhân sinh nên khởi
làm các sự nghiệp cấy lúa mạ, và cũng tu thí, giới, nhẫn v.v... các
Thành Thật Luận Trang 301 Tuệ Quang Foundation
nghiệp phúc, không ai ngồi yên mà trông ông trời Tự Tại ban cho
điều mình muốn, nên biết do nghiệp được quả báo.
Lại như những người tuy nói do Tự Tại mà họ cũng phải
nương nhờ các nghiệp, nghĩa là tự khổ thân và thụ trai pháp v.v....
nên biết lấy nghiệp làm nhân.
Lại nếu việc không hiện có, phải theo người khác mà thụ
giáo, nghĩa là chỗ sở hành của Thánh nhân, tất cả Thánh Hiền nhờ
giới v.v... các pháp thiện, nên biết vì do nghiệp nhân mới có vậy
gian pháp. Nếu lìa giới v.v... cũng không có Thánh nhân, nếu
không Thánh giáo thì hành nghiệp trái lỗi, cho nên biết do nghiệp
thụ thân.
Lại tu giới v.v... các nghiệp thiện, nên có thể thành các việc
thần thông biến hóa, nên biết lấy nghiệp làm nhân.
Lại địa ngục v.v... trong các ác thú, sân não v.v... nhiều, cho
nên biết do sân não v.v... mà có các ác thú, như thấy quả trên cây
biết cây là nhân, cho nên biết nghiệp là gốc của thân.
Lại trong ác đạo do sức mạnh của si v.v..., nên phải biết
phiền não là nhân ác đạo, vì tất cả bất thiện đều do si.
Lại sinh các ác đạo thì nhiều, mà sinh về chỗ thiện thì ít. Mắt
thấy người giết v.v... người làm ác nhiều, người làm thiện ít. Nên
biết việc giết v.v... là nhân ác đạo.
Lại việc giết v.v... bị người thiện quở bỏ không làm, vì người
thiện biết giết v.v... chắc chắn có quả báo, nên mới quở bỏ không
làm. Nếu biết không quả báo ác thì Vì sao bỏ ?
Lại tâm của các người thiện nếu khởi ác tức liền siêng năng
ngăn chận, vì sợ ác báo. Nên phải biết giết v.v... chắc chắn có ác
báo. Nếu không phải vậy, thì tùy ý tung hoành là vui sướng thì
chúng sinh ăn được cứ giết ăn, của cải người cứ cướp, vợ người
cứ dâm, cũng đều cho là vui sướng cả. Vì sợ khổ báo đời sau nên
mới xa lìa các việc ấy, nên biết do nghiệp có thân.
Thành Thật Luận Trang 302 Tuệ Quang Foundation
Lại tu tập chính trí nên dứt hết nghiệp hữu lậu thì không thụ
thân, nên biết nghiệp là cội gốc.
Lại A-la-hán tuy có các nghiệp hữu lậu, vì tu chính trí nên
nghiệp không nhóm, nên biết nghiệp là nhân thụ thân. Vì nhân
của thân diệt nên thân cũng diệt theo.
Lại vì nhờ biết 4 đế nên nhờ 4 đế mà phiền não vĩnh viễn
không sinh khởi lại nữa. Vì không khởi nên không có thân. Người
trí suy nghĩ như vậy, nên muốn biết 4 đế. Cho nên biết nghiệp là
nhân của thân.
Lại nếu nhân duyên không đủ thì không thụ thân, như đất
khô giống hư thì tất cả mộng không mọc được. Như vậy nơi đất
thức mà không có nước ái thấm nhuần hạt giống nghiệp bị chân trí
làm hư, thì thân sau là mộng không nảy sinh được. Người trí vì
biết điều này nên muốn làm khô đất thức, làm hư hạt giống
nghiệp, nên mới siêng năng gia công tinh tiến. Cho nên biết
nghiệp là nhân duyên thụ thân.
Xong phần luận về nghiệp.
Phẩm 121 : Tướng của phiền não,
trong luận về phiền não của nhóm tập đế
Luận giả nói : Đã nói các nghiệp, các phiền não, nay sẽ nói
làm bẩn tâm gọi là phiền não.
Hỏi : Sao gọi là bẩn ?
Đáp : Nếu tâm có thể khiến sinh tử nối nhau luôn, đó gọi là
bẩn. Sự sai khác của tâm bẩn là : tham, sân, si v.v..., tâm bẩn nầy
gọi là phiền não, cũng gọi pháp tội, cũng gọi pháp thoái lui, cũng
gọi là pháp ẩn chìm, cũng gọi là pháp nóng và cũng gọi là pháp ăn
năn. Có các tên như vậy. Tâm bẩn nầy tu nhóm gọi là sử, không
phải chỉ khi tâm bẩn sinh gọi là sử.
Phiền não là tham, sân, si, nghi, kiêu mạn và 5 thứ kiến. Do
10 thứ sai khác nầy nên mới có 98 thứ sử. Tham là mừng vui 3
Thành Thật Luận Trang 303 Tuệ Quang Foundation
cõi, cũng mừng vui vô hữu gọi là tham. Như trong kinh nói : Dục
ái, hữu ái, vô hữu ái. Vô hữu gọi là đoạn diệt. Chúng sinh bị khổ
ép ngặt, nên muốn diệt ấm thân cho cái không đó là vui.
Hỏi : Mừng vui là tướng thụ, chứ không phải tướng tham.
Như trong kinh nói nghĩa nay mừng, sau mừng là nói đời nay thụ
vui, sau cũng thụ vui.
Lại nói nghĩa nay buồn sau buồn là nói đời này chịu khổ, đời
sau cũng chịu khổ.
Lại như trong lời trời hỏi rằng có con thì mừng. Phật đáp :
Có con thì lo. Các việc như vậy ?
Đáp : Tham là một phần của mừng. Như trong kinh nói : Thụ
làm nhân duyên cho ưa vui, trong thụ tham sai khiến, trong đoàn
thực có mừng có tham, mừng hết nên tham cũng hết. Cho nên biết
tham là một phần của mừng. Vậy là không lỗi. Vì sao biết được ?
Như trong kinh nói : Tập đế : Nghĩa là khao khát. Khao khát là
vậy nào ? Là muốn được thân sau. Hành tướng vậy nào ? Là
nương dựa lòng tham muốn được đủ thứ.
Hỏi : Nếu nói muốn được thân sau là tướng khao khát, Vì
sao nói nương dựa lòng tham muốn được đủ thứ ?
Đáp : Lại còn có tướng khao khát, như nói muốn được đủ thứ
là nói tướng chung; muốn được thân sau là nói tướng riêng.
Người lìa dục cũng có muốn được các thứ như khi khát muốn
được nước v.v..., đó không phải nhiếp vào tập đế. Nếu nương dựa
lòng tham muốn được thân sau, khao khát nầy mói gọi là nhiếp
vào tập đế.
Hỏi : Nếu như khao khát cũng là mừng, tham cũng là mừng
vì sao nói nương dựa lòng tham ?
Đáp : Mới sinh gọi khát, tăng trưởng gọi là tham, nên nói
nương dựa. Như trong kinh nói : Ưa thích trói buộc trong vậy
gian. Cho nên mừng tức là tham.
Thành Thật Luận Trang 304 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Diệt trừ tham buồn các pháp bất thiện.
Trong đó tham tức là mừng, buồn tức là giận. Như nói giận là
buồn thì biết cũng nói mừng là tham. Cho nên trong 18 ý hành,
không nói phiền não, mà chi nói các thứ thụ, nên biết phần mừng
là tham.
Lại phàm phu lìa tham không thể thụ vui, lìa giận không thể
thụ khổ, lìa si không thể thụ không khổ không vui. Làm sao biết
được ? Trong thụ thứ 3 nói : Người phàm phu trong thụ này,
không biết tập nhân, không biết diệt trừ, không biết ý vị, không
biết tội lỗi, không biết xuất ly; nên với trong thụ không khổ không
vui bị vô minh sử sai khiến. Người phàm phu ấy thường không
biết 5 pháp nầy, nên thường đối với trong thụ không khổ không
vui bị vô minh sử sai khiến. Vô minh sử tức là tính không biết của
thụ hành. Như vậy phàm phu tâm hành khổ vui cũng tức là tham
giận.
Lại như bắt đầu đến tại tâm gọi là thụ, tăng trưởng minh liễu
gọi là phiền não.
Lại tâm mềm xuống gọi là thụ, cũng tức tâm ấy tăng lên gọi
là phiền não.
Phẩm 122 : Tướng của tham
Luận giả nói : Tham này trong 9 thứ kết buộc cả 3 cõi gọi là
ái. Trong 7 sử chia làm 2 thứ là dục tham và hữu tham. Bởi vì sao
? Vì có người đối với 2 cõi trên sinh tưởng giải thoát. Cho nên
Phật mới nói nơi đó gọi là hữu. Hữu gọi là sinh. Nếu không tham
thì không sinh. Cho nên đặc biệt nói hữu tham. không phải chỉ có
dục tham. Hoặc nói chỉ dục tham là phiền não, hết dục tham gọi là
được giải thoát. Cho nên Phật nói : Thiền trong Vô sắc cũng có
hữu tham. Phật chỉ rõ trong đó có trói buộc vi tế. Cho nên đặc biệt
nói tham này, ở trong 10 đường bất thiện và trong 4 trói buộc gọi
là tham dục. Tham dục mà gọi là dục, vì muốn được vật của người
Thành Thật Luận Trang 305 Tuệ Quang Foundation
khác. Ở trong 5 thứ cái và trong hạ phần kết gọi là dục dục. Dục
dục mà gọi là dục, vì ở trong 5 dục. Trong 3 bất thiện căn gọi là
tham bất thiện căn. Tham bất thiện căn là có thể sinh trưởng các
pháp bất thiện. Tham nầy, nếu tham phi pháp gọi là ác tham, như
trộm cướp vật của người khác, cho đến lấy vật của tháp, chùa,
Tăng chúng; hoặc chúng sinh chưa chết mà muốn ăn thịt, hoặc
muốn dâm mẹ, chị, em gái, vợ của thầy, người xuất gia và vợ của
mình mà dâm chỗ phi đạo, đều gọi là ác tham.
Nếu vật của mình không muốn xả cho, gọi là xan, xan tức là
tham.
Nếu thật không công đức, mà muốn khiến người ta bảo là có,
gọi là ác dục.
Nếu thật có công đức, mà muốn cho người ta biết gọi là phát
dục.
Nếu muốn được thí nhiều, được nhiều vật, gọi là đa dục.
Nếu được thí ít, ít vật, mà cầu thứ tốt không biết chán gọi là
bất tri túc.
Nếu chấp đắm sâu về chủng tính, dòng họ, danh sắc, của cải,
tuổi trẻ, tuổi thọ v.v..., gọi là kiêu dật.
Nếu tham 4 vật cúng dường, gọi là tứ ái.
Lại tham này có 2 thứ một là dục tham, hai là cụ tham.
Lại có 2 thứ một là ngã tham, hai là ngã sở tham. Một duyên
nội, hai duyên ngoại. Tham 2 cõi trên một bề duyên nội.
Lại có 5 thứ : 1. Tham sắc. 2. Tham hình. 3. Tham xúc. 4.
Tham oai nghi ngôn ngữ. 5. Tham tất cả.
Lại tham sắc, thanh, hương, vị, xúc gọi là tham 5 dục.
Lại với 6 thứ xúc sinh ái gọi là tham 6 trần.
Lại tham ở trong 3 thứ thụ : Trong lạc thụ có tham muốn
được, có tham giữ gìn. Trong khổ thụ có tham không muốn được,
có tham muốn mất. Trong bất khổ bất lạc thụ có tham si.
Thành Thật Luận Trang 306 Tuệ Quang Foundation
Lại tham này có 9 phần, như trong Kinh Đại Nhân nói : Do
ái nên tìm cầu chỗ mong muốn. Như người bị điều này làm khổ
thì tìm việc khác, như nói người vui không cầu, người khổ nhiều
cầu. Tham nầy tăng trưởng gọi là cầu. Khi cầu, nếu được gọi là
đắc. Ưa thích nhân được thì trù tính là nên lấy hay không nên lấy.
Nếu tâm quyết định gọi là nhân trù tính nên ưa muốn, nhân ưa
muốn nên tham đắm, tham đắm gọi là thâm ái. Nhân tham đắm
duyên thủ, thủ gọi là thụ, nhân thụ sinh keo kiệt, nhân keo kiệt
nên giữ gìn, nhân giữ gìn nên mới sắm đủ thứ roi, gậy, dao, xà
mâu v.v.... Đó gọi là 9 phần.
Lại có 9 phần nữa là tham tùy thời, nên có thượng, trung, hạ
là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng; trung hạ, trung trung, trung thượng,
thượng hạ, thượng trung, thượng thượng.
Lại vậy gian chia tham nầy làm 10 thứ : 1. Như khi thấy sắc
đẹp trước tiên tâm cho là được. 2. Tiếp đó sinh muốn. 3. Phát
nguyện. 4. Nghĩ nhớ. 5. Theo bắt chước làm. 6. Quên xấu hổ. 7.
Thường ám ảnh trước mắt. 8. Phóng dật. 9. Cuồng si. 10. Chết
ngất. Đó là tướng tham.
Phẩm 123 : Nhân của tham
Hỏi : Tham đó sinh như vậy nào ?
Đáp : Như trong cảnh duyên nữ sắc v.v... sinh nghĩ nhớ tà
vạy như hoặc sắc, hoặc hình, hoặc xúc, hoặc điệu bộ nói năng là
sinh tham dục.
Lại nếu không giữ gìn các cửa mắt tai thì sinh tham dục.
Lại như với việc ăn uống không biết độ lượng là sinh tham
dục.
Lại gần gũi nữ sắc thì sinh tham dục.
Lại hưởng các thú vui thì sinh tham dục.
Lại vì ngu si nên sinh tham dục như với bất tịnh tưởng là
tịnh.
Thành Thật Luận Trang 307 Tuệ Quang Foundation
Lại bởi ác tri thức nên sinh tham dục, như đem khăn nhơ
nhớp mà gói áo sạch sẽ.
Lại vì cộng sự với người đa dục, nên sinh tham dục.
Lại đối với thân thụ v.v... 4 pháp sinh nghĩ nhớ vọng tưởng
là bị tham dục lôi kéo, như bình tròn không đế, như hoa không xỏ
xâu.
Lại như biếng nhác không siêng tu thiện thì tham dục dễ
sinh.
Lại đi chỗ không nên đi, thì bị tham xâm nhập, như là nơi
dâm nữ, quán rượu, hàng thịt v.v..., ví như loài chim ưng, đai
bàng.
Lại quán bất tịnh v.v... chưa có thể phá hoại được cảnh
duyên thì tham dục đắc vậy.
Lại từ lâu xa đến giờ, thường quen tham dục, thành tham sử
nên dễ sinh.
Lại với cảnh duyên nữ sắc v.v... ưa thủ tướng, thủ liễu. Thủ
tướng là lấy các tướng tay, chân, mặt, mắt, lời nói, giỡn cười, nhìn
ngắm, khóc lóc v.v.... Thủ liễu là phân biệt trai gái hình trạng sai
khác. Như vậy thủ lấy, thủ lấy rồi nghĩ nhớ phân biệt thì sinh
tham dục.
Lại tâm nghĩ lường yếu ớt nên cứ chạy theo cảnh duyên
không thể ngăn chận được, thì sinh tham dục.
Lại nếu sinh tham dục nhẫn chịu không bỏ, thì ngày càng
tăng thêm từ hạ sinh trung, từ trung sinh thượng.
Lại trong tham dục chỉ thấy say đắm mùi lợi lạc mà không
biết tội lỗi, thì sinh tham dục.
Lại vì thời tiết nên sinh tham dục, như mùa xuân v.v....
Lại vì nơi chỗ nên sinh tham dục, như có địa phương từ xưa
nay nhiều thói dâm dục.
Lại tùy theo thể lực, nên sinh tham dục, như tuổi trẻ, không
bệnh hoạn và đồ nuôi sống đầy đủ.
Thành Thật Luận Trang 308 Tuệ Quang Foundation
Lại vì lực có thể nên sinh tham dục, như uống thuốc tăng lực
v.v....
Lại được tịnh diệu tùy ý ngũ dục thì sinh tham dục. Nghĩa là
thấy sắc đẹp hoa ao, vườn rừng, sum sê xanh tốt, nước suối chảy
mát mẽ, mây đẹp, điện chớp sáng, gió đưa hương đến, hoặc nghe
tiếng kêu áo não của chim chóc hòa nhau, và nữ nhân trang điểm
dáng điệu dịu dàng, nói năng cử chỉ v.v....
Lại vì nghiệp nhân duyên nên sinh tham dục, như người
thanh tịnh thí thì hay ưa thích tịnh diệu ngũ dục, mà người tội lỗi
thì ưa bất tịnh.
Lại vì từng loại nên sinh tham dục, như người thì tham dục
người.
Lại đắm sâu giả danh thì sinh tham dục. Người nầy đối bên
trong sinh tướng sĩ phu, bên ngoài sinh tướng nữ lưu và áo mặc,
người oan, người thân các tướng.
Lại vì chưa được không tâm, nên trong thấy chúng sinh,
ngoài thấy sắc v.v... thì sinh tham dục.
Lại nếu tham sử chưa diệt hết, ái duyên hiện tiền, trong đó
sinh nghĩ nhớ tà vạy. Những nhân duyên như vậy v.v... tức sinh
tham dục.
Phẩm 124 : Lỗi của tham
Hỏi : Tham dục có những lỗi gì nên muốn dứt ư ?
Đáp : Tham dục thật khổ, phàm phu điên đảo vọng sinh
tưởng vui, người trí thấy khổ, thấy khổ thì phải dứt.
Lại thụ dục thì không bao giờ biết chán, như uống nước mặn,
càng uống càng khát. Vì càng khát thì làm sao được vui ?
Lại vì thụ dục nên các ác đều tụ tập và có dao gậy v.v... xảy
ra đều bởi tham dục.
Lại trong kinh nói : Tham tội nhẹ mà khỏ bỏ. Vì đối với giận
dữ nên gọi là tội nhẹ, kỳ thật là nặng.
Thành Thật Luận Trang 309 Tuệ Quang Foundation
Lại tham làm nhân duyên cho thân sau, như nói ái làm nhân
duyên cho thủ, cho đến tụ tập thành khổ lớn.
Lại nói nhân khổ là ái.
Lại nói Tì-kheo phải suy nghĩ kỹ xem có bao nhiêu các khổ
và do đâu mà có ? Phải biết đều lấy thân làm nhân duyên, thân là
nhân nơi ái.
Lại nói trong đoàn thực có hỷ có tham, cho nên thức sinh
trong đó. Phải biết ái làm nhân duyên của sự thụ thân.
Lại tham này thường hành động trong bất tịnh, như nữ nhân
v.v.... Thân tâm nữ nhân là bất tịnh, như cục phân được bọc lại, có
thể làm ô uế, như rắn độc có thể cắn hại.
Lại tham dục này thường hành động trong si, như trong kinh
nói : Ví như chó gặm xương khô dính máu, vì nước dãi thấm vào,
nên tưởng cho là ngon. Người tham cũng vậy, trong cái dục vô vị,
mà vì sức tà điên đảo cho là có hương vị.
Lại như miếng thịt v.v... có 7 thứ ví dụ.
Hoặc có người bảo với việc trong quá khứ vị lai mà sinh
tham dục cho nên biết thường hành động trong si.
Lại chúng sinh vì nhân duyên tham dục nên vui ít khổ nhiều.
Bởi vì sao ? Vì như hưởng giàu sang thì ít, mà lúc tán hoại thì
nhiều.
Lại người ái dục là vì nhân vui nên chịu đủ các thứ khổ.
Nghĩa là khi tìm cầu khổ, khi giữ gìn khổ, khi thụ dụng cũng khổ
luôn. Như trồng lúa, buôn bán, chinh chiến, làm quan v.v.... Khi
tìm cầu là khổ. Khi giữ gìn lo sợ mất mát nên khổ, hiện tại không
chán nên khổ.
Lại đoàn tụ vui yêu ít, ly biệt khổ nhiều. Cho nên biết tham
dục có nhiều tội lỗi.
Lại như Phật nói ái dục có 5 thứ tội lỗi : 1. Ý vị ít mà lỗi
nhiều. 2. Các kết bùng phát. 3. Đến chết không chán. 4. Bị Thánh
trách bỏ. 5. Không ác nào không tạo.
Thành Thật Luận Trang 310 Tuệ Quang Foundation
Lại tham dục nầy thường khiến chúng sinh thuận theo dòng
sinh tử, xa lìa Nê-hoàn. Có các tội lỗi như vậy nhiều vô lượng.
Nên phải biết tham dục là nhiều tội lỗi.
Lại sinh các phiền não đều bởi tham dục, như tham thân nên
khởi các phiền não về thân.
Lại không nhổ gốc ái sử thì thường xuyên bị khổ, như không
chặt cây độc thì thường hại người.
Lại tham có thể khiến chúng sinh gánh gánh nặng.
Lại trong kinh nói : Tham ái là trói buộc, như bò đen bò
trắng tự không buộc nhau, chỉ bởi dây buộc. Như vậy mắt không
buộc sắc, sắc không buộc mắt, mà tham dục ở trong đó buộc. Nếu
duyên là buộc, thì không được giải thoát.
Lại trong kinh nói : Chúng sinh bị vô minh che khuất bị ái
kết trói buộc, qua lại trong sinh tử không cùng tận.
Lại trong kinh nói : Tham dứt nên sắc dứt, cho đến thức cũng
dứt. Tham nầy nhờ quán vô thường v.v... mới dứt được. Dứt được
tham dục nầy thì tâm được giải thoát. Sắc tham dứt thì không sắc.
Không sắc thì khổ diệt, cho đến thức cũng như vậy. Cho nên biết
tham dục là trói buộc bền chắc.
Lại tham dục như giặc mà chúng sinh không thấy cái ác của
nó.
Lại tham dục thường hành động trong sự mềm dịu đẹp đẽ
nên gọi là thâm ác.
Lại tâm chúng sinh ưa khởi tham dục, cho đến loài muỗi,
kiến cũng đều ở trong uống ăn, dâm dục mà khởi.
Lại tham dục nầy có nhiều thứ nhân duyên có thể buộc lòng
người, như là cha mẹ, anh em, chị em vợ con và của cải v.v....
Lại chúng sinh vì tham dục ăn uống, dâm dục v.v…che tâm
nên mới có thể thụ sinh. Nếu tham thiền định thì sinh cõi trên.
Thành Thật Luận Trang 311 Tuệ Quang Foundation
Lại tham dục nầy có thể làm hòa hợp tất cả sở thích khác
nhau của vậy gian. Tham dục làm hòa hợp lại, giống như cát trộn
với nước là dính nhau lại.
Lại trong sinh tử lấy tham ái làm khí vị, như nói trong sắc
đắm vị. Nghĩa là do sắc sinh hoặc mừng hoặc vui. Nếu không
tham thì không có khí vị, không khí vị thì có thể mau dứt sinh tử.
Lại tham dục nầy trái nhau với giải thoát. Bởi vì sao ? Vì
chúng sinh vì tham đắm vui dục lạc, vui thiền định nên không vui
muốn giải thoát.
Lại tùy dứt được một phần tham, tức được biến thành một
phần vui, như nói tùy chỗ lìa dục chuyển thàh vui sâu sắc.
Lại nói : Nếu muốn được các vui, phải bỏ tất cả dục. Bỏ tất
cả dục nên được rốt ráo thường vui. Nếu muốn được cái vui lớn,
phải lìa bỏ cái vui nhỏ. Bỏ cái vui nhỏ nên có thể được cái vui vô
lượng.
Lại nói : Người trí không có cái lợi nào khác bằng lìa lìa bỏ
tâm tham ái. Tùy tâm lìa tham ái thì diệt các khổ não.
Lại tham dục nầy làm hại thiện pháp. Bởi vì sao ? Vì người
nặng tham đắm thì bất chấp giới luật, chủng tính, giáo pháp, oai
nghi, danh dự, không lĩnh thụ giáo hóa, không thấy sự suy bại,
không coi tội phúc ra gì, như cuồng như say không biết tốt xấu;
cũng như người mù không thấy phúc lợi. Như nói : Tham dục
không thấy lợi; tham dục không biết phân biệt phải trái, giống như
mù lòa không biết, vì không diệt trừ tham dục.
Lại nói : Tham dục là biển cả, không bờ cũng không đáy,
sóng mòi xoáy sâu, ác trùng và quỉ La-sát, các hiểm nạn như vậy,
không ai quá khỏi được, chỉ có ở trong thuyền tịnh giới, nhờ sức
gió chính kiến, Phật là vị thuyền trưởng có thể chỉ dẫn đường
chính, như nói mà tu hành, thì mới qua được.
Lại trong các phiền não không có tưởng nhớ phân biệt khí vị
nào bằng tham dục.
Thành Thật Luận Trang 312 Tuệ Quang Foundation
Lại tham dục này là khó dứt, như trong kinh nói có 2 thứ ước
muốn khó dứt : một là muốn được, hai là muốn sống lâu.
Hỏi : Tham dục có những lỗi như vậy, làm sao biết được
tướng của người tham dục ?
Đáp : Người nhiều tham dục thì ưa vui nữ sắc và hoa hương,
đồ trang sức, ca nhạc, múa hát; thường đến nhà dâm nữ nhóm
họp, ăn uống; ưa tụ họp đông đảo và các đồ dụng cụ vui chơi, ưa
đem lời ái ngữ, tâm thường vui mừng, sắc diện tươi hòa, gợi ý hỏi
han, cười cười nói nói, khó giận dễ vui, để tâm chiếu cố, thân thể
mau lẹ, tính tình tháo vát, tự chấp chặt bản ngã. Những tướng như
vậy gọi là tướng nhiều tham dục. Tướng nầy cùng với tính trói
buộc đều thuận nhau, cho nên khó dứt.
Lại tất cả tham dục rốt ráo đều khổ. Bởi vì sao ? Vì những
việc tham ái, được thì chắc chắn phải có lìa tan, lìa tan ắt có buồn
khổ. Như nói người, trời đều thích sắc, tham sắc, ưa sắc, đắm sắc.
Khi sắc nầy hoại thì tâm ăn năn buồn rầu. Thụ, tưởng, hành, thức
cũng đều như vậy.
Lại trong các kinh Phật nói nhiều ví dụ để quở trách tham
dục nầy. Nghĩa là có thể hại tuệ mạng, nên nói là độc. Ở trong tâm
thì đau nên gọi là gai, có thể dứt thiện căn nên gọi là dao, có thể
đốt thân tâm nên gọi là lửa, có thể sinh các khổ nên gọi là oán, từ
trong tâm sinh ra nên gọi là giặc bên trong, vì khó nhổ nên gọi là
rễ sâu, có thể làm bẩn danh dự nên gọi là đất bùn, ngăn trở đường
thiện nên gọi là chướng ngại, đau bên trong nên gọi là mũi tên
đâm trong tim, khởi các ác nên gọi là bất thiệncăn, chẩy vào biển
sinh tử nên gọi là sông, trộm cướp của thiện nên gọi là giặc. Tham
dục có vô lượng tội lỗi như vậy cho nên cần phải dứt.
Phẩm 125 : Dứt trừ tham
Hỏi : Tham dục có những lỗi như vậy, làm sao dứt ?
Thành Thật Luận Trang 313 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Lấy bất tịnh quán v.v... mà ngăn, vô thường quán v.v...
mà dứt.
Hỏi : Có người biết vô thường nên càng tăng tham dục, việc
ấy thế nào ?
Đáp : Nếu người có thể biết tất cả vô thường thì không tham
dục. Như trong kinh nói : Khéo tu tưởng vô thường nên có thể phá
hoại được tất cả tham dục. tham sắc, tham vô sắc, tất cả hí lộng,
kiêu mạn và vô minh.
Lại nếu người có thể thấy thế gian đều khổ, khổ bởi nhân
duyên tham, thì tham nầy dứt.
Lại nếu người thường nghĩ rằng mình chắc phải chịu khổ
sinh lão bệnh tử, thì tham nầy dứt.
Lại như được cái lạc thanh tịnh thì bỏ cái lạc bất tịnh. Như
được Sơ thiền thì bỏ dục ái.
Lại thấy lỗi của tham dục là có thể dứt được. Lỗi như trước
đã nói.
Lại vì đa văn v.v... trí tuệ tăng trưởng nên có thể dứt tham
dục vì tính trí tuệ phá phiền não.
Lại nhờ nhân duyên thiện đầy đủ, thì tham dục dứt, nghĩa là
tịnh trì giới v.v..., và 11 thứ định cụ. Điều này sẽ nói trong đạo đế.
Lại sắc trí v.v..., pháp trí v.v... các phương tiện, Phật là vị
thầy thuốc lớn, các đồng học là những người sai khiến, chính pháp
là thuốc, tự như nói mà làm đúng, thì bệnh tham dục. Như có
người biết bệnh và đầy đủ 3 việc ấy thì bệnh khỏi tức thì.
Hỏi : Như trong kinh nói dùng bất tịnh quán để trừ tham dục.
Vì sao nói bất tịnh v.v... và vô thường v.v...?
Đáp : Tất cả Phật pháp đều vì phá các phiền não. Nhưng đều
có sức thắng riêng. Trước tiên dùng bất tịnh quán để ngăn tham
dục, sau mới lấy trí vô thường mà dứt.
Thành Thật Luận Trang 314 Tuệ Quang Foundation
Lại dùng bất tịnh để trừ tham dục thô, điều đó được nhiều
người biết, còn tham sử thì vi tế nên phải dùng vô thường mới dứt
được.
Lại chỉ trong một kinh đó nói như vậy, chứ trong các kinh
khác cũng nói các pháp khác cũng có thể dứt. Nhân duyên như
vậy thì tham dục dứt.
Phẩm 126 : Sân nhuế
Luận giả nói tướng giận dữ là như giận người nầy muốn
khiến nó diệt mất, nhờ người khác trói đánh giết hại, nhất quyết
trừ bỏ không muốn thấy. Giận này gọi là Ba-la-đề-già, nghĩa là
giận hạng nặng. Có thứ giận chỉ muốn mắng nhiếc đánh đập
người khác gọi là Vi-hân-bà, là giận hạng trung. Có thứ giận
không muốn bỏ rời như bởi ghét, yêu vợ con mà sinh, gọi là Câulô-
đà; là giận hạng nhẹ. Có thứ giận thường nhiễm ô tâm, gọi là
Ma-xoa, là không trả thù. Có thứ giận ở mãi nơi tâm không bỏ,
cần muốn trả thù, gọi là Ưu-bà-na-ha, là trả thù. Có thứ giận vội
chấp một việc, dù nhiều lời khuyên nhủ quyết không muốn bỏ,
như sư tử muốn qua sông, cứ nhắm đến bờ bên kia, chết cũng
không nao núng, gọi là Ba-la-đà-xá, nghĩa là chấp chặt. Có thứ
giận thấy người ta được lợi, tâm sinh ganh ghét, gọi là I-sa. Có
thứ giận thường ưa tranh tụng, tâm khẩu cương cường, gọi là
Tam-lam-ba, nghĩa là giận tranh giành. Có thứ giận, hoặc sư
trưởng dạy dỗ mà nghịch chống lại, gọi là Đầu-hòa-già, nghĩa là
phàn kháng. Có thứ giận như được việc chút ít không vừa lòng thì
tâm sinh bối rối gọi là A-sằn-đề, nghĩa là không nhẫn nhịn. Có thứ
giận nói lời không nhỏ nhẹ thường hay nhăn nhó không có sắc
mặt hòa dịu. Nói năng cướp lời trước, gọi là A-bà-cật-lược, nghĩa
là không vui lòng. Có thứ giận đối với người ở chung thường hay
mắng nhiếc, gọi là A-tảo-la-cô, nghĩa là không thuận hòa. Có thứ
giận dùng thân khẩu ý xúc não người đồng học, gọi là thắng kỳ,
Thành Thật Luận Trang 315 Tuệ Quang Foundation
nghĩa là xúc hại. Có thứ giận thường hay càu nhàu và chê bai đủ
thứ, gọi là Đăng-đan-na-tha, nghĩa là khó tính.
Hai thứ giận này, hoặc nhân chúng sinh hoặc không nhân
chúng sinh. Nhân chúng sinh gọi là tội nặng.
Lại có thượng, trung, hạ phân biệt làm 9 phẩm.
Lại nhân 9 thứ phiền não phân biệt làm 9, và vô sự nổi giận
ngang ấy là thứ 10.
Hỏi : Giận nầy làm sao sinh ?
Đáp : Từ việc không vừa ý khổ não mà sinh.
Lại vì không biết dúng cái tính của khổ thụ, nên sinh giận dữ.
Hoặc từ quở mắng roi vọt v.v... mà sinh.
Hoặc cùng làm việc với người ác mà sinh giận dữ, như hàng
thịt, thợ săn v.v....
Hoặc vì do trí lực yếu ớt nên sinh giận dữ như cành nhánh
cây bị gió làm lay.
Hoặc tích chứa giận dữ lâu ngày đến nỗi thành tính nên sinh
giận dữ.
Hoặc gốc từ dòng hàng thịt, thợ săn và loài rắn độc lai sinh
làm người thì sinh giận dữ.
Hoặc ưa nhớ lỗi của người khác nên sinh giận dữ, như trong
9 thứ phiền não đã nói.
Hoặc tùy thời tiết nên sinh giận dữ, như đến khi người chỉ
còn 10 tuổi v.v....
Hoặc bởi loài giống nên sinh giận dữ, như loài rắn độc v.v....
Hoặc bởi địa phương nên sinh giận dữ, như người nước
Khương Cù v.v....
Lại như trước đã nói nhân duyên sinh tham, cùng mâu thuẫn
với tham thì sinh giận dữ.
Lại tâm chấp ngã, kiêu mạn bùng phát mạnh và say đắm tài
vật một cách sâu đậm, các nhân duyên như vậy v.v..., thì sinh giận
dữ.
Thành Thật Luận Trang 316 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Giận nầy có những tội lỗi gì ?
Đáp : Trong kinh nói giận là tội nặng đối với tham dục. Cho
nên nói là dễ cởi bỏ, mà kỳ thật là khó gỡ. Có điều là không bằng
tham đeo bám lâu nơi tâm.
Lại giận tạo ra 2 cái phiền não. Trước đốt hại nơi mình, sau
đốt hại nơi người.
Lại giận chắc chắn là địa ngục, vì do giận đa phần khởi
nghiệp đọa địa ngục.
Lại giận có thể phá hoại phúc thiện, nghĩ là thí, giới, nhẫn 3
pháp nầy đều do tâm từ v.v... sinh ra, giận thì mâu thuẫn với tâm
từ nên nói là có thể phá hoại.
Lại do giận khởi nghiệp đều bị tiếng xấu.
Lại do giận khởi nghiệp về sau tâm phải ăn năn.
Lại người hay giận hờn, là người không có lòng thương yêu,
nên gọi là người hung bạo, vì chúng sinh đã thường khổ mà lại vì
giận làm hại thêm, như ung nhọt, như lửa.
Lại trong kinh tự nói lỗi của giận là người nhiều giận thì hình
sắc xấu xí, ngủ thức không yên vì tâm thường lo sợ bị người khác
không tin v.v....
Hỏi : Người nhiều giận dữ có những tướng ra sao ?
Đáp : Tâm khẩu cương cường thường không vui vẻ, mặt mày
nhăn nhó, sắc diện không khoan hòa khó gần gũi, dễ nổi xung khó
bỏ, thường hay giận hờn, ưa cãi cọ, hay sắm sửa binh khí, kết bè
đảng với bạn ác, lại ganh ghét người thiện, là người thô kệch
không suy nghĩ kỹ, ít khi biết hổ thẹn. Có những điều như vậy gọi
là tướng giận dữ. Các tướng nầy đều vì ganh ghét người khác mà
sinh, cho nên cần phải dứt.
Hỏi : Phải dứt như thế nào ?
Đáp : Thường tu từ bi hỷ xả thì giận dữ dứt.
Lại phải thấy tội lỗi của giận dữ thì mới dứt được.
Lại được chân trí thì giận dữ dứt.
Thành Thật Luận Trang 317 Tuệ Quang Foundation
Lại phải nhờ sức nhẫn nhục, giận dữ mới dứt được.
Hỏi : Sao gọi là sức nhẫn ?
Đáp : Nếu có thể nhẫn các khổ do người khác mắng nhiếc là
người nầy được phúc của pháp thiện. Cũng không nên do không
nhẫn mà sinh hung ác. Đó gọi là sức nhẫn nhục.
Lại người tu nhẫn gọi là Sa-môn, vì nhẫn nhục là cửa ngõ
đầu tiên vào đạo. Pháp Sa-môn là giận dữ không đáp trả bằng giận
dữ, bị mắng không mắng trả, bị đánh không đánh lại.
Lại nếu Tì-kheo nhẫn được là đúng với pháp xuất gia.
Lại người giận dữ là không phải phép của người xuất gia.
Phép người xuất gia là nhẫn nhục.
Lại nếu Tì-kheo thân mặc áo khác tục mà tâm còn giận dữ
đồng với người là không hợp.
Lại như người tu nhẫn nhục tức là đã đủ công đức từ bi.
Lại người tu nhẫn nhục có thể thành tựu tự lợi. Bởi vì sao ?
Vì những người giận dữ muốn não hại người, mà trở thành tự hại.
Đem hết thân khẩu để thêm ác cho người, mà tự mình bị ác quá
hơn trăm ngàn lần. Cho nên biết giận là tự tổn hại nặng nhất. Vì
vậy người trí muốn mình và người đều được khỏi khổ lớn và tội
lớn, cần phải tu nhẫn nhục.
Hỏi : Làm sao có thể chịu nổi cái khổ bị mắng nhiếc ?
Đáp : Nếu người khéo tu vô thường, rõ thấu các pháp niệm
niệm sinh diệt, thì biết rằng người mắng, người bị mắng đều diệt
từng mỗi niệm, trong đó có chỗ nào đáng sinh giận dữ ?
Lại khéo tu không tâm, mới có thể nhẫn nhục được. Nên
nghĩ như vầy : Các pháp là thật không, có ai là người mắng, có ai
là người bị mắng.
Lại sự việc nếu thật, thì nên nhẫn nhục, vì ta thật có lỗi,
người kia nói thật lời, sao lại giận ? Nếu sự không thật, thì người
kia tự phải bị quả báo vọng ngữ, ta giận làm gì ?
Thành Thật Luận Trang 318 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu nghe lời mắng ác, phải nghĩ như vầy : Tất cả thế gian
đều theo nghiệp chịu báo, ta xưa chắc đã gây nghiệp ác này, nay
nên đền trả chứ sao lại giận ?
Lại nếu nghe mắng ác, tự phải xét lỗi mình. Bởi ta thụ thân,
mà thân là đồ đựng các nỗi khổ, nên phải chịu mắng.
Lại người tu nhẫn nhục nên suy nghĩ như vầy : Vạn vật đều
do nhiều nhân duyên sinh. Cái khổ mắng ác nầy, là do nhĩ thức, ý
thức và âm thanh v.v... sinh ra. Trong đó tự ta có 2 phần, người
kia chỉ có âm thanh, vậy là tội ta nhiều hơn, sao lại giận ? Và vì ta
chấp lấy tướng phân biệt của âm thanh kia, nên sinh phiền não tức
là ta lỗi.
Lại người nhẫn nhục không nên bắt lỗi người khác. Bởi vì
sao ? Vì tội tham sân si nầy không phải lỗi của chúng sinh mà do
tâm bệnh của chúng sinh phát sinh ra nên không được tự tại. Như
thầy trị quỷ, chữa người bị quỷ ám, thì chỉ nên giận quỷ mà không
nên giận bệnh nhân.
Lại người nầy vì siêng tu tinh tiến thích tập pháp thiện nên
không chấp lời người khác.
Lại nghĩ nhớ chư Phật, các Hiền thánh còn không khỏi bị
mắng. Như người Bà-la-môn xảo quyệt v.v... mắng Phật nhiều
điều. Như Xá-lợi-phất v.v... bị Bà-la-môn gia hại các thứ nhục
mạ, huống chi chúng ta là hạng người bạc phúc ư ?
Lại nghĩ như thế này : Thế gian nhiều ác mà không đoạt
mạng ta đã là rất may mắn lắm rồi huống chi là đánh mắng ?
Lại nghĩ thế nầy : Các thứ mắng ác nầy với ta không khổ, có
thể dễ nhẫn chịu. Như Phật dạy Tì-kheo dẫu cho cưa sắt xẻ mình,
cũng nên nhẫn chịu, huống chi mắng nhiếc.
Lại người tu hạnh này thường chán sinh tử nếu bị mạ nhục
thì chứng nghiệm rõ ràng lại càng thêm chán lìa, bỏi ác tu thiện.
Lại người này biết không nhẫn nhục sau chịu khổ báo, mới
nghĩ như vầy : Thà bị khinh mắng, chớ đọa địa ngục.
Thành Thật Luận Trang 319 Tuệ Quang Foundation
Lại người này ôm sâu lòng hổ thẹn. Ta là đệ tử Thế Tôn, bậc
Đại nhân, là người tu đạo, làm sao lại khởi thân khẩu là nghiệp
không đáng khởi ư ?
Lại được nghe Bồ-tát tu nhẫn nhục và Đế Thích v.v... mà
được sức nhẫn. Cho nên phải tu nhẫn.
Phẩm 127 : Vô minh
Luận giả nói chạy theo giả danh gọi là vô minh. Như nói
phàm phu theo tiếng ngã. Trong đó thật không có ngã và ngã sở.
Chỉ có các pháp hòa hợp giả gọi tên là người. Phàm phu không
thể phân biệt nên sinh ngã tâm. Ngã tâm sinh tức là vô minh.
Hỏi : Trong kinh Phật nói không biết đời quá khứ v.v... gọi là
vô minh. Vì sao chỉ nói ngã tâm ?
Đáp : Vì trong quá khứ nhiều người sai lầm, nên nói trong đó
không biết gọi là vô minh.
Lại trong kinh giải thích nghĩa chữ minh là có chỗ hiểu biết
mới gọi là minh. Biết những pháp gì ? Là sắc ấm vô thường, như
thật biết vô thường. Thụ, tưởng, hành thức các ấm vô thường, như
thật biết vô thường. Trái lại với minh gọi là vô minh. Vậy thì
không rõ như thật nên gọi là vô minh.
Hỏi : Nếu không rõ như thật gọi là vô minh thì gỗ đá v.v...
các pháp lẽ ra cũng phải gọi là vô minh? Vì chúng không rõ như
thật ?
Đáp : Không phải vậy. Gỗ đá vô tâm không phân biệt được
đời quá khứ v.v..., vô minh phân biệt được nên không đồng gỗ đá.
Hỏi : Vô minh gọi là vô pháp, như người mắt không thấy sắc
không có pháp không thấy. Cho nên chỉ minh là không có, nên
gọi là vô minh, chứ không có pháp khác ?
Đáp : Không phải vậy. Nếu không có vô minh thì trong 5 ấm
vọng chấp có người, và trong gạch đá sinh tưởng vàng bạc, gọi là
Thành Thật Luận Trang 320 Tuệ Quang Foundation
thứ gì ? Cho nên phải biết tính tà phân biệt gọi là vô minh, chứ
không phải vì không có minh mà gọi là vô minh.
Lại từ vô minh nhân duyên mới có các hành v.v... nối nhau
sinh; nếu là vô pháp thì làm sao sinh được ?
Hỏi : Nếu không phải minh gọi là vô minh thì nay chỉ trừ
minh, tất cả các pháp còn lại đều là vô minh. Cho nên không lấy
một pháp gọi là vô minh ?
Đáp : Vô minh nầy là nói trong tự tướng, chứ không nói các
pháp. Như nói bất thiện tức là nói cái thể bất thiện, chứ không nói
vô ký. Vô minh cũng vậy. Tuy mang thân hình người, mà không
có hành động như con người, nên mới gọi là không phải người.
Như vậy cái minh nầy tuy có phân biệt mà không biết như thật,
nên mới gọi vô minh. Còn gỗ đá không phải vậy.
Hỏi : Nếu nói vô sắc, vô đối, vô lậu, vô vi đều là các thuyết,
vì sao vô minh không phải như vậy ?
Đáp : Hoặc giả có lý nầy, nhưng trong bất thiện v.v... thì
không như vậy.
Hỏi : Có người nói chỉ vì không có minh nên gọi vô minh,
như trong nhà không ánh sáng nên gọi là tối ?
Đáp : Thế gian có 2 lối nói : Hoặc không có sáng nên nói là
không sáng, hoặc sáng không đúng cũng nói là không sáng.
Không có sáng nên nói là không sáng, là như thế gian nói mù
không thấy sắc, điếc không nghe tiếng. Sáng không đúng cũng nói
là không sáng như đêm thấy cây trơ trụi sinh tưởng là người, thấy
người tưởng là cây trơ trụi.
Lại người không thể thật biết việc đó nên gọi là không biết.
Lại tà tâm gọi là phiền não. Các hành nghiệp nhân duyên
nầy, A-la-hán đã dứt nên không có vô minh làm nhân duyên cho
các hành. Nếu không phải minh gọi là vô minh thì nay A-la-hán
không minh trong Phật pháp, lẽ ra phải gọi vô minh ? Mà nếu có
vô minh thì không phải A-la-hán. Cho nên phải biết rằng nói có
Thành Thật Luận Trang 321 Tuệ Quang Foundation
thể tính vô minh riêng tức là tà tâm. Tà tâm nầy là vô minh phân
ra tất cả phiền não. Bởi vì sao ? Vì tất cả phiền não đều là tà hành.
Lại tất cả phiền não che tâm người, đều là đui mù. Như nói
tham dục không thấy pháp, tham dục không thấy phúc. Người
năng thụ tham nầy đều gọi là đui mù. Sân si cũng như vậy.
Lại từ tất cả phiền não sinh các hành nghiệp, nên trong kinh
nói từ vô minh sinh hành. Cho nên biết tất cả phiền não đều là vô
minh.
Lại người không thấy không, thường có vô minh. Chỉ cáu
bẩn vô minh là nhân duyên các hành.
Lại vì tà minh nên nói là vô minh. Người thưa thấy không,
thường là tà minh. Cho nên biết vô minh phân ra tất cả phiền não.
Hỏi : Vô minh sinh như thế nào ?
Đáp : Nếu nghe, nghĩ tà nhân thì sinh vô minh. Như cho có
Đà-la-phiêu, có hữu phần, có tinh thần, các pháp niệm niệm
không diệt, không có thân sau, âm thanh và Thần là thường còn,
cỏ cây v.v... có tâm, rồi muốn thành lập các tà chấp như vậy, thì
sinh vô minh.
Hoặc do tà nhân nên sinh vô minh là gần gũi bạn tà ác, nghe
tà pháp, rồi nghĩ tà và làm tà. Vì 4 tà nhân đó nên sinh vô minh.
Lại nhân duyên sinh các phiền não khác, đều là nhân sinh vô
minh.
Lại do nhân vô minh nên sinh vô minh, như từ bắp sinh bắp,
từ lúa sinh lúa. Như vậy từ chấp của chúng sinh, thì sinh vô minh.
Lại trong kinh nói : Từ nhân duyên tà niệm mà sinh vô minh.
Tà niệm là một biệt danh của vô minh, như thấy có người, trước
tâm sinh ý niệm về người, sau nghĩ rõ ràng, nên gọi là vô minh.
Hai hiện tượng trước sau nầy tương trợ tương sinh, như từ cây
sinh trái, từ trái lại sinh cây.
Hỏi : Vô minh có những lỗi gì ?
Thành Thật Luận Trang 322 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tất cả tổn hại đều bởi vô minh. Bởi vì sao ? Vì từ vô
minh sinh tham v.v... các phiền não; từ phiền não khởi nghiệp bất
thiện; từ nghiệp thụ thân. Nhân duyên thụ thân, mới bị các thứ tổn
hại. Như trong kinh nói : Vô minh che khuất ái kết trói buộc, thụ
thân các hữu.
Lại trong kinh Sư Tử Hống nói : Các thủ, đều do vô minh
làm gốc. Lại kệ nói :
Có các chỗ tội ác
Đời nay hoặc đời sau,
Đều vô minh làm gốc,
Nên từ tham dục khởi
Tất cả lỗi phiền não
Đều bởi vô minh có,
Vì từ vô minh sinh
Tất cả phiền não đó.
Lại phàm phu vì vô minh nên chịu thân 5 ấm nầy là bất tịnh,
vô thường, khổ, không, vô ngã, làm gì có người trí chịu các khổ
này !
Lại vì nhờ chính tư duy nên có thể xả 5 ấm. Như trong kinh
nói : Nếu biết tâm ta là tà điên đảo, thì không sinh trở lại. Cho nên
biết do vô minh nhân duyên nên bị trói buộc, minh nhân duyên
nên giải thoát.
Lại thế gian chúng sinh vì vô minh nên tham cầu một chút
khí vị mà không thấy nhiều tội lỗi, như con thiêu thân tự gieo
mình vào lửa, như cá nuốt mồi câu. Chúng sinh cũng vậy, hiện
tham chút khí vị mà bất cố nhiều tội lỗi.
Lại kinh điển ngoại đạo sinh tà kiến nói không có tội phúc
v.v..., đều là vô minh.
Lại các ác đạo đều do bất thiện. Bất thiện đều là vô minh.
Lại các tà kiến khởi nghiệp phần nhiều đọa địa ngục. Tà
kiến đều do vô minh sinh.
Thành Thật Luận Trang 323 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật là đấng Thế Tôn, là bậc Nhất thiết trí, là Đại sư của
3 cõi, là người chân tịnh tu hành và Thánh đệ tử v.v.... mà các
ngoại đạo không phân biệt biết được, như người mù vất bỏ viên
ngọc châu báu. Đó đều là lỗi vô minh.
Lại tất cả chúng sinh có bao nhiêu việc tổn não bại hoại
v.v..., đều do vô minh, tất cả lợi ích thành tựu tăng trưởng đều nhờ
minh mẫn. Nếu tăng trưởng vô minh rốt ráo quyết đọa địa ngục
A-tì. Như kiếp sơ con người không biết khí vị là hư vọng, mới
sinh tham đắm, nên mất sắc lực thọ mạng các việc v.v.... Phải biết
đều bởi vô minh làm mất các điều lợi.
Lại vô minh nầy chỉ có chân trí mới dứt được, còn tham v.v...
thì không vậy.
Lại trong tâm tham không có giận, trong tâm giận không có
tham, còn vô minh thì có mặt trong tất cả tâm; và người không tu
tuệ thì vô minh thường trực ở trong tâm.
Lại trong các phiền não vô minh là rất mạnh, như trong kinh
nói vô minh tội nặng cũng khó giải trừ.
Lại vô minh là cội rễ của 12 nhân duyên, nếu không có vô
minh thì các nghiệp không nhóm không thành. Vì sao biết được ?
Các A-la-hán không có tướng chúng sinh, vì không vô minh nên
các nghiệp không thể nhóm thành. Nghiệp không nhóm nên thức
v.v... các chi phần không sinh lại được. Cho nên biết vô minh là
gốc của các khổ.
Lại hiện thấy tham đắm thân bất tịnh nầy cũng đối với vô
thường sinh tưởng là thường, giống như nắm tay không để gạt trẻ
nít; cũng nhà ảo thuật có thể diễn trò ảo thuật khiến người xem
thấy đất là vàng.
Lại tục nói người ngu hiện có thể gia thêm tội mà cũng có
thể dùng lời nói gạt. Thế gian cũng vậy, mắt thấy bất tịnh mà vẫn
để bị gạt.
Thành Thật Luận Trang 324 Tuệ Quang Foundation
Lại các tâm pháp niệm niệm diệt hết, vì chấp lấy tướng nên
sinh. Sắc diệt hết rồi, vì si nên chấp lấy tướng. Với âm thanh
v.v… cũng như vậy. Cho nên khó giải trừ. Đó là lỗi của vô minh.
Hỏi : Người nhiều vô minh có những tướng gì ?
Đáp : Người nầy với chỗ đáng sợ không sợ, chỗ nên vui
không vui, ganh ghét người thiện, ưa thích người ác, lấy ngược ý
người, thường ưa trái chống, chấp cứng việc tà, thiếu lòng hổ
thẹn, bất cố hiềm nghi, không hay làm cho người vui, tự mình
cũng khó được vui, không hay gần ai, ai cũng khó gần; ngu hãi
không hiểu, ưa mặc áo bẩn, ưa vào chỗ tối, và chỗ bất tịnh, tự cao
tự đại, hay khinh dễ người không cần đạo lý, tự khoe công đức,
lỗi không biết lỗi, lợi không biết lợi; không thích sạch sẽ, cũng
không oai nghi, nói năng vụng về, thường hay hờn giận, lấy trộm
pháp người, mà sâu tham đắm; học tụng khó được, được rồi dễ
mất, dẫu có sở đắc, không thể hiểu nghĩa, dẫu có hiểu nghĩa, thì
cũng hiểu sai. Tất cả tướng đó đều do vô minh. Cho nên biết vô
minh có vô lượng tội lỗi cần phải dứt trừ.
Hỏi : Làm sao dứt được ?
Đáp : Khéo tu chân trí thì dứt được.
Hỏi : Biết ấm giới v.v... cũng gọi là chân trí. Vì sao trong
kinh nói thuốc chữa vô minh là, hoặc nhân duyên, hoặc quán nhân
duyên ?
Đáp : Các ngoại đạo phần nhiều hiểu lầm nhân trong sự vật,
vì hiểu lầm nhân, nên nói trời Tự tại v.v... tạo ra thế gian. Vì lầm
nhân trong sự vật, nên nói có Đà-la-phiêu có hữu phần v.v....
Quán pháp nhân duyên, thì dứt 2 sai lầm nầy.
Hỏi : Nhân duyên gọi là thuốc chữa vô minh. Vì sao nói 2
thứ ?
Đáp : Vì muốn thu gom hết các trí. Nếu quán ấm, giới, nhập
v.v... cũng phá được vô minh. Nhưng vô minh nặng là tà kiến. Tà
kiến nhờ nhân duyên dứt, nên nói 2 thứ. Tham giận cũng như vậy.
Thành Thật Luận Trang 325 Tuệ Quang Foundation
Lại thế gian phần nhiều sai lầm đối với tên gọi cái bình v.v...
Như nghe tên cái bình thì sinh nghi sắc v.v... là cái bình hay rời
sắc v.v... lại riêng có cái bình ? Như vậy 5 ấm là người hay rời 5
ấm lại riêng có người ? Nếu tâm quyết định thì sa vào nhị biên là
đoạn và thường. Thân tức là Thần, hay thân khác Thần khác cũng
như vậy. Nếu người biết cái bình từ các duyên sinh, do sắc,
hương, vị, xúc mà thành, vậy sắc v.v... các ấm có thể hiểu là
người, thì có thể lìa bỏ sự sinh từ tên gọi. Cái tên gọi này có thể
che khuất thật nghĩa các pháp. Như trong Kinh Thiên Vấn nói :
Tên gọi hơn tất cả pháp, mà không có gì có thể hơn được. Tên gọi
nầy tất cả các pháp đều theo.
Lại nói : Thấy thế gian tập thì dứt được chấp không thấy thế
gian diệt thì dứt được chấp có.
Lại nói : Vì các hành nối nhau luôn nên nói 5 ấm sinh tử. Đó
đều là tội lỗi của vô minh, quán Nhân duyên thì dứt.
Lại trong kinh nói : Nếu ai thấy nhân duyên là người đó thấy
pháp. Nếu thấy pháp tức thấy Phật. Như vậy nếu ai có thể dứt sự
sinh nghi do tên gọi thì người đó mới thật thấy Phật, mà không
phải theo ai học. Cho nên nhờ chính trí thì hết vô minh. Vì nhờ
biết đúng pháp nhân duyên nên mới có được chính trí.
Lại lược nói trong 8 vạn 4 ngàn pháp tạng có bao nhiêu trí
tuệ đều để diệt trừ vô minh, vì vô minh làm cội rễ tất cả phiền não
và giúp phát triển tất cả phiền não. Nhân duyên như vậy thì dứt
được vô minh.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 10 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Thành Thật Luận Trang 326 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 128 : Kiêu mạn
Hỏi : Đã nói 3 phiền não là cội rễ sinh tử. Lại còn có gì nữa
không ?
Đáp : Có. Là khinh mạn.
Hỏi : Khinh mạn là thế nào ?
Đáp : Do tà tâm tự cao gọi là mạn. Mạn nầy có nhiều thứ :
Như mình ở bậc thấp mà tự cao thì gọi là mạn. Ở bậc như nhau
mà chấp như nhau cũng gọi là mạn, vì trong ấy chấp tướng tà tâm
là ta hơn. Ở bậc ngang hàng mà tự cho cao hơn gọi là đại mạn. Ở
bậc hơn mà tự cao gọi là mạn mạn. Trong 5 ấm chấp lấy tướng
ngã, gọi là ngã mạng. Ngã mạn có 2 thứ : hiện tướng và không
hiện tướng. Hiện tướng là ngã mạn của phàm phu. Nghĩa là chấp
sắc là ngã, hay chấp hữu sắc là ngã, chấp sắc trong ngã; chấp ngã
trong sắc, cho đến thức cũng như vậy. Vì hiện ra 20 phần nầy nên
gọi là hiện tướng. Không hiện tướng là học nhân ngã mạn, như
Trưởng lão Sai-ma-già nói : Không nói sắc là ngã, không nói thụ,
tưởng, hành, thức là ngã, chỉ trong 5 ấm có ngã mạn, ngã dục, ngã
sử. Chưa dứt, chưa hết gọi là ngã mạn. Nếu chưa được các quả
công đức Tu-đà-hoàn v.v..., mà tự cho là đã được, gọi là tăng
thượng mạn.
Hỏi : Nếu chưa được vì sao sinh tâm đã được ?
Đáp : Vì trong khi tập thiền được chút ít khí vị có thể ngăn
chận kết sử không cho hiện hành trong tâm nên sinh mạn này. Lại
sức văn tuệ, tư tuệ thường gần thầy giỏi, thích hạnh viễn ly, biết
chút ít tướng 5 ấm, cho nên sinh tưởng được quả Tu-đà-hoàn
v.v… gọi là tăng thựong mạn.
Hỏi : Tăng thượng mạn có những lỗi gì ?
Đáp : Về sau sẽ lo buồn. Như trong kinh nói : Nếu Tì-kheo
nói ta dứt nghi được đạo, tức phải hiện tiền nói nhân duyên rất sâu
pháp xuất thế gian. Nếu Tì-kheo này thật không được đạo, khi
Thành Thật Luận Trang 327 Tuệ Quang Foundation
nghe pháp ấy thì sinh sầu não hối hận. Cho nên phải siêng dứt
tăng thượng mạn.
Lại người tăng thượng mạn, chư Phật Thế Tôn có tâm đại từ
bi hãy còn bỏ xa không vì nói pháp. Cho nên phải dứt.
Lại người tăng thượng mạn, vì trụ ở trong pháp tà kiến, nên
không có thật công đức, giống như người đi buôn vào sâu trong
biển cả, mà tham thứ ngọc giả. Người nầy cũng vậy, vào trong
biển cả Phật pháp, được chút niềm vui thiền vị, bảo là chân đạo
mà sinh tham đắm.
Lại người tăng thượng mạn, khi tuổi già sắp chết không
kham nổi thụ đạo pháp, nên phải siêng cầu chân thật trí tuệ.
Lại người tăng thượng mạn tự mất lợi ích mà tăng thêm ngu
si, vì thật chưa được mà tưởng đã được. Vì vậy không nên tự dối
mình, phải mau xa lánh lìa bỏ.
Nếu người đại thắng mà cho là không bằng chút nào, gọi là
bất như mạn. Người này tự cao và cũng tự hạ mình xuống.
Nếu người không có đức mà tự cao gọi là tà mạn. Lại lấy ác
pháp tự cao cũng gọi tà mạn.
Nếu đối với người thiện và bậc đáng trọng, mà không chịu lễ
kính gọi là ngạo mạn.
Tất cả những tên gọi như vậy là tướng kiêu mạn.
Hỏi : Mạn phát sinh như thế nào ?
Đáp : Không biết thật tướng các ấm thì sinh kiêu mạn. Như
trong kinh nói : Nếu người lấy sắc vô thường, tự nghĩ là thượng,
là trung, là hạ, người này chính là vì không biết tướng như thật.
Cho đến thức cũng như vậy. Nếu biết tướng của ấm thì không
kiêu mạn.
Lại khéo suy nghĩ tu thân thì không kiêu mạn. Như con bò
cậy cặp sừng nên sinh bạo mạn. Nếu bỏ cặp sừng thì không còn
năng lực nữa. Thân là bất tịnh, 9 lỗ chảy ra đồ bất tịnh, làm gì có
Thành Thật Luận Trang 328 Tuệ Quang Foundation
người trí ỷ vào đó mà tự cao. Nhờ những nhân duyên nghĩ về thân
như vậy, tức không kiêu mạn.
Lại người trí biết tất cả chúng sinh hoặc nghèo hoặc giàu,
hoặc sang hoặc hèn, cũng đều lấy xương thịt gân mạch, 5 tạng,
phân nhơ họp lại mà thành thân, đều có sinh lão bệnh tử buồn rầu
khổ não, cũng có tham sân v.v... các phiền não, các nghiệp tội
phúc, và địa ngục v.v... các phần ác đạo, làm sao mà khởi kiêu
mạn ?
Lại thấy nội ngoại tâm do nhân nguyên sinh, đều biết niệm
niệm diệt, thì không kiêu mạn.
Lại khéo tu tập không tâm thì không kiêu mạn. Bởi vì sao ?
Vì chạy theo tướng nên sinh kiêu mạn, nếu không có tướng khởi
mạn chỗ nào ?
Lại người trí tuệ, như thật có giới v.v… các công đức, thì
không sinh mạn. Bởi vì sao ? Vì giới v.v... các công đức đều vì để
làm hết các phiền não nầy. Nếu không công đức, làm gì có người
trí, đối với việc không có, mà khởi kiêu mạn ?
Lại quán tướng vô thường v.v... thì diệt kiêu mạn. Làm gì có
người trí, đem vật vô thường khổ, bất tịnh ra mà sinh kiêu mạn ?
Hỏi : Kiêu mạn có các lỗi gì ?
Đáp : Từ kiêu mạn có thân, từ thân sinh tất cả khổ. Như
trong kinh Phật nói : Nếu đệ tử ta ai không thể như thật biết tướng
kiêu mạn, thì ta thụ ký cho sẽ sinh về nơi nào đó, vì còn thừa kiêu
mạn chưa dứt.
Lại tất cả phiền não đều tùy theo chấp lấy tướng, mà ngã là
tướng lớn nhất trong các tướng. Cho nên biết là từ mạn có thân.
Lại kiêu mạn tức là phần của si. Bởi vì sao ? Vì mắt thấy sắc
bảo là ta có thể thấy.
Lại kiêu mạn nầy sinh không cần đạo lý. Bởi vì sao ? Vì tất
cả thế gian đều vô thường, khổ, vô ngã làm sao bởi đó mà sinh
kiêu mạn. Cho nên đối với tham sân si rất không có đạo lý.
Thành Thật Luận Trang 329 Tuệ Quang Foundation
Lại từ mạn khởi nghiệp vừa nhạy bén vừa nặng nề, vì tham
đắm sâu sắc, cho nên từ tham khởi nghiệp không được như vậy.
Lại vì sức mạnh kiêu mạn nên tham v.v... bùng phát, tức
tham nầy được chủng tính v.v... thì kiêu mạn thêm lớn bùng phát.
Lại nhân duyên ngã mạn bị sinh vào nhà thấp hèn, cũng sinh
trong loài sư tử cọp sói. Do nhân duyên nầy mà đọa địa ngục.
Kiêu mạn có những tội lỗi như vậy nhiều vô lượng..
Hỏi : Thế nào là nhiều kiêu mạn ?
Đáp : Người này cố chấp khó cùng nói chuyện. Người này
không có lòng cung kính, ít biết sợ, thích tự do tự tại, tự đại khó
dạy, có được chút ít tự cho là nhiều, hay khinh người. Những lỗi
nầy rất khó trừ. Cho nên người có trí rất không nên phạm kiêu
mạn, vì nó phá tất cả công đức nên sinh.
Phẩm 129 : Nghi
Luận giả nói nghi là đối với trong thật pháp tâm không quyết
định. Như có giải thoát hay không giải thoát ư ? Có thiện bất thiện
hay không ư ? Có Tam Bảo hay không ư ? Đó gọi là nghi.
Hỏi : Như thấy cây trơ trụi sinh nghi là cây hay người ? Thấy
cục đất sinh nghi là cục đất hay con bồ câu ? Thấy con ong sinh
nghi là con ong hay quả Diêm-phù ? Thấy con rắn sinh nghi là
con rắn hay sợi dây ? Thấy sóng nắng sinh nghi là ánh sáng hay
nước ? Những nghi như vậy do nhãn thức sinh. Nghe tiếng sinh
nghi là tiếng chim công hay người giả tiếng ? Ngửi nghe mùi sinh
nghi là mùi thơm hoa Ưu-bát hay mùi thơm hòa hợp ? Nếm vị
sinh nghi là vị của thịt hay vị giống như thịt ? Chạm xúc sinh nghi
là tơ lụa sống hay tơ lụa ươm ? Ý thức thì nhiều thứ sinh nghi :
Như nghi pháp này có Đà-la-phiêu hay chỉ Cầu-na ? Có thần hay
không có thần. Những điều như vậy có phải là nghi chăng ?
Thành Thật Luận Trang 330 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu cây trơ trụi, người v.v... mà sinh nghi thì không
phải phiền não, vi đó không thể làm nhân duyên cho thân sau, lại
vì người lậu tận cũng khởi như vậy.
Hỏi : Nghi ấy sinh như thế nào ?
Đáp : Như thấy nghe biết 2 thứ pháp, nên sinh nghi. Bởi vì
sao ? Vì trước thấy 2 vật đứng một là cây hai là người; sau mới xa
thấy người với vật như nhau thì sinh nghi là cây hay là người ?
Đất v.v... cũng như vậy. Hai thứ nghe là như nghe nói có tội phúc
đời sau, cũng nghe nói không có, cho nên sinh nghi. Hai thứ biết
là như trời mưa lớn nên kênh mương tràn nước hoặc khi đắp đập,
nước kênh mương cũng tràn. Như trời sắp mưa thấy kiến tha
trứng di cư, hoặc người đào đất cũng thấy mang trứng tránh đi.
Như chim công kêu, người có thể bắt chước tiếng kêu được. Thật
sự có thể thấy như cái bình. Không phải thật sự nhưng cũng có thể
thấy như vòng lửa quay tròn. Thật sự không thể thấy như rễ cây
dưới đất, trong nước. Không phải thật sự cũng không thể thấy
như cái đầu thứ 2, cái tay thứ 3. Như vậy v.v... 2 thứ pháp thấy,
nghe, biết nên mới sinh nghi.
Lại không xét kỹ khi thấy nên sinh nghi, như thấy ở xa v.v...
hay 8 nhân duyên.
Lại vì 2 tin nên sinh nghi. Như có người nói có đời sau; lại
có người nói không có. Tin cả 2 người nên mới sinh nghi.
Lại trong việc khả nghi đó, cho đến không thấy tướng gì
khác, cho nên sinh nghi. Nếu thấy tướng khác thì không nghi này.
Hỏi : Thấy tướng khác là thế nào ?
Đáp : Thấy nghe biết quyết định thì không có nghi. Trong
Phật pháp, tùy khi đích thân chứng pháp thật tướng mới rốt ráo
không nghi. Như Bồ-tát khi ngồi ở đạo tràng nói pháp tinh tiến,
Bà-la-môn chứng được pháp sâu xa hiện tiền các duyên thấy biết
tiêu tan hết, tức thì xé rách lưới nghi.
Thành Thật Luận Trang 331 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu được trí tuệ có đạo lý thì nghi nầy dứt, như người trí
nghe nói hành làm nhân duyên cho thức, liền quyết định biết rõ vô
thủy sinh tử là như vậy v.v...
Hỏi : Nghi có lỗi gì ?
Đáp : Nếu người đa nghi, thì tất cả sự nghiệp thế gian xuất
thế gian đều không thành tựu. Bởi vì sao ? Vì người nghi không
thể khởi phát sự nghiệp gì cả, nếu phát khởi cũng yếu ớt, nên
không thể thành tựu.
Lại trong kinh nói : Nghi là những nảy mầm nơi tâm, giống
như ruộng hoang nảy sinh mầm cây dại cho nên cỏ lạ còn không
mọc được, huống là lúa má. Tâm cũng như vậy, vì gốc nghi phá
hoại, nên đối với việc tà còn không quyết định được, huống chi có
thể quyết định việc chính.
Lại Phật gọi nghi là nhóm tối. Nhóm tối có 3 thứ là nhóm tối
quá khứ, nhóm tối vị lai, nhóm tối hiện tại. Nhóm tối nầy là nơi
sinh các ngã kiến.
Lại người nầy dù được định tâm cũng là tà định. Nếu lìa Phật
pháp thì không thể nói là người chính định được.
Lại nhiều chúng sinh hoài nghi cho đến chết, như nói A-tragià
v.v... người tiên được 5 thần thông mà cũng ôm nghi ngờ đến
chết.
Lại người nghi nầy, nếu tu phúc đức bố thí v.v..., thì hoặc
không quả báo, hoặc ít được báo. Bởi vì sao ? Vì các phúc nghiệp
nầy đều từ tâm khởi. Mà tâm người nầy thường bị nghi làm đục
vẩn, nên không có phúc thiện.
Lại trong kinh nói : Tâm nghi mà bố thí thì chịu quả báo sinh
ở chốn biên địa. Bởi vì sao ? Vì người đa nghi nầy không thể nhất
tâm, theo thời mà tay đưa cho, nhưng không thể sinh tâm cung
kính, nên được thụ chút quả báo sinh ở chốn biên địa, như tiểu
vương Ba-da-tuy chẳng hạn.
Thành Thật Luận Trang 332 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Không có nghi nầy đâu. Bởi vì sao ? Vì nghi là tâm số
pháp, mà các tâm số pháp thì niệm niệm sinh diệt. Nếu đúng thì
chẳng phải là nghi. Nếu sai cũng chẳng phải là nghi. Vì trong một
tâm không được vừa có đúng vừa có sai. Cho nên biết là không có
?
Đáp : Tôi không nói trong niệm niệm có nghi. Tâm không
quyết định luôn nối nhau gọi là nghi. Bấy giờ tâm không quyết
định rõ ràng là cái cây trơ trụi hay là con người. Cái tâm này nối
nhau luôn này vì không tin nên vẩn đục. Cũng bởi tà kiến nên
không tin, khi nghi hoặc có hoặc không. Không tin này có 2 thứ :
Một từ nghi sinh, hai từ tà kiến sinh. Từ nghi sinh thì nhẹ. Từ tà
kiến sinh thì nặng. Tin cũng có 2 thứ : Một từ chính kiến sinh, hai
từ nghe sinh. Từ chính kiến sinh thì tin bền chắc. Từ nghe mà sinh
thì sinh không được như vậy.
Phẩm 130 : Thân kiến
Trong 5 ấm, ngã tâm gọi là thân-kiến. Vì thật không có ngã
nên nói duyên lấy 5 ấm. Năm ấm gọi là thân; trong đó sinh kiến
chấp gọi là thân kiến. Trong không có ngã mà chấp lấy tướng ngã,
nên gọi là kiến.
Hỏi : Trong 5 ấm tạo tên gọi là ngã thì có lỗi gì ? Như cái
bình chẳng hạn, các vật đều có tự tướng, trong đó không lỗi, thì
ngã cũng vậy. Lại nếu nói lìa ấm riêng có ngã, đó mới là có lỗi ?
Đáp : Tuy không lìa ấm nói ngã, đó cũng có lỗi. Bởi vì sao ?
Vì ngoại đạo nói ngã là thường, vì đời nay khởi nghiệp, đời sau
chịu quả báo. Nếu nói như vậy 5 ấm phải là thường.
Lại nói là ngã vì ngã là một. Vậy thì 5 ấm tức phải là một ?
Đó là có lỗi.
Lại ngã tức là lỗi. Bởi vì sao ? Vì ngã tâm nên mới có ngã sở.
Bởi có ngã sở nên khởi ra tham giận v.v... tất cả phiền não. Cho
nên biết ngã tâm là nơi sinh phiền não.
Thành Thật Luận Trang 333 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy tuy không lìa ấm nói ngã, vì chấp lấy tướng
ấm nên không tu lý không. Vì không tu lý không nên sinh phiền
não. Từ phiền não sinh nghiệp, từ nghiệp sinh khổ. Như vậy sinh
tử nối nhau luôn không dứt.
Lại người nầy vì chấp ngã nên không thể phân biệt được
tướng thô như thân đầu mắt tay chân, huống chi có thể phân biệt
được các ấm, vì đã thụ ngã làm một, ngã là thường cho nên nếu
không phân biệt được thì làm sao có ngộ nhập lý không ?
Lại nếu chấp ngã thì sợ Nê-hoàn, vì cho ngã là không có.
Như trong kinh nói : Phàm phu nghe đạo lý không vô ngã sinh
khiếp sợ rất lớn, vì ngã là không có nên đều không được gì hết.
Phàm phu mà như vậy thì cho đến tham cầu thân con dã can bị
bệnh hủi, cũng không dùng Nê-hoàn. Nếu được không trí thì
không còn sợ nữa. Như Kinh Ưu-ba-tư-na nói : Người thanh tịnh
trì giới, khéo tu 8 Thánh đạo, đến khi mạng chung tâm vui mừng
như đập vỡ đồ đựng chất độc.
Lại nếu nói có ngã tức sa vào tà kiến. Nếu ngã là thường thì
khổ vui không biến đổi. Nếu không biến đổi thì không tội phúc.
Nếu ngã là vô thường, thì không có đời sau, tự nhiên giải thoát
cũng không tội phúc. Cho nên biết thân kiến là tội nặng.
Lại người thân kiến gọi là rất si. Tất cả phàm phu đều bởi
thân kiến loạn tâm chấp sâu hữu ngã, nên bị qua lại sinh tử. Nếu
thấy vô ngã thì dứt qua lại.
Hỏi : Nếu 5 ấm là vô ngã, Vì sao chúng sinh trong đó sinh
ngã tâm ?
Đáp : Hoặc nghe các danh tướng như người trời trai gái, vì
tưởng phân biệt nên sinh ngã tâm. Và cũng bởi chẳng phải nhân,
tương tự nhân nên sinh ngã tâm. Nghĩa là nếu không có ngã thì ai
chịu khổ vui, cử chỉ ngôn ngữ, khởi nghiệp tội phúc và chịu quả
báo v.v... ư ?
Thành Thật Luận Trang 334 Tuệ Quang Foundation
Lại từ vô thủy sinh tử tụ tập tướng ngã đã lâu thành thói quen
rồi bị nó sai khiến, như tướng cái bình v.v... nên sinh ngã tâm.
Lại trong các thụ ấm sinh ngã tâm, chứ không phải trong
không thụ. Cho nên nói là chỗ sinh ngã tâm, vì trong đó có ngã.
Bởi vì sao ? Vì không phải tất cả chỗ đều sinh được ngã tâm.
Lại vì ngu si nên sinh ngã tâm, giống như người mù nhặt
được gạch đá v.v... sinh tưởng là vàng ngọc.
Lại người nầy chưa được không trí phân biệt, vì si nên thấy
có ngã, như trong ảo hóa, chiêm bao, thành Càn-thát-bà, vòng lửa
quây tròn v.v…thẩy mà sinh tưởng có thật.
Hỏi : Hiện thấy sắc thân tóc lông móng v.v... các phần đều
khác. Làm sao người trí cho đó là ngã ?
Đáp : Có người thấy thần như hạt bắp, hạt cải v.v... trụ ở
trong tâm. Thần Bà-la-môn trắng. Thần Sát-lợi vàng. Thần Tì-xá
đỏ. Thần của Thủ-đà-la đen.
Lại trong sách Vĩ-đà nói : Thuở minh sơ, thần của các Đại
trượng phu sắc như ánh sáng mặt trời. Nếu ai biết thần nầy thì có
thể vượt qua sinh tử, mà không đường nào khác. Tiểu nhân thì
thần nhỏ, đại nhân thì thần lớn, trụ ở trong hang thân.
Lại người ngồi thiền được tướng quang minh, thấy thần ở
trong thân như sợi chỉ trong lòng hạt tịnh châu. Những người như
vậy chấp sắc v.v... làm ngã. Người suy nghĩ nông cạn nói thụ là
ngã, vì trong cây đá v.v... không có thụ, cho nên biết thụ tức là
ngã. Người suy nghĩ bậc trung nói tưởng là ngã, vì khổ vui tuy có
lỗi, nhưng còn có tưởng ngã tâm. Người suy nghĩ kỹ nói hành là
ngã, vì tưởng cái bình v.v... tuy có lỗi, nhưng còn có nghĩ ngã
tâm.
Người suy nghĩ sâu sắc nói thức là ngã, vì cái biết và suy nghĩ
còn thô, suy nghĩ nầy tuy có lỗi, nhưng còn có liễu biệt được ngã
tâm.
Thành Thật Luận Trang 335 Tuệ Quang Foundation
Lại với trong 5 ấm sinh ngã tâm, người nầy không thể phân
biệt được thụ v.v... các ấm. Trong sắc, tâm hòa hợp sinh ngã
tưởng, như trong sắc v.v... 4 pháp tổng hợp sinh tưởng cái bình, vì
sắc v.v... sai biệt nên có 20 phần thấy sắc là ngã. Bởi vì sao ? Vì
sắc là pháp bị ngã rõ biết và là chỗ nưong của thụ v.v.... Các thụ
v.v... nầy buộc ở nơi sắc, cho nên gọi là sắc là ngã.
Có người thấy sắc trụ ở trong thụ v.v..., vì thụ v.v... là pháp
không liễu biệt, cho nên bị sắc nương dựa, như hư không không
liễu biệt nên bị đất v.v... nương dựa. Như vậy 20 phần đều do si
sinh.
Hỏi : Vì sao trong mắt v.v... không nói ngã phần ?
Đáp : Cũng có. Như trong kinh nói : Nếu ai nói mắt là ngã,
thì không đúng. Bởi vì sao ? Vì mắt là sinh diệt mắt là ngã, thì ngã
cũng sinh diệt.
Lại mắt v.v... đều có tướng riêng; nếu nói mắt là ngã, tai
v.v... không phải ngã, thế là không được. Nếu tai v.v... là ngã thì
một người có nhiều ngã. Vì trong sắc v.v... có sai biệt nên có thể
nói sắc là ngã mà không phải thụ v.v....
Hỏi : Nếu nói vô ngã cũng là tà kiến. Việc ấy thế nào ?
Đáp : Có 2 đế lý. Nếu nói đệ nhất nghĩa đế mà có ngã, đó là
thân kiến. Nếu nói thế đế vô ngã, đó là tà kiến. Nếu nói thế đế nên
có ngã, đệ nhất nghĩa đế nên vô ngã, đó là chính kiến.
Lại đệ nhất nghĩa đế nên nói không; thế đế nên nói có, thì
không sa vào kiến trung. Như vậy có, không 2 cách nói đều
thông. Như cọp tha con, nếu ngoạm chặt con bị thương, ngoạm
lỏng con rơi mất. Như vậy nếu nói cả quyết là có ngã, thì sa vào
thân kiến, cả quyết nói không có ngã, thì sa vào tà kiến.
Lại thái quá và bất cập cả 2 đều có lỗi. Nếu cả quyết nói
không có ngã là thái quá. Nếu cả quyết nói có ngã là bất cập. Cho
nên trong kinh nói : Phải bỏ 2 bên. Nếu đệ nhất nghĩa đế nên nói
không, thế đế nên nói có, đó là bỏ 2 bên đi con đường chính giữa.
Thành Thật Luận Trang 336 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật pháp là không thể tranh hơn. Nếu nói đệ nhất nghĩa
đế nên không, thì người trí không hơn; nếu nói thế đế nên có, thì
phàm phu không tranh.
Lại Phật pháp là thanh tịnh trung đạo phi thường phi đoạn.
Đệ nhất nghĩa đế là không, nên phi thường, Thế đế là có nên phi
đoạn.
Hỏi : Nếu pháp đệ nhất nghĩa đế cho nên không, thi lẽ ra phải
là không hẳn, sao lại nói thế đế cho nên có ?
Đáp : Tất cả thế gian có bao nhiêu ngôn thuyết nói nghiệp
và nghiệp báo, hoặc trói buộc hoặc cởi mở v.v... đều do si sinh ra.
Bởi vì sao ? Vì 5 ấm là trống không, như trò huyễn, như ánh lửa
nối nhau sinh. Vì muốn độ người phàm phu, nên mới tùy thuận
nói có, nếu không nói thì phàm phu mê muội hoặc sa vào đoạn
diệt. Nếu không nói các ấm thì không giáo hóa được, vì tội phúc
v.v... các nghiệp hoặc trói hoặc mở, đều không thành lập được.
Nếu phá được những lời si nầy thì tự có thể vào được lý không.
Bấy giờ không còn các tà kiến. Cho nên sau nói đến đệ nhất nghĩa
đế. Như ban đầu dạy quán thân để phá tướng nam nữ, kế đó lấy
tóc lông móng v.v... phân chia thân tướng chỉ có 5 ấm. Sau mới
lấy tướng không để diệt tướng 5 ấm. Diệt tướng 5 ấm gọi là đệ
nhất nghĩa đế.
Lại nếu nói thế đế cho nên có, thì không cần phải nói đệ nhất
nghĩa là không.
Lại trong kinh nói nếu biết các pháp không có tự thể tính, thì
có thể vào lý không, cho nên biết 5 ấm cũng không có.
Lại đệ nhất nghĩa không, trong kinh nói mắt v.v..., bởi đệ
nhất nghĩa đế nên không, thế đế nên có. Trong Kinh Đại Không
nói : Nếu nói đây là già chết, hoặc nói người nầy già chết, hoặc
ngoại đạo nói thân tức là thần, hoặc nói thân khác thần khác. Việc
này nghĩa là một, mà tên gọi khác. Nếu nói thân tức là thần, thân
khác thần khác, là không phải người phạm hạnh. Nếu ngăn người
Thành Thật Luận Trang 337 Tuệ Quang Foundation
nầy già chết tức nói vô ngã. Nếu ngăn đây là già chết tức phá lão
tử, cho đến vô minh. Cho nên biết trong đệ nhất nghĩa không có
lão tử v.v.... Nói sinh làm duyên cho lão tử, đều vì thế đế mà nói,
đó là trung đạo.
Lại trong Kinh La-đà nói : Phật bảo La-đà rằng : Sắc tán hoại
phá vỡ khiến diệt không còn hiện, cho đến thức cũng như vậy.
Như vách đá v.v..., vì không thật nên có thể phá hủy khiến không
còn hiện. Các ấm không hiện cũng vì đệ nhất nghĩa nên không có.
Tùy các ấm tướng tồn tại thì ngã tâm rốt ráo không đoạn, vì nhân
duyên không diệt. Như cây tuy đã bị đốn chặt, đốt cháy, cho đến
thành tro than, nhưng cái tưởng về cây hãy còn theo ám ảnh. Nếu
tro than nầy bị gió thổi, nước trôi, cái tưởng về cây mới diệt. Như
vậy, nếu phá vỡ tán hoại, diệt tướng 5 ấm, bấy giờ mới gọi là đầy
đủ tướng không.
Lại trong kinh nói : La-đà ông phá vỡ tán hoại, chia tách
chúng sinh, khiến không hiện tại. Đó là trong kinh nầy nói 5 ấm
vô thường, là chúng sinh không. Trong kinh trước nói 5 ấm tán
diệt, đó là pháp không.
Thành Thật Luận Trang 338 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 131 : Kiến chấp một bên
Nếu các pháp hoặc đoạn hoặc thường, gọi là biên kiến, nghĩa
là chấp thiên lệch một bên. Có luận sư nói : Nếu ai nói ngã hoặc
đoạn hoặc thường, gọi là biên kiến chứ không phải tất cả pháp.
Bởi vì sao ? Vì hiện thấy các vật bên ngoài có đoạn diệt. Nên
trong kinh nói : Thấy có, là thường, thấy không, là đoạn.
Lại thân tức là thần gọi là đoạn kiến, thân khác thần khác gọi
là thường kiến.
Lại sau khi chết rồi không làm gọi là đoạn kiến, chết rồi lại
làm gọi là thường kiến, chết rồi cũng làm cũng không làm, trong
đó chỗ có tác giả gọi là thường, chỗ không có tác giả gọi là đoạn,
chẳng phải làm chẳng phải không làm cũng như vậy.
Hỏi : Điều thứ tư nầy không nên gọi là kiến chấp ?
Đáp : Vì người nầy trong thế đế cũng không có người không
có pháp nên gọi là kiến chấp. Thường, vô thường, hữu biên, vô
biên, 4 câu cũng như vậy.
Lại trong kinh nói : Sáu xúc nhập diệt hết, mà còn có cái
khác tức là thường, không còn cái khác tức là đoạn.
Lại nếu chấp ngã trước làm, sau sẽ làm nữa gọi là thường
kiến. Chấp ngã trước không làm, sau cũng không làm, gọi là đoạn
kiến.
Lại Kinh Tà Kiến nói : Thân người có bảy phần là đất, nước,
lửa, gió, khổ, vui, và thọ mạng. Nếu khi thân chết, 4 đại quy về
gốc, căn quy về hư không.
Lại nói : Lấy dao búa giết chúng sinh chứa thịt thành đống,
không tội sát sinh, đó gọi là đoạn kiến. Và Kinh Phạm Võng nói
đó là tướng đoạn kiến. Nếu nói có người là tác giả đời sau, tức
người ấy là thụ giả, gọi là thường kiến.
Hỏi : Đoạn kiến và thường kiến sinh như thế nào ?
Đáp : Tùy theo bởi nhân duyên nào đó mà nói chết rồi trở lại
làm nhân duyên đó nữa, nên sinh bên thường kiến. Tùy bởi nhân
Thành Thật Luận Trang 339 Tuệ Quang Foundation
duyên nào đó mà nói chết rồi không làm nhân duyên ấy nữa, nên
sinh đoạn diệt kiến.
Hỏi : Làm sao dứt được kiến chấp nầy ?
Đáp : Chính nhờ tu tập không quán thì không có ngã kiến. Vì
không ngã kiến nên không có chấp 2 bên. Như trong Kinh Diệmma-
già nói : Nếu mỗi mỗi ấm không phải là người, thì hòa hợp lại
cũng không phải người, mà lìa ấm ra cũng không phải người.
Hiện tại như vậy không thể được, làm sao nói A-la-hán chết rồi
không làm ? Cho nên biết người là không thể được. Vì người
không thể được nên ngã kiến và đoạn thường kiến cũng không.
Lại thấy các pháp do từ nhiều duyên sinh, thì không chấp 2
bên.
Lại như nói thấy thế gian có tụ tập, thì dứt chấp không, thấy
thế gian diệt, thì dứt chấp có.
Lại vì thực hành trung đạo, nên diệt cả 2 bên. Bởi vì sao ? Vì
thấy các pháp liên tục sinh thì dứt đoạn kiến, thấy niệm niệm diệt
thì dứt thường kiến.
Lại nói 5 ấm, không phải ngay ấm đó là người, cũng không
phải lìa ấm là người. Cho nên biết không phải thường không phải
đoạn. Vì có thể được thân khác nên không được nói là một. Vì
đều là chúng sinh nên không được nói là khác.
Lại 5 ấm nối nhau mới có chúng sinh chết sống. Trong đó
không được nói ngay ở đó, vì nối nhau luôn đổi khác. Cũng không
được nói khác, vì trong nối nhau kia có thể nói là một.
Lại từ ấm nầy đến ấm kia khác nhau, nên không được nói
thường; do sức nhân duyên nối nhau sinh nên không được nói
đoạn.
Phẩm 132 : Tà kiến
Nếu thật có pháp mà sinh tâm cho là không, đó là tà kiến.
Như nói không có Tứ đế, Tam Bảo v.v.... Trong kinh nói : Tà kiến
Thành Thật Luận Trang 340 Tuệ Quang Foundation
là : không bố thí, không thờ kính, không thiêu đốt, không thiện,
không ác, không có nghiệp báo thiện ác, không đời nay, không
đời sau, không cha mẹ, không chúng sinh thụ sinh thế gian,
không A-la-hán chính hành chính chí, và tự cho rằng mình rõ thấu
chứng đời nầy đời sau, biết ta sinh tử đã hết, phạm hạnh đã thành,
chỗ làm đã xong. Từ thân nầy trở đi không còn thân khác.
Bố thí là vì lợi tha nên thí cho. Thờ kính là những lời lẽ trong
sách Vĩ-đà do trời mà có nên phải thờ kính. Thiêu đốt là ở trong
miếu thờ trời đốt các hương tô hợp v.v... Thiện là có thể được 3
thứ quả được ưa thích của nghiệp thiện. Ác là bị 3 thứ quả không
được ưa thích của nghiệp ác. Nghiệp báo thiện ác là tên thiện ác
đời nay, quả báo thân trời đời sau v.v.... Đời nay là hiện tại. Đời
sau là vị lai. Cha mẹ là người sinh ra. Chúng sinh thụ sinh là từ
đời nay đến đời sau. A-la-hán là người hết phiền não. Nghĩa là
không có những việc trên gọi là tà kiến.
Lại chúng sinh bẩn sạch, có thấy biết, không thấy biết đều
không nhân duyên. Lại không sức, không mạnh và quả báo nầy
v.v..., gọi là tà kiến.
Nói tóm lại có tâm điên đảo đều là tà kiến. Như vô thường
tưởng thường; khổ tưởng vui, bất tịnh tưởng tịnh, vô ngã tưởng
ngã, không hơn tưởng hơn, đạo thanh tịnh tưởng chẳng phải đạo
thanh tịnh, đạo chẳng phải thanh tịnh tưởng đạo thanh tịnh, trong
không tưởng có, trong có tưởng không. Những tâm điên đảo như
vậy v.v..., như 5 kiến chấp trong Luận A-tì-đàm, 62 kiến chấp
trong Kinh Phạm Võng đều gọi tà kiến.
Hỏi : Tà kiến nầy sinh như thế nào ?
Đáp : Bởi si nên sinh. Nhiễm đắm cái chẳng phải nhân và cái
tương tự nhân, nên sinh tà kiến.
Lại vì nhiễm đắm nhân vui nên nói không Khổ.
Lại mất đạo lý không, nên nói không khổ, vì cho rằng không
có người chịu khổ.
Thành Thật Luận Trang 341 Tuệ Quang Foundation
Như nói muôn vật trong thế gian không nhân không duyên.
Hoặc nói nhân nơi trời Tự Tại v.v... chứ không phải nhân nơi ái.
Đó gọi là không Tập.
Tùy theo nhân duyên nào đó nói không có Nê-hoàn; hoặc nói
Nê-hoàn bằng một cách khác. Đó gọi là không Diệt.
Nếu không đạo Nê-hoàn thì đến chỗ nào ? Hoặc nói lại có
đạo giải thoát khác là nhịn ăn v.v.... Đó gọi là không Đạo.
Không Phật, là người nầy nói : Các pháp nhiều vô lượng làm
sao một người có thể biết hết được ? Hoặc sinh ý nghĩ như vầy :
Phật là bậc cao quý trong loài người, vì không người nào bằng,
nên biết không có Phật.
Không có phiền não hết, nên gọi là không có Pháp.
Không có người chính hành được Pháp nầy, nên gọi không
có Tăng.
Bởi bố thí không được hiện quả nên gọi không bố thí.
Lại có kinh sách nói không bố thí. So sánh mà biết cũng
không nhất định. Như thế gian có người ưa bố thí mà lại nghèo
cùng; người tham lam lại được giàu sang. Do các nguyên nhân
nầy nên nói không bố thí.
Không thờ cúng, không đốt hương cũng như vậy.
Nếu lửa đốt vật thành tro, thì trong đó có quả gì ?
Không có thiện ác, không có nghiệp báo thiện ác, là nếu
thần là thường thì không thiện ác, nếu thần vô thường thì không
có đời sau. Vì không đời sau nên không thiện ác, không nghiệp
báo thiện ác.
Không đời nay là phân tích các pháp, chung qui đều không
có gì cả.
Không đời sau là bởi sau khi chết rồi không làm nhân duyên
nên nói là không có đời sau.
Không cha mẹ nghĩa là cũng đem từng phần phân tích cho
đến hết.
Thành Thật Luận Trang 342 Tuệ Quang Foundation
Lại nói như do phân sinh trùng, phân không phải cha mẹ của
trùng.
Lại thân phần đầu v.v..., không phải tức thân phần của cha
mẹ.
Lại các pháp diệt trong tích tắc, thì lấy gì làm cha mẹ ?
Không chúng sinh thụ sinh là vì pháp chúng sinh không có,
nên đời nay còn không, huống là có thể thụ thân đời sau.
Lại suy nghĩ mà nói thì chúng sinh này là thân này hay
lkhông phải thân này ? Nếu là thân nầy, thì mắt thấy thân nầy
chôn thì thành đất; đốt thành tro; trùng ăn thành phân nên không
thụ sinh. Nếu là không phải thân nầy thì có 2 thứ : hoặc tâm, hoặc
lìa tâm. Nếu là tâm, thì tâm pháp sinh diệt trong tích tắc không
dừng trụ, huống chi đến thân đời sau. Nếu lìa tâm, thì không chấp
ngã. Với tâm người khác còn không chấp ngã, huống là chỗ vô
tâm. Cho nên không có người thụ sinh.
Không A-la-hán nghĩa là người nầy thấy mọi người đói cầu
ăn, lạnh cầu ấm, nóng cầu mát, phá hại thì giận, cung kính nuôi
dưỡng thì mừng, cho nên không ai hết phiền não được.
Lại kinh sách hoặc nói không A-la-hán, do đó vin lấy kinh
nầy nên sinh tà kiến.
Bẩn sạch v.v... không nhân duyên là người nầy thấy pháp
bẩn tự nhiên mà sinh. Và có thứ bẩn tự thể nó bẩn, nên mới nói
không có nhân. Thấy biết, không thấy biết cũng như vậy.
Không sức không mạnh là thấy tất cả chúng sinh đều nhờ
nhân duyên hoặc có người nói do trời Tự Tại tạo ra mới có.
Lại thấy chúng sinh thuộc nghiệp nhân duyên không phải do
trời Tự Tại, nên nói không sức mạnh và quả báo này.
Vô thường tưởng thường, là tùy đem nhân duyên nào đó để
phá niệm niệm diệt, nhờ nhân duyên đó nên sinh thường kiến.
Lại nói các pháp khi diệt lại thành vi trần, hoặc nói trở về
bản tính.
Thành Thật Luận Trang 343 Tuệ Quang Foundation
Lại các pháp tuy diệt, vì nhớ tưởng, nên có thể chịu khổ vui,
rồi sinh tưởng là thường.
Lại nói thần là thường, âm thanh cũng thường. Vì các duyên
cớ này nên sinh tưởng thường.
Khổ nghĩa là người ưa vui tùy đem nhân duyên nào đó, bảo
là có vui như trong Phẩm Ba thụ ở trước đã nói. Do nhân duyên
nầy, nên sinh tưởng vui.
Bất tịnh tưởng tịnh, là vì nhiễm đắm thân, nên mắt thấy bất
tịnh mà sinh tưởng tịnh. Hoặc nghĩ như vầy : Ta được tướng
người, thấy thân người này bất tịnh, mà có chúng sinh cho đó là
tịnh. Do các nhân duyên như vậy nên sinh tưởng tịnh.
Vô ngã tưởng ngã, là thấy ấm nối nhau sinh, mà nhận lấy
một tướng cho đó là ngã.
Lại như trước đã nói nhân duyên sinh thân kiến. Vì những
nhân duyên nầy, nên sinh tưởng ngã.
Không hơn tưởng hơn, là người nầy đối với các sư ngoại
đạo Phú-lan-na v.v... sinh tưởng thắng hơn.
Lại Phạm Vương tự nói : Ta là Đại Phạm Thiên Vương
người tạo ra muôn vật. Như vậy v.v....
Có người nói : Nếu người hưởng vui 5 thứ dục đầy đủ, đó là
pháp hơn hết.
Lại nói, nếu người lìa dục vào Sơ thiền cho đến Tứ thiền, đó
là pháp vượt trội hơn hết.
Lại nói hiện thấy chúng sinh trong thế gian Bà-la-môn là cao
cả, chứ không phải hiện thấy trời trong chúng sinh là cao tột. Đó
là không hơn tưởng hơn.
Hơn tưởng không hơn, là trong tất cả chúng sinh Phật là vượt
trội hơn cả, mà có người đối với Phật không sinh tưởng hơn lại
nói như vầy : Phật là dòng Sát-đế-lợi, lại mới học đạo không mấy
ngày. Lại còn bảo những lời trong Phật pháp không xảo diệu, văn
từ phiền phức trùng điệp không bằng sách Vi-đà, đó không gọi là
Thành Thật Luận Trang 344 Tuệ Quang Foundation
hơn. Trong chúng Tăng có 4 hạng người, cho nên không hơn. Như
vậy v.v... là trong hơn sinh tưởng không hơn.
Trong chẳng phải đạo thanh tịnh tưởng là đạo thanh tịnh,
nghĩa là như người nói lấy nước tro v.v... rửa người làm cho
thanhtịnh.
Lại nói xong hết sinh tử gọi là đạo thanh tịnh.
Lại chỉ tham đắm trì giỡi, phạm hạnh, cúng dường trời v.v....
Cũng nói do trời Tự Tại nên được thanh tịnh.
Hoặc nói tiêu hết bản nghiệp khổ hạnh, gọi là đạo thanh tịnh.
Lại nói dứt bỏ không dùng các thứ vị tân cay nồng và bơ sữa
v.v… nên được thanh tịnh.
Lại mỗi khi tắm rửa sạch sẽ phải đọc câu chú trong sách Viđà,
rồi sau mới ăn uống, gọi là đạo thanh tịnh.
Dùng các thứ tà đạo như vậy v.v... mà được giải thoát, chứ
không dùng 8 chính đạo cho là đạo thanh tịnh.
Trong có sinh tưởng không, là như trong pháp thế đế có mà
nói là không.
Trong không sinh tưởng có, là như nói có Đà-la-phiêu, có
hữu phần, cũng nói có Cầu-na, số lượng v.v... cũng nói tướng
chung, tướng riêng và tập hợp, cũng nói thế tính v.v... không vật
là có. Những nhân duyên như vậy v.v... sinh tâm điên đảo, đều gọi
là tà kiến.
Trong tà kiến nầy đặc biệt có 4 thứ kiến, còn bao nhiêu các
thứ nặng đều gọi tà kiến.
Hỏi : Làm sao dứt tà kiến nầy ?
Đáp : Trong kinh Phật nói chính kiến có thể làm tiêu tà kiến.
Hỏi : Làm sao sinh chính kiến ?
Đáp :Nếu thấy, nghe, so sánh biết, quyết định đúng đắn là
sinh chính kiến.
Lại khéo tu chính định, thì sinh chính kiến. Như kinh nói
nhiếp tâm có thể biết như thật, chứ không phải tán tâm.
Thành Thật Luận Trang 345 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Tà kiến như vậy có những lỗi gì ?
Đáp : Tất cả tội lỗi và các tổn não đều bởi tà kiến. Vì người
tà kiến bảo không tội phúc và nghiệp báo thiện ác. Cho nên hiện
tại họ không có các việc tốt huống chi là đời vị lai. Người phá
thiện ác như vậy gọi là đoạn thiện căn, chắc chắn sẽ đọa địa ngục
A-tì, như trong Luận A-tì-đàm, Lục Túc nói giết người nầy tội
nhẹ hơn giết loại trùng kiến.
Lại người tà kiến nầy làm ô nhiễm thé gian, vì làm nhiều
điều tổn giảm chúng sinh, cho nên họ sống như một loài cây có
độc vì có hại.
Lại người này khởi ra nghiệp thân khẩu ý đều là ác báo. Như
trong kinh nói : Người tà kiến khởi ra nghiệp thân khẩu ý, muốn
nghĩ nhớ dục, sân đều là ác báo, như trồng giống bầu đắng, giống
Câu-xa độc, ắt hại giống cây Mạn-đà. Trong ấy có bao nhiêu địa
chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng đều có vị đắng, là vì
trồng giống đắng. Như vậy người tà kiến các tâm, tâm số pháp, vì
tà kiến nên đều bị ác báo. Cho nên người nầy dù có làm bố thí
v.v... quyết không có quả báo tốt, vì trước đã bị tâm tà kiến làm
hủy hoại. Những bất thiện người này tạo ra đều tăng thượng, vì từ
lâu chứa nhóm ác tâm.
Lại nhờ giới pháp nên có thể ngăn phi pháp, mà người nầy
không có thiện ác nên không thể cấm kỵ họ được, do đó rất phóng
tùng làm những điều bất thiện, chắc chắn phá hủy 2 pháp trong
trắng là hỗ với thẹn, nên chẳng khác loài súc sinh.
Lại nếu ai nói không thiện ác, tức trong tâm người ấy thường
ôm điều bất thiện.
Lại người nầy không có nhân duyên có thể thụ thiện pháp.
Bởi vì sao ? Vì người ấy không hay gần gũi người thiện, không
nghe thiện pháp, ác tâm dễ khởi, thiện tâm khó sinh. Vì dễ khởi ác
nên không có nhân duyên thiện. Như vậy dồn chứa thì dứt mất
thiện căn.
Thành Thật Luận Trang 346 Tuệ Quang Foundation
Lại người tà kiến nầy gọi là ở chỗ bị nạn, như chúng sinh
trong địa ngục không thể đắc đạo. Nếu người nầy, dù sinh ở trung
tâm trong nước, đầy đủ sáu căn, có thể phân biệt tốt xấu, nhưng
cũng không thể đắc đạo.
Lại người tà kiến nầy không ác nào không tạo, không kể nhẹ
nặng.
Lại họ gây chút bất thiện cũng đọa địa ngục, vì tâm nặng tội
mà khởi nghiệp nầy. Như trong Phẩm Nghiệp giải thích về nghiệp
địa ngục. Vì những nhân duyên này mà người ấy gây ra nghiệp gì
đều là địa ngục.
Lại người này không thể hết nghiệp tội ác, vì pháp bất thiện
thường ở trong tâm.
Lại người nầy xoay vần trong địa ngục khó được giải thoát.
Bởi vì sao ? Vì người đoạn thiện căn, trong khi thiện căn chưa nối
nhau quyết không ra khỏi địa ngục.
Lại vì người nầy tà kiến ở luôn trong tâm, thì thiện căn làm
sao tương tục lại được ?
Lại người tà kiến gọi là không thể chữa được, giống như
người bệnh nhân đã hiện tướng chết thì dù lương y cũng không
chữa được. Người nầy cũng vậy, vì không còn một chút thiện.
Cho đến chư Phật cũng không cứu được. Cho nên quyết phải đọa
địa ngục A-tì.
Phẩm 133 : Hai thủ
Đối với không phải thật sự, sinh tâm quyết định chỉ là sự
thật, ngoài ra đều là vọng ngữ. Đó gọi là kiến thủ. Và như trước
đã nói trong pháp không hơn, mà quyết định sinh tưởng cho là
hơn, cũng gọi kiến thủ.
Hỏi : Kiến thủ có những lỗi gì ?
Đáp : Người nầy được ít công đức , tự cho là đủ.
Thành Thật Luận Trang 347 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy uổng nhọc công lao. Bởi vì sao ? Vì người ấy
với việc chẳng phải thiện mà sinh tưởng là diệu thiện, rồi siêng
năng tinh tiến, do nhân duyên này về sau tâm sinh ăn năn.
Lại người nầy bị người trí chê cười, vì với không hơn mà
sinh tưởng là hơn.
Lại nếu người không hơn mà cho là hơn, là tướng ngu si,
giống như người mù đối với gạch ngói mà sinh tưởng là vàng bạc,
bị người sáng mắt cười cho xấu hổ. Kiến thủ có những lỗi như
vậy.
Nếu ai bỏ trí tuệ mà dùng giới v.v… tắm rửa mong được
thanh tịnh, gọi là giới thủ.
Hỏi : Vậy không cần giới mà được thanh tịnh sao ?
Đáp : Nhờ trí tuệ giới mới thanh tịnh vì trí tuệ là căn bản.
Hỏi : Giới thủ có những lỗi gì ?
Đáp : Nói lỗi kiến thủ, là lấy việc thấp kém cho là đầy đủ
v.v..., đều là lỗi này.
Lại nhân duyên giới thủ uổng chịu các khổ, nghĩa là như chịu
lạnh chịu nóng, nằm trên tro đất, nằm trên chông gai, gieo mình
xuống vực thẳm, nhảy vào lửa, gieo mình từ trên cao v.v..., thì đời
sau cũng chịu quả báo khổ kịch liệt, như trong kinh nói : Trì giới
trâu bò, nếu thành tựu thì lại làm trâu bò, mà nếu không thành thì
đọa địa ngục.
Lại người nầy là hạng người từ tối vào trong tối, vì thụ pháp
nầy hiện đời bị khổ, đời sau cũng khổ.
Lại người nầy bị tội rất nặng. Bởi vì sao ? Vì lấy phi pháp
cho là pháp, rồi hủy hoại chân pháp, và cũng bài báng những
người tu chính pháp, khiến nhiều chúng sinh phản lại chân tịnh
pháp, mà sa vào vòng tội lỗi. Vì chất chứa nhiều đại tội, nên bị
quả báo địa ngục A-tì. Thà chấm dứt còn hơn, chứ không nên tu
hành tà đạo. Bởi vì sao ? Vì nếu từ trước chưa tu dễ khiến tu đạo,
chứ tu tà hư tâm, nên khó vào chính đạo.
Thành Thật Luận Trang 348 Tuệ Quang Foundation
Lại tuy là oán tặc không thể khiến người suy não như sinh tà
kiến. Bởi vì sao ? Vì oán tặc không thể làm ô uế người, như chạy
theo tà kiến, chịu tu các tà giới ngoại đạo như lõa hình không xấu
hổ, bôi tro đất lên người, nhổ tóc v.v... Lại người tà kiến đều mất
tất cả lợi lạc thế gian. Hiện tại mất vui ngũ dục, vị lai mất vui sinh
về cõi thiện và vui Nê-hoàn. Nếu ai cầu vui mà bị khổ, cầu giải
thoát mà bị trói buộc, thì không gọi là cuồng ư ! Bởi vì sao ? Vì
nhân duyên thí một bữa ăn còn có thể được sinh lên trời. Mà
người nầy tu tà hạnh dù cho thí cả thân mạng cũng không lợi ích
gì !
Phẩm 134 : Tùy phiền não
Tâm nặng nề muốn nhắm mắt gọi là buồn ngủ. Tâm không
còn thức tỉnh gọi là ngủ. Tâm tản động duyên các trần gọi là trạo
động. Tâm ôm buồn lo gọi là ăn năn. Như điều không nên làm mà
làm, nên làm mà không làm. Tâm uốn khúc giả thiện gọi là siểm.
Tâm siểm được thành sự gọi là lừa gạt. Tự tác ác không biết xấu
gọi là không thẹn. Làm bậy giữa công chúng không biết ngượng
ngại gọi là không xấu hổ. Tâm chạy theo bất thiện gọi là phóng
dật. Thật không công đức mà hiện tướng khiến người ta cho là có,
gọi là dối trá. Hiện tướng kỳ lạ vì cầu lợi dưỡng, dùng lợi khẩu
làm cho đẹp lòng người gọi là La-ba-na. Vì muốn được vật của
người, nên biểu lộ muốn được, như nói vật này tốt v.v..., gọi là
hiện tướng. Nếu vì muốn chê bai người nầy, nên ngợi khen người
kia, như nói : Thân phụ của ông tịnh tiến, ông không bằng , gọi là
nói cạnh khóe. Nếu đem của thí đã được đề cầu của thí nữa, như
nói đây là vật thí do người nào đó mới cúng những lối như vậy
gọi là dùng lợi để cầu lợi. Nếu người có bệnh ưa ngủ, gọi bệnh
Đơn-trí-lợi. Nếu được chỗ tốt đầy đủ nhân duyên hành đạo, mà
thường buồn rầu, gọi là bất hỷ. Nếu người hay uốn mình, thân
không điều thích, vì nhân duyên ngủ nghỉ, gọi là uể oải. Nều
Thành Thật Luận Trang 349 Tuệ Quang Foundation
người không biết ít nhiều điều hòa sự ăn uống , gọi là ăn không
điều độ. Nếu không tinh tiến nổi, gọi là thoái tâm. Nếu các tôn
trưởng có lời dạy bảo, mà không kính sợ, gọi là không tôn kính.
Ưa thích người ác, gọi là ưa bạn ác. Những điều như vậy gọi là
tùy phiền não. Vì theo phiền não phát sinh.
Phẩm 135 : Bất thiện căn
Ba bất thiện căn là tham, sân và si.
Hỏi : Những kiêu mạn v.v... lẽ cũng là bất thiện căn, Vì sao
chỉ nói 3 thứ ấy ư ?
Đáp : Tất cả phiền não đều do 3 phiền não nầy, còn mạn
v.v... cũng là si phần nên không nói rộng.
Lại 3 thứ phiền não nầy phần nhiều ở trong tâm chúng sinh,
mạn v.v... không phải vậy.
Lại tất cả những ai chưa lìa dục, cho đến con trùng con kiến,
3 phiền não này đều có ở tại tâm, kiêu mạn v.v… không như vậy.
Lại tham là bất thiện căn của sân, vì trái hoặc mất cái mình
tham thì liền sinh sân. Còn si làm gốc cho cả 2. Bởi vì sao ? Vì
nếu ai không si thì không tham sân.
Lại trong kinh nói 10 nghiệp bất thiện có 3 thứ do tham sân
si sinh chứ không nói do mạn v.v... sinh.
Lại chỉ có 3 thứ thụ, chứ không có thụ thứ tư. Trong 3 thụ
nầy bị 3 phần phiền não kia sai khiến; nếu riêng có mạn v.v... thì
sai khiến ở trong thụ nào ? Điều này thật không nói được. Phải
biết 3 thứ nầy là gốc của các phiền não.
Hỏi : Vì sao trong lạc thụ do tham sai khiến ?
Đáp : Vì hiện thấy sinh ở trong đó. Như trong kinh nói :
Người được lạc xúc sinh mừng, bị khổ xúc không mừng. Người
nầy đối với các thụ như tập, diệt, vị, quá và xuất, vì không biết
như thật nên trong thụ không khổ không vui, bị vô minh sử sai
khiến. Bởi vì sao ? Vì người nầy bị buộc trong cõi Vô sắc, các ấm
Thành Thật Luận Trang 350 Tuệ Quang Foundation
nối nhau, không biết như thật nên trong đó sinh tưởng tịch diệt,
hoặc tưởng giải thoát, hoặc tưởng không khổ không vui, hoặc
tưởng ngã. Cho nên nói si sinh trong thụ không khổ không vui.
Hỏi : Các thứ sử nầy là ở trong pháp mà sai khiến, hay là ở
trong chúng sinh mà sai khiến ?
Đáp : Do pháp mà sinh tâm chúng sinh; tùy tâm chúng sinh
mà nhận các thứ thụ, tùy các thứ thụ tham v.v... các phiền não sai
khiến. Cho nên biết do pháp sinh sử rồi sai khiến chúng sinh. Làm
sao biết được ? Nếu chúng sinh chưa dứt sử nầy thì bị nó sai
khiến, trái lại là không còn khiến nữa. Nếu như trong pháp mà sai
khiến, thì pháp là thường có, lẽ ra phải thường sai khiến, vì
thường không nên dứt.
Lại phi chúng sinh số lẽ ra cũng có sai khiến. Nếu như vậy
thì như vì người sai khiến thì cái vách tường v.v... cũng có sai
khiến; vì người biết nên cái vách tường v.v... lẽ ra cũng có biết.
Điều này thật không có. Như vậy thì không có A-la-hán, vì người
khác có sử, nên mình cũng có sử.
Hỏi : Sử nầy chưa dứt thì sai khiến, mà dứt rồi không sai
khiến ?
Đáp : Có 2 thứ sử sai khiến là duyên sử, và tương ưng sử. Sử
nầy hoặc dứt, hoặc không dứt, tức là duyên và tương ưng. Vì sao
nói dứt thì không sai khiến ? Nếu như vậy, phải nói tướng sử thứ
3 ? Vì không thể nói được, nên phải biết là không có.
Lại sử có thể duyên cõi khác mà không sai khiến, cho nên
biết chỉ sai khiến trong chúng sinh, chứ không phải trong pháp.
Hỏi : Hai thứ sử 1 duyên 2 tương ưng là các sử của chúng
sinh, không phải duyên, không phải tương ưng, làm sao sai khiến
?
Đáp : Điều này trước đã đáp: Các sử do pháp sinh mà sai
khiến chúng sinh. Như trong A-tì-đàm thân trung nói : Chúng sinh
Thành Thật Luận Trang 351 Tuệ Quang Foundation
cõi Dục có bao nhiêu thứ sử sai khiến v.v...?. Nếu không sai khiến
chúng sinh làm sao có những câu hỏi như vậy ?
Hỏi : Nếu sử sai khiến chúng sinh, mà trong kinh lại nói
tham sử trong lạc thụ, thì mâu thuẫn nhau sao ?
Đáp : Đó là lời nói chưa hết. Nên phải nói là trong lạc thụ
sinh tham rồi sai khiến chúng sinh.
Hỏi : Tham nầy cũng do sắc v.v... sinh ra, vì sao trong đó chỉ
nói do lạc thụ sinh ?
Đáp : Bởi nghĩ nhớ phân biệt vui mừng v.v..., nên tham mới
sinh, chứ không phải chỉ do sắc v.v... sinh.
Hỏi : Do khổ thụ cũng sinh tham, như nói người vui không
cầu, người khổ cầu nhiều. Vì sao chỉ nói do lạc thụ sinh ?
Đáp : Là không sinh tham khổ thụ. Người này bị khổ làm
bức bách ngặt nghèo, nên sinh tham lạc thụ.
Hỏi : Trong bất khổ bất lạc thụ, cũng bị tham sử sai khiến, vì
sao chỉ nói trong lạc thụ ?
Đáp : Người nầy cho bất khổ bất lạc thụ là vui nên sinh
tham, cho nên nói trong lạc thụ tham sai khiến. Vì trong 3 thứ thụ
nầy, 3 phiền não sai khiến, nên chỉ nói ba.
Phẩm 136 : Tạp phiền não
Hỏi : Trong kinh nói 3 lậu : dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.
Thế là thế nào ?
Đáp : Trong cõi Dục, trừ vô minh, còn tất cả phiền não là
dục lậu. Hữu lậu trong cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Vô minh
trong 3 cõi gọi là vô minh lậu.
Hỏi : Các lậu tăng trưởng như thế nào ?
Đáp : Vì pháp từ hạ, trung, thượng lần lượt tăng trưởng. Lại
được sắc v.v... các thắng duyên, nên các lậu tăng trưởng.
Hỏi : Ba lậu nầy vì sao nói 7 lậu ?
Thành Thật Luận Trang 352 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Thật lậu có 2 thứ : Thấy đạo lý dứt được là các lậu căn
bản. Suy nghĩ mà dứt được là quả của các lậu. Năm nhân duyên
giúp cho lậu họp lại thành bảy, tức là phiền não này. Phật tùy theo
nghĩa nên nói 3 lậu, 4 lưu, 4 phược, 4 thủ, 4 kết v.v....
Hỏi : Bốn lưu là dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu.
Thứ nào ra làm sao ?
Đáp : Trừ kiến và vô minh, còn tất cả phiền não cõi Dục, gọi
là dục lưu. Hữu lưu cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy. Các thứ kiến
gọi là kiến lưu, vô minh gọi là vô minh lưu.
Hỏi : Trong lưu, vì sao riêng nói kiến lưu, mà trong lậu
không nói ?
Đáp : Ngoại đạo phần nhiều bị kiến chấp làm trôi nổi, cho
nên riêng nói trong lưu. Vì hay nổi chìm nên gọi là lưu, vì hay trói
buộc 3 cõi nên gọi là phược.
Hỏi : Bốn thủ gồm dục thủ, kiến thủ, giới thủ, và ngã ngữ
thủ. Thứ nào ra làm sao ?
Đáp : Vì vô ngã nên chỉ lấy lời nói gọi là ngã ngữ thủ. Nếu
người có ngã kiến, tức sinh chấp 2 bên, là ngã hoặc thường hoặc
vô thường. Nếu quyết định nói vô thường thì thủ lấy ngũ dục, vì
cho rằng không có đời sau nên đắm nhiễm vui hiện tại. Nếu quyết
định nói thường, nếu người độn căn thì lấy trì giới mong được vui
đời sau, người có chút lợi căn thì nghĩ như vầy : Nếu thần là
thường thì khổ vui không biến đổi, tức không tội phúc nên khởi tà
kiến. Như vậy chỉ do ngã ngữ mà sinh 4 thứ thủ.
Hỏi : Bốn kết là thân kết tham lam ganh ghét, thân kết giận
dữ, thân kết giới thủ, và thân kết tham trước thật thủ. Thứ nào là
thế nào ?
Đáp : Tham lam vật của người khác mà người không cho thì
sinh tâm giận dữ, dùng đến roi gậy v.v... mà lấy, đó là cội rễ đấu
tranh của người tại gia, cũng gọi là theo bên vui. Nếu người trì
giới muốn nhờ giới nầy mà được thanh tịnh, liền bảo đây là thật,
Thành Thật Luận Trang 353 Tuệ Quang Foundation
ngoài ra là vọng ngữ, kiến chấp nầy liền theo. Đó là cội rễ tranh
cãi của người xuất gia, cũng gọi là theo bên khổ. Năm ấm gọi là
thân, là 4 thứ kết nầy cần phải có thân khẩu mới thành, nên gọi là
thân kết.
Lại có người nói 4 pháp nầy có thể trói buộc sinh tử nên gọi
là kết.
Hỏi : Năm thứ che là tham dục, giận dữ, ngủ nghỉ, trạo hối
và nghi, việc ấy thế nào ?
Đáp : Người tham đắm các thứ dục, nên giận dữ bám theo.
Như trong kinh nói : Do ái sinh giận dữ và ganh ghét v.v... các
phiền não; roi gậy v.v... các nghiệp ác đều bởi tham dục sinh.
Người nầy thân và tâm bị sự tham giận làm hư hoại. Nhiều việc
mệt nhọc thì muốn ngủ nghỉ. Người nầy mới ngủ nghỉ một chút
thì tham giận lại đến nữa làm tâm tán loạn. Tâm không được thiền
định, nên chạy rông theo cảnh ngoài, nên mới sinh trạo hí. Người
có nghiệp bất tịnh thì tâm thường lo lắng ăn năn. Vì tán tâm và
hối tâm nên tâm thường sinh nghi ngờ có giải thoát hay chăng ?
Như Vương Tử bảo A-di-la là Sa-di.
Hỏi : Sao gọi là che?
Đáp : Tham dục, giận dữ có thể che khuất giới phẩm. Trạo
hối có thể che định phẩm. Ngủ nghỉ có thể che tuệ phẩm. Có
người vì muốn trừ cái che nầy nên nói đây là thiện, đây là bất
thiện. Người đó trong đó sinh nghi là có hay là không ? Nghi nầy
thành, có thể che 3 phẩm trên. Vì sức của 5 thứ che, 3 pháp nầy
mạnh, nên được gọi độc nhất là che. Sức của 2 thứ che yếu, nên
phải hợp 2 pháp mới thành. Lại 2 thứ che nầy nhân duyên cùng
sinh, cho nên hợp lại mà nói.
Năm pháp nhân duyên của ngủ nghỉ là Đơn-trí-lợi, không
vui, uể oải, ăn không điều độ, tâm lui chìm.
Bốn pháp nhân duyên của trạo hối là biết bà con xóm làng,
biết đất nước, biết không chết, và nghĩ nhớ việc vui chơi nói cười
Thành Thật Luận Trang 354 Tuệ Quang Foundation
trước đây, là sinh nhân. Vì thuốc trị bệnh cũng đồng, nên ngủ nghỉ
lấy tuệ làm thuốc, trạo hối lấy định làm thuốc. Vì che khuất cũng
đồng nên hợp 2 thứ lại làm che. Năm pháp nầy hoặc là che hoặc
không phải che. Bất thiện trói buộc cõi Dục gọi là che, ngoài ra
không gọi là che. Năm thứ kết hạ phần là tham dục, giận dữ, giới
thủ. Vì đọa xuống nên gọi là hạ phần. Như giữ giới trâu bò thành
tựu thì làm trâu bò, bất thành thì vào địa ngục. Nghi, ngăn ngại,
lìa dục, thân kiến, là 4 thứ căn bản, đó gọi là 5.
Lại vì tham giận nên không ra khỏi cõi Dục. Thân kiến
không ra khỏi tâm chấp ngã. Giới thủ không ra khỏi hạ pháp.
Nghi không ra khỏi phàm phu.
Lại vì tham dục và giận dữ nên không vượt khỏi cõi Dục.
Nếu vượt quá thì bị kéo lại. Còn 3 thứ kia không vượt khỏi phàm
phu, nên gọi là hạ phần, 5 thứ thượng phần thì trạo hí phá hoại
thiền định, nên tâm không tịch diệt. Trạo hí nầy tùy lấy tướng
kiêu mạn nên sinh. Tâm lấy tướng nầy từ vô minh sinh, nên mới
có nhiễm cõi Sắc, nhiễm cõi Vô sắc, 5 thứ kết nầy bậc học nhân
gọi nó là đi lên, nên gọi thượng phần, 5 thứ kết nầy là đối với tâm
người học nhân mà nói, chứ không là phàm phu.
Hỏi : Vì sao trạo hí trong cõi Sắc, Vô sắc gọi là kết, mà cõi
Dục không nói ?
Đáp : Trong đó không có thô phiền não, nên trạo hí rõ rệt.
Lại trạo hí nầy có sức phá định, nên gọi là kết. Dứt được
thượng phần nầy thì được giải thoát. Có người trong cõi Sắc và
Vô sắc sinh tưởng giải thoát. Vì muốn ngăn lầm nầy, nên mới nói
có thượng phần kết.
Năm thứ xan là trụ xứ xan, gia xan, thí xan, xưng tán xan, và
pháp xan. Trụ xứ xan là chỉ mình ta ở đây, không có cho người
khác. Gia xan là chỉ mình ta ra vào nhà nầy, không cho ai cả, dẫu
có ai ở đây ta là hơn họ. Thí xan là ở trong đây độc một mình ta
được bố thí, không cho người khác, dẫu có ai nữa, chớ cho hơn ta.
Thành Thật Luận Trang 355 Tuệ Quang Foundation
Xưng tán xan là chỉ khen ngợi mình ta, đừng khen người khác,
dẫu có khen ai cũng đừng hơn ta. Pháp xan là chỉ độc nhất mình ta
biết nghĩa 12 bộ kinh, và biết sâu sắc nghĩa bí mật mà không nói
cho ai hết.
Hỏi : Năm thứ xan tham nầy có những lỗi gì ?
Đáp : Trụ-xứ ấy v.v... là cọng hữu của nhiều người. Người
nầy đã từng bỏ nhà mình, đến ở chỗ cọng hữu lại sinh tâm keo
kiệt bủn xỉn là tệ phiền não.
Lại người ấy đối với pháp giải thoát hoàn toàn không có
phần. Bởi vì sao ? Vì người ấy đối với pháp cọng hữu hãy còn
không xả được, huống chi có thể xả được tự thân 5 ấm ư ?
Lại người nầy sinh đọa ngạ quỷ v.v... các chỗ ác.
Lại người nầy vì lợi dưỡng che tâm, thì kiêu mạn, khinh dễ
các người thiện, nên đọa địa ngục.
Lại vì phá hoại người khác bố thí, nên dẫu được trở lại thân
người thì bị nghèo cùng.
Lại vì tâm keo kiệt làm dứt mất công đức người thí, vật thí,
người thụ, nên bị tội nặng. Nếu xan lẫn pháp thì bị tội báo đui mù
v.v..., như mù bẩm sinh và sinh vào chỗ nhiều người ác, không
được tự tại, thoái mất Thánh thai, là oán tặc 3 đời 10 phương chư
Phật. Thường qua lại sinh tử làm người ngu si, người thiện xa
lánh. Vì xa lìa người thiện nên không điều ác nào cũng gây.
Ác có 3 thứ : ác ác, đại ác, và ác trong ác. Ác ác là giết, trộm
v.v.... Đại ác là tự mình giết, cũng dạy bảo người giết. Tự keo kiệt
cũng dạy người keo kiệt. Ác trong ác là tự lẫn tiếc pháp cũng dạy
người lẫn tiếc pháp.
Người nầy lẫn tiếc Pháp khiến nhiều người đọa vào ác. Cũng
là diệt Phật pháp. Như trong kinh nói trụ xứ xan có 5 lỗi. Vị thiện
Tì-kheo chưa đến không muốn cho đến, đã đến thì nhăn nhó
không vui, nghĩ muốn khiến đi, cất giấu thí vật của Tăng, các thí
vật của chư Tăng sinh tâm của mình.
Thành Thật Luận Trang 356 Tuệ Quang Foundation
Gia xan có 5 lỗi. Vì tham đắm nhà cửa nên cùng chung buồn
vui với người thế gian, dứt việc làm phúc của người thế gian, dứt
người thụ giả được của thí. Vì dứt 2 điều này nên sinh làm con quỉ
ở trong chuồng tiêu của nhà ấy.
Thí xan có 5 lỗi là thường thiếu thốn vật nuôi sống, phá hoại
lợi hai người, mắng nhiếc người thiện, tâm thường ôm lo buồn.
Khen ngợi xan tham có 5 lỗi là nghe khen người khác tâm
thường vẩn đục, trong trăm trăm ngàn đời thường không tịnh tâm,
chê trách người thiện, tự cao bản thân hạ thấp người khác, khiến
thường mang tiếng xấu.
Lại tất cả xan tham chung có những lỗi này : chứa nhóm
nhiều vật, khiếp sợ đại chúng, bị nhiều người ghét, tâm thường
vẩn đục, thân thường cô độc, sinh vào nhà nghèo hèn. Như vậy
nhiều vô lượng là tội lỗi của 5 thứ xantham.
Năm thứ tâm trồng là nghi Phật, nghi Pháp, nghi giới nghi
giáo hóa, nếu có Tì-kheo được Phật và các bậc Đại nhân khen
ngợi, người nầy liền đem ác khẩu sàm báng. Đó gọi là 5 thứ. Nghi
Phật là khởi ý nghĩ như vầy : Phật là lớn hay Phú-lan-na v.v... là
lớn ? Nghi pháp là Phật Pháp là hơn hay Vi-đà v.v... của ngoại
đạo là hơn ? Nghi giới là giới Phật nói là hơn hay giới kê cẩu
v.v… là hơn ? Nghi giáo hóa là nghi pháp A-na-ba-na v.v... là có
thể đến Nê-hoàn hay chăng ? Sàm báng là đem tâm giận dữ không
chút kính nể mà xâm hại người thiện. Người này bị 5 pháp ấy làm
bại hoại tâm, không kham trồng các thiện căn, nên gọi là tâm
trồng.
Hỏi : Người ấy vì sao đối với Phật v.v... sinh nghi ?
Đáp : Người nầy không thể đa văn, cho nên sinh nghi. Nếu
những người đa văn thì ít nghi ngờ. Và người nầy ngu si vô tri
không biết phân biệt Phật pháp và các pháp khác, cho nên sinh
nghi.
Thành Thật Luận Trang 357 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy đối với Phật pháp, không thể có được ý vị, cho
nên sinh nghi.
Lại không học không đọc các kinh Vi-đà mà chỉ nghe người
khen ngợi rồi sinh tâm quý trọng.
Lại người này đời đời tà nghi nặng nhiều, vì tâm thường vẩn
đục nên đối với Phật v.v... sinh nghi, như người thị giả của Phật
tên Tô-na-sát-đa-la.
Lại người nầy cùng với nhiều người tà kiến cọng đồng sự
nghiệp, nên khiến sinh nghi.
Lại người này vì đọc tụng Vi-già-đà-hòa-la-na v.v... các kinh
tà kiến, nên chính trí tuệ bị hỏng mà sinh nghi.
Lại người nầy với các pháp nghĩa ưa sinh tà niệm, không thể
lãnh hội được ý của tác giả kinh điển, cho nên sinh nghi.
Lại người nầy thủy chung không thể được công đức tự lợi.
Vì những duyên cớ này nên đối với Phật v.v... sinh nghi.
Năm thứ tâm trói là nếu ai vì không lìa thân dục nên sinh
tham đắm. Thân không lìa 5 thứ dục nên tham đắm dục.
Lại cùng với những người tại gia xuất gia hòa hợp, đối với
Thánh ngữ nghĩa tâm không ưa thích được chút lợi ích tự cho là
đủ. Trong đó, 4 thứ trói là do tham dục mà khởi. Nếu người không
lìa nội thân dục nên đối với ngoại cảnh, trong Sắc v.v... sinh đắm
nhiễm, cho nên ưa cùng đông người ồn náo hòa hợp. Vì ưa ồn ào
náo nhiệt nên với Thánh ngữ nghĩa hiển thị pháp tịch diệt thì tâm
không ưa thích. Cho nên đối với trì giới đa văn và thiền định v.v...
được chút ít lợi ích tự cho là đủ. Vì tham đắm chút lợi ích nầy nên
bỏ mất lợi lớn. Người trí không nên tham đắm lợi nhỏ mà tổn hại
lớn. Người nầy nếu lìa 8 nạn, được thân người khó, cho nên cần
phải nhất tâm siêng năng tinh tiến.
Lại pháp phàm phu không thể tin. Nếu lìa nhân duyên đầy đủ
nầy, hoặc có duyên nào khác thì hoàn toàn không còn có thể vào
Thánh đạo.
Thành Thật Luận Trang 358 Tuệ Quang Foundation
Lại không tham tiểu lợi thì có thể được quả báo xuất gia, đến
khi lâm chung cũng không ăn năn, cũng được lợi mình lợi người.
Lại người nầy trong công đức còn không tham đắm huống là
ác pháp, nên mới gọi là chính hành.
Lại lầm lỗi phàm phu không thể thấm nhiễm được.
Hỏi : Lỗi phàm phu là vậy nào ?
Đáp : Trong kinh nói : Người phàm phu cần lấy 20 pháp
chiết phục tâm mình. Nên nghĩ vầy : 1. Ta chỉ có hình thức ăn
mặc khác với người tục. 2. Hoàn toàn không được gì. 3. Ta sẽ vì
bất thiện mà chết mất. 4. Sẽ rơi vào biển rất khiếp sợ. 5. Sẽ phải
đến chỗ sợ sệt. 6. Không biết chỗ không sợ. 7. Cũng không biết
Đạo pháp. 8. Không được thiền định. 9. Thường chịu khổ thân.
10. Khó lìa tám nạn. 11. Oán tặc thường đuổi theo. 12. Các đường
đều mở chưa thoát đường ác. 13. Thường bị vô lượng kiến chấp
trói buộc. 14. Với tội ngũ nghịch chưa thể đề phòng. 15. Vô thủy
sinh tử chưa có biên giới. 16. Không gây tạo thì không được tội
phúc. 17. Thiện ác không thể thay thế nhau. 18. Không tu pháp
thiện quyết không an ổn. 19. Đã tạo thiện ác quyết không tiêu
mất. 20. Ta sẽ vì không điều phục mà đến chết. Đó là 2 mươi
pháp không thể ô nhiễm được.
Lại việc đáng làm người nầy đã làm xong, nên tâm không ăn
năn. Nếu ai tham đắm thì không có thể thành pháp tại gia và xuất
gia. Cho nên không nên tham đắm tiểu lợi 7 thứ sử.
Hỏi : Các phiền não sao gọi là sử ?
Đáp : Trong sinh tử nối nhau thường đeo bám theo chúng
sinh, nên gọi là sử. Giống như người vú nuôi thường theo đứa bé,
như bệnh sốt rét chưa khỏi, như mắc nợ ngày càng sinh lãi, như
chuột hại chưa trừ, như tướng đen tấm sắt nóng, như mầm lúa,
như tự ký giấy ở đợ, như người đoán việc mà làm chứng, như trí
tuệ dần chứa, như nghề nghiệp thường tập, như lửa đèn thường
Thành Thật Luận Trang 359 Tuệ Quang Foundation
nối nhau. Cứ như vậy thứ lớp nối nhau liên tục tăng trưởng nên
gọi là sử.
Hỏi : Sử nầy tương ưng với tâm hay không tương ưng ?
Đáp : Tương ưng với tâm. Bởi vì sao ? Vì đã nói tham v.v...
là tướng của sử. Các tướng nầy của sử cùng với vui mừng tương
ưng. Nếu không tương ưng với lòng vui mừng là không đúng. Sự
vui mừng nầy hoặc ở trong cảm thụ vui gọi là tham sử. Lại tham
là đắm nhiễm, mà trong tâm không tương ưng thì không có nghĩa
đắm nhiễm. Cho nên biết các sử cùng tương ưng với tâm.
Hỏi : Không phải vậy. Các sử không phải tương ưng với tâm.
Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói : Đứa trẻ con dâm tâm còn không
có huống chi có thể hành động dâm dục mà cũng bị dục sử sai
khiến ?
Lại nói không nghĩ, không phân biệt, cũng có duyên thức trụ.
Lại trong kinh nói : Khi dứt thân kiến các sử đều dứt hết.
Lại Thánh đạo và phiền não không được đồng thời. Cho nên
Thánh đạo sinh, thì tâm bất tương ưng sử dứt. Nếu không phải
vậy, thì Thánh đạo dứt những gì ?
Lại nếu không có tâm không tương ưng, thì phàm phu, học
nhân hoặc khi ở tâm thiện, tâm vô ký lẽ ra phải là A-la-hán ?
Lại sử là nhân trói buộc, từ sử sinh trói buộc, bị trói thì sử
bùng thịnh lên. Cho nên biết các sử không tương ưng với tâm.
Lại nếu người ở trong tâm thiện, vô ký cũng gọi có sử, nếu
không có tâm không tương ưng với sử, thì sao gọi là có sử được ?
Cho nên biết các sử không tương ưng với tâm ?
Đáp : Không phải vậy. Người nói đứa trẻ con không dục
cũng có tham sử. Điều này không đúng. Đứa trẻ con chưa được
thuốc trừ tham, tham dục chưa hết, nên bị tham sử sai khiến, như
người bệnh vì quỷ, tuy khi chưa phát hiện, cũng gọi người bệnh
quỷ. Bởi vì sao ? Vì bệnh nhân chưa được chú thuật, thuốc men
để trừ bệnh. Cũng như bệnh sốt cách 4 ngày, tuy 2 ngày không
Thành Thật Luận Trang 360 Tuệ Quang Foundation
phát, cũng gọi là người bị bệnh sốt. Cũng như chuột hại chưa trừ,
nên khi nghe tiếng sấm thì phát hiện. Như vậy không luận trong
tâm nào, chưa được thuốc trừ sử đều gọi là không dứt. Các câu
hỏi khác cũng như đã đáp chung rồi.
Ông nói không nghĩ, không phân biệt cũng có duyên thức
trụ. Đó là cũng vì chưa dứt sử.
Ông nói thân kiến cùng sử đều dứt, ông cho rằng trói buộc là
tương ưng với tâm khi chưa sinh cũng dứt, sử cũng như vậy, tuy
khi Thánh đạo không có, cũng gọi là dứt, vì bị pháp trái nhau.
Ông nói đạo với phiền não không đồng thời, đó cũng bởi
chưa dứt nên nói có thể có.
Ông nói phàm phu, học nhân nếu ở trong tâm thiện, vô ký lẽ
ra phải là A-la-hán, A-la-hán đã dứt, người nầy chưa dứt nên như
người không thụ pháp đoạn nhục, tuy không ăn thịt, nhưng không
gọi là người đoạn nhục.
Lại có vô minh tà niệm, tà tư duy v.v... nên phiền não nào
chưa dứt thì sinh. A-la-hán không nhân nầy, nên không đồng với
những người khác.
Lại ông nói bị trói buộc thì sử bùng phát mạnh. Điều này
không đúng. Các phiền não vì từ pháp hạ, trung, thượng nên bùng
phát mạnh, chứ không phải bị trói buộc.
Ông nói người ở tâm thiện, vô ký gọi là có sử. Đó là cũng vì
chưa dứt nên gọi có sử. Vì những duyên do nầy nên biết tham
v.v... các sử chẳng phải không tương ưng. Tám tà đạo, tà kiến cho
đến tà định, vì không biết như thật, hiểu biết điên đảo nên gọi là
tà kiến cho đến tà định.
Hỏi : Chính mạng với tà mạng không lìa nghiệp thân khẩu.
Vì sao nói riêng ?
Đáp : Người xuất gia khó dứt tà mạng, cho nên phải nói
riêng. Tà mạng là dùng dối gạt v.v... 5 pháp có thể được lợi
dưỡng, nên gọi tà mạng. Nói tóm lại các người xuất gia đều không
Thành Thật Luận Trang 361 Tuệ Quang Foundation
nên làm các nghề nuôi sống như làm sứ giả cho vua, buôn bán,
thầy thuốc v.v..., và không nên lấy tiền gạo v.v... của chúng sinh.
Nếu lấy đều gọi là tà mạng.
Lại trong Luật cấm lấy đó làm kế nuôi sống, đó đều gọi là tà
mạng. Như trong kinh nói Ưu-bà-tắc không nên buôn bán 5 thứ.
Hỏi : Lấy gì nuôi sống ?
Đáp : Đúng như pháp cầu xin, lấy đó sinh sống không nên tà
mạng. Bởi vì sao ? Vì tâm bất tịnh thì hủy hoại thiện pháp, không
thể tu đạo.
Lại người hành đạo nên nghĩ như vầy : Vào trong Phật pháp
là vì mục đích tu đạo, không vì sinh sống. Cho nên người ưa thiện
pháp nên tu tịnh mạng.
Lại Tì-kheo nên an trụ trong pháp Tì-kheo, nếu làm tà mạng
là không phải pháp Tì-kheo.
Phẩm 137 : Chín thứ kết
Ái v.v... 9 thứ kết.
Hỏi : Vì sao trong các thứ kiến, riêng nói 2 thứ thủ ?
Đáp : Giới thủ khó lìa khỏi, như khúc gỗ nổi trôi vào dòng
nước xoáy, khó thoát ra được. Người nầy cũng vậy, họ nghĩ như
vầy : Ta nhờ trì giới nầy sẽ sinh lên trời. Vì lẽ đó nên họ cam chịu
lao xuống vực sâu, gieo mình vào lửa, tự nhào xuống từ trên cao
v.v... nhiều thứ khổ hạnh.
Lại người thế gian, trong giới thủ không thấy lầm lỗi, nên
Phật nói là kết.
Lại y theo giới thủ nầy có thể bỏ 8 Thánh đạo.
Lại đó không phải chính đạo, không phải thanh tịnh đạo, nên
gọi là tùy khổ biên.
Lại giới thủ là trói buộc người xuất gia. Các dục trói buộc
người tại gia.
Thành Thật Luận Trang 362 Tuệ Quang Foundation
Lại người giới thủ tuy có tu các pháp xuất gia, mà luống
không được gì cả.
Lại người giới thủ đời nay không được vui, đời sau chịu khổ
lớn. Như giữ giới trâu bò, thành thì làm trâu bò, bại thì đọa địa
ngục.
Lại bởi giới thủ nầy có thể hủy báng chính đạo và người tu
chính đạo.
Lại giới thủ là chỗ các ngoại đạo sinh khởi kiêu mạn. Họ
khởi nghĩ như vầy : Ta nhờ pháp nầy có thể thắng những người
khác.
Lại vì giới thủ nên 96 phái đều có pháp sai khác nhau.
Lại giới thủ thô dễ thấy, nên nhiều chúng sinh tu hành theo.
Đạo trí tuệ mầu nhiệm khó thấy, nên người đời không biết tu được
lợi ích.
Lại kiến chấp nầy có thể lôi kéo lòng người, nên những
người ngu si phần nhiều tu pháp nầy.
Lại đó gọi là ác kiến nặng, vì nghịch với chính đạo mà làm
theo phi đạo. Người kiến thủ tham đắm tà pháp không lìa bỏ được
là vì sức mạnh của kiến thủ. Lại vì sức kiến thủ nên kết càng kiên
cố.
Hỏi : Trong Kinh Đế Thích Vấn hỏi vì sao chỉ nói người trời
có 2 kết xan và tật ?
Đáp : Hai thứ phiền não nầy là bỉ ổi tệ lậu nhất. Bởi vì sao ?
Vì thấy các chúng sinh đói khát khổ não, mà lòng bủn xỉn nên
không thương xót cứu giúp, thấy người nào được điều gì cũng
sinh tâm ganh ghét, lòng ôm nóng nảy. Vì những lý do nầy nên
đọa vào chỗ nghèo hèn, xấu xí không chút oai đức.
Lại Thích Đề Hoàn Nhân, 2 kết nầy nhiều hằng đến làm não
tâm, nên Phật vì nói.
Lại 2 kết nầy là nhân duyên tội nặng. Bởi vì sao ? Vì bởi 2
kết nầy mà khởi ác nghiệp nặng.
Thành Thật Luận Trang 363 Tuệ Quang Foundation
Lại trong 3 thứ độc, tham giận có thể khởi tội nặng. Tham
giận thịnh nên khởi 2 kết nầy.
Lại 2 kết nầy có thể não hại nam nữ.
Lại khó lì bỏ. Bởi vì sao ? Vì nếu tu sâu thiện tâm mới có thể
dứt hẳn tính ganh ghét, tu sâu bố thí sau mới dứt hết lòng bủn
xỉn. Vì không thấy nghiệp báo mà có thể xả trọng vật đó là việc
rất khó. Như người thấy con đắc thắng việc hơn mình, lòng còn
khó mừng vui, huống là kẻ địch. Vì 2 kết nầy dựa vào 2 tính ghét
ưa, nên rất khó trừ dứt. Vì những lý do nầy mà Phật nói riêng.
( còn tiếp
 
S

suonglanh

Guest

THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 11 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 138 : Các câu hỏi khác
Luận giả nói : Tất cả phiền não phần nhiều gồm thâu trong
10 sử, cho nên phải do nơi 10 sử mà tạo luận. Mười sử là tham,
giận, mạn, vô minh, nghi và 5 kiến chấp.
Hỏi : Mười phiền não đại địa pháp nầy là không tin, biếng
nhác, nhớ sai, tán tâm, vô minh, tà phương tiện, tà niệm, hiểu sai,
nô đùa, phóng dật. Pháp nầy thường chung cùng với tất cả tâm
phiền não. Việc đó thế nào ?
Đáp : Trước đã phá tương ưng, chỉ tâm pháp mỗi mỗi sinh
cho nên không đúng.
Lại đó là không đúng đạo lý. Vì sao biết ? Hoặc có tâm bất
thiện cùng tín bất thiện chung. Hoặc có tâm bất thiện mà không
tín. Tinh tiến v.v... cũng như vậy. Cho nên biết không phải tất cả
trong tâm phiền não có 10 pháp nầy.
Lại ông nói ngủ nghỉ và vui đùa ở trong tất cả tâm phiền não,
cũng không đúng. Nếu tâm mê chìm, bấy giờ mới có ngủ nghỉ,
chứ không phải ở trong tâm vui đùa. Có những lỗi như vậy.
Hỏi : Trong cõi Dục có 10 phiền não. Cõi Sắc và Vô sắc trừ
sân, còn lại tất cả. Điều này thế nào ?
Đáp : Trong đó cũng có ganh ghét v.v.... Vì sao biết được ?
Trong kinh nói có Phạm Vương bảo các Phạm chúng rằng : Các
ngươi đừng đến Sa-môn Cù-đàm, các ngươi chỉ ở đây với ta tự sẽ
được hết sự già chết. Đó là ganh ghét. Vì có ganh ghét nên phải có
giận dữ.
Thành Thật Luận Trang 365 Tuệ Quang Foundation
Lại kinh nói Phạm Vương nắm tay một Tì-kheo kéo ra khỏi
chúng Tăng, bảo rằng : Tì-kheo ! Ta cũng không biết 4 đại ở chỗ
nào diệt hết không còn. Như vậy đem tâm gièm siểm gạt các
Phạm chúng đó gọi là gièm siểm. Như nói ta là tôn quý tạo ra
muôn vật. Đó là kiêu mạn phóng dật. Những điều như vậy, trong
đó cũng có những ác phiền não, nên phải biết cũng có bất thiện.
Có luận sư nói : Nếu tham phụ mẫu và Hòa thượng, A-xà-lê
v.v... gọi là tham thiện, tham vật của người khác v.v... gọi là tham
bất thiện, không làm tổn hại, hay lợi ích người khác gọi là tham
vô ký. Giận pháp bất thiện và ác tri thức v.v... gọi là giận thiện,
nếu giận thiện pháp và chúng sinh gọi là giận bất thiện, nếu giận
vật phi chúng sinh gọi là giận vô ký. Nếu dựa ngạo mạn để dứt
ngạo mạn gọi là ngạo mạn thiện, khinh chúng sinh gọi là ngạo
mạn bất thiện. Vô minh v.v... cũng như vậy.
Lại có luận sư khác nói : Nếu như thiện thì không gọi là
phiền não.
Hỏi : Thân kiến ở cõi Dục phải gọi vô ký. Bởi vì sao ? Vì
nếu thân kiến là bất thiện thì tất cả phàm phu đều sinh ngã tâm,
không thể khiến đều đọa địa ngục, nên gọi là vô ký. Việc đó thế
nào ?
Đáp : Thân kiến là căn bản của tất cả phiền não, làm sao gọi
vô ký được ! Lại người nầy đọa là vì người khác nói có thần ngã,
bấy giờ làm sao được gọi vô ký ? Biên kiến cũng như vậy.
Hỏi : Nếu chuyển người tà kiến sang đọa vào trong nghi,
người nầy là bất thiện chăng ?
Đáp : Người đó không phải là bất thiện. Bởi vì sao ? Vì thà
đọa trong nghi không vào tà kiến.
Hỏi : Có người nói tất cả phiền não trói buộc cõi Dục có thể
khiến dục hữu nối nhau, buộc cõi Sắc và Vô sắc cũng như vậy.
Việc đó thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 366 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Chỉ ái có thể khiến các hữu nối nhau, vì trước vui
mừng rồi sau mới sinh.
Lại nói ái là nhóm khổ, cũng nói ái ưa uống ăn tham dục
v.v... nên tùy theo chỗ mà thụ sinh. Trong tà kiến v.v... không có
nghĩa như vậy. Tuy trong kinh nói khinh mạn nhân duyên sinh.
Cũng trước mạn sau ái nên mới sinh. Giận cũng như vậy. Cho nên
biết đều bởi ái nên các hữu nối nhau.
Hỏi : Trong các phiền não có mấy thứ thấy đạo lý thì dứt,
mấy thứ suy nghĩ mới dứt ?
Đáp : Tham, sân, mạn và 2 thứ vô minh, thấy đạo lý và suy
nghĩ dứt, ngoài ra 6 thứ chỉ thấy đạo lý là dứt.
Hỏi : Người học nhân cũng có ngã tâm. Cho nên biết không
thị hiện tướng đó thôi, vì học nhân một phần thân kiến chưa dứt ?
Đáp : Đó là mạn không phải kiến. Kiến là tướng thị-hiện.
Hỏi : Có người nói bủn xỉn, ganh ghét, hối tiếc, gièm siểm
v.v... chỉ suy nghĩ dứt. Việc đó thế nào ?
Đáp : Đó đều có 2 thứ, có kiến đế dứt, có tư duy dứt. Vì sao
biết được ? Như Ni-kiền tử v.v... vì thấy đệ tử Phật được cúng
dường nên sinh tâm ganh ghét. Tâm ganh ghét nầy thấy đạo thì
diệt. Cho nên biết kiến đế thì dứt liền.
Có người trước đối với đệ tử Phật, lẫn tiếc không thí, vì được
thấy đạo nên có thể cúng thí. Lẫn tiếc nầy thấy đạo là dứt. Như
Tô-na-sát-đa-la v.v..., hối tiếc cũng thấy đạo là dứt. Như Tu-đàhoàn
nhân duyên đọa địa ngục v.v... và thụ thân đời thứ 8, gièm
siểm v.v... cũng thấy đạo lý mới dứt.
Hỏi : Các phiền não có mấy thứ thấy khổ đế dứt, mấy thứ
thấy tập, diệt, đạo đế dứt, và mấy thứ suy nghĩ dứt ?
Đáp : Trước đã nói thấy đạo lý dứt 6 sử là 4 thứ, thấy khổ đế
dứt, thấy tập, diệt, đạo đế dứt. Ngoài ra 4 sử là 5 thứ.
Hỏi : Thân kiến, biên kiến chỉ thấy khổ đế dứt, giới lấy 2 thứ,
thấy khổ thấy đạo dứt. Việc đó thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 367 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Các phiền não khi thật thấy diệt đế mới dứt. Cho nên
thân kiến v.v... không phải chỉ thấy khổ đế mà dứt được.
Lại thân kiến đối với 4 đế hiểu sai lầm. Năm ấm vô thường
do nhân duyên sinh. Ngã không phải vô thường, không do nhân
sinh. Năm ấm có diệt, ngã không diệt. Đạo đế cùng với ngã kiến
là pháp trái nhau. Cho nên thân kiến 4 thứ dứt. Biên kiến cũng 4
thứ dứt. Bởi vì sao ? Vì hành giả thấy khổ đế do tập đế sinh thì
dứt dứt kiến. Kiến chấp do đạo đế được dứt, thì dứt thường kiến.
Giới lấy cũng có 4 thứ. Có nhân có quả, cho nên khi thấy khổ đế
biết giới nầy là khổ, không, nhờ đó mà được thanh tịnh. Phải thấy
khổ đế mới dứt. Biết giới nầy là nhân khổ, không, nhờ đó mà
được tịnh. Phải là thấy tập đế mới dứt. Vì tà kiến bài báng Nêhoàn,
cho rằng nhờ kiến chấp nầy được tịnh. Phải là thấy diệt đế
mới dứt. Bởi đó mà bài báng đạo. Phải thấy đạo đế mới dứt. Như
kiến lấy dựa vào tà kiến nên có 4 thứ, giới lấy cũng như vậy.
Hỏi : Nếu như vậy thì không gọi 98 thứ sử ?
Đáp : Các sử tùy bậc mà dứt, không tùy cõi, nên không hạn
số 98.
Hỏi : Tham, mạn và trừ tà kiến, còn 4 kiến kia đều tương ứng
với 3 căn. Trừ khổ căn ưu căn, giận dữ cũng tương ứng với 3 căn.
Trừ lạc căn hỷ căn, vô minh tương ưng với 5 căn. Tà kiến, nghi
tương ưng 4 căn. Trừ khổ căn, giận, che giấu tội, xan lẫn, ganh
ghét không tương ưng với ưu căn. Việc đó như thế nào ?
Đáp : Trước đã phá không có tương ưng rồi. Ra sau sẽ nói.
Trong 5 thức không có phiền não.
Lại trong pháp của ông, tham tương ưng với hỷ căn, mà xan
thì không phải như vậy. Đó là không lý do, vì xan là một phần của
tham. Như vậy kiêu mạn không cùng tương ưng với ưu căn cũng
không lý do. Cho nên biết chỗ lập luận của các ông đều tự nhớ
tưởng phân biệt.
Thành Thật Luận Trang 368 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Có người nói thấy khổ đế, dứt được 5 thứ kiến. Nghi
và tham, sân, mạn không tương ưng với vô minh. Và tập đế dứt
được tà kiến, kiến lấy. Nghi và tham, sân, mạn không tương ưng
vô minh. Đó gọi là sử biến khắp, ngoài ra không phải biến khắp.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Tất cả biến khắp. Bởi vì sao ? Vì tất cả đều cùng chung
nhân duyên.
Lại đối với tà kiến của mình sinh tâm tham, như nói không
khổ cho đến không đạo. Tham đắm kiến chấp nầy mà giữ lấy làm
tự cao, nếu nghe nói khổ thì sinh ghét giận.
Lại tham nầy có thể duyên diệt đế, sân cũng có thể ghét giận
Nê-hoàn, cũng lấy Nê-hoàn sinh tâm tự cao. Đạo cũng như vậy.
Phải biết các sử khác cũng có thể biến khắp.
Lại phiền não trói buộc cõi Dục có thể duyên cõi Sắc, như
bởi tham nên mừng, bởi giận nên oán ghét, vì lấy pháp kia tự cao,
cũng lấy đó cho là hơn, không phải chỉ có cõi Dục. Như phiền não
cõi Dục có thể duyên cõi Sắc, phiền não kiến v.v... cõi Sắc cũng
có thể duyên quả cõi Dục. Cõi Vô sắc cũng như vậy.
Lại phiền não nầy đều có thể có tướng chung tướng riêng.
Bởi vì sao ? Vì tham cũng có thể có tướng chung như nhiễm cả 4
thiên hạ.
Lại như Kinh Trường Trảo nói : Tất cả nhẫn là tham, tất cả
bất nhẫn là sân. Tất cả bất nhẫn là tham, tất cả nhẫn là sân. Cũng
lấy phiền não nầy tự cao. Phiền não nầy đều có thể khởi nghiệp
thân khẩu. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói : Sinh tâm thấy biết như
vậy, nói việc như vậy. Nghĩa là có thần v.v....
Lại tất cả phiền não nầy đều ở trong thức thứ 6, trong 5 thức
kia không có. Bởi vì sao ? Vì tưởng hiện hành trong thức thứ 6,
nên tất cả phiền não đều do tưởng sinh. Nếu không phải như vậy,
thì thân kiến v.v... cũng phải ở trong 5 thức. Bởi vì sao ? Vì mắt
thấy sắc bảo ta có thể thấy. Nghi nạn v.v... cũng như vậy.
Thành Thật Luận Trang 369 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong kinh nói 6 ái chúng. Vì sao nói trong 5 thức kia
không phiền não ?
Đáp : Như 6 ý hành đều hiện hành trong ý thức. Chỉ nhờ mắt
v.v... mở cửa và dẫn đường, nên mới gọi 6 ý hành. Điều này cũng
vậy.
Lại trong ý thức có những phân biệt nhân duyên, mà trong 5
thức kia không có. Cho nên biết trong 5 thức không có phiền não.
Phẩm 139 : Dứt lỗi
Hỏi : Có người nói các phiền não có 9 bậc hạ, trung, thượng
là hạ hạ, hạ trung, hạ thượng; trung hạ, trung trung, trung thượng;
thượng hạ, thượng trung, thượng thượng. Trí cũng có 9 bậc là
phiền não trước dứt thượng thượng, sau cùng dứt hạ hạ. Đem trí
hạ hạ dứt phiền não thượng thượng, cho đến đem trí thượng
thượng dứt phiền não hạ hạ. Việc đó thế nào ?
Đáp : Dùng tâm nhiều vô lượng dứt các phiền não. Bởi vì sao
? Trong kinh Phật nới : Vì như người thợ khéo, tay cầm cán rìu,
mắt thấy chỗ ngón tay nắm, tuy hằng ngày không thể phân biệt
mòn hết bao nhiêu, nhưng khi mòn hết mới hay là mòn hết. Tìkheo
cũng vậy, khi đang tu đạo, tuy không phân biệt biết ngày nay
diệt được hết bao nhiêu phiền não, hôm qua đã diệt hết bao nhiêu;
nhưng đến khi diệt hết rồi mới biết là hết. Cho nên biết phải dùng
vô lượng trí diệt mới hết các phiền não chứ không phải 8 không
phải 9.
Hỏi : Dựa định nào, diệt những phiền não nào ?
Đáp : Nhờ 7 chỗ dựa diệt được phiền não. Như trong kinh
Phật nói : Nhờ Sơ thiền lậu hết, cho đến nhờ Vô sở hữu xứ lậu
hết.
Lại lìa 7 chỗ dựa nầy cũng có thể hết lậu, như trong kinh Tuthi-
ma nói lìa 7 chỗ dựa cũng được hết lậu. Cho nên biết dựa vào
định cõi Dục cũng được hết lậu.
Thành Thật Luận Trang 370 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Kiến đế thì phiền não dứt, không cần nưong định Vô
sắc mà dứt, vì lẽ hành giả nầy đã hoại sắc tướng ?
Đáp : Điều này trước đã đáp rồi, nghĩa là Vô sắc định có thể
duyên Sắc.
Hỏi : Vì là trước từ Sơ thiền rồi tuần tự lìa dục đến Nhị thiền
v.v... là đồng thời hay sao ?
Đáp : Phải tuần tự, vì lìa Sơ thiền muốn sinh Nhị thiền.
Hỏi : Trong cõi Dục cũng có thứ tự sao ?
Đáp : Các phiền não diệt từng mỗi niệm nên cũng phải thứ
tự.
Lại như những người ở các cõi trời Diệm-ma, khi ôm nhau
thì thành dâm dục. Trời Đâu-suất-đà nắm tay nhau thành dục. Trời
Hóa Lạc miệng nói với nhau thành dục. Trời Tha Hóa Tự Tại
nhìn nhau là thành dâm dục. Phải biết phiền não cõi Dục cũng
tuần tự mới dứt hết.
Có người nói nhờ nhân duyên phúc đức mà sinh về trong đó,
chứ không phải nhờ dứt phiền não, vì chỗ sở dục vi diệu nên mới
có sai khác.
Lại do căn chậm lụt nên ôm nhau mới thành dục; căn linh lợi
nên nhìn nhau là thành dục.
Hỏi : Có người nói phiền não do tư duy thì dứt là dứt dần
dần. Trước dứt trói buộc cõi Dục, sau dứt trói buộc cõi Sắc và Vô
sắc. Còn kiến đế thì dứt là đồng thời dứt.. Việc đó thế nào ?
Đáp : Tùy theo kiến đế mà dứt, nhưng thật ra tất cả phiền
não, thấy diệt đế mới dứt. Điều này trước đã nói. Như nói kiến đế
dứt các phiền như thân kiến v.v... đều là khi thấy diệt đế mới dứt.
Từ Noãn pháp, dùng vô thường v.v… tu quán tướng 5 ấm mới dứt
phiền não, thấy diệt đế mới hết.
Hỏi : Quán khổ trói buộc cõi Dục, có thể dứt kết cõi Dục.
Tập cũng như vậy. Như cõi Dục cho đến Phi Tưởng Phi Phi
Thành Thật Luận Trang 371 Tuệ Quang Foundation
Tưởng xứ cũng như vậy. Quán diệt cõi Dục có thể dứt kết cả 3
cõi. Đạo cũng như vậy. Việc đó thế nào ?
Đáp: Diệt trí có thể dứt phiền não. Cho nên lời ông nói không
đúng.
Hỏi : Trong kinh nói quán 5 ấm vô thường v.v..., nên được
quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán. Sao ông nói chỉ quán diệt
đế là dứt phiền não ?
Đáp : Trí quán 5 ấm nầy sinh diệt hợp lại mà quán nên có thể
dứt kết sử. Như trong kinh nói: Tì-kheo quán sắc nầy là sắc tập, là
sắc diệt.
Lại còn nói thấy pháp biết pháp thì dứt phiền não. Mới biết là
thấy diệt đế nên dứt hết các phiền não.
Lại 5 ấm là ở trong khổ sinh các phiền não, nếu thấy 5 ấm
diệt cho là tịch diệt an ổn. Như vậy là khổ tưởng đầy đủ. Cho nên
biết thấy các ấm diệt, thì phiền não hết. Như nói vì các pháp
không thể tính, nương một xả tâm mà dứt, Không thể tính tức
diệt. Nếu hành giả thấy sắc không thể tính, cho đến thức cũng
không thể tính, thì được xa lìa sâu.
Lại 3 môn giải thoát đều duyên Nê-hoàn, vì môn giải thoát
nầy có thể dứt phiền não, không còn phương tiện nào khác. Cho
nên biết chỉ vô vi duyên đạo mới có thể dứt phiền não. Cho nên
ông nói phương pháp dứt phiền não là việc đó không đúng.
Luận giả nói : Các phiền não có vô lượng môn phân biệt như
vậy v.v..., người cầu giải thoát cần phải biết. Bởi vì sao ? Vì biết
đó là trói buộc là tội lỗi nên được giải thoát. Như người biết kẻ
oán nên mới xa lìa được. Như biết đường hiểm nên mới tránh
được. Phiền não cũng như vậy.
Lại phiền não trói buộc rất là chặt chẽ, quá hơn vua A-tu-la
Tỳ-ma-chất-đa-la, cho nên chúng sinh ở cõi Hữu Đỉnh cũng vẫn
thường bị phiền não trói buộc. Cho nên phải biết tội lỗi đó.
Thành Thật Luận Trang 372 Tuệ Quang Foundation
Lại chúng sinh, cho đến cõi Hữu Đỉnh vẫn còn thoái đọa trở
lại, là vì đều không thể thấy biết tội lỗi của phiền não.
Lại vì không dứt kết nên sinh tăng thượng mạn, tự cho mình
đã dứt, sau thì nghi ngờ hối hận. Cho nên phải biết lỗi các phiền
não, đừng để bị lừa gạt.
Lại nếu chúng sinh lìa bỏ cái vui tịnh diệu của Nê-hoàn, lại
tham vui dục lạc tệ lậu. Hễ có vui thì đều do lỗi các phiền não.
Nếu dứt các phiền não thì được lợi ích lớn. Cho nên phải biết thấy
lỗi các phiền não có chướng ngại pháp giải thoát tức là phiền não.
Nếu không dứt phiền não quyết không có nhân duyên giải thoát.
Bởi vì sao ? Vì các phiền não là nhân duyên có thân; tùy phiền
não có thân, tùy thân có khổ. Cho nên người cầu lìa khổ, cần phải
siêng năng tinh tiến dứt các phiền não.
Phẩm 140 : Thuyết minh về nhân
Hỏi : Phiền não làm nhân duyên cho thân, điều này cần phải
thuyết minh. Bởi vì sao ? Vì có các ngoại đạo không tin điều này.
Hoặc nói thân nầy không nhân không duyên, giống như cỏ cây tự
nhiên sinh. Hoặc nói muôn vật là do Đại Tự Tại v.v… các Trời
sinh ra. Hoặc nói muôn vật từ thể tính sinh ra. Hoặc vi trần hòa
hợp sinh ra. Có những thuyết lập luận như vậy, cho nên phải
thuyết minh ?
Đáp : Từ nghiệp có thân, việc nầy trước đã thành lập. Nghiệp
đó do phiền não sinh nên lấy phiền não làm nhân duyên sinh thân.
Hỏi : Vì sao biết bởi phiền não mới có nghiệp ?
Đáp : Tùy tâm giả danh gọi là vô minh. Tâm giả danh đó có
thể nhóm các nghiệp, cho nên biết nhân duyên phiền não mới có
nghiệp.
Lại A-la-hán các nghiệp không nhóm không thành, cho nên
biết các nghiệp do phiền não mà thành. Như trong kinh Phật nói :
Nếu người được minh, lìa vô minh, người đó có thể khởi tội
Thành Thật Luận Trang 373 Tuệ Quang Foundation
nghiệp, phúc nghiệp và bất động nghiệp chăng ? – Thưa không,
Thế Tôn !
Lại không có nghiệp vô lậu, cho nên biết chỉ tùy giả danh có
thể khởi các nghiệp. Tâm vô lậu không tùy giả danh nên không
khởi nghiệp.
Lại người học nhân không hành, như kinh nói : Học nhân
hoàn mà không hành, diệt mà không tác. Tướng tác là hành, hành
là nghiệp.
Lại vì tâm vô lậu không phải tướng của hành, nên không có
nghiệp vô lậu. Cho nên tất cả nghiệp thụ thân đều bởi phiền não
sinh.
Lại người dứt phiền não không còn thụ sinh. Cho nên biết có
thân đều bởi phiền não.
Hỏi : Tất cả chúng sinh đều là không phiền não, sau khi sinh
mới khởi, như người khi sinh không răng, về sau mới mọc ?
Đáp : Không phải vậy. Người có phiền não tùy có những
tướng, nghĩa là khi mới sinh ra hiện có tiếng khóc v.v.... Cho nên
biết đều cùng với phiền não cọng sinh.
Lại hiện thấy chúng sinh phần nhiều sinh trong chuồng xí
v.v... chứ không sinh trên đá bàn thạch. Phải biết vì tham đắm
hương vị v.v... nên mới sinh vào trong đó. Cho nên biết do phiền
não mà sinh.
Hỏi : Trong địa ngục v.v... không nên sinh được. Bởi vì sao ?
Vì không ai tham vui trong địa ngục ?
Đáp : Chúng sinh vì sức mạnh ngu si, nên ở trong tâm điên
đảo mà sinh, khi sắp chết xa thấy địa ngục lầm cho là ao hoa do
đó tham đắm, nên sinh vào trong đó. Như trong kinh nói : Nếu
người ở trong chỗ chật hẹp ồn ào mà chết thì muốn được chỗ rộng
rãi là sinh trong loài chim. Nếu người chết vì khát có thể là sinh
làm loài trùng trong nước. Nếu người chết vì lạnh thì sinh trong
địa ngục nóng, chết nóng thì sinh trong địa ngục băng giá. Nếu
Thành Thật Luận Trang 374 Tuệ Quang Foundation
tham đắm dâm dục thì sinh trong loài chim sẻ. Tham đắm ăn uống
thì sinh làm loài trùng trong thây chết.
Lại bởi vì chỗ tham đắm nên gây các ác. Vì các nhân duyên
ác bắt buộc phải thụ quả báo.
Lại vì tham đắm thân, nên các nghiệp có thể sinh quả báo.
Bởi vì sao ? Vì sức mạnh ngu si tham đắm thân mình, nên sinh
các phiền não kiêu mạn v.v.... Do đó có thể tụ tập thành nghiệp,
vì nghiệp nên vào trong các đạo.
Hỏi : Nếu vì nhân duyên phiền não mới có thân, Người dứt
phiền não, lẽ ra 5 ấm không còn nối nhau được ?
Đáp : Thân nầy gốc do phiền não mới sinh, phiền não tuy
hết, nhưng vì thế lực nên thân vẫn còn không dứt. Như lấy gậy
quay bánh xe, tuy tạm bỏ gậy, nhưng bánh xe vẫn còn chạy không
ngừng.
Hỏi : Nếu vì thế lực phiền não nghiệp trước nên mới có thân
thì những người dứt phiền não, cũng vì thế lực phiền não nghiệp
trước nên cũng phải thụ thân ?
Đáp : Cốt yếu là vì lấy lấy tướng nên thức mới trụ được.
Người nầy hết thế lực nghiệp trước, nay khéo tu môn vô tướng
giải thoát nên không thụ thân sau.
Lại như các hạt giống không sinh trên đá nóng. Như vậy lấy
lửa trí tuệ làm nóng các thức xứ thì giống thức không sinh, là dứt
không còn nối nhau đời sau.
Lại vì nhân duyên các hành không đầy đủ nên không còn nối
nhau nữa. Như trong kinh Phật nói : Thức là hạt giống, nghiệp
hành là ruộng, tham ái là nước, vô minh là che khuất. Vì nhân
duyên nầy nên thụ thân sau. A-la-hán duyên nầy không đủ nên
không có thân sau. Phải biết nhân duyên phiền não mà thụ sinh.
Lại người không phiền não, có tâm biết khổ v.v.... Nay
những người thụ sinh không thấy có những tâm nầy. Cho nên biết
người không phiền não không thể thụ sinh.
Thành Thật Luận Trang 375 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Tu-đà-hoàn v.v... có tâm biết khổ v.v... mà khi sinh
cũng không thấy có ?
Đáp : Các A-la-hán sức trí tuệ mạnh, tất cả phiền não không
thể thắng nổi, nên khi mạng sắp chết ngăn được thụ sinh. Tu-đàhoàn
v.v... trí lực không bằng, cho nên không nên đem so sánh.
Lại ông nói như răng về sau dần dần mọc, phiền não cũng
vậy. Việc đó không đúng. Bởi vì sao ? Vì các A-la-hán dùng trí
tuệ vô lậu đã đốt cháy phiền não, nên không còn thụ sinh nữa, như
hạt giống bị rang cháy không còn mọc được.
Lại hiện thấy đời nay do phiền não sinh thân, như do tham
dục mà thân sắc biến khác, giận dữ cũng vậy. Cho nên biết 5 ấm
thân đời sau cũng do từ phiền não sinh.
Hỏi : Cũng thấy do nhân duyên uống ăn v.v... có 5 ấm sinh,
mà sao không gọi uống ăn là nhân duyên thụ thân ?
Đáp : Uống, ăn nương nhờ tâm mà có thể sinh sắc v.v....
Phiền não không phải như vậy.
Lại vì không chỗ nương để sinh sắc v.v.... Cho nên biết phiền
não là nhân duyên thụ thân.
Lại hiện thấy chim sẻ v.v... nhiều dục, rắn độc v.v... nhiều
giận, heo v.v... nhiều ngu si. Phải biết các chúng sinh đó chắc
chắn đã nhóm họp dâm dục v.v... các phiền não, nên mới sinh vào
trong các loại đó.
Hỏi : Pháp sinh xứ là vậy, nhưng không phải trước đã nhóm
họp nhân duyên phiền não ?
Đáp : Nếu như vậy thì dâm dục v.v... không có nhân, điều
này không thể được. Phải biết do từ trước nhóm họp nhân duyên
nên mới có.
Lại tham giận v.v... phiền não bùng phát mạnh thì gây các tội
sát hại v.v…. Vì tội này nên hiện chịu các khổ roi gậy trói buộc.
Phiền não, nếu mỏng thì được trì giới tu thiện, làm các điều lợi ích
v.v.... Nhờ giới thiện nầy hiện được vui tiếng khen lợi dưỡng
Thành Thật Luận Trang 376 Tuệ Quang Foundation
v.v.... Nếu hiện đời này suy bại lợi lạc, là đều bởi phiền não thì
biết đời sau sẽ cũng như vậy.
Hỏi : Nếu do phiền não mà có thân, thì không có sinh tử qua
lại. Bởi vì sao ? Vì phiền não thịnh nên đọa trong ác đạo. Thân đã
chịu tội, phiền não càng tăng, hẳn không nhân giải thoát. Như vậy
không thể được sinh chỗ thiện. Nếu thụ thân phúc thì phúc lại
tăng lên, tức không còn sinh lại chỗ ác. Như vậy thì không có sinh
tử qua lại ?
Đáp : Người đó tuy đọa chỗ ác, hoặc cũng có được thiện tâm,
tuy sinh chỗ thiện hoặc cũng có khởi ác tâm, cho nên sinh tử qua
lại không dứt.
Lại tùy tham v.v... phiền não giảm ít, theo đó mà được sinh
chỗ tốt, tùy tham v.v... nhiều, theo đó mà sinh chỗ xấu, như heo
chó v.v.... Người tùy theo phiền não giảm sinh chỗ tốt, như vì
phiền não mỏng nên có thể tu bố thí, trì giới v.v... phúc sinh cõi
trời Lục Dục, vì dứt tâm dâm dục nên được vui thắng thiền, vì dứt
sắc nhiễm nên được vui thắng định, hết tất cả kết thì được vui Nêhoàn
không gì so sánh. Cho nên biết thân nầy bởi phiền não mà
có.
Lại hiện thấy chúng sinh ưa cõi nước tồi tệ, và ưa ở những
chỗ tồi tệ của người ác là đều do tham đắm. Cho nên biết chỗ ở
của chúng sinh trong sinh tử cũng do tham đắm, như con bướm
tham ánh sáng mà bị đèn đốt cháy. Sự tham đắm đó không do trí
sinh. Bởi vì sao ? Vì con bướm kia không biết lửa đèn là khổ xúc
nên mới gieo mình vào. Cũng vậy, chúng sinh bị khổ thân sau,
đều bởi nhân duyên vô minh tham ái nên mới sinh. Như cá nuốt
mồi câu; hưu nai chạy theo tiếng kêu giả của người thợ săn, đều
do tham đắm nên đến nỗi phải chết chóc.
Lại như người vì tham đắm nên đi đến phương xa lạ mà
không thể hồi hương. Phải biết đều bởi phiền não sinh ra.
Thành Thật Luận Trang 377 Tuệ Quang Foundation
Lại như cây không nhổ rễ thì cây mọc lại. Cũng như vậy rễ
tham không nhổ thì cây khổ vẫn còn. Như Phật nói : Rễ cây
không nhổ, dù chặt gốc cây vẫn còn sinh. Tham sử không nhổ,
thường thường chịu khổ.
Lại thân này là bất tịnh, vô thường, khổ, không, vô ngã, tự
không vô minh, thì làm gì có người trí mà tham thụ khổ nầy.
Giống như người mù mới có thể đem áo bẩn mà gạt là đồ quý báu.
Như vậy là bị vô minh làm mù quáng, thì có thể chịu tội lỗi 5 ấm
bất tịnh.
Lại bởi ngã tâm nên thụ thân, tuy khổ mà không thể rời bỏ.
Nếu không có ngã tâm, thì có thể xa lìa, như Xá-lợi-phất nói :
Người thanh tịnh trì giới đắc đạo, khi chết vui mừng, như phá vỡ
bát thuốc độc. Cho nên biết nhân duyên phiền não mà có thân.
Lại có người vì vô trí nên tham đắm thân nầy, như lấy chiếc
hộp sơn vẽ đựng đầy đồ bất tịnh, khi chưa mở nắp, thì thấy có thể
yêu thích, nhưng khi mở ra thì toàn là hôi thối.
Lại như rắn độc đầy trong nhà tối, khi đèn chưa soi thì sinh
lòng vui đắm, mà khi thấy thì bỏ chạy ngay. Chúng sinh cũng vậy,
tùy có vô minh thì vui thế gian, nếu khi hết vô minh thì tâm chán
lìa. Như vậy tham ái là căn bản của thụ thân. Bởi vì sao ? Vì tham
ái nên cầu. Cầu có 2 thứ là dục cầu và hữu cầu. Cầu các dục hiện
tại gọi là dục cầu, lại cầu thân sau gọi là hữu cầu. Cho nên biết
tham ái là gốc của sự thụ thân.
Lại nếu tham đắm 5 ấm tức sinh thân kiến. Như nói : Ngã
nầy là ngã ngữ thủ. Nhân thủ nầy sinh 3 thủ khác. Thủ làm nhân
duyên hữu, hữu làm nhân duyên sinh. Phải biết phiền não là căn
bản của thân.
Lại thân nầy đều khổ. Với khổ thân nầy sinh tưởng điên đảo
là vui. Do vui điên đảo nầy sinh ái điên đảo; vì ái điên đảo nầy mà
có thể thụ thân sau. Cho nên biết nhân duyên tham ái mới có thân.
Thành Thật Luận Trang 378 Tuệ Quang Foundation
Lại thân nầy nhờ nhân duyên ăn nên mới sống còn. Đắm
trước đoàn thực nên không vượt khỏi cõi Dục. Như trong Phẩm
Nghiệp nói tham hương vị nên sinh trong chuồng xí v.v.... Vì
tham đắm xúc nên sinh trong bào thai. Vì tham đắm xúc ấm mát,
nên sinh trong trứng, chỗ ướt, đều không vượt khỏi cõi Dục.
Nhân 3 thứ xúc nầy mà sinh 3 thứ thụ, nên mới nói xúc làm nhân
duyên thụ. Ý tư thực cũng như vậy. Phát nguyện muốn được thân
đời sau rằng ta sẽ làm điều này. Không thấy biết thức là gốc tham
ái, có thể khiến có thân sau. Cũng như vậy, 4 cách ăn đều do tham
ái. Tất cả chúng sinh đều nhờ ăn mà sống còn, cho nên biết ái làm
nhân duyên cho sinh.
Lại 4 loài sinh là sinh trứng, sinh thai, sinh bằng sự ẩm ướt,
và sinh bằng biến hóa. Vì ái dâm dục nên sinh trứng sinh thai.
Tham hương vị v.v... nên sinh chỗ ẩm ướt. Tùy chỗ yêu thích nên
khởi nghiệp nặng nề thì thụ hóa sinh. Cho nên biết 4 loài sinh sai
khác đều do tham ái.
Lại 4 thứ thụ thân có thứ có thể tự giết mà người khác không
thể giết, như vậy v.v... 4 thứ đều do tham ái sai khác mà có. Cho
nên biết tham ái là nhân duyên có thân.
Lại 4 thức xứ là tùy sắc thức trụ, y sắc, duyên sắc, lấy hỷ làm
nhuận thấm. Thụ, tưởng, hành cũng như vậy, mà không nói thức
là thức xứ, vì khi thức tỉnh là không phiền não. Cho nên biết phiền
não là nhân duyên có thân.
Lại 12 nhân duyên đều do vô minh. Bởi vì sao ? Vì theo tâm
giả danh gọi là vô minh. Nhân vô minh nầy mới khởi nghiệp phúc
hành, tội hành và bất động hành. Muốn an lạc chúng sinh gọi là
phúc hành, làm khổ não chúng sinh gọi là tội hành, nhiếp tâm từ
bi v.v... gọi là bất động hành. Tùy theo các hành nghiệp nầy mà
thức trụ thân đời sau. Dựa vào thức sinh danh sắc, lục nhập, xúc,
thụ. Bốn chi nầy là quả báo phiền não nghiệp đời trước.
Thành Thật Luận Trang 379 Tuệ Quang Foundation
Lại nhân ái nầy sinh ái, lấy và hữu là nghiệp phiền não có thể
sinh sinh, lão và tử đời sau. Như vậy 12 hữu phần nối nhau đều
lấy vô minh làm gốc. Cho nên biết phiền não là nhân duyên có
thân.
Lại sinh tử vô thủy, vì sao biết được ? Trong kinh nói : Từ
nghiệp nhân duyên mới có mắt v.v... các căn. Do ái có nghiệp, do
vô minh nên có ái. Vô minh do nhớ nghĩ tà vạy, nhớ nghĩ tà vạy
trở lại do mắt duyên sắc, từ si sinh. Cho nên biết sinh tử luân
chuyển không có khởi đầu.
Nếu nói do trời Tự Tại v.v... thì chẳng phải vô thủy, điều này
không thể được. Cho nên biết phiền não nhân duyên có thân.
Lại diệt hết phiền não thì được giải thoát.
Lại thân chúng sinh có nhiều tạp loại. Nếu do Tự Tại v.v...
thì lẽ ra không tạp. Vì nghiệp phiền não có nhiều thứ nên thân
cũng không phải một.
Lại 22 căn, do 6 căn sinh 6 thức. Trong đó có nam nữ căn.
Các pháp nầy nối nhau không dứt nên gọi là mạng. Mạng nầy lấy
gì làm căn ? Đó gọi là nghiệp. Nghiệp nầy do nơi phiền não.
Phiền não nương thụ, nên lấy 5 thụ làm căn. Như vậy sinh tử lần
lượt nối nhau. Nương tín v.v... các căn v.v... có thể dứt sự nối
nhau. Như vậy 22 căn qua lại sinh tử. Cho nên biết đều bởi phiền
não có thân.
Lại người cầu giải thoát mới sinh các phẩm giới định tuệ,
giải thoát, giải thoát tri kiến. Những thứ nầy dùng để làm gì ? Đều
để diệt các phiền não. Người trí thấy lợi ích đó nên mới dựa vào
các phẩm nầy. Cho nên biết là nhân duyên phiền não có thân.
Lại các phiền não thứ lớp diệt hết. Dứt 3 kết được quả Tu-đàhoàn.
Mỏng dần tham dục v.v...được quả Tư-đà-hàm. Hết kết cõi
Dục được quả A-na-hàm. Trong các thiền định cũng như vậy. Thứ
lớp tất cả đều hết thì chứng được quả A-la-hán. Như vậy tùy theo
các phiền não thứ lớp diệt nên thân cũng dần diệt theo. Nếu thân
Thành Thật Luận Trang 380 Tuệ Quang Foundation
do trời Tự Tại v.v... thì không phải dần diệt. Cho nên biết là nhân
duyên phiền não có thân.
Lại phiền não tham v.v... các người thiện đều cầu dứt diệt, vì
chắc sẽ thấy nhân duyên tham v.v... đời này đời sau bị việc suy
hại, cho nên cầu dứt. Nếu không như vậy thì không cầu dứt. Nếu
ai nói thân là do trời Tự Tại v.v..., thì người đó cũng cầu dứt tham
dục v.v.... Cho nên biết tham dục v.v... là nhân duyên có thân.
Lại người trí biết dùng trí tuệ mà được giải thoát. Có thể biết
vì do vô trí nên phải trói buộc. Cho nên biết là do nhân duyên
phiền não có thân.
Lại Phật nói trong các kinh : Diệt hết tham, và vui mừng mới
được chính giải thoát. Bởi vì sao ? Vì mắt, sắc v.v... không gọi là
trói buộc, tham và vui mừng mới gọi là trói buộc. Vì phá tham và
vui mừng, nên tâm được chính giải thoát. Chính giải thoát nên
tâm mới có thể vào Nê-hoàn. Cho nên biết là do nhân duyên phiền
não có thân.
Lại dùng không, vô tướng, vô tác mà được giải thoát. Cho
nên biết là nhân duyên phiền não có thân. Bởi vì sao ? Vì quán
các pháp trống không, tức không có tướng có thể được. Vì diệt
tướng nên không nguyện muốn thân sau. Cho nên dùng không,
làm môn giải thoát. Trái lại kia là trói buộc. Vì các lẽ trên nên biết
do phiền não mà có thân. Điều này thuyết minh đã rõ.
Hết nhóm Tập đế.
Phẩm 141 : Trước tiên lập giả danh
trong nhóm diệt đế
Luận giả nói : Diệt 3 thứ tâm gọi là diệt đế. Đó là giả danh
tâm, pháp tâm, và không tâm.
Hỏi : Làm sao diệt 3 tâm này ?
Đáp : Giả danh tâm thì hoặc dùng nhân duyên trí đa văn mà
diệt, hoặc dùng nhân duyên trí tư duy mà diệt. Pháp tâm ở trong
Thành Thật Luận Trang 381 Tuệ Quang Foundation
noãn pháp v.v... dùng không trí mà diệt. Không tâm thì vào Diệt
tận định diệt, hoặc khi vào Nê-hoàn vô dư, khi dứt nối nhau là
diệt.
Hỏi : Sao gọi giả danh ?
Đáp : Bởi các ấm có phân biệt, như bởi 5 ấm nói có người,
bởi sắc, hương, vị, xúc mới nói có cái bình v.v....
Hỏi : Vì sao lấy đó cho là giả danh ?
Đáp : Trong kinh Phật nói : Như trục, bánh xe, hòa họp nên
gọi là cái xe. Các ấm hòa họp nên gọi là người.
Lại như Phật bảo các Tì-kheo : Các pháp là vô thường, khổ,
không, vô ngã. Do nhiều nhân duyên sinh, không có tính nhất
định. Chỉ có tên gọi, chỉ có nghĩ nhớ và chỉ có tác dụng. Do 5 ấm
nầy sinh nhiều thứ tên như là chúng sinh, người, trời, v.v.... Trong
kinh đó ngăn pháp thật có, nên nói chỉ có tên gọi.
Lại Phật nói 2 đế là chân đế và tục đế. Chân đế là sắc v.v...
pháp và Nê-hoàn. Tục đế là chỉ có giả danh không có tự thể. Như
sắc v.v... nhân duyên thành cái bình, nhân duyên 5 ấm thành
người.
Hỏi : Nếu trong đệ nhất đế không có thế đế thì cần gì phải
nói ?
Đáp : Thế gian chúng sinh thụ dụng thế đế. Làm sao biết
được ? Như nói vẽ lửa người ta cũng tin nhận. Chư Phật, Hiền
thánh muốn cho thế gian lìa bỏ giả danh, nên đem thế đế giảng
nói. Như trong kinh Phật nói : Ta không tranh với thế gian, mà
thế gian tranh với ta. Vì người trí không cần tranh cãi.
Lại người thời thượng cổ vì muốn dùng sự vật, nên khi vạn
vật sinh thì đặt tên, như cái bình v.v.... Nếu trực tiếp pháp đó thì
không thể dùng được, nên nói thế đế.
Lại nếu nói 2 đế thì Phật pháp thanh tịnh. Vì đệ nhất nghĩa đế
nên người trí không hơn. Vì thế đế nên người ngu không tranh cãi.
Thành Thật Luận Trang 382 Tuệ Quang Foundation
Lại nói 2 đế thì không rơi vào đoạn, thường, không sa vào tà
kiến và bên khổ bên vui, nghiệp quả báo v.v... đều có thể thành
lập được.
Lại thế đế là căn bản giáo hóa của chư Phật, như bố thí trì
giới được quả báo sinh chỗ thiện. Nếu lấy pháp nầy điều hòa tâm
nhu thuận mới kham thụ đạo giáo, rồi sau vì nói đạo lý đệ nhất
nghĩa. Như vậy Phật pháp ban đầu không sâu gấp mà giống như
biển cả sâu dần dần, nên nói thế đế.
Lại nếu thành tựu được đạo trí tuệ, mới có thể vì nói thật
pháp. Như Phật nghĩ rằng : Tì-kheo La-hầu-la nay đã có thể thành
tựu đạo trí tuệ, sẽ vì nói thật pháp. Ví như cái ung nhọt đã chín
muồi thì dễ vỡ mà chưa muồi thì khó phá. Cũng như vậy, dùng trí
thế đế khiến tâm điều hòa nhu thuận, rồi sau mới lấy trí đệ nhất
mà phá chấp.
Lại trong kinh nói : Trước biết phân biệt các pháp, rồi sau
mới biết Nê-hoàn. Hành giả trước biết các pháp là giả danh có,
hay là chân thật có ? Sau mới có thể chứng diệt đế.
Lại các phiền não trước thô sau tế, lần lượt diệt hết, như lấy
các tướng tóc lông diệt tướng nam nữ, lấy tướng sắc v.v… diệt
tướng tóc lông. Sau mới lấy không tướng mà diệt sắc tướng v.v...,
như lấy nêm tháo nêm, cho nên nói thế đế.
Lại nhờ thế đế nên được thành lý trung đạo. Bởi vì sao ? Vì 5
ấm nối nhau sinh nên không dứt; niệm niệm diệt nên không
thường. Lìa dứt thường này gọi là trung đạo. Như trong kinh nói :
Thấy thế gian nhóm thì diệt chấp không; thấy thế gian diệt thì diệt
chấp có. Vì có thế đế nên mới có thể thấy tập, thấy diệt, cho nên
nói thế đế.
Lại vì thế đế nên Phật pháp đều thật. Nghĩa là có các môn có
ngã không ngã. Nếu vì thế đế nên nói có ngã thì không lỗi, vì đệ
nhất nghĩa nên nói không có ngã cũng là thật.
Thành Thật Luận Trang 383 Tuệ Quang Foundation
Lại vì thế đế nên có lời nạn vấn mà để đó không đáp. Nếu
đứng về thật pháp thì đều có thể đáp.
Lại nếu chấp thật có chúng sinh là đại si ám. Nếu nói thật
không, cũng đọa vào si ám. Bởi vì sao ? Vì 2 chấp có, không, nầy
là sa vào chấp đoạn thường, khiến hành giả thoát được bên có, lại
rơi vào bên không. Nếu không có thế đế thì do đâu được ra khỏi ?
Lại nếu người chưa được trí tuệ chân không, mà nói không
có chúng sinh, vậy là tà kiến, vì không chúng sinh chịu sinh tử,
nên gọi tà kiến. Nếu được không trí, nói không chúng sinh thì
không lỗi. Như trong kinh nói : A-la-hán Tì-kheo-ni hỏi ác ma
rằng : Ngươi lấy gì cho là chúng sinh ? Chỉ có nhóm 5 ấm trống
không, thật không có chúng sinh.
Lại nói thân này 5 ấm nối nhau, trống không, không có gì cả,
như trò ảo hóa dối gạt phàm phu, gọi là oán là giặc, như mũi tên,
như ung nhọt, khổ, không, vô ngã, chỉ là tướng sinh diệt bại hoại.
Hỏi : Đều là tâm không có gì cả, mà vì sao gọi là tà kiến,
hoặc gọi đệ nhất nghĩa ?
Đáp : Nếu người chưa sinh trí tuệ chân không, vì có ngã tâm
nên nghe nói vô ngã liền sinh khiếp sợ. Như Phật nói : Nếu phàm
phu nghe không, vô ngã, thì rất kinh sợ không còn làm gì nữa.
Cho nên biết chưa được không trí, vì có ngã tâm nên khiếp sợ Nêhoàn,
vậy là tà kiến. Được trí chân không, biết bản lai không, thì
không e sợ.
Lại người này chưa được chân không mà thấy không có gì
thì đọa ác kiến, tức là đoạn kiến, tà kiến. Nếu người đó trước nhờ
thế đế nên biết có ngã, tin nghiệp quả báo, sau quán tướng các
pháp vô thường sinh diệt, dần dần chứng được diệt. Không còn
ngã tâm thì diệt tâm tham. Nếu nghe nói không có gì, thì không
tội lỗi nên nói thế đế.
Lại có ngoại đạo chê Phật là Sa-môn Cù-đàm phá chân thật
Thần. Cho nên Phật nói : Ta dùng thế đế nói có chúng sinh. Ta
Thành Thật Luận Trang 384 Tuệ Quang Foundation
biết rõ trong chính kiến nói có chúng sinh qua lại sinh tử. Đó gọi
là chính kiến. Chỉ vì phàm phu tà niệm nên trong cái thật không
chúng sinh, mà nói là thật có, nên chỉ phá tà niệm nầy mà không
phá chúng sinh. Như cái bình v.v... là lấy giả danh mà nói. Trong
đó không phải sắc v.v… là cái bình, không phải rời sắc v.v... riêng
có cái bình. Cũng như vậy, không phải sắc v.v... các ấm là chúng
sinh, cũng không phải rời sắc v.v... các ấm riêng có chúng sinh.
Như do sắc v.v... quá giả danh, cũng như vậy lấy tướng diệt quá
sắc v.v..., lấy thí dụ khiến nghĩa dễ hiểu. Cũng như cái đèn vẽ,
cũng gọi là cái đèn, mà thật không có công dụng của cái đèn. Như
vậy tuy nói có cái bình, mà không phải thật có, tuy nói 5 ấm mà
không phải đệ nhất nghĩa.
Phẩm 142 : Tướng của giả danh
Hỏi : Làm sao biết các vật như cái bình v.v... là giả danh mà
có, không phải chân thật ?
Đáp : Trong giả danh, hiển thị cái tướng, trong chân thật,
không hiển thị tướng. Như nói sắc nầy là sắc của cái bình, không
nói được là sắc của sắc, cũng không nói được là thụ v.v... của sắc.
Lại đèn vì dụng cụ của sắc có thể soi, dụng cụ của xúc có thể
đốt. Thật pháp không thấy như vậy. Bởi vì sao ? Vì thức không vì
khác dụng cụ thức, thụ cũng không vì khác dụng cụ thụ. Cho nên
biết có dụng cụ là giả danh có.
Lại nhân pháp khác mà thành tên, giả danh là có, như nhân
sắc v.v... thành cái bình. Thật pháp thì không nhân pháp khác mà
thành. Bởi vì sao ? Vì như thụ không nhân pháp khác mà thành.
Lại giả danh có nhiều sở năng, như đèn có thể soi có thể đốt.
Thật pháp không thấy như vậy. Bởi vì sao ? Vì như thụ không thể
vừa thụ vừa thức.
Lại tên cái xe ở trong bánh xe, trục xe v.v.... mà tên gọi sắc
v.v... không ở trong vật. Có sai khác như vậy.
Thành Thật Luận Trang 385 Tuệ Quang Foundation
Lại bánh xe, trục xe v.v... là nhân duyên thành cái xe, trong
đó không có tên cái xe. Vậy thì trong nhân duyên cái xe không có
pháp cái xe, mà chỉ nhờ đó thành xe. Cho nên biết cái xe là giả
danh.
Lại như vì tên gọi sắc v.v... được nói là sắc v.v..., mà tên gọi
cái bình v.v... không được nói cái bình v.v.... Cho nên biết cái
bình v.v... là giả danh.
Lại có trong giả danh tâm động không định. Như người thấy
con ngựa, hoặc nói thấy đuôi con ngựa, hoặc nói thấy thân con
ngựa, hoặc nói thấy da, hoặc nói thấy lông. Hoặc nói nghe tiếng
đàn tranh, hoặc nói nghe tiếng đàn huyền. Hoạc nói ngửi hoa,
hoặc nói ngửi mùi thơm của hoa. Hoặc nói nếm bơ, hoặc nói nếm
vị bơ. Hoặc nói chạm phải người, hoặc nói chạm thân người, hoặc
nói chạm cánh tay người, hoặc nói chạm tay người, hoặc nói chạm
ngón tay người, hoặc nói chạm đốt ngón tay. Ý thức đối với trong
chúng sinh v.v... động, bảo thân là chúng sinh, tâm là chúng sinh.
Sắc v.v... là cái bình, rời sắc v.v... có bình. Như vậy v.v... trong
thật pháp tâm định không động. Không được nói tôi thấy sắc cũng
thấy tiếng v.v....
Lại trong pháp khả tri v.v... bất khả thuyết cũng gọi là có, vì
đó là giả danh như cái bình, cho nên biết cái bình v.v… là giả
danh có. Bởi vì sao ? Vì các pháp như sắc v.v... không gọi là bất
khả thuyết trong các pháp khả tri v.v...
Lại như pháp sắc v.v... là tự tướng khả thuyết mà cái bình
v.v... là tự tướng bất khả thuyết. Cho nên biết là giả danh có. Hoặc
có thuyết nói tướng giả danh là tướng ở những chỗ khác, không ở
trong giả danh. Như trong kinh nói : Nghiệp là trí, tướng là chẳng
có trí. Nếu thân khẩu ý có thể khởi nghiệp thiện gọi là trí, mà thân
khẩu ý khởi nghiệp bất thiện gọi là chẳng phải trí. Thân nghiệp
khẩu nghiệp nương 4 đại, ý nghiệp nương tâm. Ba việc nầy vì sao
Thành Thật Luận Trang 386 Tuệ Quang Foundation
gọi là tướng của trí, tướng của chẳng phải trí ? Cho nên biết giả
danh không có tự tướng.
Lại tướng giả danh tuy ở các chỗ khác cũng không phải một.
Như nói người chịu khổ não như mũi nhọn đâm vào tâm não hoại
là sắc tướng.
Lại thụ là thụ tướng, cũng đối với người mà nói. Như Phật
nói : Người trí người ngu đều thụ khổ vui mà người trí trong khổ
vui không sinh tham giận, lấy nhiều ít v.v...Tướng là tướng tưởng,
cũng đối với người mà nói. Như nói tôi thấy ánh sáng, thấy sắc tác
khởi, đó là tướng của hành. Cũng với người mà nói. Như nói
người nầy khởi tác phúc hành, cũng khởi tội hành và bất động
hành. Thức là thức tướng, cũng với người mà nói, như nói người
trí biết pháp như lưỡi nếm vị. Cho nên nếu ở các chỗ khác mà nói
cũng có nhiều tướng là tướng giả danh. Tướng sắc v.v... không ở
các chỗ khác, cũng không nhiều tướng.
Lại nếu pháp bị tất cả thứ sử sai khiến, là giả danh có. Thật
pháp không bị sử sai khiến, vì các sử sai khiến người.
Lại trong giả danh không sinh biết, mà trong sắc v.v... trước
sinh biết, sau do tà tưởng phân biệt nói tôi thấy cái bình v.v....
Lại trong cái bình, cái biết cần đợi sắc v.v.... Bởi vì sao ? Vì
nhân sắc, hương, vị, xúc mới gọi là cái bình, mà cái biết trong thật
pháp lại không cần đợi gì cả.
Lại trong giả danh sinh nghi, như nghi là thân cây trơ trụi,
hay là con người ? Mà trong sắc v.v... không sinh nghi là sắc hay
là thanh.
Hỏi : Trong sắc v.v... cũng có nghi là có sắc hay không có
sắc ?
Đáp : Không phải vậy. Nếu thấy sắc quyết chắc thì không
nghi là âm thanh.
Thành Thật Luận Trang 387 Tuệ Quang Foundation
Lại vì các nhân duyên khác nên mới nghi có sắc không sắc.
Như nghe nói sắc không mà lại thấy sắc thì sinh nghi nói là có hay
là không. Nếu thấy được diệt đế thì nghi nầy liền dứt.
Hỏi : Trong diệt đế cũng có nghi là có diệt hay là không diệt
?
Đáp : Trong sở chấp sinh nghi chứ không phải trong diệt đế.
Như nghe chấp có diệt, cũng chấp không diệt, trong đó sinh nghi
là có hay là không. Người nầy bấy giờ không thấy diệt đế. Bởi vì
sao ? Vì người thấy diệt đế không còn nghi. Cho nên biết chỗ sinh
nghi là giả danh có.
Lại trong một vật được sinh nhiều nhận thức. Đó là giả danh
có, như bình v.v.... Trong thật pháp không có như vậy. Bởi vì sao
? Vì trong sắc không sinh nhĩ thức v.v...
Lại nhiếp thuộc nhiều nhập, là giả danh có, như cái bình
v.v.... Cho nên có người nói giả danh gồm có 4 nhập. Thật pháp
không được nhiếp thuộc nhiều nhập.
Lại nếu không tự thể mà có thể có tạo tác, là giả danh có.
Như nói người tạo tác mà thể của người và thể của nghiệp không
thể được.
Lại có bao nhiêu phân biệt là người oan người thân v.v...,
đều là giả danh chứ không phải thật pháp có. Bởi vì sao ? Vì nếu
chỉ thẳng ở trong pháp sắc v.v... thì không sinh tưởng người oan
người thân gì cả.
Lại đi lại v.v..., đoạn hoại v.v..., đốt nát v.v... có bao nhiêu
việc ra làm, đều là giả danh không phải thật pháp mà có. Bởi vì
sao ? Vì thật pháp không đốt, không phá hoại.
Lại các nghiệp tội phúc đều giả danh có. Bởi vì sao ? Vì sát
sinh v.v... là tội, mà lìa sát sinh v.v... là phúc, đều không phải thật
có.
Lại giả danh có đối đãi nhau mới thành, như đây kia, nhẹ
nặng, dài ngắn, lớn nhỏ, thầy trò, cha con và sang hèn v.v.... Thật
Thành Thật Luận Trang 388 Tuệ Quang Foundation
pháp không có đối đãi mà thành. Bởi vì sao ? Vì sắc không đợi
các vật khác để thành âm thanh v.v....
Lại không nhờ không, mà phá là giả danh có, như dựa vào
cây phá rừng, dựa vào gốc rễ phá cây, dựa vào sắc v.v... phá gốc
rễ. Nếu lấy không mà phá là thật pháp có. Như sắc v.v... cần lấy
không mà phá.
Lại tùy không hành xứ là giả danh có. Tùy vô ngã hành xứ là
thật pháp có.
Lại có 4 lối lập luận : 1. Một. 2. Khác; 3. Bất khả thuyết. 4.
Không. Bốn thứ lập luận này đều có lỗi. Cho nên biết cái bình
v.v... là giả danh có. Một, là sắc, hương, vị, xúc tức là cái bình.
Khác, là lìa sắc v.v... riêng có cái bình. Bất khả thuyết, là không
thể nói sắc v.v... là cái bình, hay lìa sắc v.v... riêng có cái bình.
Không, là không có cái bình nầy. Bốn lối lập luận nầy đều không
đúng. Cho nên biết cái bình là giả danh.
Phẩm 143 : Phá chấp cho là một
Hỏi : Chấp này trong 4 lối lập luận có lỗi gì ?
Đáp : Lỗi lập luận cho là một, là sắc v.v... các pháp, tướng
đều sai biệt.
Nếu là một, thì cái bình không có được.
Lại sắc v.v... mỗi mỗi không gọi là địa, thì hòa hợp lại làm
sao thành địa được ? Bởi vì sao ? Vì như mỗi mỗi con ngựa không
gọi là con bò, thì hợp lại làm sao thành bò được ?
Hỏi : Như mỗi mỗi hạt mè không thể thành đống mè, mà hòa
hợp là có thể thành đống mè. Như vậy sắc v.v... mỗi mỗi không
thể thành địa, mà hòa hợp lại thì thành ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì đống mè là giả danh
có, còn lập luận cho là một v.v... là luận trong thật pháp, làm sao
đem ví dụ được !
Thành Thật Luận Trang 389 Tuệ Quang Foundation
Lại sắc, hương, vị, xúc là 4 pháp, mà địa là 1 pháp, 4 không
phải là 1. Nếu 4 là 1 thì 1 cũng phải là 4 ? Việc đó không thể
được. Cho nên biết sắc v.v... không tức là địa.
Lại thế gian đều nói địa sắc, địa hương, địa vị, địa xúc, mà
không thấy nói là sắc sắc, mà cần lấy pháp khác để chỉ cho nhau,
như nói nhà người nào đó v.v....
Hỏi : Đó không lấy pháp khác chỉ cho nhau, mà tức lấy tự
pháp tự chỉ, như tay chân người bằng đá. Bởi vì sao ? Vì lìa tay
chân lại không có người đá. Như vậy tuy không lìa sắc v.v... là
địa, mà cũng lấy tự thể tự chỉ, đâu có lỗi gì ?
Đáp : Nếu nói địa lấy sắc v.v... tự hiển thị là không có lý nầy.
Ông tuy nói thí dụ người đá, nhưng thí dụ nầy không đúng. Bởi
vì sao ? Vì như khi chỉ tay người đá, phải lấy các thân phần khác
mới thành người đá.
Lại giữa hư không cũng nói có, như khi nói thân người đá,
bấy giờ người đá lại không còn có nữa, mà cũng nói được. Như
Phật nói trong thân này có tóc lông máu thịt v.v..., lìa tóc đây
v.v... lại không có thân. Chỗ nương ở của tóc nầy v.v... tuy không
có chỗ nương riêng mà cũng có thể nói. Cho nên biết nói người đá
cũng là nói không đúng. Nếu ông cho người đá thành địa, cũng
không thành địa được. Trong kinh của ông nói có sắc, hương, vị,
xúc là địa. Địa nầy tức không phải như thân, cho nên biết sắc,
hương, vị, xúc không phải là địa.
Lại trong các Cầu-na không thể hiển thị cho nhau được, vì
không được nói sắc này có hương, mà chỉ nói địa có sắc, hương,
vị, xúc. Cho nên biết không phải là một.
Lại sắc tâm v.v... với địa tâm đều khác. Cho nên biết sắc
v.v... không phải địa.
Lại sắc v.v... tên khác, địa tên cũng khác.
Hỏi : Tâm khác, tên khác, đều ở trong hòa hợp mà có khác ?
Thành Thật Luận Trang 390 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu tâm và tên chỉ là hòa họp mới có, mà hòa họp chỉ
là tên gọi. Vậy thì địa chỉ có tên gọi, không thể luận là một.
Lại địa có thể lấy tất cả căn mà biết. Làm sao biết được ? Vì
có người nghĩ như vầy : Ta thấy địa, ngửi địa, nếm địa và chạm
xúc địa. Nếu sắc, hương, vị, xúc là địa, thì không nên chỉ trong
sắc sinh tưởng về địa mà bảo là ta thấy địa. Hưong v.v... cũng như
vậy, mà thật chỉ trong sắc mới sinh tưởng về địa. Cho nên biết
không phải sắc v.v... là địa. Chỉ nhờ nhân duyên tên gọi, trong
một phần cũng có thể nói tên gọi giả danh. Như người chặt cây,
cũng nói chặt cây, cũng nói chặt rừng.
Lại bên các Cầu-na khác với Đà-la-phiêu. Trong đó có bao
nhiêu nhân duyên, vì nhân duyên đó mà không thành luận cho là
một.
Lại người phái Tăng-khư nói 5 Cầu-na là địa. Đó cũng
không đúng. Bởi vì sao ? Vì như trước đã nói tiếng lìa sắc v.v...
niệm niệm diệt, rồi nối nhau sinh lại, mà không phải nhân để
thành 4 đại. Cho nên biết không phải tất cả 4 đại đều có âm thanh.
Phẩm 144 : Phá chấp cho là khác
Hỏi : Trong lập luận chủ trương cho là khác có những lỗi gì ?
Đáp : Lìa pháp sắc v.v... lại không còn địa. Làm sao biết
được ? Vì không lìa sắc, hương, vị, xúc sinh tâm biết địa, chỉ
trong pháp sắc v.v... mà sinh tâm. Bởi vì sao ? Vì như sắc khác,
thanh v.v... khác, không đợi thanh v.v... mà sinh tâm biết sắc. Nếu
lìa sắc v.v... riêng có địa thì cũng nên không đợi sắc v.v... sinh
tâm biết địa. Mà thật không phải không đợi. Cho nên không riêng
có địa.
Hỏi : Không phải không đợi các pháp khác, cần đợi sắc
tướng mới sinh tâm biết sắc ?
Đáp : Đến Phẩm phá tướng chung sẽ nói. Lìa sắc không
riêng có sắc tướng, cho nên không phải vậy.
Thành Thật Luận Trang 391 Tuệ Quang Foundation
Lại khác với pháp địa v.v... không căn có thể biết. Cho nên
biết không riêng có địa v.v....
Hỏi : Địa v.v... dùng 2 căn có thể lấy, là thân căn và nhãn
căn. Vì sao biết được ? Vì mắt thấy biết là cái bình, hoặc lấy thân
căn chạm xúc cũng biết là cái bình. Cho nên ông nói không căn
lấy địa. Điều này không đúng ?
Đáp : Nếu như vậy thì cái bình là 4 căn lấy, nghĩa là cũng
dùng tĩ căn ngửi đất bùn, thiệt căn nếm đất bùn.
Hỏi : Tĩ căn thiệt căn không thể lấy lấy cái bình. Bởi vì sao ?
Vì trong tối không thể phân biệt là ngửi cái bình hay ngửi cái
chậu, nếm cái bình, hay nếm cái chậu ?
Đáp : Tuy không thể phân biệt là cái bình hay cái chậu,
nhưng ở trong đất bùn sinh biết là ngửi bùn nếm bùn.
Lại nếu chôn cái bình để ló miệng, hoặc thấy, hoặc chạm
không thể biết chắc là cái bình hay là cái vò hay là miếng sành.
Cho nên biết nhãn căn thân căn cũng không thể lấy được cái bình.
Lại trong tối tuy sinh tâm biết cái bình, mà không thể phân
biệt là cái bình vàng hay bình bạc. Cho nên biết nhãn căn thân căn
cũng không thể lấy được cái bình.
Lại tĩ căn thiệt căn có thể lấy được các pháp như hoa quả bơ
sữa v.v... , mà nhãn căn thân căn thì không thể lấy được. Như thấy
hoa v.v... không thể phân biệt biết thơm, hôi, tốt, xấu và ngọt,
chua v.v.... Cho nên nếu bảo nhãn căn thân căn biết Đà-la-phiêu,
mà tĩ căn thiệt căn không biết là không có chuyện đó. Như tĩ căn
thiệt căn không thể khác với Đà-la-phiêu mà vẫn riêng có phân
biệt. Nhãn căn thân căn cũng như vậy, tuy không khác với Đà-laphiêu
mà cũng phân biệt được.
Lại trong 5 căn không có lấy giả danh mà biết. Cho nên biết
giả danh không phải sở đắc của các căn mắt, thân, mũi, lưỡi, mà
trong căn thứ 6 có biết giả danh. Bởi vì sao ? Vì ý thức có thể
duyên tất cả pháp.
Thành Thật Luận Trang 392 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu mắt có thể thấy sắc, mà cũng thấy phi sắc, thì lẽ ra
cũng phải có thể thấy được âm thanh v.v...? Nếu vậy thì không
còn cần tai v.v... các căn. Việc đó không thể được. Cho nên không
đem nhãn căn thân căn lấy Đà-la-phiêu.
Hỏi : Do sắc mới rõ Đà-la-phiêu thì mắt có thể thấy, chứ
không phải tất cả những gì khác với sắc pháp đều có thể thấy.
Đáp : Do sắc nên rõ cái bình, việc đó không đúng. Bởi vì
sao ? Vì cái gì làm ra sắc của cái bình chỉ là hòa hợp. Cho nên
không phải sắc làm rõ cái bình.
Lại nếu vì pháp có thể thấy rõ các pháp khác, khiến có thể
thấy là vì cái bình v.v... pháp không thể thấy rõ sắc, sắc cũng phải
là không thể thấy.
Lại cái bình cần 2 thứ là vừa có thể thấy vừa không thể thấy.
Vì là pháp có thể thấy, vừa không thể thấy rõ.
Lại nếu cần vì pháp sắc v.v... rõ, nên nhãn căn v.v... có thể
biết, thì sắc tướng không nên là cái bị biết của nhãn căn. Bởi vì
sao ? Vì pháp của ông do sắc tướng nên sắc mới có thể thấy. Sắc
tướng nầy lại không có tướng. Vậy thì sắc tướng lẽ ra không thể
thấy. Cho nên không đúng.
Lại nếu vì sắc rõ nên có thể thấy, thì các căn đều phải biết
Đà-la-phiêu; nhĩ căn cũng phải biết hư không, vì âm thanh rõ.
Lại người phải lấy thân căn biết gió, vì xúc rõ, mà pháp của
ông không phải như vậy. Cho nên không có pháp rõ nầy.
Hỏi : Các pháp khác cũng không thể làm rõ, chỉ sắc có thể
làm rõ ?
Đáp : Không phải vậy. Trong đó không có nhân duyên chỉ
nói sắc có thể làm rõ, mà các pháp khác lại không thể. Như ông
nói Đà-la-phiêu lớn nhiều, trong đó sắc có thể thấy. Như vậy thì
nhân sắc nên được sắc, lẽ ra phải lấy sắc tướng để rõ sắc, rồi sau
mới có thể được, không chỉ có sắc có thể làm rõ. Nếu nói như vậy
cũng không tránh khỏi lỗi như trước.
Thành Thật Luận Trang 393 Tuệ Quang Foundation
Lại khi khác thời sinh tâm biết sắc thì khác thời sinh tâm biết
cái bình. Cho nên dù cho sắc có thể rõ, đối với cái bình có ích gì ?
Lại như người mù vì quen thuộc với cái bình, nên tuy mất
nhãn căn, chỉ cần chạm xúc cũng biết cái bình. Cho nên không
phải chỉ có sắc có thể làm nhân cho thấy.
Lại người mù thân căn cũng có thể biết gió, cho nên không
phải chỉ sắc rõ, mới có thể sinh tâm biết.
Lại trong kinh của ông cũng nói cái xúc đến chạm xúc thân
không phải là địa, thủy, hỏa. Phải biết cái tướng không thể thấy đó
là gió. Đó cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì người mù khi biết gió
nầy, cũng không biết cái xúc nầy là có thể thấy hay không thể
thấy.
Lại người mắt thấy các pháp số lượng, trong đó không có cái
biết về sắc, có nghe hương cũng biết được pháp không phải
hương, nếm vị cũng có thể biết được pháp không phải vị. Cho nên
phải do sắc rõ Đà-la-phiêu, rồi sau mới biết được. Việc đó không
đúng.
Hỏi : Nếu sắc rõ trong cái thấy không phải nhân, nếu số
lượng các pháp, ở trong Đà-la-phiêu không thể thấy và gió lẽ ra
cũng thấy được ?
Đáp : Pháp của tôi, lìa sắc thì không còn có pháp nào có thể
thấy được. Cho nên tùy trong pháp nào đó có sắc sinh thì mắt có
thể thấy. Mắt đã thấy sắc rồi tức sinh tưởng cái bình. Nếu trong
pháp không sắc sinh, thì trong đó dù có mắt vẫn không sinh tưởng
có khác với cái bình. Cho nên, nếu lìa sắc v.v... riêng có cái bình
là không có lý lẽ nầy.
Phẩm 145 : Phá chấp cho là bất khả thuyết
Hỏi : Trong lập luận cho là bất khả thuyết có những lỗi gì ?
Đáp : Thật pháp không có trong các lập luận cho là một, là
khác, là bất khả thuyết. Bởi vì sao ? Vì không có nhân duyên thí
Thành Thật Luận Trang 394 Tuệ Quang Foundation
dụ cho rằng cái biết này là bất khả thuyết. Vì sắc v.v... pháp thật
có, nên không phải bất khả thuyết.
Lại các pháp đều có tướng của chính nó, như não hoại là
tướng của sắc mà không có tướng nào khác, sao gọi là bất khả
thuyết ?
Lại tùy nhận thức sai khác nên pháp mới có sai khác, như
dùng nhãn thức biết màu sắc, không biết âm thanh v.v.... Cho nên
trong đó không có cái gọi là bất khả thuyết.
Lại sắc là nhiếp thuộc về sắc nhập, không phải nhiếp thuộc
về thanh v.v.... Nếu ông muốn cho có cái bất khả thuyết đó, thì
sắc nầy là sắc khả thuyết, hay sắc nầy là phi sắc bất khả thuyết ?
Thanh v.v... cũng như vậy.
Lại các pháp có số thứ lớp, nếu là bất khả thuyết, thì các
pháp không có số. Bởi vì sao ? Vì thứ nhất thứ hai không có khác
nhau. Cho nên biết thật sự không có pháp gọi là bất khả thuyết.
Chỉ ở trong giả danh gọi là một, là khác, nên mới nói là bất
khả thuyết.
Phẩm 146 : Phá chấp không
Hỏi : Trong lập luận cho là không, thì có những lỗi gì ?
Đáp : Nếu không thì không có quả báo tội phúc v.v..., không
có tất cả các pháp trói buộc, giải thoát v.v...
Lại nếu chấp không, không có gì hết, thì cái chấp đó cũng
không có nốt, bởi không có ai nói điều đó và không có ai nghe
điều đó.
Lại lập luận có, không v.v... đều bởi tin mới nói. Hoặc tin do
hiện thấy biết, hoặc tin do so sánh biết, hoặc theo kinh sách mà
biết. Nếu nói không có gì hết, thì không ở trong 3 trường hợp nầy.
Ý ông hoặc bảo tôi theo kinh sách. Điều này cũng không
đúng. Vì ý trong kinh sách cũng khó hiểu. Hoặc khi nói có, hoặc
Thành Thật Luận Trang 395 Tuệ Quang Foundation
khi nói không, làm sao tin được ? Nếu tin do so sánh biết, thì
trước phải hiện thấy rồi sau mới so sánh biết.
Lại pháp cái bình v.v... nay hiện thấy có, vì có thể sinh tâm
biết. Tùy có thể sinh tâm thì pháp nầy có, nên chẳng phải không.
Lại nay cái bình, cái chậu v.v... hiện có sai khác, nếu tất cả là
không, thì đâu có sai khác ? Ý ông hoặc bảo vì tà tưởng nên có
phân biệt đó. Vậy sao không ở giữa hư không mà phân biệt cái
bình v.v....
Lại nếu ông bảo vì si nên sinh tâm biết vật đó. Nếu tất cả là
không, thì cái si nầy cũng không, lấy đâu mà khởi ?
Lại ý ông bảo tất cả pháp là không, thì biết do duyên nào mà
sinh ? Các cái biết không lẽ không có duyên mà sinh ? Vì biết vật
nên gọi là biết. Cho nên biết không nên nói không.
Lại nếu là đều không, thì nay tất cả người đời đều tùy ý ra
làm. Những người thiện đều vui các pháp thiện như bố thí trì giới
nhẫn nhục, xa lìa các pháp bất thiện. Cho nên biết chẳng phải
không.
Lại pháp cái bình v.v... hiện nay có thể biết, mà ông nói hiện
tại đều không có. Nếu không có pháp thì cũng không nên tin kinh
sách. Vậy do nhân duyên gì mà nói tất cả không ? Tất cả không,
việc này cần phải thuyết minh. Nếu không thể dùng nhân duyên
để thuyết minh, thì chỗ chấp của người ta tự nhiên phải được
thành lập. Luận của người ta được thành lập, thì pháp của ông
phải bị phá. Nếu có nhân duyên có thể thành, thì không gọi là
không.
Phẩm 147 : Thành lập không
Người lập luận cho là không, nói : Tuy ông dùng ngôn thuyết
phá không, nhưng thật sự các pháp không có, vì các căn trần đều
không thể được. Bởi vì sao ? Vì trong các pháp không có hữu
phần có thể lấy. Cho nên tất cả pháp là không thể lấy, vì không
Thành Thật Luận Trang 396 Tuệ Quang Foundation
thể lấy cho nên là không. Nếu ông bảo hữu phần tuy không thể
lấy, nhưng các phần có thể lấy. Điều này không đúng. Trong các
phần không sinh tâm. Bởi vì sao ? Vì các vật thô như cái bình
v.v... là có thể lấy.
Lại phần không làm hữu phần. Bởi vì sao ? Vì nhân hữu
phần nên mới nói phần, mà hữu phần là không, nên phần cũng
không.
Lại Đà-la-phiêu, Cầu-na không phần, cho nên không phần.
Lại nếu thấy phần vi tế, thì phải thường sinh phần tâm, mà
không sinh tâm biết cái bình. Bởi vì sao ? Vì nếu thường nghĩ
phần, thì phải hoàn toàn không sinh tâm biết cái bình.
Lại nếu trước nhớ phần, sau sinh tâm biết cái bình, thì tâm
biết cái bình phải lâu mới sinh, mà thật không phải lâu mới sinh,
cho nên không nghĩ nhớ phần.
Lại nếu thấy cái bình không sinh tâm phần phân biệt, tức
sinh tâm biết bình.
Lại không có tất cả phần. Bởi vì sao ? Vì tất cả phần đều có
thể chia tách tan nát cho đến thành vi trần, rồi mới phá vi trần
chung qui đều không có.
Lại tất cả các pháp rốt ráo ắt sinh không trí. Cho nên trong đệ
nhất nghĩa các phần đều không.
Lại nếu nói phần, thì phá 2 đế lý. Bởi vì sao ? Vì ai nói
không có hữu phần mà chỉ có các phần, thì không có các nghiệp
khứ, lai, kiến, đoạn v.v... . Như vậy là không có thế đế. Ông cho
đệ nhất nghĩa là không. Trong đệ nhất nghĩa cũng không có các
phần. Cho nên biết chỉ nói các phần thì không vào 2 đế. Mà vi
không vào trong 2 đế nên không có.
Lại nếu pháp có thể vượt qua tức là không có, như nhân phần
vượt qua hữu phần rồi cũng lại nhân các phần khác vượt qua phần
trước. Vì có thể qua nên không có phần luận nầy.
Thành Thật Luận Trang 397 Tuệ Quang Foundation
Lại sắc v.v... cũng không. Bởi vì sao ? Vì mắt không thể thấy
sắc vi tế, ý không thể lấy sắc hiện tại. Cho nên sắc không thể lấy
được.
Lại nhãn thức không thể phân biệt sắc nầy. Ý thức ở quá
khứ, không ở trong sắc, nên không có khả năng phân biệt được
sắc. Vì không phân biệt, nên sắc không thể lấy.
Lại thức đầu tiên không thể phân biệt sắc, thì thức thứ hai
v.v... cũng như vậy. Cho nên không có khả năng phân biệt được
sắc.
Hỏi : Nhãn thức lấy sắc, rồi sau mới đem ý thức nghĩ nhớ,
cho nên chẳng phải không phân biệt ?
Đáp : Nhãn thức thấy sắc xong liền diệt, kế đó mới sinh ý
thức. Ý thức nầy không thấy sắc. Không thấy làm sao có thể nhớ ?
Nếu không thấy mà có thể nhớ, thì người mù cũng phải nhớ sắc,
mà thật ra không nhớ ? Cho nên ý thức không thể nhớ.
Hỏi : Từ nhãn thức sinh ý thức, cho nên có thể nghĩ nhớ ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì tất cả tâm sau, đều
nhân nhãn thức sinh. Vậy thì lẽ ra đều có thể nhớ ?
Lại quyết không được quên, vì từ nó sinh, mà thật không
phải như vậy. Cho nên biết ý thức cũng không thể nhớ. Như nhớ
hư vọng, lấy sắc cái bình v.v... vạn vật cũng đều hư dối, không mà
vọng lấy. Cho nên không có tất cả vật.
Lại nếu nói mắt thấy là đến sắc thấy hay không đến mà có
thể thấy ? Nếu đến thì không thể thấy, vì mắt không có tướng đi.
Điều này trước đã nói rõ. Nếu không đến mà thấy lẽ ra phải thấy
sắc tất cả các nơi. Mà thật ra là không thấy. Cho nên biết chẳng
phải không đến có thể thấy.
Hỏi : Sắc ở cảnh bị biết thì mắt có thể thấy ?
Đáp: Cảnh bị biết là thế nào ?
Hỏi : Tùy khi mắt có thể thấy gọi là cảnh biết ?
Thành Thật Luận Trang 398 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu mắt không đến cũng gọi là cảnh biết, thì sắc tất cả
chỗ phải đều là cảnh biết. Cho nên đến và không đến đều không
thể thấy. Cho nên biết sắc là không thể thấy.
Lại nếu trước có mắt và sắc, sau nhãn thức mới sinh, thì nhãn
thức nầy không chỗ nương và duyên. Nếu đồng thời thì không gọi
mắt và sắc làm nhân duyên sinh thức, vì đồng thời không làm
nhân cho nhau được.
Lại mắt là 4 đại, nếu mắt có thể thấy, thì tai v.v... lẽ ra cũng
có thể thấy, vì đồng là 4 đại. Sắc cũng như vậy.
Lại nhãn thức nầy nên hoặc có chỗ, hoặc không chỗ cả hai
đều có lỗi. Bởi vì sao ? Vì nếu nhãn thức nương vào mắt thì có
chỗ, nếu vật không chỗ thì không nương đâu được. Nếu ông bảo
thức sinh một chỗ phần ít nơi mắt, hoặc khắp sinh, hoặc trong 2
mắt đồng thời sinh thức thì có chỗ. Mà có chỗ tức là hữu phần.
Như vậy thì do nhiều thức, mà thành một thức. Có những lỗi như
vậy, và cũng có lỗi nhiều thức đồng thời sinh.
Lại mỗi mỗi phần thức không thể biết được hữu phần đó, mà
lẽ ra phải biết. Mà thật ra là không có hữu phần. Có những lỗi như
vậy. Nếu không chỗ thì không nên nương mắt.
Phẩm 148 : Phá chấp về âm thanh
Người nói không, nói : Một lời cũng không có. Bởi vì sao ?
Vì tâm niệm niệm diệt, âm thanh cũng niệm niệm diệt. Như nói
Phú-lâu-sa, lời nầy không thể nghe. Bởi vì sao ? Vì vừa nghe Phú
thì thức không nghe Lâu, nghe Lâu thì thức không nghe Sa.
Không có một thức có thể lấy cả 3 lời. Cho nên không có thức có
thể lấy một lời. Cho nên biết âm thanh không thể nghe.
Lại tản tâm nghe tiếng, định tâm không thể nghe, vì sở tri
của định tâm là thật. Cho nên tiếng không thể nghe.
Lại tiếng nầy, hoặc đến hoặc không đến đều không thể nghe,
vì không thể nghe nên không tiếng.
Thành Thật Luận Trang 399 Tuệ Quang Foundation
Lại có người nói : Tai là tính của hư không, vì nó không vật
nên gọi hư không. Cho nên không tai. Không tai nên không tiếng.
Lại nhân duyên của tiếng là không. Cho nên không tiếng.
Nhân duyên của tiếng là các đại hòa hợp, pháp hòa hợp này là
không thể được. Bởi vì sao ? Vì nếu thể của các pháp có khác thì
không hòa hợp. Nếu thể không khác làm sao tự hợp. Dù ở một
chỗ cũng niệm niệm diệt. Cho nên hòa hợp không được.
Phẩm 149 : Phá chấp về hương vị xúc
Hương không thể lấy. Bởi vì sao ? Vì tĩ thức không thể phân
biệt là hương Chiêm-bặc là hương Chiêm-bặc hay các thứ hương
khác. Ý thức không thể nghe hương, cho nên ý thức cũng không
thể phân biệt là hương Chiêm-bặc.
Hỏi : Tuy không thể phân biệt là hương Chiêm-bặc, nhưng
có thể lấy hương ?
Đáp : Không phải vậy. Như người không được cây Chiêmbặc,
vì ngu si nên tâm sinh cây Chiêm-bặc. Như vậy không được
hương thể, vì ngu si nên sinh tâm hương.
Lại như trước đã nói hương hoặc đến, không đến mà lấy, hai
lẽ đều có lỗi. Cho nên không hương. Vị cũng như vậy. Xúc cũng
không. Bởi vì sao ? Vì trong phần vi trần v.v... còn không sinh
biết xúc, như trước đã nói. Cho nên không có xúc.
Phẩm 150 : Phá chấp về ý thức
Ý thức cũng không thể lấy pháp. Bởi vì sao ? Vì ý thức
không thể lấy sắc hương vị xúc ở hiện tại, như trước đã nói quá
khứ vị lai thì không có. Cho nên ý thức không lấy sắc v.v....
Hỏi : Nếu ý thức không biết pháp sắc v.v..., thì phải biết tự
thể.
Đáp : Pháp không tự biết. Bởi vì sao ? Vì hiện tại không thể
tự biết, như cái dao không thể tự cắt mình. Còn quá khứ vị lai vì
Thành Thật Luận Trang 400 Tuệ Quang Foundation
không pháp nên cũng không có tâm nào khác. Cho nên ý thức
không thể tự biết.
Hỏi : Nếu ai khi biết tâm người khác, tức ý thức có thể biết
tâm pháp ?
Đáp : Như người tâm không tự biết, mà cũng khởi ý nghĩ
như vầy: Ta có tâm ở trong tâm người khác, cũng lại như vậy.
Lại nếu pháp vị lai không, cũng có thể sinh biết tâm người
khác. Nếu vậy có lỗi gì ?
Lại ý thức có thể duyên pháp thì có nhiều lỗi. Như ý đến
duyên, và ý thức không đến duyên, không nên nhớ sắc v.v..., vì
các lỗi này nên ý thức không biết pháp.
Phẩm 151 : Phá chấp về nhân quả
Người nói không, nói : Nếu có quả lẽ ra trong nhân trước
phải có Cầu-na mới sinh, hay trước không Cầu-na mà sinh ? Cả 2
đều có lỗi. Như trong 2 tay trước không tiếng mà có thể có tiếng.
Trong nhân rượu, trước không rượu cũng có thể sinh rượu. Trong
nhân xe, trước không xe mà có thể thành xe. Cho nên không phải
trong nhân trước có Cầu-na mà sinh quả. Nếu ông bảo trong nhân
trước không Cầu-na mà sinh quả, thì như vi trần của gió không
sắc, phải có thể sinh sắc ? Nếu vậy thì gió có sắc. Trong kim
cương v.v... cũng phải có mùi thơm.
Lại hiện thấy chỉ trắng thì thành vải trắng, chỉ đen thì thành
vải đen. Nếu trong nhân trước không Cầu-na mà sinh quả đó thì vì
sao chỉ trắng vẫn thành trắng mà không thành đen ư ? Cho nên
không phải trong nhân trước không Cầu-na mà sinh quả. Xét cho
cùng, 2 lý đều có lỗi, cho nên không có quả.
Lại nếu trong nhân có quả thì không cần sinh lại, vì đã có,
còn sinh làm chi nữa ! Nếu không cũng không sinh được, vì
không làm sao sinh.
Hỏi : Hiện thấy làm cái bình, sao nói không quả ?
Thành Thật Luận Trang 401 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Cái bình này, nếu trước không làm, thì sao làm được ?
Vì nó không có. Nếu trước đã làm, còn làm chi nữa ? Vì nó có rồi.
Hỏi : Chính khi làm gọi là làm ?
Đáp : Không có khi nào là khi làm. Bởi vì sao ? Vì chỗ phần
có làm đã rơi vào trong làm, chỗ phần chưa làm rơi vào trong
chưa làm, cho nên không có cái gọi là khi làm.
Lại nếu cái bình có làm, thì phải là quá khứ, vị lai hay hiện
tại ? Quá khứ không làm, vì đã diệt mất. Vị lai không làm vì chưa
có. Hiện tại không làm vì là có.
Lại nhân có người làm mới có thành nghiệp. Mà trong đó
người làm, thật không thể được. Bởi vì sao ? Vì thân phần cái đầu
v.v... đối với việc làm đó là vô sự, nên không có người làm. Vì
không có người làm nên việc làm cũng không.
Lại nhân ở trong quả hoặc trước hoặc sau, hoặc đồng thời
đều không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu nhân trước, quả sau thì nhân
đã diệt hết, quả làm sao sinh, như không cha làm sao sinh con ?
Nếu nhân sau quả trước; nhân tự chưa sinh, làm sao sinh quả ?
Như chưa đẻ ra cha, ai sinh con ? Nếu nhân quả đồng thời thì
không có lý. Như 2 sừng đồng mọc không được nói tướng tả hữu
làm nhân cho nhau. Xét cho cùng, 3 điều này đều không đúng,
cho nên không có quả.
Lại nhân quả nầy hoặc một hoặc khác, cả hai đều có lỗi. Bởi
vì sao ? Vì nếu khác thì lẽ ra lìa chỉ phải có vải. Nếu là một thì
chỉ và vải không khác nhau.
Lại người đời không thấy có pháp nhân quả nào không sai
khác.
Lại nếu có quả lẽ phải tự mình làm, hoặc người khác làm,
cùng chung làm hay không nhân mà làm, đều là không đúng. Bởi
vì sao ? Vì không có pháp nào có thể làm ra tự thể. Nếu sẵn có tự
thể thì cần gì tự làm. Nếu không tự thể làm sao có thể tự làm được
?
Thành Thật Luận Trang 402 Tuệ Quang Foundation
Lại không thấy có pháp nào có thể làm ra tự thể, nên không
tự làm. Người khác làm cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì như
mắt và sắc đối với việc sinh thức vô sự, nên người khác không
làm được.
Lại vì không có nghĩ tưởng làm, nên tất cả pháp không có
người làm. Như hạt giống không nghĩ là ta nên nảy mầm. Mắt và
sắc cũng không nghĩ là chúng ta nên hợp lại mà sinh thức. Cho
nên các pháp không có tưởng làm. Hợp lại làm cũng không đúng
vì có lỗi tự mình và người khác. Không có nhân làm cũng không
đúng, vì nếu không nhân, cũng không có tên quả. Nếu 4 thứ đều
không, làm sao có quả, nếu phải nói ?
Lại quả nầy phải hoặc trước có tâm làm, hay trước không có
tâm làm. Nếu trước có tâm làm thì thân phần như mắt v.v... của
thai nhi là ai có tâm làm ? Trời Tự Tại v.v... cũng không làm nên
được. Trước đã nói nghiệp cũng không tâm đối với việc làm.
Nghiệp nầy ở trong quá khứ làm sao có tâm làm. Cho nên nghiệp
cũng không tâm. Nếu trước không tâm mà làm, thì làm sao làm
khổ, người khác bị khổ, làm vui, người khác được vui ?
Lại hiện trong nghiệp làm cũng đem tâm phân biệt nên làm
như vầy, không nên làm như vầy. Nếu không tâm mà làm, thì sao
có sai biệt này ? Cho nên nói trước có tâm không tâm đều không
đúng. Như vậy tất cả căn, trần đều không thể được. Cho nên là
không có pháp.
Phẩm 152 : Thế đế
Đáp : Tuy ông đem các thứ nhân duyên nói các pháp đều
không, nhưng nghĩa nầy không đúng. Bởi vì sao ? Vì trước tôi đã
nói nếu tất cả không, luận nầy cũng không có, cũng không ở trong
các pháp. Như vậy phá không, ông hoàn toàn không đáp. Hãy còn
cố tâm thành lập không, cho nên không phải không có tất cả các
pháp.
Thành Thật Luận Trang 403 Tuệ Quang Foundation
Lại ông đã nói không căn không duyên v.v.... Điều này
không phải chỗ minh luận của chúng tôi. Bởi vì sao ? Vì trong
kinh Phật tự ngăn điều này. Đó là 5 việc không thể nghĩ bàn : việc
thế gian, việc chúng sinh, việc nghiệp nhân duyên, việc của
người tọa thiền, và việc chư Phật. Điều này nếu không phải bậc
nhất thiết trí thì không thể nghĩ lường quyết đoán, chỉ chư Phật
mới có thể phân biệt pháp trí. Thanh Văn, Bích-chi-phật, chỉ có trí
tuệ thông đạt Nê-hoàn, còn đối với trí phân biệt các pháp chỉ được
phần ít. Chư Phật đối với tất cả pháp, tất cả chủng loại, gốc ngọn,
thể tính, tướng chung, tướng riêng đều có thể biết thông suốt, như
người, nhà cửa các vật, dễ hoại khó thành. Cũng như vậy, không
trí dễ được, mà trí tuệ phân biệt đúng các pháp thì khó sinh.
Hỏi : Như Phật ngồi đạo tràng, chứng được các pháp tướng.
Cứ đúng như Phật đã nói, phải như vậy mà nói ?
Đáp : Tuy Phật nói tất cả pháp, nhưng không nói tất cả
chủng, vì không được giải thoát. Như Phật nói các pháp từ nhân
duyên sinh, nhưng không nói mỗi mỗi từ nhân duyên nào, mà chi
nói điều cần thiết có công dụng có thể dứt khổ mà thôi. Các màu
sắc hội họa, các âm thanh kỹ nhạc, các thứ hương vị xúc vô lượng
sai biệt không thể nói hết được. Nếu nói cũng không lợi ích gì lớn
lao, nên Phật không nói những việc như vậy, không được nói là
không có.
Lại như người không biết phân biệt các phép hội họa mà nói
đó là không. Ông cũng như vậy, việc không thể thành sự, mà nói
là không có việc đó. Nhưng với người trí thì có, mà người không
biết cho là không. Như người mù bẩm sinh nói không có đen
trắng, vì tôi không thấy. Không nên vì không thấy mà nói không
có các sắc như vậy. Như không thể vì tự duyên thành, mà nói
không có tất cả pháp.
Thành Thật Luận Trang 404 Tuệ Quang Foundation
Lại chư Phật Thế Tôn là bậc nhất thiết trí, được chúng ta tin,
Phật nói có 5 ấm, cho nên biết sắc v.v... tất cả pháp là có, như cái
bình v.v... do thế đế cho nên có.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 12 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 153 : Diệt pháp tâm
Hỏi : Ông trước nói diệt 3 tâm gọi là diệt đế. Đã biết nhân
duyên diệt tâm giả danh. Nay pháp tâm là thế nào ? Và vì sao phải
diệt ?
Đáp : Có tâm thật cho 5 ấm, gọi là pháp tâm. Khéo tu không
trí, thấy 5 ấm trống không, thì pháp tâm diệt.
Hỏi : Hành giả quán 5 ấm trống không là trong 5 ấm vô
thường pháp, định pháp, bất hoại pháp, bất biến pháp, ngã, ngã sở
pháp, vì không có các pháp nầy nên nói là nó trống không, chứ
không phải không thấy 5 ấm ?
Đáp : Hành giả cũng không thấy 5 ấm. Bởi vì sao ? Vì hành
giả dứt tâm duyên hữu vi, được tâm duyên vô vi. Cho nên hành
giả không thấy 5 ấm, mà chỉ thấy ấm diệt.
Lại nếu thấy 5 ấm thì không gọi là không. Vì ấm chẳng phải
không, như vậy thì không đầy đủ không trí.
Hỏi : Hành giả thấy sắc, vì vô ngã nên không. Như trong
kinh nói : Hành giả thấy sắc nầy trống không, cho đến thức cũng
trống không. Phải biết các ấm chẳng phải không có sắc.
Đáp : Có nói như vậy, nhưng không phải thanh tịnh. Như
trong Kinh Pháp Ấn nói : Hành giả thấy tướng các pháp như sắc
Thành Thật Luận Trang 405 Tuệ Quang Foundation
v.v... là vô thường, bại hoại, dối giả, chán lìa. Đó cũng gọi là
trống không. Nhưng chưa phải là thanh tịnh. Về sau người này
thấy 5 ấm diệt, là do tu quán mới được thanh tịnh. Cho nên biết
thấy các ấm diệt.
Hỏi : Vì trí duyên hữu vi, sao không được thanh tịnh ?
Đáp : Hành giả hoặc khi khởi tưởng 5 ấm, nên tâm giả danh
sinh trở lại. Cho nên tâm duyên hữu vi không được thanh tịnh.
Nếu chứng các ấm diệt, thì 5 ấm không hiện tiền nữa. Vì thành
tựu diệt được nhân duyên giả danh nên tưởng giả danh không
theo đuổi nữa. Ví như có cây, cưa chặt, đốt cháy, tro than đều tiêu
hết, cái tưởng về cây mới diệt không còn theo đuổi nữa. Việc này
cũng vậy.
Lại Phật bảo La-đà : Ông phá vỡ tan nát chúng sinh, khiến
không tồn tại.
Lại một kinh khác nói : La-đà ! Ông phá vỡ tan nát sắc, cho
đến thức, khiến không tồn tại. Cho nên biết nếu hoại chúng sinh là
giả danh trống không. Nếu phá hoại sắc gọi là pháp không.
Lại có 2 pháp quán là không quán và vô ngã quán. Không
quán là không thấy giả danh chúng sinh, như người thấy cái bình,
vì không có nước nên trống không. Cũng như vậy vì thấy trong 5
ấm không có người cho nên trống không. Nếu không thấy pháp
thì gọi là vô ngã.
Lại trong kinh nói : Được trí vô ngã thì chính giải thoát. Cho
nên biết sắc tính diệt, thụ, tưởng, hành thức, tính diệt, gọi là vô
ngã. Vô ngã tức là vô tính.
Hỏi : Nếu gọi vô tính là vô ngã thì 5 ấm thật sự không có sao
?
Đáp : Năm ấm thật sự là không, vì thế đế nên có. Bởi vì sao ?
Vì Phật nói các hành v.v... đều như huyễn, như hóa, vì thế đế nên
có. Vì thế đế nên có, là không phải thật có.
Thành Thật Luận Trang 406 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói đệ nhất nghĩa không. Nghĩa nầy vì đệ nhất
nghĩa đế nên trống không, chứ không phải vì thế đế mà không. Đệ
nhất nghĩa là như nói sắc trống không không có gì hết, cho đến
thức trống không, không có gì hết. Cho nên nếu người quán các
pháp như sắc v.v… trống không, gọi là thấy cái không của đệ
nhất nghĩa.
Hỏi : Nếu vì thế đế nên có 5 ấm . Vì sao nói các pháp như
sắc v.v... là chân đế ?
Đáp : Vì chúng sinh nên mới nói có. Người đối với 5 ấm sinh
tưởng chân thật. Vì đó nên nói 5 ấm, vì đệ nhất nghĩa nên trống
không.
Hỏi : Trong kinh không nói có nghiệp có quả báo. Chỉ tác giả
không thể được sao ?
Đáp : Đó bởi các pháp mà nói tác giả là không thể được. Đó
là nói giả danh trống không. Như trong kinh nói các pháp chỉ có
cái tên gọi giả. Cái tên gọi giả đó, như vô minh, nhân duyên các
hành, cho đến lão tử các khổ, tập, diệt. Do lời nói nầy nên biết 5
ấm cũng vì đệ nhất nghĩa nên không.
Lại trong Kinh Đại Không, nói : Nếu ai nói lão tử này lão tử
kia, hoặc ai nói thân tức là thần, hoặc nói thân khác thần khác,
những lời nói đó khác mà nghĩa đồng. Nếu có kiến chấp nầy,
không phải đệ tử ta, không phải người Phạm hạnh. Nếu ngăn lão
tử kia, tức phá giả danh, ngăn lão tử nầy là phá 5 ấm.
Lại nói sinh duyên lão tử gọi là trung đạo. Phải biết đệ nhất
nghĩa đế nên nói không lão tử; thế đế nên nói sinh duyên lão tử.
Lại như tưởng quá hơn cái bình thì đệ nhất nghĩa nên không
có cái bình. Cũng như vậy quá hơn pháp như sắc v.v… thì đệ nhất
nghĩa nên không có sắc.
Lại trong kinh nói : Nếu pháp đó là lừa gạt, tức là hư vọng,
nếu pháp không phải lừa gạt tức gọi là thật. Các pháp hữu vi đều
Thành Thật Luận Trang 407 Tuệ Quang Foundation
biến đổi khác, nên đều gọi là lừa gạt. Lừa gạt nên hư vọng. Hư
vọng nên không phải chận thật có.
Như kệ nói :
Thế gian hư vọng trói,
Trạng như tướng quyết định
Thật không, thấy như có,
Quán sát thấy đều không.
Phải biết các ấm cũng trống không.
Lại thấy diệt đế nên gọi là đắc đạo. Cho nên biết diệt là có
của đệ nhất nghĩa, không phải là các ấm. Nếu các ấm thật có, hành
giả cũng phải thấy mà được đạo, nhưng thật ra không phải vậy.
Cho nên biết 5 ấm không phải là có của đệ nhất nghĩa.
Lại vì ấm diệt là thật, cho nên biết các ấm không phải thật.
Không nên nói các ấm là thật, không ấm cũng thật.
Lại có bao nhiêu pháp được thấy đều bởi si, như người măt
không thể gạt được, thì không thấy huyễn. Như vậy nếu không
ngu si thì không thấy các ấm. Cho nên các ấm không phải là có
của đệ nhất nghĩa.
Lại trong kinh nói : Tùy có ngã tức là động xứ. Mà trong ấm
có ngã, như A-nan nói : Nhân pháp thành ngã. Nghĩa là nhân sắc
ấm, cho đến thức ấm.
Lại như chư Thượng tọa Tì-kheo hỏi Sai-ma-già : Ông lấy
sự gì làm ngã ?
Đáp : Tôi không nói sắc là ngã, không nói lìa sắc là ngã, cho
đến thức cũng vậy. Có điều là trong 5 ấm ngã mạn chưa dứt.
Ý kinh nầy cho rằng học nhân hoặc khi tâm niệm bị tán loạn
mới khởi ngã mạn. Nếu nhiếp tâm niệm diệt 5 ấm thì ngã mạn
diệt. Như hoa không phải chỉ rễ chồi nhánh lá là hoa, mà cũng
không rời các thứ đó là hoa. Như vậy không phải sắc v.v... là ngã,
mà cũng không rời sắc v.v... là ngã. Như vậy nhân duyên diệt ngã
thì ngã mạn không khởi. Cho nên biết các ấm cũng không.
Thành Thật Luận Trang 408 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả nên diệt tất cả tướng, chứng vô tướng. Nếu thật
có tướng, sao không nghĩ nhớ ? Không phải như ngoại đạo khi lìa
nơi sắc, biết thật có sắc, nhưng không nhớ nghĩ. Hành giả cần
phải thấy sắc v.v... các ấm diệt hết. Vì thấy diệt hết nên gọi là vào
vô tướng. Cho nên biết sắc v.v... không phải đệ nhất nghĩa.
Lại tùy có 5 ấm thì có ngã tâm. Phải biết không có 5 ấm thì
ngã tâm diệt. Cho nên các ấm đều trống không.
Lại trong Kinh Thủy Mạt, Phật nói : Nếu ai thấy đám bọt
nước, quan sát kỹ thì biết chúng không phải chân thật. Tì-kheo
cũng vậy, nếu chính quán sắc ấm, tức biết dối gạt không bền
không chắc, là tướng bại hoại. Quán thụ như bong bóng nước.
Tưởng như sóng nắng. Hành như cây chuối. Thức như ảo hóa.
Cũng như vậy, 5 dụ trên đây đều chỉ rõ nghĩa trống không. Bởi vì
sao ? Vì mắt thấy đám bọt nước, khi tiêu hết là hoàn lại không.
Bong bóng nước cũng như vậy. Cho nên biết các ấm không phải
chân thật có.
Lại như đệ tử Phật rất chán sinh tử, đều bởi thấy các pháp
xưa nay không sinh, không có sở hữu. Nếu thấy vô thường thì chỉ
có thể sinh bại hoại khổ tướng, cũng như vậy thấy vô tính, không
còn tướng gì khác thì mới có thể đầy đủ hành khổ. Đủ 3 khổ này
gọi là được giải thoát. Phải biết tất cả các pháp đều trống không.
Lại không, là cửa giải thoát. Không này không phải chỉ
chúng sinh không, mà hữu pháp cũng không. Như nói mắt khi
sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi đến đâu, thì biết quá khứ,
vị lai mắt là trống không. Mắt hiện tại cũng do 4 đại phân biệt nên
không. Như Phật nói mắt trong hình thịt, có bao nhiêu cứng và
nương cứng gọi là địa v.v.... Nếu được cái không này tức nói
không có gì hết.
Lại nói tất cả các hành dứt gọi là đoạn tính, lìa gọi là ly tính,
diệt gọi diệt tính. Cho nên biết tất cả các hành đều diệt. Nếu thật
có các hành thì không có chính, đoạn, ly, diệt. Diệt gọi là không.
Thành Thật Luận Trang 409 Tuệ Quang Foundation
Phải biết vì đệ nhất nghĩa nên các hành đều không có. Chỉ vì thế
đế nên mới có các hành.
Phẩm 154 : Diệt tận
Nếu duyên Nê-hoàn gọi là không tâm.
Hỏi : Nê-hoàn không có pháp tâm thì duyên vào đâu ?
Đáp : Tâm nầy duyên vô sở hữu. Điều này trước đã rõ vì biết
Nê-hoàn.
Hỏi : Không tâm nầy diệt ở chỗ nào ?
Đáp : Hai chỗ diệt : một là vào trong vô tâm định diệt, hai là
khi vào Nê-hoàn vô dư, dứt tương tục mà diệt. Bởi vì sao ? Vì diệt
nhân duyên nên tâm nầy cũng diệt. Trong vô tâm định vì duyên
diệt nên diệt, khi dứt tương tục vì nghiệp hết nên diệt.
Luận giả nói : Hành giả, nếu diệt được 3 tâm nầy, thì các
nghiệp phiền não vĩnh viễn không còn khởi lại nữa.
Hỏi : Vì sao không khởi ?
Đáp : Người nầy đầy đủ vô ngã, nên nghiệp phiền não diệt,
như khói đèn đen có chỗ nương là trụ lại, mà không chỗ nương thì
không trụ. Như vậy nếu có ngã tâm làm chỗ nương thì nghiệp
phiền não tụ tập, không thì không tụ lại.
Lại vô lậu chính kiến đốt hết các tướng, khiến không còn sót,
như kiếp hỏa đốt cháy hết đất v.v... không sót. Vì vô tướng nên
các nghiệp phiền não không tụ tập lại nữa.
Lại người có ngã tâm thì nghiệp phiền não tụ lại. A-la-hán
thông đạt không trí, vì không ngã tâm nên không còn tụ lại.
Hỏi : Người nầy tuy nghiệp mới không tụ, nhưng vì sao
nghiệp cũ không sinh ?
Đáp : Người đó đem chính trí tuệ phá hoại nghiệp nầy, nên
không thể trả báo được, như hạt giống rang cháy không còn sinh
được.
Thành Thật Luận Trang 410 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu không có ái tâm thì tác nghiệp không thể trả báo
được, như đất không ướt thì giống không mọc.
Lại hành giả nầy với các thức xứ diệt hết các tướng, thức
không chỗ nương nên không có chỗ sinh, như giống không chỗ
nương thì không mọc được.
Lại đủ nghiệp phiền não mới có thể thụ thân, mà không đủ
thì diệt. Người nầy không phiền não nên nhân duyên không đủ, dù
có các nghiệp cũng không thụ sinh được.
Lại chúng sinh vì phiền não nên thụ thân ở các nẻo. Vì thụ
thân nên các nghiệp trong đó có thể cùng với quả báo. Nếu không
phiền não thì không thụ thân. Không thụ thân, thì các nghiệp làm
sao có thể cùng quả báo được ? Như người mắc nợ nhờ cậy thế
lực, thì chủ nợ không làm gì được. Hành giả cũng vậy, nếu không
ở trong sinh tử thì dù có các nghiệp cũng không trả báo được.
Lại như người bị trói, những người không bị trói tha hồ
mắng nhiếc. Cũng như vậy, chúng sinh bị phiền não trói buộc, tùy
nghiệp nhiều ít đều có thể trả báo. Người được giải thoát, thì
phiền não không làm gì được.
Lại tự nghiệp mình có thể trả quả báo. Người này tu hạnh
không hành, nên đối với các pháp không có tự tướng, cho nên các
nghiệp không trả báo được, như dùng con mình làm đứa giúp việc
thì khỏi trả tiền thuê. Điều này cũng như vậy.
Lại sức mạnh phiền não có thể chuyển các nghiệp, mà phiền
não hết thế lực, thì các nghiệp không chuyển được. Như bánh xe
tuy còn, mà động lực đã hết, thì bánh xe không lăn.
Lại sức phiền não có thể biến đổi các nghiệp, như mẹ vì
thương con nên máu biến thành sữa. Khi hết lòng thương, thì máu
không biến. Như vậy do sức phiền não, nên nghiệp có thể báo, lìa
thì không thể.
Lại người này, nhờ các công đức tu thân như giới, định, tuệ
v.v… thế lực lớn, nên các nghiệp không làm gì được. Cho nên tuy
Thành Thật Luận Trang 411 Tuệ Quang Foundation
có các nghiệp cũ mà không trả báo được. Như vậy, người nầy
nghiệp cũ hiện tại trả báo chút ít, mà không gây nghiệp mới, như
lửa đốt củi, củi hết thì tắt. Người này cũng vậy, vì không thụ nên
diệt, diệt 3 tâm nên đối với tất cả các khổ được vĩnh viễn giải
thoát. Cho nên người trí cần phải diệt 3 tâm.
Xong nhóm diệt đế.
Phẩm 155 : Định nhân
trong định luận của nhóm đạo đế
Luận giả nói : Nay luận về đạo đế. Đạo-đế là 8 con đường
chính thẳng từ chính kiến cho đến chính định. Tám chính đạo nầy
được nói có hai : một gọi là Tam-muội và dụng cụ, hai gọi là trí.
Nay sẽ luận về Tam-muội.
Hỏi : Tướng Tam-muội ra sao ?
Đáp : Tâm trụ một chỗ là tướng Tam-muội.
Hỏi : Tâm nầy làm sao trụ được một chỗ ?
Đáp : Tùy chỗ tập luyện nhiều và trụ ở nơi đó. Nếu không
tập nhiều, thì mau rời bỏ.
Hỏi : Tập bằng cách nào ?
Đáp : Tập tùy sở thích.
Hỏi : Làm sao có thể thích ?
Đáp : Thân tâm nặng nề gọi là khổ. Dùng phương pháp làm
khoan khoái trừ tướng thô nặng nơi thân tâm, thì có thể sinh vui
thích.
Hỏi : Làm sao sinh khoan khoái ?
Đáp : Dùng nhân duyên hoan hỷ, nên thân tâm điều hòa vui
thích.
Hỏi : Làm sao sinh hỷ ?
Đáp : Do nghĩ Tam Bảo và nghe pháp v.v... tâm ưa thích nên
sinh hỷ.
Hỏi : Làm sao sinh ưa thích ?
Thành Thật Luận Trang 412 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Do thanh tịnh trì giới, tâm không sinh ăn năn.
Hỏi : Đã nói nhân Tam-muội. Nay Tam-muội lại làm nhân
cho cái gì ?
Đáp : Làm nhân cho như thật trí. Như thật trí là không trí.
Như nói hành giả như vậy nhiếp tâm, thanh tịnh tâm, trừ che tâm,
trụ tâm, và không động tâm, thì có thể biết như thật khổ thánh đế,
tập, diệt, đạo thánh đế. Cho nên ai muốn được như thật trí, phải
siêng tinh tiến tu tập Tam-muội. Người tản tâm còn không thể
được lợi ích kinh sách, nghề nghiệp công xảo v.v... của thế gian,
huống chi có thể được lợi ích xuất thế gian. Cho nên biết tất cả lợi
ích thế gian, và xuất thế gian, đều nhờ định tâm mới được.
Lại tất cả diệu thiện đều nhờ chính trí, tất cả tệ ác đều bởi tà
trí. Như trong kinh nói : Vô minh làm đầu, không hổ thẹn làm tùy
tùng khởi tất cả ác. Bởi minh làm đầu, hổ thẹn làm tùy tùng khởi
tu tất cả thiện. Mà Tam-muội là nhân chính trí tuệ. Cho nên biết
tất cả diệu thiện đều nhờ Tam-muội. Cho nên phải siêng năng tinh
tiến tu tập.
Phẩm 156 : Tướng của định
Hỏi : Ông nói tâm trụ một chỗ là tướng Tam-muội. Vậy
Tam-muội với tâm là một hay là khác ?
Đáp : Tam-muội với tâm không khác. Có người nói Tammuội
khác với tâm, vì tâm được Tam-muội thì mới an trụ một
chỗ. Tuy có lời đó, nhưng nghĩa không đúng như vậy. Nếu tâm
được Tam-muội có thể ở trong cảnh duyên đó, thì Tam-muội nầy
cũng trụ ở trong cảnh duyên, và cũng phải làm nhân cho Tammuội
khác trụ. Như vậy là vô cùng, việc đó không thể được. Nếu
Tam-muội nầy tự nhiên trụ thì tâm cũng như vậy, không phải
nhân Tam-muội mà an-trụ. Cho nên nếu nói Tam-muội khác với
tâm, nghĩa đó vô ích.
Thành Thật Luận Trang 413 Tuệ Quang Foundation
Lại thụ tưởng v.v... các tâm số pháp cũng trụ ở trong cảnh
duyên, đó lại là nhân pháp nào mà trụ ? Việc đó nên nói. Nếu thụ
tưởng v.v... đều có Tam-muội, tức đồng lỗi như trước.
Lại trong kinh chỉ nói nhất tâm là tướng của Tam-muội,
không nói tâm được Tam-muội nên trụ. Cho nên biết không đúng.
Lại nói nhất tâm thì không nói rõ các pháp khác. Như trước
đã nói tùy chỗ tâm vui, duyên trụ ở đó. Phải biết với tâm không có
Tam-muội riêng, tùy tâm trụ lâu gọi là Tam-muội.
Hỏi : Tam-muội đó là hữu lậu hay là vô lậu ?
Đáp: Có hai thứ Tam-muội, hữu lậu và vô lậu. Các thiền định
thế gian là hữu lậu. Các Tam-muội khi vào pháp vị gọi là vô lậu.
Bởi vì sao ? Vì bấy giờ gọi là thấy biết như thật. Bấy giờ 2 thứ
cũng gọi là Tam-muội, cũng gọi là tuệ. Nhiếp tâm nên gọi Tammuội.
Biết như thật nên gọi là tuệ. Nhiếp tâm có 3 thứ là thiện, bất
thiện, và vô ký. Trong đó lấy thiện nhiếp tâm là Tam-muội, chứ
không phải bất thiện vô ký. Tam-muội nầy cũng có 2 thứ, một là
giải thoát nhân, hai là phi giải thoát nhân. Giải thoát nhân, gọi là
định căn. Có luận sư nói : Chỉ định vô lậu gọi là định căn. Lời nói
nầy không đúng. Nếu hữu lậu vô lậu có thể làm nhân giải thoát
đều được gọi là định căn.
Tam-muội nầy tùy trụ duyên, nên mới phân biệt 3 thứ : tiểu,
đại và vô lượng. Tâm khi trụ giây lát, nếu thấy chút cảnh duyên,
đó gọi là tiểu. Còn 2 thứ kia cũng vậy.
Lại tùy thời nên có 3 tướng : chế tướng, phát tướng, và xả
tướng. Khi tâm lui chìm, nên dùng phát tướng. Khi tâm lay động
nên dùng chế tướng. Khi tâm hòa vui, nên dùng xả tướng. Như
thợ vàng gia công vàng, khi thì cho vào lửa thét, khi thì ngâm vào
nước, khi thì để tự nhiên. Nếu trui luôn thì chảy tiêu, ngâm mãi thì
sống, thường để tự nhiên thì không thích hợp. Tâm hành giả cũng
vậy. Nếu động mà không chế ngự thì thường tán loạn. Chìm mà
Thành Thật Luận Trang 414 Tuệ Quang Foundation
không phát thì sinh biếng lười. Nếu điều hòa thích hợp rồi mà
không xả thì lại thành không điều hòa thích hợp.
Lại như tập ngựa, nếu chạy nhanh thì gò, chậm thì giục, vừa
thì xả. Hành giả điều ngự tâm mình cũng như vậy.
Lại Tam-muội nầy có 3 phương tiện là phương tiện nhập
định, phương tiện trụ định, phương tiện khởi định. Đúng như pháp
mà nhập đinh là phương tiện nhập định. Ở trong định không động
là phương tiện trụ định. Đúng như pháp mà xuất định là phương
tiện khởi định.
Hỏi : Làm sao được 3 phương tiện đó ?
Đáp : Hành giả lấy tướng tự tâm chế ngự như vậy, phát động
như vậy, và xả như vậy thì có thể nhập định, trụ định, và xuất định
cũng như vậy.
Hỏi : Chỉ lấy thẳng định, cần gì phải dùng phương tiện ?
Đáp : Nếu không sinh 3 thứ phương tiện nầy thì có lầm lỗi.
Không được tùy ý muốn nhập thì khởi, muốn khởi lại nhập, có
những lỗi này.
Lại lấy lợi làm tổn, lấy tổn làm lợi như thấy chút tịnh sắc và
chút ánh sáng, bảo là đã được đại lợi. Hoặc niệm vô thường, khổ,
không v.v..., tâm không được vui, lại cho là tổn.
Hỏi : Hành giả, vì sao có người được định, hoặc có người
không được ?
Đáp : Có 4 nhân duyên được định : 1. Đời nay siêng tập. 2.
Tiền thân có duyên. 3. Khéo lấy tướng định. 4. Y theo định pháp.
Lại có 4 thứ tu định : 1. Thường xuyện tập mà không nhất
tâm hành. 2. Nhất tâm hành mà không thường tu tập. 3. Cũng
thường tu tập, cũng nhất tâm hành. 4. Không thường tập, không
nhất tâm hành.
Lại có 4 thứ : Có nhiều thiện ít tuệ, có ít thiện nhiều tuệ, có
nhiều thiện nhiều tuệ, có ít thiện ít tuệ. Trong đó thứ 3 chắc hành
Thành Thật Luận Trang 415 Tuệ Quang Foundation
giả có thể được định, thứ tư chắc chắn không thể được, thứ nhất
và thứ 2 nếu điều hòa đồng đều thì được.
Phẩm 157 : Ba Tam-muội
Hỏi : Trong kinh nói có 3 pháp Tam-muội là nhất phần tu
Tam-muội, cọng phần tu Tam-muội, và Thánh chính Tam-muội.
Mỗi pháp như thế nào ?
Đáp : Nhất phần tu là như tu định không tu tuệ, hoặc tu tuệ
không tu định. Cọng phần tu là vừa tu địinh cũng vừa tu tuệ. Đó là
thế gian Tam-muội ở trong pháp noãn v.v.... Thánh chính Tammuội
là như vào pháp vị có thể chứng diệt đế, gọi là Thánh chính.
Làm sao biết được ? Như Trưởng lão Tì-kheo bảo hành giả lấy
định tu tâm, nhờ tuệ có thể ngăn được phiền não, lấy tuệ tu tâm,
nhờ định ngăn được phiền não, lấy cả định tuệ tu tâm, nhờ tính
được giải thoát tính. Đó gọi là đoạn tính, ly tính và diệt tính.
Lại như định tuệ đồng thời đầy đủ, nên gọi Thánh chính, như
nhờ cả định tuệ được giải thoát gọi là đều giải thoát .
Hỏi : Có người nói: Nhất phần tu là nếu nhân Tam-muội có
thể thấy ánh sáng không thấy các sắc, nếu thấy các sắc không thấy
ánh sáng. Cọng phần tu là có thể thấy sắc cũng thấy ánh sáng.
Thánh chính là Tam- muội mà các bậc học và vô học chứng được.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Không có kinh nào nói chỉ thấy ánh sáng mà không
thấy sắc. Trong kinh chỉ nói ta vốn đã từng thấy ánh sáng cũng
thấy các sắc. Nay mất ánh sáng cũng không thấy sắc.
Lại ông phải nói nhân duyên vì sao có thể thấy ánh sáng mà
không thấy sắc ? Vì những lẽ đó, lời ông nói là sai.
Hỏi : Lại trong kinh nói 3 Tam-muội là không, vô tướng, vô
nguyện. Ba Tam-muội nầy sai khác nhau thế nào ?
Đáp : Nếu hành giả không thấy chúng sinh cũng không thấy
pháp, đó gọi là không. Trong không như vậy không có tướng có
Thành Thật Luận Trang 416 Tuệ Quang Foundation
thể lấy; cái không đó tức là vô tướng. Trong không, không có
nguyện cầu gì, cái không đó gọi là vô nguyện. Cho nên 3 mà
nghĩa là một.
Hỏi : Nếu vậy nói 3 làm gì ?
Đáp : Công năng của cái không nầy là cần phải tu không. Vì
tu không mà được lợi ích là không thấy tướng. Vì không thấy
tướng nên là vô tướng. Vì vô tướng nên không nguyện cầu. Vì
không nguyện cầu nên không thụ thân. Vì không thụ thân nên mới
giải thoát được tất cả khổ. Được những lợi ích như vậy đều nhờ tu
không mà có. Cho nên phải nói có 3.
Hỏi : Có luận sư nói : Nếu Tam-muội lấy hành không vô
ngã, đó gọi là không. Nếu hành vô thường, khổ, nhân tập mà sinh
duyên đạo như hành xuất, đó gọi là vô nguyện. Nếu hành diệt
chính diệu ly, đó gọi là vô tướng. Việc đó thế nào ?
Đáp : Ông nói hành vô thường, khổ gọi là vô nguyện, điều
đó không đúng. Bởi vì sao ? Vì Phật thường nói nếu vô thường
tức là khổ, nếu khổ tức là vô ngã. Biết vô ngã thì không nguyện
nữa. Cho nên biết cũng bởi không, nên mới không nguyện. Nếu
nói hành nhân tập sinh duyên gọi là vô nguyện, đây hoặc có thể
được. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói : Thấy tướng sinh đều là
tướng diệt thì sinh chán lìa.
Lại trong đạo, không nên có hành vô nguyện. Bởi vì sao ? Vì
nguyện là một phần của ái, như kinh nói : Nguyện, thượng, trung,
hạ trong đạo không sinh tham ái. Cho nên không có hành vô
nguyện.
Lại trong kinh nói : Năm ấm diệt nên gọi là diệt. Phải biết
tùy không có 5 ấm, đó gọi là không. Không tức là diệt. Trong đó
vô nguyện vì ái thân nên mới nguyện. Cho nên biết đó 3 mà nghĩa
là một, không nên cho là sai khác.
Hỏi : Lại trong kinh nói 3 Tam-muội là không không, vô
nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng. Mỗi thứ là thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 417 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Lấy không, để thấy 5 ấm là không, lại lấy một cái
không nữa để có thể làm không cái không này, đó gọi là không
không. Lấy vô nguyện để nhàm chán 5 ấm, lại lấy một vô nguyện
nữa để nhàm chán cái vô nguyện này, đó gọi là vô nguyện vô
nguyện. Lấy vô tướng để thấy 5 ấm tịch diệt, rồi lại dùng một vô
tướng nữa để không lấy vô tướng này, đó gọi là vô tướng vô
tướng.
Hỏi : Có luận sư nói : Ba Tam-muội nầy là hữu lậu. Việc đó
thế nào ?
Đáp : Đó không phải hữu lậu. Bởi vì sao ? Vì bấy giờ không
có lậu có thể sai khiến.
Lại Tam-muội nầy đối với các không v.v... vượt trội hơn,
làm sao nói là hữu lậu ?
Hỏi : Nếu không v.v... 3 Tam-muội, là thật trí tuệ, vì sao gọi
là Tam-muội ?
Đáp : Vì các Tam-muội sai khác nhau.
Lại Tam-muội có thể sinh như thật tri kiến, cho nên gọi Tammuội
vì trong quả nói nhân.
Hỏi : Có luận sư nói : Các không không v.v... 3 Tam-muội
nầy, chỉ bậc vô học được, không phải ai cũng được. Việc đó thế
nào ?
Đáp : Học nhân cũng được. Bởi vì sao ? Vì hành giả phải
chứng hữu lậu vô lậu tất cả pháp diệt. Cho nên học nhân cũng cần
phải chứng vô lậu pháp diệt.
Phẩm 158 : Bốn định
Có tu định vì vui hiện tại. Có tu định vì tri kiến. Có tu định vì
tuệ phân biệt. Có tu định vì hết lậu. Như Tam-muội có thể được
vui hiện tại là đệ nhị thiền v.v.... làm sao biết được ? Vì Phật nói :
Đệ nhị thiền là do Tam-muội sinh hỷ lạc nên vì đó đặt tên mà
không vì các pháp khác, như vào thành Xá-vệ, là vì khất thực.
Thành Thật Luận Trang 418 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Sơ thiền cũng có hỷ lạc, vì sao không nói có hiện vui ?
Đáp : Sơ thiền lẫn lộn các giác quán hay làm tản tâm, nên
không nói hiện vui.
Hỏi : Đệ nhị thiền cũng có hỷ v.v... hay làm loạn tâm pháp,
mà sao gọi vui ?
Đáp : Trước diệt các giác, nhiếp tâm sâu, nên mới nói hỷ
v.v... là vui. Nhưng vì hành khổ nên tất cả gọi khổ.
Lại trong sơ thiền khổ ở trạng thái thô, trong nhị thiền khổ ở
trạng thái vi tế. Vì khổ vi tế, nên mới được gọi là vui.
Hỏi : Trong đệ nhị thiền v.v... cũng có hành vui đời sau, sao
chỉ nói vì vui hiện tại ?
Đáp : Như vì vua A-xà-thế nói quả Sa-môn hiện tại.
Lại vì gần nên nói.
Lại vì muốn phá vui 5 dục, nên nói vui hiện tại. Nếu ai tham
đắm vui 5 dục, nên không được các thiền định, vì thế nên nói.
Nếu các người có thể lìa vui 5 dục, sẽ được vui hơn vui hiện tại.
Lại chư Phật không ca ngợi việc thụ thân sau, nên không nói
vui đời sau.
Lại người đời nói người tại gia vui, không phải người xuất
gia vui.
Lại 4 pháp tu định đều vì hiện vui, vì đầu tiên nhận được tên,
nên độc nhất nói hiện vui.
Hỏi : Nếu 4 pháp tu định nầy, có thể thành các thứ lợi, sao
chỉ nói 4 lợi ?
Đáp : Lợi có 2 thứ là lợi ích thế gian, và lợi ích xuất thế gian.
Tu định thứ 2 là lợi thế gian, như các lợi tri kiến, biết 8 trừ nhập,
10 nhất thiết nhập v.v... , thấy 5 thần thông v.v... Bởi vì sao ? Vì
lợi mắt có thể thấy, nên gọi là thấy. Việc này nhờ lấy ánh sáng mà
thành, nên gọi tri kiến tức nói tướng ánh sáng. Hai là lợi ích xuất
thế gian. Lấy tuệ phân biệt 5 ấm, gọi là tuệ phân biệt. Nên trong
Thành Thật Luận Trang 419 Tuệ Quang Foundation
kinh nói : Tuệ phân biệt là hành giả, hoặc sinh các thụ, các giác,
các tưởng, đều có thể phân biệt biết.
Phân biệt biết là cái biết chấp ngã. Làm sao khiến thành
không ?
Nghĩa là phân biệt tưởng nam nữ v.v... là giả danh. Nếu phá
được tưởng nầy thì không có các giác. Như trong kinh nói : Các
giác nhân đâu? Là tưởng. Cho nên biết chỉ phá tưởng thì không có
giác. Vì các giác không, nên các thụ cũng không. Cho nên biết vì
phá giả danh, nên gọi là tuệ phân biệt. Vì tuệ phân biệt nên được
hết lậu. Như trong kinh nói : Hành giả quán tướng 5 ấm sinh diệt,
nên chứng được ấm diệt. Cho nên mới biết tất cả lợi thế gian và
xuất thế gian đều thâu nhiếp trong 4 pháp.
Hỏi : Có luận sư nói trong đệ tứ thiền, có thể chứng được quả
A-la-hán vô ngại đạo, gọi là hết lậu. Việc đó thế nào ?
Đáp : Trong đó không có nhân duyên gì sai khác mà chỉ
trong đệ tứ thiền vô ngại đạo gọi là hết lậu mà không phải các
pháp khác. Cho nên không đúng.
Lại tu định vì 3 lợi : một vì hiện vui, hai vì tri kiến, ba vì dứt
kết. Hoặc nói vì hai, như nói vì rốt ráo hết, khéo thanh tịnh, sinh
tử hết, phân biệt các thứ tính. Đó là người có mắt nói đạo. Trong
đó, trước 3 nói dứt, sau 1 nói trí. Phật trong đó không nói hiện tại.
Phẩm 159 : Bốn vô lượng định
Bốn vô lượng là từ bi hỷ xả. Từ là thiện tâm, trái nhau với
giận dữ. Như các thiện tri thức, vì người thiện tri thức thường cầu
cho sự an ổn lợi lạc. Hành giả cũng vậy, vì tất cả chúng sinh
thường cầu an lạc. Cho nên người nầy là thiện tri thức của tất cả
chúng sinh.
Hỏi : Tướng của thiện tri thức ra sao ?
Thành Thật Luận Trang 420 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Thường vì cầu lợi ích an vui đời nầy và đời sau cho
nhau, quyết không trái nhau cầu việc vô ích. Hành giả cũng vậy,
chỉ vì chúng sinh cầu việc an lạc, không cầu việc không an lạc.
Bi là từ tâm, trái nhau với não hại. Bởi vì sao ? Cũng vì
chúng sinh cầu an vui vậy.
Hỏi : Giận dữ và não hại có gì khác nhau ?
Đáp : Sinh tâm niệm giận, muốn đánh đập hại chúng sinh
nầy. Từ giận khởi nghiệp thân khẩu, gọi là não hại.
Lại giận làm nhân cho hại, vì người ôm lòng giận quyết làm
hại cho kỳ được.
Hỷ là từ tâm, trái với ganh ghét. Ganh là thấy việc tốt người
khác, tâm không chịu được tức sinh ghét giận. Hành giả thấy tất
cả chúng sinh được những điều tăng ích, sinh lòng rất vui mừng,
như tự mình được lợi.
Hỏi : Ba pháp nầy đều là từ cả sao ?
Đáp : Tức là tâm từ có 3 thứ sai khác. Bởi vì sao ? Vì không
giận là từ. Có người tuy không hay giận, nhưng thấy chúng sinh
khổ không có tâm bi. Nếu có thể đối với tất cả chúng sinh tu sâu
tâm từ, như thấy con mình gặp khổ hại cấp bách, bấy giờ tâm từ
chuyển gọi là tâm bi. Hoặc có người đối với việc khổ hại của
người khác có thể sinh tâm bi, mà đối với việc tăng ích của người
khác không hay sinh tâm hoan hỷ. Vì sao biết được ? Vì có người
thấy người oán tặc khổ, có thể còn sinh tâm bi, thế mà thấy con
đắc thắng việc hơn mình vẫn không thể hoan hỷ. Hành giả thấy tất
cả chúng sinh được sự tăng ích sinh tâm hoan hỷ như mình được
không khác. Đó gọi là tâm hỷ. Cho nên biết sai khác của tâm từ là
bi và hỷ.
Hỏi : Bỏ thứ gì gọi là xả ?
Đáp : Tùy thấy oán, thân thì tâm từ không bình đẳng. Nghĩa
là đối với người thân thì trọng đãi không gì bằng, đối với người
oán thì khinh bạc. Bi, hỷ cũng như vậy. Cho nên hành giả muốn
Thành Thật Luận Trang 421 Tuệ Quang Foundation
tâm được bình đẳng thì đối người thân xả hết thân, đối với người
oán bỏ hết oán, rồi sau tâm từ đối với tất cả chúng sinh mới bình
đẳng. Bi, hỷ cũng vậy. Nên trong kinh nói : Vì muốn cắt đứt sự
ghét, thương phải tu tập tâm xả.
Hỏi : Nếu như vậy thì không riêng có tâm xả ? Chỉ lấy tâm
bình đẳng gọi là xả ?
Đáp : Tôi trước đã nói sai biệt của tâm từ là bi hỷ.
Lại tâm từ do pháp hạ, trung, thượng nên có 3 thứ. Có thể
khiến 3 thứ nầy bình đẳng, nên gọi là xả. Như nói dùng tâm từ bậc
thượng tu tập tam thiền.
Hỏi : Dùng phương tiện nào được tâm từ nầy ?
Đáp : Sau sẽ nói tội lỗi của giận dữ. Biết tội lỗi này rồi, sẽ tu
tâm từ. Như trong kinh nói : Người tu tâm từ, ngủ yên, thức yên,
không thấy ác mộng, được trời hộ người mến, không trúng độc;
không bị đao binh, không bị nước lửa làm hại. Như vậy tất cả
nghiệp báo do giận dữ sinh, không bằng đó sao ? Nghe lợi ích đó
nên siêng tu tập.
Lại hành giả tự nghĩ : Ta khởi giận dữ, tự chịu quả báo,
không phải ai chịu cho, vậy không nên giận mà nên tu tâm từ.
Lại hành giả suy nghĩ : Ta vì chút ác làm hại người, thì tự
chịu nhiều ác gấp trăm lần không sánh kịp, nên phải lìa bỏ ác.
Lại trong kinh nói 5 thứ nhân duyên trừ giận, thường phải
nhớ.
Lại giận dữ không phải là điều đáng có của người tu hành.
Lại phải nghĩ việc thiện lợi ích của người kia mà trừ bỏ việc
ác, thì tự dứt giận dữ.
Lại phải quán nhân duyên trước sau của người kia. Như
người này đời trước, hoặc từng làm mẹ ta, ôm thai sinh đẻ nuôi
dưỡng ta, vì ta chịu khổ nhọc, hoặc từng làm cha, anh, em, vợ,
con ta thì làm sao có thể giận ?
Thành Thật Luận Trang 422 Tuệ Quang Foundation
Lại nghĩ : Đời sau, họ có thể sẽ làm cha mẹ anh em ta, hoặc
sẽ làm La-hán, Duyên Giác, hay chư Phật, thì làm sao dám giận ?
Lại thấy người ác vì làm ác nên bị khổ cả 2 đời. Cho nên
không giận.
Lại quán kỹ thể tính người kia là thiện hay ác. Nếu là ác họ
làm ác với ta, cớ sao sinh giận ? Như lửa đốt người, có ai giận lửa
?
Lại thấy người kia bị phiền não bức bách, không được tự tại,
giống như bị quỷ ám, thì sinh giận làm gì ?
Lại tùy dùng nhân duyên nào đó mà tu tập nhẫn nhục, phải
nghĩ nhớ pháp đó, thì dứt giận dữ, tâm từ thêm lớn.
Công đức nhẫn nhục là hành giả tâm nghĩ rằng : Nếu ta giận
người, tức cũng thô bỉ như người không khác. Cho nên phải nhẫn.
Như Phật nói kệ :
Ví như tập voi,
Chịu đao, cung tên.
Ta cũng như vậy,
Nhẫn nhịn các ác.
Lại kệ nói :
Ác khẩu mắng nhiếc,
Nhục mạ giận dữ,
Tiểu nhân không kham :
Chim bị mưa đá.
Ác khẩu mắng nhiếc,
Nhục mạ giận dữ,
Đại nhân kham nổi :
Voi tắm mưa hoa.
Cho nên phải nhẫn.
Lại đem việc ác nầy chuyển làm công đức , làm cho các việc
ác đó chuyển thành công đức.
Thành Thật Luận Trang 423 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả biết chúng sinh nầy ngu si không hiểu biết, như
trẻ con, không nên giận. Nhờ các phương tiện nầy có thể tu tâm
từ.
Hỏi : Làm thế nào tu bi ?
Đáp : Hành giả thấy chúng sinh vui ít khổ nhiều nên sinh tâm
bi. Ta nỡ nào đối với chúng sinh khổ kia lại gây thêm khổ ?
Lại thấy chúng sinh quá tham đắm vui, sinh ý nghĩ rằng : Ta
nay làm sao dứt lòng tham của chúng, nên sinh tâm bi.
Lại thấy chúng sinh khổ, vì hiện khổ cho nên khổ, thấy
chúng sinh vui, vì vô thường nên khổ. Cho nên tất cả chúng sinh
đều có phần khổ, hoặc sớm hoặc muộn, không ai thoát được. Vì
nhân duyên nầy, nên sinh tâm bi.
Hỏi : Làm sao tu hỷ ?
Đáp : Hành giả thấy người ganh lợi với người khác là tướng
xấu xa, cho nên tu hỷ, khởi nghĩ như vầy : Ta phải cho chúng sinh
vui, nhưng nay chúng tự được, vậy là đã giúp ta. Cho nên sinh hỷ.
Lại thấy ganh ghét đó luống uổng vô ích, không tổn ai được,
mà lại chỉ hại mình.
Lại như kinh nói ganh ghét là tội lỗi. Muốn lìa lỗi đó, nên
sinh hoan hỷ.
Hỏi : Làm sao tu xả ?
Đáp : Thấy lỗi tâm không bình đẳng, muốn cho tâm bình
đẳng, cho nên tu xả.
Lại hành giả thấy lỗi của tâm tham giận nên tu hành xả.
Hỏi : Vô lượng tâm nầy ở trong cõi nào ?
Đáp : Đều ở 3 cõi.
Hỏi : Có luận sư nói từ tam thiền trở lên không có hỷ căn.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Tôi không nói tâm hỷ là hỷ căn tính chỉ vì tâm lợi tha,
hỷ không làm vẫn đục, nên gọi là hỷ. Bốn vô lượng tâm nầy đều
là tuệ tính.
Thành Thật Luận Trang 424 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong cõi Vô sắc làm sao có 4 vô lượng tâm ? Vì có
sắc tướng mới phân biệt chúng sinh, trong cõi đó sắc tướng đã
hoại, làm sao có được ?
Đáp : Chúng sinh vô sắc cũng có thể phân biệt. Như trong
kinh nói : Phải làm hữu sắc và vô sắc v.v...
Lại trong kinh nói : Tu từ rất xa, được báo Biến tịnh, tu bi
rất xa, được báo Không xứ, tu hỷ rất xa được báo Thức xứ, tu xả
rất xa được báo Vô sở hữu xứ. Cho nên biết trong Vô sắc cũng có
vô lượng tâm.
Hỏi : Trong mỗi mỗi cõi có một vô lượng tâm. Phi tưởng phi
phi tưởng xứ không có sao ?
Đáp : Tất cả xứ có tất cả, chỉ tu từ ở bậc thượng nên sinh về
Biến tịnh xứ. Vì các nghiệp sinh quả báo tương tự, nghĩa là
chúng sinh cầu vui lại được báo vui. Bi cũng như vậy. Do có thân
nên tụ tập các khổ. Vô sắc trong hư không, nên tâm ở Thức xứ
trong cảnh duyên rất vui, nên bỏ hết. Vô sở hữu xứ thì hành giả
vì bị tưởng làm mỏi mệt, nên vào Vô sở hữu xứ. Phi tưởng phi phi
tưởng cũng có vô lượng tâm. Nhưng vì vi tế không rõ nên không
nói.
Lại tất cả xứ có tất cả, nhưng tùy nhiều mà nói, trong Biến
tịnh, tâm từ cao tột nên như vậy v.v...
Lại trong các thiền định, 4 vô lượng tâm thụ quả báo vượt
trội, vì duyên chúng sinh.
Hỏi : Có luận sư nói 4 vô lượng tâm nầy chỉ duyên chúng
sinh cõi Dục. Việc này thế nào ?
Đáp : Vì sao không duyên các chúng sinh khác ư ? Là phải
nói nhân duyên. Trong vô lượng kinh Phật nói tâm từ của hành
giả bao trùm khắp chúng sinh 4 phương trên dưới. Chúng sinh
trong cõi Sắc, Vô sắc cũng có vô thường bại hoại đọa các nẻo ác,
tại sao lại không duyên.
Thành Thật Luận Trang 425 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Có luận sư nói chỉ sinh cõi Dục hành giả mới có thể
hiện nhập vô lượng. Việc đó như thế nào ?
Đáp : Tất cả sinh xứ đều có thể hiện vào.
Hỏi : Nếu sinh trong đó cũng có thể hiện vào thì phúc không
thể hết, vì thường sống trong đó ?
Đáp : Như trong đó cũng hiện nhập thiền v.v..., các thiện
pháp khác, cũng vẫn có thoái lui. Từ v.v... cũng như vậy.
Hỏi : Nếu có lẽ nầy, sao không mau thoái lui ?
Đáp : Có nghiệp như vậy, tuy có nhân duyên thoái lui, mà
không mau thoái lui, như các cõi trời trong cõi Dục v.v..., tuy có
thiện nghiệp mà cũng sinh ác đạo. Việc này cũng vậy.
Hỏi : Người tu từ Tam-muội, vì sao đao binh, nước lửa
không làm hại được ?
Đáp : Đó là nhờ phúc thiện sâu dày, nên các ác không hại
được, lại còn được chư thiên bảo hộ.
Hỏi : Kinh nói với từ cùng tu giác ý. Hữu lậu và vô lậu làm
sao cùng tu ?
Đáp : Từ nầy và giác ý thuận nhau như trong kinh nói : Nếu
ai nhất tâm nghe pháp, thì có thể dứt 5 thứ ngăn che. Tu 7 pháp
giác ý không cần nghe pháp, cũng tu giác ý được.
Lại trong kinh nói : Này các Tì-kheo ! Tu tập tâm từ, ta bảo
đảm các ông được quả A-na-hàm. Tâm từ tuy không dứt kết,
nhưng trước dùng tâm từ nhóm họp các lợi ích phúc đức trí tuệ,
nên được Thánh đạo, vì Tuệ có thể dứt các kết, nên mới nói tu từ
được A-na-hàm. Cùng với từ tu giác cũng như vậy.
Hỏi : A-la-hán dứt tưởng chúng sinh, làm sao tu vô lượng
tâm ?
Đáp : A-la-hán tuy vào tâm từ, mà không thể nhóm họp
thành nghiệp từ, là vì không thụ sinh.
Hỏi : Thế nào là đại bi của chư Phật Thế Tôn ?
Thành Thật Luận Trang 426 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Chư Phật Thế Tôn có trí không thể nghĩ bàn như vầy :
Tuy biết các pháp rốt ráo không mà có thể hành đại bi sâu sắc hơn
phàm phu, chỉ không được quyết định tướng chúng sinh.
Hỏi : Bi với đại bi có gì sai khác ?
Đáp : Gọi bi chỉ có lòng thương xót, có thể thành xong sự
nghiệp, mới được gọi đại bi. Bởi vì sao ? Vì Bồ-tát thấy chúng
sinh khổ, muốn hết khổ nầy mới siêng có thể tu tinh tiến.
Lại trong vô lượng kiếp tu tập được thành, nên gọi đại bi.
Lại đem con mắt trí tuệ thấy khổ chúng sinh, quyết định phát
tâm phải trừ diệt, nên gọi đại bi.
Lại làm nhìều việc lợi ích, nên gọi đại bi. Cũng không bị gì
ngăn ngai, nên gọi đại bi. Bởi vì sao ? Vì tâm bi nếu nghĩ ác về
người khác thì sinh ngăn ngại, chứ đại bi đối với các ác dữ dội
thông suốt không ngại.
Lại tâm bi có dày, mỏng không đồng, còn tất cả bình đẳng
nên gọi đại bi.
Lại tự bỏ lợi mình, mà cầu lợi cho người, nên gọi đại bi. Tâm
bi không được như vậy. Đó là các tên sai khác. Như vậy từ, v.v...
ở Phật đều gọi là đại. Nhưng vì bi có thể cứu khổ, cho nên được
nêu riêng.
Phẩm 160 : Năm nhánh Thánh Tam-muội
Trong kinh nói 5 nhánh Thánh Tam-muội là hỷ, lạc, thanh
tịnh tâm, minh tướng, và quán tướng. Hỷ là sơ thiền nhị thiền
tướng hỷ như nhau, nên gọi chung làm một nhánh. Đệ-tam thiền
vì lìa hỷ lạc nên riêng làm một nhánh. Trong đệ tứ thiền tâm thanh
tịnh nên gọi nhánh thứ 3. Nương 3 nhánh nầy có thể sinh minh
tướng, quán tướng. Minh tướng và quán tướng nầy làm nhân, có
thể phá rách 5 ấm. Quán 5 ấm trống không, gọi là quán tướng. Có
thể đến Nê-hoàn, nên gọi là Thánh.
Hỏi : Trong kinh nói 5 Thánh trí Tam-muội là thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 427 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Phật tự nói : Hành giả khởi nghĩ như thế này : Ta với
Tam-muội nầy là Thánh thanh tịnh, đó là sơ trí. Tam-muội nầy
phi phàm phu mới đến gần được, là Tam-muội được người trí
ngợi khen, đó là trí thứ hai. Tam-muội nầy phải tịch diệt diệu ly
mới được, đó là trí thứ ba. Tam-muội nầy hiện tại vui, sau được
quả báo vui, đó là trí thứ tư. Tam-muội này ta nhất tâm nhập, nhất
tâm xuất, đó là trí thứ năm. Phật chỉ thị cho biết trong định cũng
có trí tuệ. Không những chỉ buộc tâm, mà hành giả khi tu tập
định, nếu sinh phiền não thì trong đó sinh trí trừ phiền não ấy.
Muốn làm cho Tam-muội là Thánh thanh tịnh gọi là sơ trí. Thánh
thanh tịnh là hạng phi phàm phu mới đến gần được, là điều người
trí ngợi khen. Nói phi phàm phu nghĩa là các Thánh nhân vì đã
được trí nên không gọi phàm phu. Trí nầy có thể phá giả danh, đó
là trí thứ hai. Mỏng dần các phiền não, tham v.v..., phiền não diệt,
nên gọi tịch diệt. Vì tịch diệt nên diệu, lìa các phiền não nên gọi là
ly. Được pháp nầy đều là đạo lìa dục, đó là trí thứ ba. Tùy chứng
phiền não dứt, được an ổn tịch diệt, được cái vui lìa nóng nảy, nên
nói hiện vui, sau vui. Hiện vui, là vui lìa phiền não. Sau vui là vui
Nê-hoàn, đó là trí thứ tư. Hành giả thường hành tâm vô tướng,
nên thường nhất tâm nhập Tam-muội xuất Tam-muội, đó là trí thứ
năm. Cho nên nếu người nào chưa sinh 5 trí thì phải sinh, sinh rồi
tức được quả Tam-muội.
Phẩm 161 : Sáu Tam-muội
Hỏi : Trong kinh nói 6 Tam-muội là : Có một tướng tu làm
một tướng. Có một tướng tu làm nhiều các tướng. Có một tướng
tu làm một tướng và nhiều các tướng. Nhiều các tướng tu cũng
như vậy. Thế là thế nào ?
Đáp : Một tướng đó phải là thiền định. Vì thiền định ở trong
một cảnh, duyên nhất tâm hành. Cho nên nhiều các tướng phải là
Thành Thật Luận Trang 428 Tuệ Quang Foundation
tri kiến, vì biết các pháp nhiều các tính, nên có phương tiện đối
với các pháp trong 5 ấm v.v...
Hỏi : Một tướng tu làm một tướng là thế nào ?
Đáp : Là như người nhờ định lại được sinh định. Còn một
tướng tu làm nhiều các tướng là như người nhờ định được sinh tri
kiến. Một tướng tu làm một tướng và nhiều các tướng là như
người nhờ định được sinh thiền định và 5 ấm phương tiện. Nhiều
các tướng tu cũng như vậy.
Hỏi : Có luận sư nói : Một tướng tu làm một tướng, phải là
như người nhờ đệ tứ thiền chứng quả A-la-hán. Một tướng tu làm
nhiều các tướng là như người nhờ đệ tứ thiền chứng 5 thần thông.
Một tướng tu làm một tướng và nhiều các tướng là như nhờ đệ tứ
thiền chứng quả A-la-hán và 5 thần thông. Nhiều các tướng tu làm
nhiều các tướng là như người nhờ 5 nhánh Tam-muội chứng quả
A-la-hán và 5 thần thông.
Còn 2 pháp kia cũng như vậy. Nghĩa đó thế nào ?
Đáp : Phải nói nhân duyên vì sao đệ tứ thiền và quả A-la-hán
là một tướng, 5 nhánh Tam-muội và 5 thần thông là nhiều các
tướng ?
Lại 5 nhánh không nên làm chỗ nương, vì 5 nhánh Tammuội
là minh tướng quán tướng của 4 Thiền, thì làm sao nương
đó được quả A-la-hán ? Bởi vì sao ? Vì cần phải nương một thiền
mới được A-la-hán quả.
Lại cũng không nên nương minh tướng để được quả A-lahán.
Cho nên không đúng.
Hỏi : Có người nói có 6 thứ nhập định là thuận nhập, nghịch
nhập, nghịch thuận nhập, thuận siêu, nghịch siêu, và nghịch thuận
siêu. Việc đó thế nào ?
Đáp : Có luận sư nói : Hành giả muốn được diệt tận định,
nên thứ lớp nhập xuất các thiền. Cho nên không nên hoặc nghịch,
hoặc thuận, hoặc nghịch thuận, và siêu việt v.v....
Thành Thật Luận Trang 429 Tuệ Quang Foundation
Năm thứ nhập xuất được lợi ích gì ?
Hành giả muốn được diệt tận định, quyết phải nhập theo thứ
lớp, cũng phải xuất theo thứ lớp.
Lại nếu được bậc thượng, vì sao lại nhập bậc hạ ?
Vì bậc hạ gai góc, như người lớn không còn ưa cách chơi
đùa của trẻ con.
Lại như người vì nghề nghiệp đã tinh xảo, thì không còn ưa
sự vụng về nữa. Việc này cũng phải như vậy.
Lại nếu nói siêu việt thì việc này không đúng. Trong kinh chỉ
nói thứ lớp vào các thiền định. Hành giả nếu có thể vượt đến thứ
3, sao không thể vượt đến 4, 5 ? Nếu nói vậy sức mạnh chỉ chừng
đó, như người trèo lên thang lên một bậc không lên được bậc nữa,
ví dụ này cũng không hẳn nhất định.
Lại người sức mạnh có thể bước lên bậc 4, lại cũng có thể
vượt trên trăm bậc. Cho nên không đúng. Trong kinh tuy nói khi
Phật nhập Nê-hoàn, nghịch thuận vượt lên vào các thiền định.
Kinh nầy trái với chính nghĩa, không nên tin thụ. Tuy có câu đó,
nhưng nghĩa không phải vậy. Bởi vì sao ? Nếu nói hành giả đến
diệt tận định, chỉ nên thuận nhập mà không cần 5 thứ. Hành giả
nếu muốn đến thẳng diệt định, thì không cần. Nếu muốn tự thử
tâm mình ở trong thiền định xem có thể tự tại không thoái lui, nên
mới nghịch thuận nghịch, xuất nhập, siêu việt, như người cỡi
ngựa, nếu tại trận đối địch thì không nên chạy quanh, còn như
muốn tập luyện trong lúc nhàn rỗi thì nên. Nếu nói bậc dưới gai
góc thì không nên vào đó, không vì bậc dưới thắng hơn mà sau lại
vào, mà vì là chỗ hành đạo của hành giả. Nếu nói như người
không ưa trẻ nít đùa giỡn, mà vì nhân duyên phải làm trẻ nít đùa
giỡn, như người dạy vũ đạo phải múa nhảy trọn ngày, đâu phải
lòng mình ưa vui mà vì dạy dỗ luyện tập. Như vậy Thánh nhân
nghịch thuận ra vào vượt lên các thiền, là vì muốn thị hiện cho
trời, người và các thần, tiên biết sức tự tại trong các thiền định.
Thành Thật Luận Trang 430 Tuệ Quang Foundation
Lại khi Phật vào Nê-hoàn, vì muốn đem thâm diệu thiền định
để huân tu ngọc Xá-lợi, nên tự tại vào ra nghịch thuận vượt lên.
Lại người thấy Phật khi vào Nê-hoàn vô dư, chán hết tất cả
pháp hữu vi, cho nên Phật hiện pháp báu quí đáng yêu mến này.
Ông nói kinh này trái với chính nghĩa, điều này không đúng.
Ông nói vì sao không thể vượt đến thứ 4, là vì trong Bồ-tát
Tạng nói tướng vượt lên từ sơ thiền khởi vào diệt tận đinh, từ diệt
tận định khởi cho đến vào trong tản tâm, vì tâm lực vĩ đại nên mới
có thể như vậy.
Phẩm 162 : Bảy Tam-muội
Luận giả nói có 7 chỗ nương : Nương sơ thiền được hết lậu,
cho đến nương Vô sở hữu xứ được hết lậu. Nương là nhân nhờ 7
chỗ này được Thánh trí tuệ, như nhiếp tâm được sinh thật trí. Có
người chỉ được thiền định cho đó là đủ. Cho nên Phật nói đó
không phải đã đủ. Cần phải nương định nầy cầu thêm thắng pháp.
Nghĩa là hết các lậu, cho nên nói là nương.
Hỏi : Làm sao nương thiền định nầy được hết các lậu ?
Đáp : Phật nói hành giả tùy đem tướng nào, duyên nào vào
sơ thiền là hành giả đó không còn nghĩ nhớ tướng đó, duyên đó
nữa, mà chỉ quán trong sơ thiền, có các sắc, hoặc thụ, tưởng,
hành, thức như bệnh, như ung nhọt, như tên bắn, đau nhức, vô
thường, khổ, không, vô ngã. Khi quán như vậy, tâm sinh chán lìa,
giải thoát các lậu. Cho đến Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Chỉ trừ 3
không xứ vì không có sắc có thể quán được. Hành giả thấy cõi
Dục rối loạn, sơ thiền tịch diệt, rồi sau mới được. Cho nên Phật
nói : Đừng nghĩ tướng vui tịch diệt ở sơ thiền, mà chỉ quán 5 ấm
và 8 thứ tội lỗi của sơ thiền mà thôi. Các chỗ nương khác cũng
vậy.
Hỏi : Cõi Dục vì sao không nói nương ?
Thành Thật Luận Trang 431 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trong Kinh Tu-thi-ma nói : Trừ 7 chỗ nương lại có
Thánh đạo xứ. Cho nên biết cõi Dục cũng có nương.
Hỏi : Có người nói nương một bên sơ thiền chưa đến chỗ
được quả A-la-hán. Việc đó thế nào ?
Đáp : Không phải vậy. Nếu chưa đến nơi mà có chỗ nương,
tức là có lỗi. Nếu chưa đến chỗ có thể được, vì sao vì không vào
sơ thiền? Cho nên không phải.
Hỏi : Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì sao không nói nương ư ?
Đáp : Trong đó không rõ định nhiều tuệ ít, nên không nói có
nương. Bảy tưởng định là 7 chỗ nương.
Hỏi : Vì sao Phật nói 7 chỗ nương là 7 tưởng định ?
Đáp : Ngoại đạo không có chân trí nên chỉ nương dựa nơi
tưởng. Tất cả chỗ nương dựa đều bị tưởng làm nhiễm ô không giải
thoát, nên gọi là tưởng định. Thánh nhân có thể phá hoại tưởng,
chỉ nương định nầy thẳng lấy hết lậu, nên gọi là nương. Như nói
hành giả quán các pháp nầy như tật bệnh, như ung nhọt. Phi tưởng
phi phi tưởng xứ cũng vì tưởng không rõ rệt, nên không nói tưởng
định.
Phẩm 163 : Tám giải thoát
Luận giả nói : Trong kinh nói 8 giải thoát : Trước tiên tưởng
nội sắc, quán ngoại sắc. Hành giả nhờ giải thoát nầy xé rách các
sắc. Làm sao biết được ? Vì trong đệ nhị giải thoát nói : Nội
không sắc tưởng, quán sắc bên ngoài. Để phá sắc bên trong nên
nói nội không sắc tưởng. Cho nên biết hành giả trong sơ giải
thoát, phá dần sắc thân, đến trong đệ nhị giải thoát, đã phá được
sắc bên trong, chỉ còn sắc bên ngoài. Trong đệ tam giải thoát sắc
bên ngoài cũng phá, nên không thấy sắc trong ngoài, đó gọi là sắc
không. Như trong Kinh Ba-la-diên nói : Phá rách sắc tướng, dứt
diệt các dục, trong ngoài không thấy, ta hỏi việc đó. Trong 4 giải
thoát nói tâm thức trống không, như trong Kinh Lục Chủng nói :
Thành Thật Luận Trang 432 Tuệ Quang Foundation
Nếu Tì-kheo đối với 5 thứ rất sinh chán lìa, chỉ còn có thức. Phải
biết trong 4 giải thoát nầy phá rách các sắc, đến giải thoát thứ 8
mới diệt hết tất cả. Bởi vì sao ? Nếu diệt sắc diệt tâm thì hữu vi
đều diệt, đó gọi là quả A-la-hán. Dùng thứ lớp như vậy mới được
diệt hết. Đó gọi là 8 giải thoát. Có người nói giải thoát đầu tiên và
thứ hai là bất tịnh, giải thoát thứ ba là tịnh. Việc này không đúng.
Bởi vì sao ? Vì là giải thoát không bởi quán bất tinh mà được giải
thoát, tịnh quán cũng không giải thoát, chỉ do không quán mới có
thể giải thoát.
Lại ngoại đạo có thể được tịnh và bất tịnh quán, mà không
gọi là được giải thoát.
Hỏi : Ngoại đạo cũng có thể phá rách sắc tướng, việc đó thế
nào ?
Đáp : Ngoại đạo lấy tín giải quán, phá hoại sắc tướng, mà
không phải không quán. Bởi vì sao ? Như dùng tín giải mà quán.
Thấy thân đã chết đem bỏ trong gò mả cho trùng, thú ăn v.v....
Hỏi : Ngoại đạo lìa sắc được vô sắc định, lẽ ra phải có vô sắc
giải thoát ?
Đáp : Ngoại đạo tuy có vô sắc định, mà vì tham đắm nên
không gọi giải thoát. Thánh nhân nhờ vô sắc định có thể quán 4
ấm bệnh v.v... 8 việc, nên gọi giải thoát.
Hỏi : Ông nói diệt định là quả A-la-hán. Điều này không
đúng. Bởi vì sao ? Vì học nhân cũng gọi là được 8 giải thoát. Ông
nói diệt định gọi là lậu tận, vậy thì học nhân phải được lậu tận ?
Đáp : Trong kinh nói diệt tướng chung mà không phân biệt
nói là tâm diệt hay là phiền não diệt. Như trong kinh nói 2 thứ diệt
: một diệt, hai thứ lớp diệt, 2 thứ Nê-hoàn : một hiện tại Nê-hoàn,
hai cứu cánh Nê-hoàn, cũng nói 2 thứ yên ổn : một an ổn, hai đệ
nhất an ổn, người được an ổn cũng 2 dạng : một được an ổn, hai
được đệ nhất an ổn. Cho nên sở đắc của học nhân không phải là
chân thật diệt.
Thành Thật Luận Trang 433 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Nếu Tì-kheo có thể vào diệt định là xong
tất cả việc. Nếu diệt định không phải quả A-la-hán thì không nên
nói xong tất cả việc.
Hỏi : Học nhân thật không được 8 giải thoát sao ?
Đáp : Trong kinh nói học nhân được 9 thứ lớp định, không
nói được diệt tận. Hành giả nếu được diệt tận, mà không thể vào
các thiền định, gọi là tuệ giải thoát, nếu có thể vào các thiền định
mà không được diệt tận, gọi là thân chứng. Nếu cả 2 đều được,
gọi là đều giải thoát. Bởi vì sao ? Vì các lậu là một phần chướng,
mà pháp thiền định là một phần đắc. Giải thoát 2 phần trên gọi là
đều giải thoát.
Hỏi : Trong các thứ lớp diệt và trong các giải thoát diệt, có gì
khác nhau ?
Đáp : Tên đồng mà nghĩa khác. Trong thứ lớp diệt, gọi là
tâm, tâm số diệt. Trong giải thoát diệt, gọi là các phiền não diệt.
Như trong kinh nói các hành thứ lớp diệt. Nghĩa là vào sơ thiền
diệt ngôn ngữ, vào nhị thiền diệt giác quán; vào tam thiền diệt hỷ,
vào tứ thiền diệt lạc, vào không xứ diệt sắc tướng, vào thức xứ
diệt không tướng, vào vô sở hữu xứ diệt thức tướng, vào phi
tưởng phi phi tưởng xứ diệt vô sở hữu tướng, vào diệt tận định
diệt các tưởng thụ. Các diệt trong đây lại có thắng diệt, như hành
giả đối với tâm tham sân si nhàm chán nên được giải thoát.
Hỏi : Làm sao biết trong thứ lớp tâm, tâm số diệt, trong giải
thoát các phiền não diệt ?
Đáp : Tên diệt tuy đồng mà nghĩa phải có khác. Trong thứ
lớp nói diệt tưởng thụ. Trong giải thoát nói diệt vô minh xúc thụ.
Bởi vì sao ? Vì từ giả danh sinh thụ, phá giả danh thì diệt. Trong
thứ lớp không phải như vậy. Trong các kinh có sai khác như vậy.
Nếu nói thẳng hành giả được diệt tận thì xong tất cả mọi việc.
Phải biết vì khi chứng Nê-hoàn các phiền não diệt, không nói tâm,
tâm số diệt.
Thành Thật Luận Trang 434 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu 8 giải thoát là pháp diệt phiền não thì tất cả A-lahán
v.v... đều phải được ?
Đáp : Đều được, nhưng không thể vào. Nếu chứng được các
thiền định, thì có thể vào.
Hỏi : Hành giả nếu không thiền định, làm sao có thể được
thân tâm trống không, và hết các phiền não ?
Đáp : Người này có định mà không thể chứng.
Lại có như điện Tam-muội, nhờ Tam-muội này được hết
phiền não. Như trong kinh nói : Ta thấy Tì-kheo khi muốn lấy áo
có phiền não, lấy áo rồi tức không phiền não. Như vậy là bởi vì
sao ? Vì tâm như điện, Tam-muội như kim cương. Chân trí có thể
phá phiền não.
Lại nghĩa này trong đệ tam lực của Phật có nói : Như các
thiền, giải thoát, Tam-muội, nhập, cấu, tịnh, sai biệt, như thật
biết, trong đó thiền là 4 thiền. Có người nói 4 thiền, 4 vô sắc định
đều gọi là thiền. Giải thoát là 8 giải thoát. Tam-muội là trong một
niệm Tam-muội như điện. Nhập là được sức tự tại trong thiền giải
thoát Tam-muội. Như Xá-lợi-phất nói : Ta trong 7 Giác, có thể
xuất nhập tự tại. Cho nên biết tuệ giải thoát, với A-la-hán có các
thiền định không thể nhập, thâm tu tập mới có thể tự tại nhập.
Hỏi : Vì sao A-la-hán có vị không tu tập sâu các thiền định ?
Đáp : Người đó được đạo, việc làm đã xong, vui tu tâm xả,
nên không hay tập nữa. Nếu không tâm xả, thì vào định không
khó. Như trong kinh nói : Hành giả khéo tu 4 pháp như ý túc, có
thể thổi tan núi Tuyết thành bụi đất, huống chi thứ vô minh chết ư
? Cho nên biết trong 8 giải thoát nói diệt hết lậu, không phải nhập
định diệt.
Lại trong kinh nói : Có minh tính, có không tính, có vô biên
hư không tính, có vô biên thức tính, có vô sở hữu tính, có phi
tưởng phi phi tưởng tính, có diệt tính. Bởi tối nên có tính sáng.
Bởi chẳng không, nên có tính không. Bởi sắc nên có tính vô biên
Thành Thật Luận Trang 435 Tuệ Quang Foundation
hư không. Bởi tính vô biên hư không, nên có tính vô biên thức.
Bởi vô biên thức nên có tính vô sở hữu. Bởi vô sở hữu nên có tính
phi tưởng phi phi tưởng. Bởi 5 ấm nên có tính diệt. Nếu không thể
phá tướng giả danh của 5 ấm đó gọi là tối. Nếu có thể phá giả
danh của 5 ấm, thì gọi là tính sáng. Như Phật bảo một Tì-kheo :
Ông đối với không, trong các hành phải quán các hành trong trống
không, để tự điều phục tâm mình. Như người cầm đèn vào trong
căn nhà trống không, tất cả chỗ thấy đều không. Hành giả lấy sắc
chứng sắc nầy diệt, gọi là không tính. Ngoại đạo nhờ vô biên hư
không xứ được lìa sắc, cho đến nhờ phi tưởng phi phi tưởng xứ
mà lìa vô sở hữu xứ. Bởi các ấm có diệt tính đó, hành giả có
những suy nghĩ, có các tác khởi đều diệt là vi diệu. Đó gọi là bởi
các ấm có diệt tính.
Hỏi : Các tính nầy nương định nào mà được ?
Đáp : Trong kinh nói minh tính cho đến phi tưởng phi phi
tưởng tính, đều do tự hành nhập định mà được. Nghĩa là hành
duyên hữu vi đạo nên được. Bởi vì sao ? Vì trí mới duyên sắc gọi
là minh tính. Tính thứ hai cũng lấy sắc, lấy rồi phân biệt khiến
không. Như vậy cho đến phi tưởng phi phi tưởng tính, diệt tính,
vào diệt tính, tất cả pháp hữu vi đều không, cho nên mới được.
Trong đây vì diệt tận các hữu vi cho nên biết trong đây nói diệt
gọi là lậu tận Nê-hoàn.
Hỏi : Các giải thoát nầy ở trong bậc nào ?
Đáp : Hành giả muốn phá hoại sắc, hoặc nương cõi Dục mà
trụ định, hoặc nương cõi Sắc mà trụ định, thì có thể được sắc
không. Tất cả trong các bậc có thể được tâm không.
Hỏi : Giải thoát nầy có mấy hữu lậu, mấy vô lậu ?
Đáp : Là không tính cho nên tất cả là vô lậu.
Phẩm 164 : Tám thắng xứ
Thành Thật Luận Trang 436 Tuệ Quang Foundation
Thắng xứ thứ nhất : Tưởng nội sắc thấy ngoại sắc ít hoặc tốt
hoặc xấu. Đối với các sắc nầy thắng tri thắng kiến, nên gọi là
thắng xứ.
Thứ hai tưởng nội sắc thấy ngoại sắc nhiều.
Thứ ba tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc ít.
Thứ tư tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc nhiều.
Thứ năm tưởng nội không có sắc, thấy ngoại sắc xanh, hình
xanh, sáng xanh, như hoa Ưu-ma-già, như sắc chân thanh nhuộm
áo Ba-la-nại.
Thứ sáu thấy vàng.
Thứ bảy thấy đỏ.
Thứ tám thấy trắng.
Hành giả thấy các sắc nhiều vô lượng như thế bởi vì sao ? Vì
không chỉ có 4 sắc xanh v.v... này, mà vì lược nói nên mới có 8
thắng xứ. Nếu hành giả có thể dùng không quán phá rách các sắc,
bấy giờ gọi là thắng xứ.
Hỏi : Ai có thể được pháp này ?
Đáp : Đệ tử của Phật chứ không phải ai khác.
Hỏi : Tám thắng xứ nầy ở trong bậc nào ?
Đáp : Ở cõi Dục, và cõi Sắc.
Hỏi : Là hữu lậu hay vô lậu ?
Đáp : Trước là hữu lậu, mà dùng không quán phá sắc thành
vô lậu.
Hỏi : Vì sao pháp này riêng gọi là thắng xứ ?
Đáp : Đó là chỗ tham đắm nhất của hành giả. Cho nên Phật
vì đệ tử nói tên thắng xứ, nghĩa là chỉ thị cho biết cần phải thắng
cảnh duyên nầy.
Phẩm 165 : Chín thứ lớp của Sơ thiền
Thành Thật Luận Trang 437 Tuệ Quang Foundation
Chín thứ lớp của định là 4 thiền, 4 vô sắc định và diệt tận
định. Sơ thiền là như trong kinh nói : Hành giả lìa các dục các
pháp ác bất thiện, hữu giác, hữu quán, ly sinh hỷ lạc vào sơ thiền.
Hỏi : Chỉ nên nói tướng sơ thiền, sao lại nói lìa các dục ư ?
Đáp : Có người chê bai nói thế gian không ai có thể lìa dục,
vi người đời đều ở trong 5 dục, không ai mắt không thấy sắc, tai
không nghe tiếng, mũi không ngửi mùi, lưỡi không nếm vị và
thân không chạm xúc. Cho nên nói lìa dục, là dục tâm chứ không
phải là sắc v.v... Như nói sắc v.v... các vật không gọi là dục.
Làm sao biết được ?
Có người tinh tiến, sắc v.v... vẫn tồn tại, mà có thể dứt dục.
Lại trong kinh nói : Sắc v.v... là phần không gọi là dục.
Trong đó tâm tham mới gọi là dục. Nếu sinh tâm tham thì tìm cầu
các dục. Vì nhân duyên tìm cầu dục, nên mới có tham giận, roi
gậy, giết hại, các ác pháp tiếp theo. Như trong Kinh Đại Nhân nói
: Nhân nơi ái sinh cầu v.v.... Cho nên biết lìa tham dục gọi là lìa
dục.
Có người nói lìa sắc v.v... 5 thứ dục gọi là lìa dục, lìa pháp ác
bất thiện, gọi là lìa 5 thứ ngăn che. Sơ thiền gần với tâm tán loạn,
nên gọi hữu giác.
Lại định lực của hành giả nầy chưa thành, tâm tán loạn phát
khởi, nên gọi là hữu giác. Như trong kinh nói : Ta tu hạnh hữu
giác hữu quán. Phải biết Phật nói tản tâm là giác. Giác nầy yếu
dần nhiếp tâm chuyển thành sâu, thì gọi là quán. Tùy theo định
lực thành tựu, không tản tâm nhiều, bấy giờ nói là quán. Quán nầy
đi theo hành giả đến bậc thiền trung gian. Nếu lìa giác quán được
hỷ gọi là ly sinh hỷ. Hỷ nầy mới được có thể lợi ích nơi thân, nên
gọi là lạc. Lìa giác quán vui trụ trong một cảnh duyên, đó gọi là
thiền. Thiền nầy bị giác quán làm loạn nên được quả báo thân có
sai khác. Vì hạ, trung, thượng sai khác nên có trời Phạm Chúng,
trời Phạm Phụ, trời Đại Phạm.
Thành Thật Luận Trang 438 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu lìa giác quán hỷ, gọi là sơ thiền, thì không cần
dùng 5 nhánh làm sơ thiền. Nếu lìa giác quán thì với đệ nhị thiền
có gì khác nhau ?
Lại trong kinh nói : Sơ thiền có giác có quán, khoái lạc khác,
hỷ cũng khác. Nếu hỷ tức là lạc, thì trong 7 giác ý không nên
riêng nói khoan khoái giác ý ?
Đáp : Ông nói sơ thiền không có 5 nhánh. Điều này không
đúng. Không nói 5 nhánh là tính của sơ thiền. Sơ thiền gần địa có
giác quán nầy, nên gọi là nhánh.
Hỏi : Nếu gần địa có pháp số là nhánh, thì sơ thiền cũng gần
5 dục, thì phải nói là nhánh ?
Đáp : Năm dục không gọi là gần, vì tâm hành giả nầy đã lìa.
Lại sơ thiền thứ lớp không khởi dục tâm.
Lại 5 dục không trụ làm nhánh sơ thiền. Nhánh gọi là nhân.
Nhân tức là phần, như thánh đạo phần nhóm họp đủ v.v.... Giác
quán cũng như vậy, là nhân của sơ thiền. Nếu định tâm của hành
giả ở trong cảnh duyên bị thoái lui, thì trở lại lấy định tướng.
Nhiếp tâm nơi cảnh, nhớ nghĩ bản tướng, đó gọi là giác quán. Cho
nên biết giác quán là nhân của sơ thiền. Trong đệ nhị thiền, định
tâm đã thành, cho nên không do giác quán làm nhân, nhị thiền
cũng thứ lớp mà không sinh giác quán.
Nếu ông nói sơ thiền cùng chung với giác quán, đó cũng
không đúng. Vì từ sơ thiền khởi, kế đó sinh giác quán. Vì gần giác
quán nên gọi là cùng chung, như cùng đi chung với đệ tử, tuy chút
xa nhau, nhưng cũng gọi là chung được.
Lại trong bậc nầy có sinh nhân duyên, nên gọi có giác quán,
như người bệnh quỉ ám, tuy khi không phát cũng gọi là bệnh.
Người nầy bị quỉ ám nếu có cơ hội là phát ra, nên gọi là bệnh.
Lại lạc thụ tức là hỷ, chỉ nói sai khác cũng từ khoái mà riêng
nói là lạc. Như trong kinh nói : Được thân khoái thì thụ lạc.
Hỏi : Nếu như vậy, sao sơ thiền nói 5 nhánh ư ?
Thành Thật Luận Trang 439 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tùy lúc nói 5, như 7 giác ý được thời tiết, thì gọi là 14
giác ý. Trong đây nói có khoái thân, khoái tâm mà thật ra thân
không khoái, chỉ có tâm vui nên thân cũng thụ vui. Hỷ cũng như
vậy, ban đầu đến nơi thân gọi là hỷ. Mới đầu được tướng hỷ lạc,
nên gọi là lạc. Về sau chỉ gọi hỷ, vì khác thời gian.
Lại không riêng có pháp khoái, chỉ khi hỷ sinh thân tâm
không còn thô nặng, mà được nhu nhuyến điều hòa, nên gọi là
khoái. Như bệnh 4 đại diệt, bệnh 4 đại không sinh, người đó gọi là
vui. Khoái cũng như vậy.
Lại trong pháp trừ diệt cũng gọi là khoái. Như trong kinh nói
: Các hành thứ lớp diệt. Như nhập sơ thiền, ngôn ngữ diệt, cho
đến nhập diệt tận định các tưởng thụ diệt. Cho nên không riêng có
pháp khoái. Nếu nói sơ thiền tương ưng với giác quán cũng
không đúng. Bởi vì sao ? Trong kinh nói : Hành giả nếu vào sơ
thiền thì diệt ngôn ngữ. Giác quán là nhân của ngôn ngữ, làm sao
có nhân ngôn ngữ mà ngôn ngữ diệt ? Nếu bảo rằng giác quán vẫn
còn, chỉ ngôn ngữ diệt, thì như người ở cõi Dục khi tâm không
muốn nói, cũng gọi là diệt.
Hỏi : Nếu trong sơ thiền không giác quán, phải gọi là Thánh
mặc nhiên. Mà Phật chỉ nói nhị thiền là Thánh mặc nhiên, không
nói sơ thiền. Cho nên biết sơ thiền, phải có giác quán ?
Đáp : Vì gần giác quán nên không nói mặc nhiên, chứ không
phải giác quán tương ưng nên không nói.
Lại trong kinh nói sơ thiền còn có âm thanh kích thích, nên
không nói là mặc nhiên.
Hỏi : Trong sơ thiền vì sao có âm thanh kích thích ?
Đáp : Sơ thiền an trụ định tâm yếu ớt như hoa trên mặt nước,
đệ nhị thiền v.v... an trụ định tâm mạnh như sơn sơn vào gỗ.
Lại xúc v.v... cũng gọi những kích thích đối với sơ thiền, vì
xúc có thể khiến khởi sơ thiền vậy. Nhị thiền v.v... không như
Thành Thật Luận Trang 440 Tuệ Quang Foundation
vậy. Bởi vì sao ? Vì trong sơ thiền các thức không diệt, nhị thiền
v.v... 5 thức diệt hết.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 13 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 166 : Nhị thiền
Diệt các giác quán, nội tịnh nhất tâm, không giác không
quán, định sinh hỷ lạc, vào đệ nhị thiền.
Hỏi : Nếu đệ nhị thiền nói diệt giác quán, thì phải biết sơ
thiền chắc có giác quán, như trong nhị thiền có hỷ, và tam thiền
nói diệt hỷ ?
Đáp : Như trong sơ thiền không có khổ căn, cũng nói khổ
căn, đệ nhị thiền diệt cái nầy cũng như vậy.
Hỏi : Trong sơ thiền tuy không khổ căn mà có các thức. Các
thức là chỗ nương của khổ căn. Cho nên nói sơ thiền khổ căn
không diệt ?
Đáp : Trong sơ thiền tuy có các thức, nhưng không phải chỗ
nương của khổ căn.
Hỏi : Tính 5 thức là chỗ nương của khổ căn, vì tính đồng cho
nên nói sơ thiền có khổ ?
Đáp : Nếu như vậy, ưu căn từ tính ý thức sinh, nên phải nói
tất cả chỗ đều có ?
Hỏi : Nay vì sao nói trong nhị thiền khổ căn diệt ?
Đáp : Sơ thiền gần tâm bất định. Người tâm bất định hay
sinh là các thức trói buộc ở cõi Dục, trong đó sinh khổ căn, cho
nên không nói sơ thiền khổ diệt.
Thành Thật Luận Trang 441 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu vậy sơ thiền cũng gần ưu căn. Ưu căn nầy cũng
phải nói như đệ nhị, đệ tam thiền diệt ?
Đáp : Nương dục ưu căn, do nương dục hỷ sinh, được tịnh
thì hỷ, bất tịnh thì hỷ diệt. Cho nên trong sơ thiền không có ưu
căn. Nương bất định sinh khổ căn. Sơ thiền gần tản tâm, nên
không gọi là diệt.
Lại như tam thiền không khổ, mà cũng nói dứt khổ lạc mới
vào tứ thiền. Điều này cũng vậy.
Lại hành giả trong sơ thiền, định chưa đầy đủ, thường bị giác
quán làm loạn, cho nên nói nhị thiền diệt các giác quán.
Nội tịnh là nhị thiền nhiếp tâm sâu, nên tán loạn không vào
được. Vì trong không loạn tâm gọi là nội tịnh. Thể của nhị thiền
nhất tâm này không giác không quán, tức nhất tâm là tâm hành
nhất đạo, cũng gọi là thiền, tức là nội tịnh. Được định sâu nầy nên
giác quán không sinh, không phải như sơ thiền tâm số ở giác
quán, cho nên nói không giác không quán.
Định sinh hỷ lạc là sơ thiền vì lìa nên được hỷ. Trong đây
định thành tựu nên được hỷ, cho nên gọi là định sinh.
Hỏi : Hỷ trong sơ thiền và hỷ trong nhị thiền có gì khác
nhau ?
Đáp : Sơ thiền do diệt ưu nên hỷ. Nhị thiền diệt khổ nên hỷ.
Lại hỷ trong sơ thiền trái với hỷ bất tịnh mà được, hỷ trong nhị
thiền trái với hỷ tịnh mà được. Tuy đều bởi ái nhân duyên nên
được hỷ, mà hỷ sơ thiền yếu ớt.
Hỏi : Nghĩa như vậy là hữu lậu hay vô lậu ?
Đáp : Đều là hữu lậu, vì có ngã tâm là có hỷ.
Hỏi : Vô lậu không có hỷ, điều này không đúng. Trong 7
giác, Phật nói hỷ giác phần. Giác phần chỉ là vô lậu. Cho nên biết
có hỷ vô lậu.
Thành Thật Luận Trang 442 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Người có tâm hỷ, thân được khoan
khoái. Thân khoái thì thụ lạc. Nếu không có hỷ vô lậu thì cũng
không có khoái lạc vô lậu.
Lại Phật thấy chúng Tăng tu sâu pháp thiện thì sinh hoan hỷ.
Cho nên biết có hỷ vô lậu ?
Đáp : Ông lấy 7 giác chứng minh hỷ vô lậu. Điều này không
đúng. Giác phần có 2 thứ : hữu lậu và vô lậu. Như trong kinh nói :
Hành giả khi nghe pháp có thể dứt 5 thứ ngăn che. Tu 7 giác
phần, giác gọi là trí vô học, nếu vì giác tu các pháp bất tịnh v.v... ,
đều gọi là giác phần thì ông nói cũng không nên có khoái vô lậu.
Trước sinh hỷ, sau được vô lậu, nghĩa là như thật tri kiến.
Lại không phải tất cả khoái đều do hỷ sinh, như tam thiền trở
lên không hỷ cũng không khoái.
Lại chúng tôi không nói lìa trí riêng có thụ pháp. Trí vô lậu
nầy mới đến tại tâm, nói là vui, cho nên có vui vô lậu, chỉ không
do hỷ sinh.
Lại trong kinh nói : Trừ bỏ thân tâm thô nặng gọi là khoái.
Khi được vô lậu thân tâm điều hòa cho nên có khoái vô lậu. Lại
Phật thường hành tâm xả, cho nên nói Phật có hỷ. Điều này cần
nói rõ.
Lại nếu người không ngã và ngã sở thì không hỷ. Nếu A-lahán
có hỷ, thì cũng có ưu, mà thật không có ưu, nên biết không có
hỷ.
Hỏi : Như sơ thiền nhị thiền có hỷ không ưu, La-hán cũng
vậy, có hỷ không ưu, có lỗi gì không ?
Đáp : Trong các thiền định có ưu, như trong căn nghĩa nói :
Ưu hỷ cho đến cõi Hữu Đảnh, khổ vui tùy thân cho đến tứ thiền.
Lại trong Thú tam thiền nói : Ly hỷ hành xả. Cho nên biết
không có hỷ vô lậu. Nếu có, thì sao nói lìa ?
Lại tâm vô lậu không nên có hỷ. Vì hỷ đều dựa vào giả danh,
tưởng phân biệt.
Thành Thật Luận Trang 443 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu vậy thì sơ thiền nhị thiền không có thụ vô lậu ?
Trong kinh nói : Sơ thiền nhị thiền chỉ có hỷ, chưa có tâm lạc. Hỷ
nầy cũng không do đâu mà có ?
Đáp : Hỷ nầy và lìa hỷ nầy không nói là thiền vô lậu. Mà lại
có kinh nói là thiền vô lậu. Như là hành giả do tướng nào, duyên
nào, vào sơ thiền, không nghĩ tướng đó, duyên đó, chỉ quán trong
sơ thiền có bao nhiêu sắc, thụ, tưởng, hành và thức, đều như bệnh
hoạn như ung nhọt, cho đến vô ngã.
Hỏi : Như bệnh hoạn, như ung nhọt, như tên bắn đau nhức, 4
điều nầy là thế gian hành, không phải vô lậu. Cho nên ông đem
kinh đó để chứng minh, không thể thành lập được vô lậu ?
Đáp : Bốn hành nầy đều là tên khác của khổ, nên gọi vô lậu.
Hỏi : Học nhân cũng không có hỷ vô lậu sao ?
Đáp : Nếu tâm tại đạo, thì bấy giờ không có hỷ, mà tại tục thì
có. Bậc vô học thường không có.
Hỏi : Trong kinh nói nhờ tâm hỷ lạc có thể được 4 đế. Sao
nói không có hỷ vô lậu ?
Đáp : Tâm vô ngã tức là lạc. Hành giả được tâm vô ngã, phá
hoại điên đảo, biết chân thật nên tâm được khoái lạc chứ không
riêng có hỷ.
Lại kinh nầy nói rõ không dùng hỷ mà có thể được thật trí,
nên mới nói như vậy.
Phẩm 167 : Tam thiền
Lìa hỷ, tu xả, nhớ nghĩ, an tuệ, thụ thân lạc. Cái lạc nầy
Thánh nhân cũng nói, cũng xả nghĩ nhớ, tu lạc vào đệ tam thiền.
Hỏi : Vì sao lìa hỷ ?
Đáp : Hành giả thấy hỷ có thể trôi nổi lên lìa.
Lại hỷ này do tưởng phân biệt sinh. Tướng động chuyển của
hỷ từ đầu đến giờ khổ thường đeo bám, cho nên lìa.
Lại hành giả được tịch diệt tam thiền nên xả nhị thiền.
Thành Thật Luận Trang 444 Tuệ Quang Foundation
Lại từ hỷ sinh lạc thì cạn, mà lìa hỷ sinh lạc thì sâu, như
người đối với vợ con v.v... không thể thường hỷ. Vì hỷ từ tưởng
phân biệt sin, còn lạc không từ tưởng phân biệt sinh nên có thể
thường có. Hành giả cũng vậy, hỷ mới đến thì lấy làm vui, sau thì
chán lìa.
Hỏi : Như người bị nóng bức, thì cho lạnh là vui. Hành giả vì
khổ nào đó bức bách, nên lấy tam thiền làm vui ?
Đáp : Trong nhị thiền, hỷ là tướng phát động, như gai góc,
hành giả bị hỷ nầy bức bách, nên ở trong định không có hỷ sinh
tâm vui.
Hỏi : Tùy có khổ nóng thì lấy lạnh làm vui, nếu được lìa
nóng thì lạnh không vui. Hành giả, nếu đã lìa hỷ, vì sao trong tam
thiền còn sinh tâm vui ?
Đáp : Sinh vui có 2 thứ : Hoặc bởi còn khổ, như có khổ nóng
thì lấy lạnh làm vui, hoặc bởi lìa khổ, như lìa người oán ghét. Như
Phật lìa Tì-kheo Câu-xá-di nói : Ta an vui. Điều này cũng vậy,
được lìa động tướng nên trong tam thiền sinh vui, như lìa 5 dục
nên lấy sơ thiền làm vui.
Tu xả là vì lìa hỷ nên tâm được tịch diệt. Hành giả trước kia
sâu đắm tâm hỷ, nhiều tán-loạn. Nay được lìa nên tâm đó được
tịch diệt, cho nên nói tu xả.
Nhớ nghĩ, an tuệ là đối với lỗi trong hỷ, 2 pháp nầy thường
sẵn sàng không cho hỷ đến phá rối.
Lại nhớ nghĩ là nhớ nghĩ hỷ, an tuệ, thấy lỗi trong hỷ.
Thụ thân vui là lìa hỷ, tu xả. Xả tức là vui, vì không vọng
động tìm cầu. Cái vui nầy không do tưởng phân biệt sinh, nên gọi
là thân thụ vui.
Thánh nhân cũng nói cũng xả, nghĩa là nói là tùy theo người
đời, nên nói gọi là vui. Như nói tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ
không tham đắm nên xả.
Thành Thật Luận Trang 445 Tuệ Quang Foundation
Nghĩ nhớ tu vui, là người nầy biết xả, nghĩa là thấy lỗi của
hỷ mà sinh chán lìa, nên được cái xả vi diệu.
Lại nghĩ nhớ cũng vi diệu, nghĩa là có thể nhớ lỗi của hỷ.
Trong đó cũng nên nói an tuệ với nghĩ đồng hành nên không nói
riêng.
Lạc, là vui đệ nhất. Cho nên Thánh nhân cũng nói cũng xả.
Hỏi : Trong tam thiền có thụ vui, vì sao nói xả vui ?
Đáp : Trong luận này tôi không nói lìa thụ riêng có xả vui.
Thụ vui tức là xả vui.
Hỏi : Nếu vậy trong đệ tứ thiền nên nói thụ vui, vì có xả ?
Đáp : Tôi nói tứ thiền cũng có thụ vui chỉ vì diệt vui đệ tam
thiền nên nói như vậy.
Hỏi : Nếu đều là thụ vui, vì sao sơ thiền nhị thiền gọi hỷ, mà
tam thiền gọi lạc ?
Đáp : Vì tưởng phân biệt nên gọi hỷ, không tưởng phân biệt
nên gọi lạc. Hành giả trong đệ tam thiền tâm chuyển nhiếp nên
không có tưởng phân biệt nên gọi là lạc.
Lại vì được tịch diệt tam thiền chuyển sâu nên gọi là lạc.
Như nói tâm động tìm cầu Thánh nhân gọi đó là khổ. Động là
phân biệt, nói đây là lạc.
Phẩm 168 : Tứ thiền
Dứt trừ khổ, vui, trước diệt ưu, hỷ, không khổ không vui, xả
niệm thanh tịnh vào đệ tứ thiền.
Hỏi : Nếu trước dứt khổ, vì sao ở trong đây mới nói ? Nếu
quyết muốn nói nên nói trước dứt, như trước diệt ưu hỷ ?
Đáp : Tứ thiền gọi là bất động. Vì muốn thành tướng bất
động nầy nên mới nói không 4 thứ thụ. Bởi vì sao ? Vì động là
phát động. Hành giả bị khổ vui xâm lấn thì tâm động. Tâm động
thì sinh tham giận, nên phải dứt khổ vui, khiến tâm không động.
Thành Thật Luận Trang 446 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Nếu đệ tứ thiền thụ lợi ích rất lớn, Vì sao không gọi là
vui ?
Đáp : Thụ nầy tịch diệt, nên nói không khổ không vui. Tùy
tâm niệm biết đây là vui thì gọi là vui. Được đệ tứ thiền lìa vui
tam thiền, nên không cho là vui.
Xả niệm thanh tịnh là trong đây xả thanh tịnh, vì không cầu.
Tam thiền có cầu, cho đó là vui.
Lại trong thiền nầy niệm cũng thanh tịnh. Bởi vì sao ? Vì
trong tam thiền đắm vui nên nghĩ nhớ tán loạn. Đến Tứ thiền vì
dứt tham vui, nên nghĩ nhớ thanh tịnh.
Hỏi : Vì sao tứ thiền không nói an tuệ ?
Đáp : Nếu nghĩ nhớ thanh tịnh, phải biết là đã nói an tuệ rồi,
vì 2 pháp này không lìa nhau.
Lại đây là đạo thiền định, không phải đạo trí tuệ. An tuệ là
tuệ, nên không nói. Trong phần sau của đệ tam thiền cũng không
nói an tuệ, chỉ nói vui hành xả nghĩ nhớ, mà không nói vui hành
xả niệm tuệ.
Lại nghĩ nhớ nầy có thể thành thiền định, nếu người khi định
chưa thành cần phải lấy tưởng nghĩ nhớ là có thể thành, vì vậy
được nói riêng.
Lại được thượng công đức, xả hạ công đức, không cần suy
nghĩ, nên không nói tuệ.
Hỏi : Thụ không khổ không vui là vô minh phần, trong Tứ
thiền phần nhiều trái nhau với tuệ, nên không nói tuệ ?
Đáp : Nếu vậy, thụ không khổ không vui lẽ ra không phải là
vô lậu ? Thụ vui là tham phần cho nên cũng không vô lậu.
Hỏi : Trong tam thiền vì lỗi trái với tự địa nên nói an tuệ, vì
trái với lỗi tha địa nên nói nghĩ nhớ. Tứ thiền tự địa không lỗi như
vậy, nên không nói an tuệ ?
Đáp : Tứ thiền cũng có các lỗi tham v.v... nên phải nói an
tuệ, trong đó lỗi tham vi tế khó biết, nên ắt cần phải nói. Trong
Thành Thật Luận Trang 447 Tuệ Quang Foundation
các địa khác cũng nên nói mà không nói. Nên biết phải đáp như
tôi.
Hỏi : Vì sao, tứ thiền diệt hơi thở ra vào ?
Đáp : Hơi thở nương thân tâm. Làm sao biết được ? Tùy khi
tâm yếu, hơi thở cũng yếu. Tứ thiền tâm không động, nên hơi thở
ra vào diệt.
Lại như người mỏi mệt, nếu gánh gánh nặng lên núi thì thở
hơi mạnh, mà khi nghỉ thì hơi thở yếu. Tứ thiền cũng như vậy, vì
không tướng động, tâm ngừng nghỉ, nên hơi thở ra vào diệt. Có
người nói hành giả được tứ thiền, nên bít các lỗ chân lông nơi
thân tứ đại, cho nên hơi thở dứt. Điều này không đúng. Bởi vì sao
? Vì uống ăn mồ hôi chảy khắp cả mình thân, nếu các lỗ chân
lông bít lẽ ra không chảy được ? Mà thật không phải. Nên biết
tâm lực tứ thiền có thể khiến hơi thở diệt.
Hỏi : Trong Tứ thiền không lạc thụ; trong đó làm sao có ái sử
? Vì trong kinh nói trong lạc thụ có ái sử ?
Đáp : Trong đó có tế lạc thụ, chỉ dứt thô lạc, nên mới nói
không khổ không vui, như gió xao ngọn đèn, nếu đèn để trong nhà
kín thì không gọi xao động, trong đó chắc có chút gió nhẹ, nhưng
gió không mạnh nên không động. Tứ thiền cũng vậy. Chắc có
chút vui, nhưng vì dứt khổ vui thô bạo nên gọi không khổ không
vui.
Phẩm 169 : Vô biên hư không xứ
Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tướng hữu đối, không nghĩ tất
cả tướng gì khác, vào vô biên hư không xứ.
Sắc tướng : là tướng sắc, hương, vị và xúc. Vì sao hành giả
phải vượt qua ? Vì trong sắc đó có đối có ngại và các tướng khác
như tiếng chuông trống v.v.... Các tướng nầy là nhiều thứ phiền
não, nhiều thứ nghiệp và nhiều thứ khổ nhân. Vì những lẽ đó nên
phải vượt qua. Nếu qua tất cả sắc tướng thì tướng hữu đối diệt.
Thành Thật Luận Trang 448 Tuệ Quang Foundation
Tướng hữu đối diệt thì không có tướng khác. Trong đây lược bớt
nên không nói qua đây nên đây diệt.
Lại có người nói : Tất cả sắc tướng tức là tướng chỗ y chỉ
của nhãn thức. Tướng hữu đối là tướng chỗ y chỉ của các thức
nhĩ-tỉ-thiệt và thân. Tướng khác là tướng chỗ y chỉ của ý thức.
Điều này không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu nói diệt tướng hữu đối
thì đã thu nhiếp sắc rồi, cần gì nói riêng ?
Lại lìa sắc tướng, đối tướng thì sẽ không riêng có sắc làm
chỗ nương cho ý thức. Cho nên không cần nói riêng dị tướng, mà
nên nói như trước.
Vào vô biên hư không xứ, là hành giả vì sắc tướng bức bách,
mỏi mệt, nên quán hư không vô biên. Bên trong lấy tướng hư
không của mắt, mũi, yết hầu v.v... Bên ngoài lấy tướng hư không
của giếng, hầm, cửa, bộng cây v.v....
Lại quán thân chết bỏ nơi gò mả, lửa cháy tan hết; hoặc chim
thú giành ăn, giòi trùng từ trong đó lúc nhúc bò ra… Cho nên biết
thân nầy trước đã có hư không.
Hỏi : Định hư không nầy lấy gì làm cảnh duyên ?
Đáp : Trước tiên duyên hư không, thành rồi tự duyên các ấm,
cũng duyên các ấm người khác. Bởi vì sao ? Vì lấy bi làm đầu,
khởi nghĩ như vầy : Chúng sinh đáng thương, vì bị sắc tướng làm
bức bách khổ não.
Hỏi : Định nầy duyên chúng sinh nào ?
Đáp : Duyên tất cả chúng sinh.
Hỏi : Hành giả đó đã lìa sắc tướng, làm sao có thể duyên sắc
chúng sinh cõi Dục được ?
Đáp : Hành giả nầy vẫn duyên sắc. Có điều đối với trong sắc,
tâm không thông suốt, không vui, không đắm. Như trong kinh nói
: Nếu Thánh nhân nghĩ nhớ ngũ dục sâu, trong đó không vui
không thông không đắm, vì sợ lui chìm lại như cháy gân lông.
Thành Thật Luận Trang 449 Tuệ Quang Foundation
Nếu nghĩ Nê-hoàn thì tâm thông suốt. Người nầy cũng vậy, có thể
duyên sắc, nhưng không tham vui.
Lại như hành giả tùy lìa sắc tướng, do hư không có thể duyên
tứ thiền, như vô sắc định có thể duyên vô lậu sắc. Trong đó không
lỗi vì không phải chỗ phân biệt, nên ngoài ra cũng phải như vậy.
Hỏi : Hư không là sắc nhập tính, làm sao duyên đây có thể
vượt qua sắc tướng ?
Đáp : Định nầy duyên hư không vô vi, nên có thể vượt sắc.
Hỏi : Định nầy không duyên hư không vô vi. Bởi vì sao ? Vì
trong phương tiện định nầy nói duyên hư không trong mắt v.v....
Nên biết duyên hư không hữu vi.
Lại trong kinh không nói tướng hư không vô vi chỉ nói tướng
hư không hữu vi, như vô sắc xứ là hư không. Cho nên không có
hư không vô vi ?
Đáp : Sắc tính không gọi hư không. Bởi vì sao ? Trong kinh
nói : Hư không không sắc không thể thấy, không thể đối.
Hỏi : Lại có kinh khác nói : Nhờ sáng biết hư không. Trừ sắc
không có pháp nào nhờ sáng có thể biết ?
Đáp : Vô sắc gọi là hư không; các sắc do sáng có thể biết.
Cho nên cũng nhờ sáng thì biết không có sắc, không phải có hư
không.
Lại trong tối cũng biết hư không, người mù dùng tay cũng
biết hư không.
Lại dùng gậy cũng biết đó là hư không. Cho nên biết hư
không không phải sắc tính. Sắc không nhờ các nhân duyên nầy
mà biết được.
Lại sắc là hữu đối, hư không là vô đối.
Lại dùng lửa v.v... có thể diệt hết sắc, mà không thể diệt hư
không. Nếu hư không diệt lại gọi là pháp gì ?
Hỏi : Nếu có sắc sinh thì hư không diệt, như khởi xây tường
vách thì trong đó không còn hư không ?
Thành Thật Luận Trang 450 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Sắc sinh trong đó, sắc ấy hoàn toàn không bị diệt. Bởi
vì sao ? Sắc không gọi là hư không. Pháp không có, không thể lại
không có nữa. Cho nên sắc không diệt hư không.
Lại ông nói hư không là sắc. Trong đó không có lý do có thể
khiến là sắc.
Hỏi : Hiện thấy hư không trong cửa v.v..., trong việc hiện
thấy không cần lý do ?
Đáp : Hư không không hiện thấy được. Như trước đã phá rồi,
như trong tối cũng có thể biết v.v....
Hỏi : Nếu hư không không phải sắc, vậy là pháp gì ?
Đáp : Hư không gọi là vô pháp. Những chỗ không có sắc gọi
là hư không.
Hỏi : Trong kinh nói : Do 6 thứ nên chúng sinh thụ thân.
Lại nói hư không là vô sắc vô đối, không thể thấy. Nếu vô
pháp, thì không được nói như vậy. Không ai nói sừng thỏ gọi là
vô sắc vô đối không thể thấy ?
Đáp : Nếu thật có pháp thì đều có chỗ sở y, như danh y vào
sắc, sắc lại y vào danh. Hư không không y vào đâu nên biết là vô
pháp.
Cái ông là không đó cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì sắc
ngăn ngại sắc, sắc nầy được, sắc khác mất, nên được tăng thêm.
Vì nghĩa nầy nên Phật nói do 6 thứ chúng sinh thụ thân.
Ông nói hư không vô sắc, vô hình, vô đối. Cũng vì phá các
vật, nên mới nói như vậy, chứ không nói có tướng hư không.
Ông nói không có ai nói sừng thỏ là vô sắc, vô đối, không
thể thấy. Đó cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì đều do hư không
được có những việc sở tác khứ lai v.v.... Trong sừng thỏ v.v...
không có nghĩa như vậy.
Hỏi : Tâm cũng như vậy. Vô sắc, vô hình, vô đối có thể nói
không được chăng ?
Thành Thật Luận Trang 451 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tâm có tác nghiệp, nghĩa là có thể lấy cảnh duyên, hư
không không tác nghiệp, chỉ vì không, nên được có chỗ tác dụng.
Cho nên biết vô pháp, vì vậy định nầy trước tiên duyên hư không.
Hỏi : Định nầy có thể duyên bậc nào ?
Đáp : Định này duyên tất cả bậc, và duyên diệt đạo nữa.
Hỏi : Có người nói các vô sắc định tuy có thể duyên diệt,
nhưng chỉ duyên tỷ trí phần diệt, không duyên hiện trí phần diệt.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Duyên tất cả diệt, dùng hiện pháp trí duyên diệt tự địa
hiện tại, dùng tỷ trí duyên các diệt khác. Đạo cũng như vậy, có thể
duyên tất cả pháp.
Hỏi : Chúng sinh cõi Vô sắc có thể khởi tâm các địa không ?
Đáp : Có thể khởi tâm các địa và tâm vô lậu.
Hỏi : Nếu vậy làm sao không chìm ?
Đáp : Trụ trong nghiệp quả báo nên có thể không chìm, như
sức thần thông trong 2 cõi Dục và Sắc. Trụ sắc khác tâm khác mà
có thể không chìm. Trong đó cũng vậy.
Hỏi: Vô biên hư không định, cùng hư không xứ nhất thiết xứ
có gì khác nhau ?
Đáp : Muốn vào hư không định phương tiện đạo gọi là nhất
thiết. Vào định thành rồi gọi là hư không định. Trong đây nhân
quả của định là bậc và tất cả hữu lậu vô lậu, hoặc định hoặc phi
định, hoặc cấu hoặc tịnh đều gọi là vô biên hư không xứ.
Phẩm 170 : Ba Vô sắc định
Qua tất cả vô biên hư không xứ, mới vào vô biên thức xứ.
Hành giả rất chán sắc, nên cũng bỏ luôn pháp đối trị sắc, như
người đã qua sông bỏ luôn cả thuyền mà đi, như được ra khỏi giặc
muốn bỏ đi cho xa. Hành giả cũng vậy, tuy nhờ không phá sắc,
cũng muốn bỏ không mà đi xa.
Thành Thật Luận Trang 452 Tuệ Quang Foundation
Vô biên thức, là hành giả dùng thức có thể duyên hư không
vô biên, thì thức cũng vô biên. Cho nên bỏ không duyên thức.
Lại như sắc vì mỏi mệt nên duyên hư không. Như vậy bị hư
không làm mỏi mệt, muốn ngăn dứt nên mới duyên nơi thức.
Lại người nầy dùng thức có thể duyên hư không vì cho thức
là thắng, nên chỉ duyên thức. Hành giả dùng thức tùy duyên tùy
lúc, nên sinh mệt nhọc, vô cùng chán lìa, lại muốn phá thức, nên
vào vô sở hữu xứ, nghĩ như vầy : Tùy có thức thì khổ, nếu ta có
thức vô biên, ắt phải có vô biên khổ. Cho nên thu nhiếp tâm
duyên thức. Vì tâm vi tế nên cho là vô sở hữu.
Lại nghĩ như vầy : Vô sở hữu tức là tưởng. Mà tưởng là khổ
não, như tật bệnh, như ung nhọt. Nhưng nếu không tưởng lại là
ngu si nếu ta thấy vô sở hữu tức đó là hữu, nên đối với các tưởng
chưa được giải thoát. Hành giả thấy tưởng là suy nhược, là bênh
hoạn mà vô tưởng là ngu si, tịch diệt là vi diệu, đó là phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Phàm phu thường e sợ vô tưởng, vì cho là ngu
si, cho nên rốt cuộc không thể diệt tâm.
Có người nói chúng sinh vô tưởng cũng có thể diệt tâm. Điều
này không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu những người trong cõi Sắc
có thể diệt tâm, thì trong cõi Vô sắc sao lại không thể ?
Hỏi : Cõi Sắc có sắc nên có thể diệt tâm. Trong cõi Vô sắc
trước đã diệt sắc nay lại diệt tâm. Nếu thấy sắc tâm đều diệt thì
kinh sợ bàng hoàng ?
Đáp : Nếu người ở trong kia không thể diệt mà sinh về trong
đây thì phải có thể diệt, như diệt tận định.
Hỏi : Quả của diệt tâm là vô tưởng, cho nên nếu diệt cả sắc
lẫn tâm thì mất hẳn ?
Đáp : Diệt tận định cũng có quả hữu tâm. Điều này cũng như
vậy.
Lại nếu quả không dứt cũng gọi trụ ở quả, như ở sắc biến
hóa. Biến hóa trong tâm lại sinh quả, nên không gọi mất hẳn
Thành Thật Luận Trang 453 Tuệ Quang Foundation
được. Cho nên trong cõi Sắc không nên nói diệt tâm. Nếu nói thì
trong cõi Vô sắc cũng cần phải nói.
Lại trong vô tưởng định, tâm không nên diệt. Bởi vì sao ? Vì
hành giả cần chán lìa tâm, nên có thể diệt tâm. Nếu người chán
tâm, còn không sinh trong cõi Vô sắc huống sinh cõi Sắc.
Lại người phàm phu trong tâm sinh ngã tưởng sâu. Như
trong kinh nói : Phàm phu từ lâu tham đắm tâm nầy, cho đó là
ngã. Cho nên không thể có chút chán lìa.
Lại trong kinh nói : Ngoại đạo có thể nói dứt diệt 3 thứ thủ
mà không thể nói dứt ngã ngữ thủ. Cho nên không thể diệt tâm.
Lại nếu biết đúng đắn pháp nhân duyên, có thể được tâm
không. Như trong Kinh Viên Hầu Dụ nói : Phàm phu hoặc có thể
lìa thân, mà không thể lìa tâm. Thà quán thân thường, đừng quán
tâm thường. Bởi vì sao ? Vì mắt thấy thân nầy, hoặc sống còn 10
tuổi cho đến trăm tuổi, như nói hoặc tâm hoặc ý hoặc thức, niệm
niệm sinh diệt biến khác, như vượn khỉ chuyền cây, buông một
nhánh, liền vin một nhánh, không đứng một chỗ. Nếu đệ tử Phật
trong đó quán đúng đắn pháp nhân duyên thì có thể biết vô
thường.
Lại người biết pháp nhân duyên, vì thụ sai khác nên có thể
phân biệt thức. Các ngoại đạo vì không có trí phân biệt nhân
duyên, nên không thể diệt tâm.
Lại người phàm phu lìa sắc mà không lìa tâm nên không
được giải thoát. Nếu cả 2 đều có thể diệt thì sao không được giải
thoát ?
Lại người phàm phu e sợ diệt, nên đối với Nê-hoàn rốt cuộc
không thể sinh tưởng tịch diệt an ổn. Như trong kinh nói : Không
có ngã và không có ngã sở là chỗ phàm phu rất khiếp sợ.
Lại trong vô tưởng sinh tâm ngu si. Nếu đối với Nê-hoàn
không sinh tâm tưởng tịch diệt an ổn, làm sao có thể diệt tâm.
Thành Thật Luận Trang 454 Tuệ Quang Foundation
Lại pháp phàm phu cần nhờ bậc trên, mới có thể xả bậc dưới,
cho nên không có nhân duyên có thể diệt tâm, chỉ nhờ sức định
suy tưởng tỉ mỉ tâm hiện tiền, không hiểu cho nên tự cho là vô
tưởng. Nếu khởi thô tưởng tức thì thoái lui. Như người thiểu trí
gọi là vô trí, như thức ăn ít mặn gọi là không mặn, như mê ngất
xỉu mất nhớ, như loại sâu nằm lâu năm trong lòng đất, như loại cá
nằm trong băng giá. Trong đây nói phi tưởng phi phi tưởng xứ
cũng vậy. Tuy thật có tưởng, nhưng vì tùy theo thế tục, nên nói là
vô tưởng.
Phẩm 171 : Diệt tận định
Qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thân chứng tưởng thụ
diệt.
Hỏi : Vì sao trong các thiền không nói qua tất cả ? Trong vô
sắc định không nói diệt?
Đáp : Tôi nói trong các thiền định đều có các pháp giác quán
hỷ lạc, cho nên không nói qua tất cả.
Hỏi : Vô biên hư không xứ có sắc tâm. Điều này đã rõ, nên
trong Vô sắc cũng không nên nói qua tất cả ?
Đáp : Như vào trong vô biên hư không định thoát được sắc
tâm, mà không thoát được các pháp giác quán.
Lại có người nói : Nếu nói qua, diệt, chìm, đều là nghĩa một
mà tên khác.
Lại trong vô sắc định tâm kiên cố. Trong các bậc dưới tâm bị
tán loạn làm hoại, cho nên không nói qua tất cả.
Hỏi : Nếu đều nói có gai góc là sắc tưởng v.v..., sao lại nói
tâm kiên cố ?
Đáp : Tuy đều nói gai góc, nhưng cũng gọi đệ tứ thiền là
không động. Như vậy trong vô sắc định, định lực lớn nên được
kiên cố.
Thành Thật Luận Trang 455 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Học nhân không nên được diệt tận định, vì chưa qua tất
cả phi tưởng phi phi tưởng xứ ?
Đáp : Học nhân có thể thấy tất cả hành diệt của Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, nhưng chưa có thể khiến nó không sinh, nên cũng
được nói là qua.
Hỏi : Nếu ý trong đây lấy Nê-hoàn cho là diệt, thì trước ông
nói trong 9 thứ lớp diệt là tâm và tâm số diệt, trái nhau sao ?
Đáp : Diệt định có 2 thứ : một là diệt hết các phiền não, hai
là diệt chưa hết. Người hết phiền não ở trong giải thoát. Người
phiền não chưa hết ở trong thứ lớp.
Lại một là diệt phiền não nên gọi diệt định, hai là diệt tâm,
tâm số, pháp cũng gọi diệt định. Diệt phiền não là giải thoát thứ 8,
cũng gọi là quả A-la-hán. Quả A-la-hán là diệt tất cả tưởng, không
cho sinh lại nữa. Trong đây tuy diệt các tưởng, nhưng còn thừa
kết sử, nên không thể khiến không tái sinh.
Hỏi : Nếu hành giả dùng 9 thứ lớp định có thể diệt tâm thì
Tu-đà-hoàn v.v... làm sao có thể chứng pháp tâm diệt ?
Đáp : Trong 9 thứ lớp diệt gọi là đại diệt. Như người khéo tu
các thiền định, nhờ sức mạnh đạo tâm nên có thể được diệt nầy.
Nếu không sức đó, thì chỉ được có diệt, không thể được đại lực
như vậy, cho nên nói thứ lớp định. Các chỗ khác cũng có tâm diệt,
như trong đệ tứ thiền có thể diệt tâm, tâm số pháp, vào trong vô
tưởng, thì trong Sơ thiền v.v... vì sao không diệt ?
Lại chỗ khác cũng phải có nghĩa diệt tâm, như trong kinh nói
: Tu-đà-hoàn v.v... đều có thể chứng diệt. Chỉ tâm diệt gọi là diệt,
không có pháp nào khác diệt. Cho nên biết lìa 9 bậc này cũng có
tâm diệt.
Hỏi : Nếu diệt tận định có thể diệt tất cả tâm, tâm số pháp, vì
sao chỉ nói tưởng thụ diệt ?
Đáp : Tất cả tâm đều gọi là thụ. Thụ nầy có 2 thứ : một là
tưởng thụ, hai là tuệ thụ. Tưởng thụ là hữu vi duyên tâm, vì tưởng
Thành Thật Luận Trang 456 Tuệ Quang Foundation
hiện hành trong pháp giả danh. Giả danh có 2 thứ : một là do hòa
họp giả danh, hai là pháp giả danh. Cho nên tất cả hữu vi duyên
tâm đều gọi là tưởng. Tuệ thụ là vô vi duyên tâm. Cho nên nếu
nói tưởng thụ diệt là nói tất cả diệt.
Hỏi : Trong tất cả tâm, tâm số pháp, thụ tưởng là hơn cả cho
nên nói riêng. Bởi vì sao ? Vì phiền não có 2 phần : một là ái
phần, hai là kiến phần. Thụ sinh ái phần, tưởng sinh kiến phần.
Lại trong cõi Dục, cõi Sắc thụ thắng hơn, trong cõi Vô sắc
tưởng thắng hơn. Cho nên chỉ có 2 thứ.
Lại trong các thức xứ chỉ nói thụ tưởng. Thức xứ từ tâm khởi
nên gọi là hành.
Lại nếu nói thụ tưởng diệt, thì nói tất cả tâm, tâm số diệt, vì
các tâm số không rời nhau ?
Đáp : Không phải vậy. Ông nói thắng hơn cho nên nói riêng
thì cần phải nói tâm. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nhiều chỗ nói tâm
là chủ mà cũng là chỗ nương của 2 phần phiền não. Và cũng vì
tâm sai khác nên gọi là thụ tưởng, cho nên phải nói tâm.
Lại nói tâm thì dễ, cho nên lời ông nói không đúng.
Hỏi : Định nầy vì sao nói thân chứng ?
Đáp : Tám giải thoát đều phải nói thân chứng.
Lại diệt pháp này không phải dùng lời nói mà thấu rõ được,
nên nói thân chứng, như người chạm vào nước mới biết tướng
lạnh, chứ không phải nghe nói mà có thể biết được. Việc này cũng
vậy.
Lại đây là pháp vô tâm, cho nên phải dùng thân chứng ?
Hỏi : Ông nói diệt định là pháp vô tâm. Nghĩa nầy không
đúng. Bởi vì sao ? Vì người vào định nầy là chúng sinh, thế gian
không có chúng sinh vô tâm, cho nên không đúng.
Lại trong kinh nói : Mạng sống, hơi nóng, ý thức, 3 pháp nầy
thường không rời nhau, cho nên không diệt tâm.
Thành Thật Luận Trang 457 Tuệ Quang Foundation
Lại tất cả chúng sinh đều nhờ 4 lối ăn mới được sống còn.
Mà người vào diệt tận định thì không còn các lối ăn nầy nữa. Bởi
vì sao ? Vì người này không ăn lối đoàn thực, xúc thức v.v... cũng
đều diệt hết, cho nên không ăn.
Lại tâm từ tâm sinh, nếu tâm nầy diệt, các tâm khác không
sinh, vì không thứ lớp duyên thì hậu tâm làm sao sinh nữa được ?
Lại tâm chỉ nhập Nê-hoàn vô-dư, khi dứt tương tục mới diệt,
không phải ở các chỗ khác mà diệt được. Như trong kinh nói :
Lấy sắc vượt qua các dục, lấy vô sắc vượt qua sắc, lấy diệt vượt
qua các tác niệm tư duy. Tâm là tác niệm tư duy, cần phải lấy diệt
mới có thể vượt qua. Được Nê-hoàn hữu dư thì tâm cáu bẩn diệt.
Được Nê-hoàn vô dư thì tâm không cáu bẩn diệt. Đó chính là
nghĩa Phật pháp.
Lại người vào diệt định không gọi là chết. Tâm diệt gọi là
chết. Nếu tâm diệt sinh lại, người chết cũng phải sống lại, vậy thì
rốt cuộc không có chết. Nếu tâm diệt sinh lại, thì người vào Nêhoàn
cũng phải sinh lại, vậy thì rốt cuộc không có giải thoát. Mà
thật không phải như vậy, cho nên tâm không diệt ?
Đáp : Ông nói không có chúng sinh vô tâm. Tuy đồng là vô
tâm, mà khác với người chết. Như trong kinh hỏi rằng : Người
vào diệt tận định với người chết có khác gì không ? Đáp rằng :
Người chết thì sinh mạng, hơi nóng, ý thức 3 thứ đều diệt. Người
vào diệt tận định chỉ tâm diệt, mạng sống và hơi nóng không rời
khỏi thân. Cho nên biết phải có chúng sinh vô tâm.
Lại người này tâm thường còn, vì có sức nên cũng gọi có
tâm, không như gỗ đá.
Ông nói 3 việc không rời nhau, đó là chúng sinh cõi Dục cõi
Sắc, cho nên nói trong cõi Vô sắc có mạng có thức mà không
nóng.
Thành Thật Luận Trang 458 Tuệ Quang Foundation
Lại người vào diệt tận định, có mạng có nóng mà không có
thức, tức trong kinh này cũng nói thức rời thân. Cho nên, nếu nói
3 việc không rời nhau là tùy có chỗ mà nói.
Ông nói không ăn làm sao sống ? Thân này trước dùng ý tư
thực nên tồn tại. Hiện tại dùng lạnh v.v... các xúc nên có thể chi
trì thân.
Ông nói tâm do tâm sinh, đó là tâm làm nhân cho tâm khác.
Làm nhân rồi diệt, cho nên có thể sinh tâm khác.
Hỏi : Tâm diệt làm sao có thể sinh tâm khác ? Như mắt đã
diệt là không thể sinh thức ?
Đáp : Như nghiệp diệt rồi, quả báo mới sinh được. Việc này
cũng vậy.
Lại ý với ý thức 2 việc ngại nhau, mà nhãn cùng nhãn thức
không phải như vậy. Cho nên không phải nhân.
Ông nói khi dứt tương tục thì tâm diệt. Điều này không
đúng. Diệt có 2 thứ là sắc diệt và tâm diệt. Hoặc sắc diệt tâm
không diệt, như trong Vô sắc. Hoặc tâm diệt chẳng phải sắc như
vào diệt định. Hoặc sắc tâm đều diệt, như khi diệt tương tục.
Ông nói vào diệt tận định không gọi là người chết đó. Người
nầy mạng và nóng không diệt, mà người chết 3 thứ đều diệt. Đó là
chỗ khác nhau.
Lại người nầy nhờ mạng và nóng nên tâm có thể sinh lại, mà
người chết thì không phải vậy.
Ông nói nếu diệt tâm lại sinh thì không ai giải thoát. Điều
này không đúng. Bởi vì sao ? Vì người vào Nê-hoàn nghiệp trước
chiụ mạng, nóng, thức đã diệt không đợi sinh lại. người nầy mạng
và nóng không diệt, trước mong tâm sinh, Như trong Phẩm Diệt
tận định nói : Người vào diệt tận định nhờ 6 nhập nầy và thân
mạng nên được khởi lại, cho nên tâm có thể sinh lại. Người vào
Nê-hoàn tâm không sinh lại, nên biết định nầy vô tâm.
Thành Thật Luận Trang 459 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì sao bố thí người khởi định nầy có thể được hiện báo
?
Đáp : Người từ định nầy khởi tâm rất tịch diệt. Như trong
kinh nói : Người khởi diệt tận định tâm thuận với Nê-hoàn.
Lại người nầy sức thiền định mạnh, nương định nầy nên trí
tuệ cũng lớn. Trí tuệ lớn, nên có thể làm cho người thí được quả
báo vượt trội. Như người cúng dường trăm ngàn Thanh Văn
không bằng một Phật, trong đó đều lấy trí tuệ làm vượt trội,
không phải ở chỗ dứt các kết. Việc này cũng như vậy.
Lại người vào định nầy do huân tu nhiều pháp thiện nơi tâm,
nên sinh đại quả. Như người làm ruộng giỏi chắc thu hoạch được
nhiều.
Lại người thí có thể chán đời nhiều thì được báo lớn.
Nói người chẳng phải tâm cáu bẩn, là người này không đem tâm
cáu bẩn giả danh cho nên cúng dường được quả lớn.
Lại người nầy thường trụ đệ nhất nghĩa đế, những người
khác ở trong thế đế.
Lại người nầy thường trụ trong pháp không tranh chấp. Bởi
vì sao ? Vì tâm duyên hữu vi thì có tranh tụng.
Lại như trong kinh nói : Cỏ dại làm hại lúa, tham lam dục
vọng hại tâm. Cho nên thí người vô dục được quả báo lớn. Nhân
duyên tham dục là tướng giả danh. Người khởi định nầy vì duyên
Nê-hoàn nên lìa tướng giả danh.
Lại trong kinh nói : Nếu người thụ đàn-việt cúng rồi, vào vô
lượng định, đàn-việt nầy nhờ nhân duyên đó được phúc vô lượng.
Người khởi diệt định duyên tâm Nê-hoàn nên gọi là vô lượng, diệt
định nầy cũng là vô lượng, nên được vô lượng phúc, nên có thể
được hiện báo.
Lại nhờ 8 công đức trang nghiêm phúc điền nầy. Tâm duyên
Nê-hoàn là chân chính kiến, các phúc phần khác tùy tòng, cho nên
có thể sinh hiện báo.
Thành Thật Luận Trang 460 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Có người nói diệt tận định là tâm bất tương ưng hành,
cũng gọi thế gian pháp. Viếc này thế nào ?
Đáp : Như trên đã nói người khởi định nầy có rất nhiều các
công đức tịch diệt v.v... là những công đức mà thế gian không
thể có.
Hỏi : Diệt tận định gọi là pháp ngăn, vì nhờ pháp nầy khiến
tâm không sinh. Cho nên phải gọi tâm bất tương ưng hành, như
sắt vào lửa thì không còn tướng đen, mà rời lửa lại sinh. Việc này
cũng như vậy ?
Đáp : Nếu là vậy, Nê-hoàn cũng phải là tâm bất tương ưng
hành. Bởi vì sao ? Vì bởi Nê-hoàn nên các ấm không sinh. Nếu
Nê-hoàn không phải tâm bất tương ưng hành, thì định này cũng
không được gọi là bất tương ưng hành. Nhưng các người hành giả
thì pháp phải như vậy. Vào trong định nầy tùy theo sở nguyện
nên tâm có thể không sinh. Cho nên không nên gọi là bất tương
ưng hành.
Hỏi : Định nầy thứ lớp như vậy vào, rồi cũng thứ lớp như
vậy ra sao ?
Đáp : Cũng thứ lớp ra, rồi chậm rãi nhập vào thô tâm.
Hỏi : Trong kinh nói : Người mới khởi diệt tận định chạm
vào 3 thứ xúc đó là vô động, vô tướng, vô sở hữu. Vì sao như vậy
?
Đáp : Trong vô vi duyên tâm, có các xúc gọi là vô động, vô
tướng, vô sở hữu. Vô động tức là trống không. Hữu vi duyên tâm,
nhẹ nên có động, như lấy sắc, thụ v.v.... Trong không, không có
tướng. Trong vô tướng không có tham v.v... Người vô tâm nầy
mới bắt đầu duyên Nê-hoàn, sau duyên hữu vi, cho nên mới nói
khi khởi chạm vào 3 thứ xúc.
Hỏi : Có người nói vào diệt tận định tâm là hữu lậu. khởi
định tâm hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Việc đó thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 461 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Không phải hữu lậu. Hành giả muốn nhập định nầy
phải phá hoại tất cả hữu vi từ trước. Phá xong mới vào được. Khi
khởi tâm duyên Nê-hoàn hiện tiền. Cho nên biết đều là vô lậu.
Hỏi : Trong kinh nói : Hành giả nhập diệt tận định không tự
nghĩ là mình nhập, khi khởi cũng không tự nghĩ. Nếu vậy làm sao
có thể nhập ?
Đáp : Thường tu tập nên định lực kiên cường, tuy không tự
nghĩ mà có thể nhập được.
Lại hành giả nầy từ khi dứt hữu vi đến nay đã từng vào diệt.
Nếu không ngăn nổi tâm, để cho duyên hữu vi thì không gọi là
nhập. Cho nên kinh nói : Người vào định nầy, trước phải điều tập
tâm. Cho nên có thể vào được.
Hỏi : Nếu không có cái không khác, có thể được tu vô vi
duyên tâm, thì được ích gì ?
Đáp : Vì tu tập đã lâu thì định kiên cố, thấy biết rõ ràng như
tâm duyên hữu vi thấy niệm niệm diệt, cũng không khác niệm
niệm diệt, chỉ tu tập lâu thì tâm kiên cố, Việc này cũng vậy.
Phẩm 172 : Mười nhất thiết xứ
Không phá hỏng duyên trước, tâm lực tự tại, gọi là nhất thiết
xứ. Hành giả lấy một ít tướng rồi, nhờ sức tin hiểu khiến nó thêm
rộng. Bởi vì sao ? Sức nhiếp tâm này nếu vào trong thật, thì đều
có thể khiến trống không, mà vào trong tín giải đều có thể khiến
tùy theo trước đã lấy tướng.
Hỏi : Thế nào là tính tín giải ?
Đáp : Xanh v.v... các màu sắc nhiều vô lượng. Lược nói căn
bản có 4 thứ : là địa v.v... 4 đại. Bốn sắc căn bản có thể phá 8 việc
nầy. Đó là hư không. Vì thức có thể biết vô biên không, nên cũng
gọi là vô biên. Bởi vì sao ? Vì không phải pháp hữu biên có thể
lấy vô biên. Đó gọi là 10.
Thành Thật Luận Trang 462 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong địa thật có thủy v.v..., Vì sao hành giả có thể
quán chỉ là địa ?
Đáp : Tập lâu quán nầy thường lấy địa tướng, về sau chỉ thấy
địa mà không thấy vật gì khác.
Hỏi : Hành giả đã thấy địa tướng thật là địa không ?
Đáp : Vì sức tín giải nên thấy là địa, kỳ thật không phải địa.
Hỏi : Nếu do sức biến hóa mà có, thì vật bị biến hoại không
phải thật sao ?
Đáp : Biến hóa là do sức định mà thành, nên thứ được làm ra
đều thật, như ánh sáng, nước, lửa v.v....
Hỏi : Có luận sư nói vào nhất thiết xứ chỉ ở trong đệ tứ thiền.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Nếu ờ cõi Dục và trong tam thiền thì có lỗi gì ? Hai
nhất thiết xứ sau đều ở tự địa. Mười pháp nầy đều là hữu lậu, vì
không phá hoại được cảnh duyên.
Hỏi : Tướng hư không không phá hoại sắc sao ?
Đáp : Hành giả cũng nhờ tín giải lấy không tướng trong mắt
mũi v.v... làm tướng trống không, chứ không thể trực tiếp phá
được thật sắc. Cho nên cũng gọi là tín giải.
Hỏi : Trong kinh nói người vào định nhất thiết địa nghĩ địa
tức là ngã, ngã tức là địa. Vì sao khởi nghĩ như vậy ?
Đáp : Hành giải nhận thấy tâm đầy khắp đầy nên mới sinh ý
nghĩ tất cả là ngã này.
Hỏi : Có người nói định nầy chỉ duyên địa hệ thuộc cõi Dục.
Việc đó thế nào ?
Đáp : Nếu duyên tất cả địa hệ thuộc 2 cõi Dục, Sắc v.v... có
lỗi gì ? Giả sử định nầy lại duyên các pháp khác lại có lỗi gì ?
Lại định này là tín giải quán duyên hư vọng, không có địa
không hư vọng v.v....
Hỏi : Đệ tử Phật cũng quán địa v.v.... Việc đó thế nào ?
Đáp : Học nhân nếu quán đều vì để phá hoại.
Thành Thật Luận Trang 463 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Thật không phải tất cả đều là địa v.v.... Làm sao định
nầy không phải điên đảo ?
Đáp : Trong quán này có phần si, vì trong quán này khởi ngã
kiến. Quán bất tịnh v.v... tuy không phải chân thật, nhưng tùy
thuận ly dục. Quán nầy không như vậy, nên có phần si.
Hỏi : Vì sao không quán thụ v.v... vô biên, mà chỉ quán thức
ư ?
Đáp : Có thể lấy là địa v.v..., lấy là thức. Cho nên thấy thức,
mà không thấy thụ.
Lạị như trước đã nói thụ v.v... đều là sai biệt của tâm.
Lại hành giả không thấy thụ v.v... đầy khắp, vì không phải tất
cả chỗ thụ khổ vui. Đệ tử Phật nếu tu định nầy là vì phá hoại cảnh
duyên. Bởi vì sao ? Vì cảnh duyên đó là chỗ tham đắm của hành
giả. Nếu không phá hoại thì đồng với phàm phu.
Phẩm 173 : Mười tưởng vô thường tưởng
Mười tưởng là vô thường tưởng, khô tưởng, vô ngã tưởng,
thực yểm tưởng, nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng, bất tịnh
tưởng, tử tưởng, dứt tưởng, ly tưởng và diệt tưởng.
Vô thường tưởng là trong pháp vô thường biết chắc là vô
thường.
Hỏi : Vì sao tất cả vô thường ?
Đáp : Tất cả pháp đó đều từ nhân duyên sinh. Nhân duyên
hoại nên đều quy về vô thường.
Hỏi : Không phải vậy. Có pháp tuy từ duyên sinh, mà không
phải vô thường. Như kinh ngoại đạo nói ai lập 3 đền thờ được
sinh về nơi thường còn ?
Lại thân trời Phạm Thế là thường còn ?
Đáp : Thì trong pháp của ông cũng nói Thích Đề Hoàn Nhân
có thể làm trăm ngôi đền cũng bị thoái đọa.
Thành Thật Luận Trang 464 Tuệ Quang Foundation
Lại trong bài kệ nói : Có nhiều các Đế Thích v.v..., tạo lập
hơn trăm ngàn ngôi đền, v.v... đều vô thường hết. Trăm ngàn đền
thờ còn không tồn tại, cho nên biết 3 đền cũng chẳng thường còn !
Lại Thích Đề Hoàn Nhân và các Thiên Vương, thân phần
cũng hết. Cho nên pháp do duyên sinh không gì có thể thường còn
được.
Lại trong pháp của ông lấy sách Vi-đà làm quí. Trong Vi-đà
nói do trí tuệ nên được phép bất tử. Như nói : Thấy sắc mặt trời
đại nhân quá hơn nơi thế tính. Trước tùy thuận ý người nầy, có thể
được đạo bất tử, mà không có đạo nào khác. Tiểu nhân có thần
nhỏ, đại nhân có thần lớn thường ở trong thân. Nếu người nào
không biết tướng thần đó thì dẫu có đọc tụng kinh Vi-đà v.v...
cũng không ích gì. Vì trong pháp của ông nói Phạm Vương cũng
thường thờ tự, trì giới, làm các công đức . Nếu biết thân thường,
cần chi phải làm phúc ?
Lại nghe trong kinh của ông nói các vị Phạm Vương có ác
dâm dục. Nếu có dâm dục ắt có sân v.v... tất cả phiền não. Nếu có
phiền não ắt có tội nghiệp. Như vậy người tội làm sao có thể được
thường giải thoát.
Lại không phải tất cả thần tiên đều thờ trời, cũng không phải
tất cả tu hành theo đạo Phạm Thiên. Nếu đó là thường thì tất cả
phải đều thờ đều tu theo.
Lại tất cả vạn vật v.v... đều vô thường. Bởi vì sao ? Vì nếu
khi đại kiếp tận diệt thì đất nước gió lửa trở lại không còn nữa.
Lại thời gian vần chuyển như bánh xe, nên biết vô thường.
Lại thành tựu giới định tuệ v.v... vô lượng công đức , các vị
Đại Thánh nhân, Phật Định Quang v.v... và Bích-chi-phật, Ma-hatam-
ma-già v.v..., các vị vương kiếp sơ, v.v... đều vô thường thì
đâu có vật gì là thường !
Lại Phật tự nói tất cả sinh pháp đều định tướng vô thường.
Như trong Kinh Ngưu Phấn nói : Phật lấy một ít phân bò cho các
Thành Thật Luận Trang 465 Tuệ Quang Foundation
Tì-kheo xem mà rằng không có sắc gì thường định không biến
đổi. Trong kinh nầy nói rộng quả báo của các vua Thích, Phạm,
Chuyển luân, cũng sẽ hết. Cho nên biết tất cả vô thường.
Lại tất cả tuổi thọ của 3 cõi đều có hạn lượng. Thọ mạng một
kiếp trong địa ngục A-tì bằng thọ mạng nửa kiếp trong địa ngục
Tăng-già-đà. Ngoài ra hoặc nhiều hoặc ít. Loài rồng v.v... tối đa
cũng thọ một kiếp. Ngạ quỷ tối đa thọ 7 vạn năm. Phất-vu-đãi thọ
250 năm. Câu-da-ni thọ 500 năm. Uất-đan-việt định thọ ngàn
năm. Diêm-phù-đề thọ hoặc vô lượng kiếp, hoặc thọ 10 tuổi. Trời
Tứ Thiên Vương thọ 500 năm, cho đến cõi Hữu Đảnh thọ 8 vạn
kiếp. Cho nên biết tất cả 3 cõi đều vô thường.
Lại lấy 3 thứ tín tin biết vô thường. Trong hiện thấy không
có pháp thường còn. Trong lời Thánh nhân đã nói cũng không có
pháp thường còn. Và trong so sánh biết cũng không có thường vì
cần phải trước hiện thấy sau mới so sánh biết.
Lại nếu có chỗ thường, có đâu người trí diệt tất cả pháp để
cầu giải thoát ? Ai không muốn cùng người mình yêu thường ở
cùng nhau chung hưởng khoái lạc ? Mà thật người trí đều cầu giải
thoát. Cho nên biết sinh pháp không thường còn được.
Lại còn phải nói tất cả sinh pháp đều niệm niệm diệt, còn
không tạm ngừng huống chi thường còn được.
Hỏi : Tu tưởng vô thường có thể làm xong việc gì ?
Đáp : Có thể phá phiền não. Như trong kinh nói : Khéo tu vô
thường tưởng, phá được tất cả Dục nhiễm, Sắc nhiễm và Vô sắc
nhiễm, trạo, mạn, vô minh.
Hỏi : Không phải vậy. Tưởng vô thường nầy lại càng tăng
tham dục, như người biết tuổi trẻ không được bao lâu, nên rất
tham đắm dâm dục. Biết hoa đẹp không tươi mãi, thì gấp dùng
cho bằng thích. Biết sắc đẹp kia không phải của mình thường có,
thì càng mau tăng dâm dục. Như vậy tùy theo biết vô thường, mà
Thành Thật Luận Trang 466 Tuệ Quang Foundation
sinh tham đắm. Cho nên tưởng vô thường không thể phá được
tham dục.
Cũng có người vì biết vô thường nên mới làm việc sát hại
v.v.... Và cho đến loài súc sinh đều biết vô thường, mà cũng
không thể phá các phiền não. Cho nên tu tưởng vô thường không
lợi ích gì cả ?
Đáp : Bởi vô thường nên mới sinh khổ ly biệt, khổ vì mất
tuổi xuân xanh, sự an vui, tuổi thọ và sự giàu sang. Người trí do
đó không sinh tâm vui mừng. Không tâm vui mừng nên không
sinh lòng tham. Bởi thụ nên ái. Thụ diệt thì ái cũng diệt theo. Cho
nên biết tưởng vô thường có thể dứt tham dục.
Lại nếu pháp vô thường tức là vô ngã thì hành giả có thể
quán vô thường vô ngã thì không sinh ngã tâm. Không ngã tâm
nên không ngã sở. Ngã và ngã sở không có, thì tham dục cái gì ?
Lại người tu tập vô thường tưởng, đối với thân mình thân
người, thấy diệt chết trong từng mỗi niệm, làm sao sinh tham ?
Lại hành giả sở cầu điều gì đều vô thường bại hoại, tức đã bị
lừa gạt cho nên không sinh tham đắm.
Lại chúng sinh không ưa việc không bền chắc, như người
không thích đồ vật hư cũ. Cũng như một cô gái biết chàng trai nào
đó chỉ sống được không hơn 7 ngày nữa, thì dù là trẻ tuổi, đẹp
trai, sang trọng, có thế lực, cũng chẳng ai màng đến. Người nầy
chính nhờ tưởng vô thường nên không sinh tham đắm.
Lại người trí thường tập tưởng ly biệt, nên không ưa hòa
hợp. Bởi vì sao ? Vì người trí thường lo nghĩ cái khổ thoái lui
v.v.... Cho đến dục lạc cõi trời cũng không sinh tham, chỉ cầu giải
thoát.
Ông nói vô thường làm tăng thêm tham dục, điều này không
đúng. Nếu người chưa dứt ngã mạn, thấy ngoại vật vô thường mới
sinh buồn rầu, vì mất chỗ yêu mến tiếc thương nên sinh tham cầu.
Người phàm phu nầy trừ bỏ dục lạc, lại không biết lìa khổ, giống
Thành Thật Luận Trang 467 Tuệ Quang Foundation
như đứa con nít bị mẹ đánh, trở lại chui vào lòng mẹ. Người trí
biết còn nhân khổ, là còn khổ không thể dứt, nên lìa bỏ nhân khổ,
như 5 ấm.
Lại hành giả nầy xé rách nội ấm, được tâm vô ngã, dù mất
ngoại vật không sinh buồn rầu. Người đó được vô ngã lại cầu tìm
gì nữa. Người tu tưởng vô thường cũng không có gì để cầu.
Lại tưởng vô thường nầy, nếu chưa có thể sinh tưởng khổ, vô
ngã, thì không gọi là đầy đủ có thể phá diệt phiền não. Nên trong
kinh nói : Phải nhất tâm chính quán 5 ấm vô thường. Nếu không
phá hủy nội ấm, thấy ngoại vật vô thường, vì còn có ngã tâm nên
sinh buồn rầu, đó không gọi là chính quán.
Lại người tuy thấy vô thường, mà không sinh chán lìa như kẻ
hàng thịt, thợ săn v.v..., tuy biết vô thường mà không gọi là người
khéo tu tập.
Lại người tuy có thể chính quán mà không thể thường siêng
tu tập thì lòng tham xen lẫn, nên phải nói nhất tâm.
Lại người ít tu vô thường, mà nhiều phiền não thì không thể
phá diệt được, như thuốc ít mà bệnh nhiều. Điều này cũng như
vậy, cho nên mới nói nhất tâm chính quán vô thường có thể phá
phiền não.
Lại biết pháp vô thường, mới gọi là chân trí tuệ, trong chân
trí tuệ không có tham v.v... các phiền não. Bởi vì sao ? Vì nhân
duyên vô minh nên có tham v.v... Phải biết vô thường không phải
tăng thêm tham dục.
Lại tưởng vô thường có thể diệt tất cả phiền não. Hành giả,
nếu biết vật đó vô thường thì không có tham.
Lại biết người này ắt rồi cũng sẽ chết, nổi giận làm gì. Có
đâu người đại trí lại giận người sắp chết.
Lại nếu pháp vô thường, lẽ đâu lấy đó mà sinh tâm cao
ngạo.
Thành Thật Luận Trang 468 Tuệ Quang Foundation
Lại biết các pháp là tính vô thường thì không sinh si. Vì
không si nên cũng không nghi v.v.... Cho nên biết vô thường trái
với các phiền não.
Phẩm 174 : Tướng của khổ
Nếu pháp xâm hại đó gọi là khổ thì khổ nầy có 3 thứ là khổ
khổ, hoại khổ, và hành khổ. Hiện tại thật khổ như là dao gậy
v.v..., gọi là khổ khổ. Nếu khi tình yêu thương chia lìa sinh khổ
như vợ con v.v..., gọi là hoại khổ. Nếu được trí không vô ngã, biết
pháp hữu vi đều có thể xâm hại, gọi là hành khổ. Tùy khổ tâm đó
gọi là khổ tưởng.
Hỏi : Nếu tu khổ tưởng được những lợi gì ?
Đáp : Khổ tưởng nầy có quả chán lìa. Bởi vì sao ? Vì người
tu khổ tưởng không nương tham hỷ. Vì không có hỷ này nên
không có ái.
Lại hành giả nếu biết được pháp đó là khổ thì không thụ các
hành. Nếu pháp tuy vô thường vô ngã mà không thể sinh khổ thì
quyết không bỏ. Vì khổ nên bỏ, vì bỏ khổ nên với khổ được thoát.
Lại tất cả chúng sinh chỗ rất sợ là khổ. Nếu thiếu, tráng, lão
niên, hiền ngu, sang hèn biết tướng khổ nầy đều sinh chán lìa. Tất
cả người tu hành đối với Nê-hoàn có thể sinh tâm yên ổn tịch diệt,
đều ở trong sinh tử sinh khổ tưởng. Làm sao biết được ? Vì nếu
chúng sinh bị khổ hệ thuộc cõi Dục làm sao não hại, thì đối với sơ
thiền sinh tưởng tịch diệt. Như vậy lần lượt cho đến bị khổ cõi
Hữu Đảnh não hại, thì đối với Nê-hoàn sinh tưởng tịch diệt.
Lại trong sinh tử có bao nhiêu tội lỗi đều là khổ. Như trong
kinh nói : Lỗi trong các sắc đó là tướng khổ của sắc vô thường bại
hoại.
Lại bởi vô minh nên tham đắm khổ nầy. Vì sao biết được ?
Vì chúng sinh ở trong thật khổ mà sinh tưởng vui. Nếu sinh
tưởng rất khổ thì sẽ chán lìa. Cho nên Phật nói : Ta giác ngộ được
Thành Thật Luận Trang 469 Tuệ Quang Foundation
khổ nên mới nói chân lý của sự khổ. Trong đó Phật nhân thế đế
mà chỉ dạy nghĩa như vậy. Tùy theo tất cả chỗ mà trời, người, thế
gian sinh tưởng vui, thì đệ tử ta trong đó sinh tưởng khổ. Sinh
tưởng khổ rồi mới có thể chán lìa.
Lại chỗ rất ngu si là trong khổ mà sinh tưởng vui. Vì tưởng
nầy nên tất cả chúng sinh qua lại sinh tử, tâm thức não loạn. Nếu
có thể tưởng khổ thì được giải thoát.
Lại vì 4 lối ăn nên khiến có thân sau. Dùng tưởng khổ này
dứt được các cách ăn kia, như ăn thịt con, như ăn bò không da,
như ăn đống lửa, như ăn trăm mũi giáo nhọn. Trong 4 cách ăn như
vậy đều là nghĩa khổ. Nhờ tưởng khổ nầy có thể dứt các cách ăn.
Lại người tu tưởng khổ, ý không ưa trụ trong 4 thức xứ, vì
đều thấy là khổ. Như con bướm si mê nhào vào ngọn lửa vì tưởng
là sung sướng. Người trí biết lửa có thể thiêu đốt nên tránh xa.
Phàm phu cũng như vậy, vì vô minh si mê nên gieo mình thân sau
vào lửa. Người trí do tưởng khổ nên có thể được giải thoát.
Lại tất cả 3 cõi đều là khổ, là nhân duyên của khổ. Trong đó
khổ thụ là khổ, có thể sinh khổ thụ là nhân duyên của khổ. Tuy
không khổ ngay, nhưng lâu sau chắc chắn bị khổ, cho nên phải
quán thế gian tất cả đều là khổ, sinh tâm chán lìa, không thụ các
pháp, thì được giải thoát.
Phẩm 175 : Tưởng vô ngã
Hành giả thấy tất cả pháp đều là tướng phá hoại. Như chấp
sắc là ngã, khi sắc đó bại hoại thì biết là tướng bại hoại, vậy thì lìa
ngã tâm, thụ v.v... cũng như vậy. Như người bị nước từ trên núi
cuốn trôi, chụp nắm được vật gì đều bị gãy vuột trốc đứt mất.
Hành giả cũng như vậy, chấp vật làm ngã, thấy vật đó hoại thì biết
ngay là vô ngã. Cho nên ở trong vô ngã, tu tưởng vô ngã.
Hỏi: Tu tưởng vô ngã được những lợi gì ?
Thành Thật Luận Trang 470 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tu tưởng vô ngã mới có thể đủ các tưởng về khổ.
Phàm phu vì tưởng ngã nên ở trong thật khổ mà không thấy được
cái khổ. Dùng tưởng vô ngã nên ở trong một chút khổ cũng đã
biết sự não hại của khổ.
Lại ở trong tưởng vô ngã nên có thể tu tâm xả. Bởi vì sao ?
Vì tưởng ngã nên lo sợ mất ngã vĩnh viễn. Nếu có thể thật biết thì
chỉ mất khổ, không có ngã có thể mất thì có thể tu xả.
Lại do tưởng vô ngã nên có thể được thường lạc. Bởi vì sao ?
Vì tất cả vô thường, trong đó, nếu sinh tâm ngã và ngã sở, thì bảo
là ngã sẽ không có, và ngã sở cũng không có, là thường có khổ.
Nếu khởi nghĩ như vầy : Không có ngã và ngã sở, thì khi các pháp
bại hoại không sinh đau khổ.
Lại hành giả nhờ tưởng vô ngã nên tâm được thanh tịnh. Bởi
vì sao ? Vì tất cả phiền não đều do ngã kiến sinh. Bởi cho rằng
điều này có ích lợi cho ta, nên sinh tham dục, trái lại điều này có
tổn hại cho ta, nên sinh giận dữ, vì cho đó là ngã, tức sinh kiêu
mạn. Sau khi mạng ta chết sẽ làm hay không làm ? Liền sinh
nghi kiến. Những lỗi như vậy đều do ngã nên khởi các phiền não.
Chứ dùng tưởng vô ngã thì các phiền não kia dứt. Dứt phiền não
nên tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, nên mới có thể bình
đẳng với vàng đá, chiên đàn dao búa, ngợi khen mắng nhiếc, tâm
lìa ghét thương, yên ổn tịch diệt. Cho nên biết người tưởng vô
ngã, tâm được thanh tịnh.
Lại trừ tưởng vô ngã, không còn con đường nào khác có thể
được giải thoát. Bởi vì sao ? Vì người nói có ngã, nếu khi biết
không ngã và không ngã sở hữu, thì khi tâm có thể quyết định như
vậy, liền được giải thoát.
Hỏi : Không phải vậy. Hoặc bởi tưởng vô ngã lại sinh tâm
tham, như tham nữ sắc, là vì không phải bà con với ta. Do đó tùy
theo bởi không phải ngã, có thể nhóm tội phúc. Bởi vì sao ? Vì tự
mình làm tổn hại hay ích lợi cho bản thân, đâu có tội phúc ?
Thành Thật Luận Trang 471 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Người có ngã tâm có thể sinh tham dục. Với tự thân
sinh tướng nam, với thân người kia sinh tướng nữ, rồi tham đắm.
Lại tham đắm khởi đều do giả danh. Tướng người kia tức là
giả danh. Cho nên không phải vô ngã mà sinh tâm tham.
Lại người tâm vô ngã không nhóm các nghiệp. Như A-la-hán
dứt ngã tưởng nên không nhóm các nghiệp. Tưởng vô ngã nầy có
thể dứt tất cả phiền não và nghiệp, cho nên cần phải tu tập.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 14 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 176 : Tưởng chán ăn
Tất cả khổ sinh đều bởi tham ăn. Cũng bởi ăn nên giúp phát
sinh dâm dục. Ở trong cõi Dục có bao nhiêu thứ khổ đều bởi ăn
uống dâm dục sinh ra. Dứt tham ăn nên phải tu tưởng nhàm chán.
Lại như chúng sinh ở thời kỳ kiếp sơ, từ trên trời đến hóa
sinh nơi đây, thân có ánh sáng, bay đi tự tại. Bắt đầu ăn vị đất.
Người nào ăn nhiều, liền mất oai lực của ánh sáng. Như vậy dần
dần có già đau chết. Đến ngày nay sống chỉ trăm tuổi, nhiều các
khổ não. Bởi đều tham ăn nên mất các lợi trên. Cho nên phải quán
đúng đắn việc ăn uống.
Lại tham đắm ăn uống nên sinh dâm dục. Do dâm dục sinh
các phiền não. Do các phiền não gây các nghiệp bất thiện. Do
nghiệp bất thiện có thể tăng thêm 3 nẻo ác, mà giảm bớt chúng
trời, người. Cho nên tất cả tổn hại khổ não đều bởi tham ăn.
Lại tướng già đau chết đều bởi ăn uống.
Thành Thật Luận Trang 472 Tuệ Quang Foundation
Lại ăn là chỗ rất tham đắm. Dâm dục tuy nặng nhưng không
hay não người, như người vì ăn. Hoặc thiếu tráng, lão niên, tại gia
hay xuất gia không ai không vì cái ăn mà bị não hại.
Lại nên ăn cái ăn nầy mà tâm không đắm, đối với người chưa
lìa dục đó là điều rất khó, như bị dao cắt, như uống thuốc độc, như
nuôi rắn độc. Cho nên Phật nói : Phải tu tập, lấy đó mà ăn, đừng
để cái khổ tham ăn làm não hại. Có các ngoại đạo tu pháp nhịn ăn,
cho nên Phật nói : Việc ăn nầy không phải nhịn mà lìa được, phải
suy nghĩ mà ăn. Nếu chỉ nhịn ăn mà không hết phiền não, thì chết
uổng vô ích. Cho nên Phật nói : Đối với việc ăn nầy nên sinh
tưởng chán lìa, thì không các lỗi như trên.
Hỏi : Làm sao đối với việc ăn nên sinh tưởng chán lìa ?
Đáp : Thể tính của ăn là bất tịnh. Cho dù ăn thức ăn thượng
vị cũng đều là bất tịnh, cho nên phải sinh chán.
Lại như tất cả thức ăn uống thơm ngon tinh khiết, khi thành
bất tịnh có thể lợi ích cho thân. Như dùng răng ngậm nhai ngấm
nước miếng, trạng giống như đồ nôn mửa, nuốt xuống bao tử có
thể lợi ích thân, cho nên biết bất tịnh.
Lại ăn uống nầy vì không biết nên ưa thích. Nếu người tuy
ăn thức ăn ngon, nhưng nhổ ra rồi không thể ăn lại được. Phải biết
vì không biết nên cho là ngon đó thôi.
Lại vì nhân duyên ăn uống mà chịu bao nhiêu khổ nhọc làm
lụng vất vả, chứa để giữ gìn. Do nhân duyên nầy gây vô lượng tội
lỗi.
Lại có bao nhiêu đồ bất tịnh đều do ăn uống mà ra. Nếu
không ăn uống thì đâu có da thịt máu xương và phân nhơ v.v...
các vật bất tịnh ?
Lại có bao nhiêu ác đạo như những loại trùng ở trong nhà xí,
đều bởi tham đắm hương vị nên mới sinh vào trong đó. Như trong
Phẩm Nghiệp đã nói : Chúng sinh chết vì khát thì sinh làm loại
Thành Thật Luận Trang 473 Tuệ Quang Foundation
trùng sống trong nước, chết nơi ồn ào sinh vào loại chim, chết vì
tham dâm dục thì sinh trong bào thai v.v....
Lại nếu lìa ăn nầy thì được vui lớn như sinh về cõi Sắc và
trong Nê-hoàn.
Lại tùy vì ăn nên mới có khổ cày cấy đó. Như vậy quán việc
ăn uống là khổ bất tịnh, cho nên cần tu tưởng nhàm chán.
Phẩm 177 : Tưởng tất cả thế gian không gì có thể vui
Hành giả thấy tất cả thế gian đều khổ nên tâm không chút
vui.
Lại hành giả này tu định ly hỷ : như vô thường tưởng, khổ
tưởng, vô ngã tưởng, thực yểm tưởng, tử tưởng v.v..., nên tâm
không vui tất cả những gì của thế gian.
Lại người nầy thấy những gì mình yêu thích thì tăng thêm
tham dục, thấy những gì mình ghét thì tăng thêm giận dữ, cho nên
đều không vui.
Lại thấy người giàu sang thì có cái khổ bảo vệ, thấy những
người nghèo cùng có cái khổ thiếu thốn v.v....
Lại thấy người ở chỗ tốt sẽ đọa chỗ xấu, thấy người ở chỗ
xấu đang chịu các khổ.
Lại thấy người giàu sang hiện tại biết chắc sẽ đọa lạc, vì đó
cũng là chỗ mà các tham sân phiền não tụ hội. Còn những người
nghèo cùng hiện biết không có cơ hội có thể ra được. Cho nên
không tham vui tất cả thế gian.
Lại ít có chúng sinh được sinh chỗ tốt, phần nhiều đọa ác
đạo, như trong kinh nói : Ít sinh chỗ tốt, nhiều sinh chỗ xấu, thấy
lỗi đó rồi, chỉ cầu Nê-hoàn.
Lại người nầy thấy lỗi tham v.v... các phiền não thường đeo
bám chúng sinh như người thù oán rình giết người, được cơ hội là
hạ lấy ngay. Sống trong giặc thù đó làm sao vui được ?
Thành Thật Luận Trang 474 Tuệ Quang Foundation
Lại thấy do phiền não sinh nghiệp bất thiện, nghiệp quả bất
thiện thường đuổi theo, quyết không thoát được. Như trong kinh
nói : Nếu ngươi tạo ác nghiệp nay tạo, đã tạo và sẽ tạo, thì cho dù
bay lên hư không, quyết không thể giải thoát. Cho nên không vui.
Lại nữa, sinh v.v... 8 khổ còn theo người có phúc huống là
người vô phúc ? Như vậy làm sao vui với thế gian.
Lại như hòm rắn độc, 5 tên giặc rút dao, giặc phá tan làng
xóm. Các khổ ở bờ bên nầy thường theo chúng sinh làm sao vui
được ?
Lại như bị trôi trong sông nước mặn của ái dục. Khổ 5 dục
như mũi nhọn tẩm độc, vô minh đen tối, và trong hầm lửa, thường
bám theo chúng sinh, thì làm sao vui được !
Lại hành giả biết vui yên ổn ít, mà khổ não nhiều. Bởi vì sao
? Vì thấy các thế gian ngày tốt, hội vui, cây rừng hoa quả sum sê
tươi tốt, đất nước yên vui không được bao lâu, hoan lạc ít, mà
chịu khổ thì nhiều. Cho nên không vui được với tất cả thế gian.
Hỏi : Với tưởng nầy, tu tập được những lợi gì ?
Đáp : Có thể đối với tất cả tướng thế gian tâm không tham
đắm.
Lại nhờ tu tưởng này nên mau được giải thoát, không còn ở
lâu trong sinh tử nữa.
Lại hành giả nầy được lợi ích trí tuệ, vì thường học tập tất cả
hành tướng tội lỗi.
Lại tâm người này không sinh phiền não, nếu sinh cũng mau
diệt, như một giọt nước rơi trên tấm sắt nóng. Hành giả do không
vui thế gian, nên rất ưa thích tịch diệt. Nếu không chán thế gian
thì không thể ưa vui tịch diệt. Cho nên phải tu tập tưởng tất cả thế
gian là không có gì đáng vui.
Phẩm 178 : Tưởng bất tịnh
Hỏi : Tu tưởng bất tịnh như thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 475 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Hành giả thấy hạt giống của thân là bất tịnh. Nghĩa là
từ đường bất tịnh của cha mẹ sinh 2 giọt đỏ và trắng hòa hợp.
Lại thân này do vật bất tịnh mà thành. Đó là thức ăn vữa nát
thành chất nhão lỏng.
Lại sinh ở chỗ bất tịnh là trong thai mẹ đầy nhẫy bất tịnh.
Lại phân nhơ v.v... các vật bất tịnh họp lại mà làm thân, 9 lỗ
nơi thân thường chảy bất tịnh.
Lại chỗ đặt mình là chỗ không tốt không sạch.
Lại ăn uống áo mặc đắp trên thân người đều thành bất tịnh,
bị người nhờm gớm.
Lại vật dùng cho thân nầy đều là bất tịnh, như nước tắm gội,
hoặc bồn tắm v.v....
Lại từ thân sinh ra móng, tóc, mồ hôi, mũi dãi v.v... đều là
bất tịnh.
Lại thấy thây chết thật là bất tịnh, thì thân ta đây khi chết đâu
có khác gì ? Phải biết xưa nay thường là bất tịnh. Khi sống chỉ vì
ngã tâm che lấp, cho đó là tịnh, mà khi chạm thân người chết, cho
đó là bất tịnh; mà tóc móng v.v... là các vật thường chết, nhiều
loại trùng chết cũng thường ở trong thân. Cho nên biết thân nầy
xưa nay bất tịnh.
Lại loài bất tịnh như rận rệp ruồi muỗi v.v... các loại trùng
chết cũng thường chạm đến thân. Cho nên biết bất tịnh.
Lại thân nầy giống như nhà xí thường đầy bất tịnh, do đó
nên trong nhà xí sinh hàng ngàn thứ trùng, thân này cũng như vậy.
Lại thân này như mồ mả. Bởi vì sao ? Vì chỗ đặt thây chết
nên gọi là mả. Thân nầy cũng có nhiều trùng chết đang nằm trong
đó.
Lại thân nầy hay tạo ra bất tịnh, như chỗ sạch, hoa tươi, quần
áo, chuỗi anh lạc v.v..., do thân nầy nên đều bị bất tịnh.
Lại các người Bà-la-môn không ăn ở những nhà đang có
người chết và người sinh đẻ, vì cho là bất tịnh. Mà ở trong thân
Thành Thật Luận Trang 476 Tuệ Quang Foundation
nầy có hàng ngàn vạn thứ trùng thường sinh đẻ thường chết, thì
không nên theo nó mà thụ ăn uống. Cho nên biết là bất tịnh.
Lại chỗ bất tịnh trên đời là lao ngục. Thân nầy là lao ngục
nhốt hàng ngàn loại trùng, nên gọi bất tịnh.
Lại thân nầy thường phải tắm gội, nếu nói là sạch cần gì tắm
gội ?
Lại dùng hoa đẹp hương thơm, chuỗi anh lạc trang sức cho
thân nầy, phải biết thân nầy thể tính bất tịnh, nên mới nhờ tịnh vật
bên ngoài để trang điểm.
Lại thân người rất là bất tịnh, như da, lông, móng, răng, gân,
xương, thịt, nếu có cần dùng, thì thân người không một thứ nào có
thể lấy, vì là bất tịnh.
Lại như hoa sen như Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma v.v… từ chỗ bất
tịnh sinh, nên gọi bất tịnh, thân nầy không như vậy, không bởi các
vật khác khiến nó bất tịnh, mà chính là tính nó bất tịnh.
Lại nếu thân nầy là sạch, thì cần gì dùng áo quần che đắp ?
Như người lấy áo che đống đại tiểu tiện để dối gạt người khác. Nữ
nhân cũng như vậy, dùng đồ phục sức che đậy tấm thân để dối gạt
nam tử, trái lại nam tử cũng làm như vậy. Phải biết là bất tịnh.
Lại khắp cả thân nầy thường chảy ra bất tịnh. Đó là 9 lỗ cửa
ngõ của bất tịnh và các lỗ chân lông không một chút sạch. Nên
biết bất tịnh.
Hỏi : Tu tưởng bất tịnh được những lợi gì ?
Đáp : Bởi tưởng rằng nam nữ là sạch nên khởi tham dục, từ
tham dục đó mở các cửa tội lỗi. Tu tưởng bất tịnh thì có thể chế
phục tham dục. Bởi vì sao ? Vì thân nầy đều là hôi thối bất tịnh,
chỉ lớp da mỏng che khuất nên không biết được, tựa như lấy áo
che đống bất tịnh. Ai ưa sạch sẽ thì hãy tránh xa !
Lại người hành giả nầy, nhờ tưởng xanh bầm v.v... mà phá
hoại tất cả chấp thân. Vì phá chấp thân này nên không sinh tham
dục.
Thành Thật Luận Trang 477 Tuệ Quang Foundation
Lại cũng chỉ hiện thấy các sắc xanh bầm.
Hỏi : Như thật chưa xanh, vì sao thấy xanh ?
Đáp : Hành giả nhờ sức tín giải lấy tướng xanh nầy thấy tất
cả sắc đều xanh bầm.
Hỏi : Quán như vậy chẳng phải là điên đảo sảo ?
Đáp : Trong thân nầy có phần xanh bầm. Như trong kinh nói
trong nước có tính sạch.
Lại thường tu tập tướng xanh bầm nên có thể thắng các sắc
khác, như ánh sáng viên ngọc xanh có thể làm át sắc trắng. Như
vậy tập lâu tướng xanh bầm v.v... thì tưởng bất tịnh đầy đủ. Bất
tịnh đầy đủ thì không khởi dâm dục. Không khởi dâm dục thì
đóng bít các cửa tội lỗi, tùy thuận Nê-hoàn. Tu tưởng bất tịnh
được lợi như vậy.
Phẩm 179 : Tưởng về sự chết
Hành giả vì tưởng về sự chết thì đối với thọ mạng tâm không
quyết định, cho nên phải tu tập.
Lại người nầy thường rất ưa thích pháp thiện, trừ dứt bất
thiện. Bởi vì sao ? Vì chúng sinh phần nhiều quên cái chết, nên
mới khởi nghiệp bất thiện, nếu nghĩ nhớ cái chết thì có thể trừ dứt.
Lại thường nhớ đến cái chết, nên đối với cha mẹ, anh em, chị
em, bà con, láng giềng, bè bạn v.v..., mỏng bớt sự tham ái.
Lại tu tập tưởng đến cái chết thì được tự lợi. Nghĩa là có thể
nhất tâm tụ tập các pháp thiện, chúng sinh thế gian nhiều vui lợi
tha mà bỏ tự lợi.
Lại người nầy có thể mau được giải thoát. Bởi vì sao ? Vì
người thường theo qua lại trong thế gian nên có chết chóc, người
nầy chán sự chết chóc nên cầu giải thoát.
Hỏi : Nên tu tưởng về sự chết như thế nào ?
Đáp : Như trước đã nói chung tất cả vô thường. Nay chỉ nói
quán thân vô thường. Dứt ấm luôn nối nhau gọi là chết. Tưởng
Thành Thật Luận Trang 478 Tuệ Quang Foundation
thân này vô thường hơn cả sự vật bên ngoài, giống như bình chén
không có tướng bền chắc. Hành giả quán thân mong manh hơn
các vật kia. Bởi vì sao ? Vì bình chén kia, nếu gia tâm giữ gìn
hoặc có thể còn lâu dài, còn thân nầy có lâu lắm cũng không hơn
trăm năm. Vì không bền chắc cho nên phải nghĩ nhớ tưởng đến
cái chết.
Lại thân nầy có nhiều pháp làm hại như là dao, gậy, mũi
nhọn, giặc thù, hầm hố, ăn uống không tiêu hóa, các chứng bệnh
lạnh, nóng, gió. Tóm tắt mà quan sát tất cả chúng sinh và vật phi
chúng sinh, đều là pháp trái hại của thân. Cho nên phải tu tưởng
về sự chết.
Lại hành giả thấy thân, trong mỗi niệm thường là tướng hư
hoại không bảo đảm được một niệm, cho nên tu tưởng về sự chết.
Lại hành giả hiện thấy tuổi trẻ, tuổi già, có bệnh, không
bệnh, không ai có thể đuổi cái chết đi được, mới tự nghĩ thân
mình rồi cũng sẽ có ngày như vậy. Cho nên tu tưởng về sự chết.
Lại hành giả thấy có nghiệp báo bất định, không phải tất cả
nghiệp đều chịu hết trong khoảng tuổi thọ trăm năm. Vì nghiệp
bất định nên cái chết cũng đến không nhất định Cho nên phải nghĩ
nhớ sự chết.
Lại trong vô lấyy sinh tử có vô lượng nghiệp. Có những
nghiệp có thể làm hại các nghiệp khác. Ta cũng có thể có nghiệp
chết phi thời, thì làm sao tin chắc được mạng sống nầy ư ?
Lại hành giả thấy cái chết nó có thế lực lớn, không thể dùng
lời mềm mỏng dụ dỗ, hay dối gạt bằng của cải, hoặc theo đuổi
tranh tụng mà thoát được, như núi đá lớn từ 4 phía áp đến không
chỗ chốn tránh.
Hỏi : Nếu ai có thể khiến vua Diêm Vương hoan hỷ thì được
thoát chết ?
Đáp : Nói vậy là ngu si. Diêm Vương không có quyền tự do
sinh sát, mà chỉ có thể khảo xét việc làm thiện hay ác mà thôi.
Thành Thật Luận Trang 479 Tuệ Quang Foundation
Nếu thụ báo hết, lại bị nhân duyên hại thân thì chết. Cho nên hành
giả thấy thân không chỗ nương nhờ và cầu cứu, ở trong con
đường chết, cho nên nghĩ nhớ tưởng về sự chết.
Lại hành giả thường thấy thân nầy bị già bệnh làm khổ não,
tính không bền chắc. Vì không có tính bền chắc, và niệm niệm
sinh diệt nối nhau, vì nghiệp thức trói buộc, cho nên tu tưởng về
sự chết.
Lại hành giả nầy thấy chết là định mệnh, thì bất định ắt
thắng, vì bất định nên tu tưởng về sự chết.
Hỏi : Vì sao không nói tưởng về già bệnh v.v... mà chỉ nói
tưởng về sự chết ?
Đáp : Già bệnh cướp người không thể cướp hết được. Bệnh
tật cướp mất sự khỏe mạnh. Già nua cướp tuổi thanh xuân, mà
dòng họ láng giềng của cải và thân vẫn còn. Còn cái chết thì cướp
đi hết.
Lại già bệnh v.v... là nhân duyên của chết, nên không cần nói
riêng.
Lại trong kinh nói chết là một sự tối tăm to lớn, không có
ánh sáng và không ai cứu giúp, cũng không bè bạn, không chỗ
nương cậy, là chỗ rất đáng sợ. Cho nên phải nghĩ đến cái chết.
Lại chúng sinh vì nhân duyên chết nên khiếp sợ đời sau.
Lại trong 3 cõi tất cả đều có chết, mà già bệnh thì không như
vậy.
Hỏi : Nếu không rời chúng sinh có tướng chết đó, chúng
sinh tức là giả danh. Hành giả tu tập tưởng làm gì ?
Đáp : Không hoại tướng chúng sinh là khiếp sợ đối với sự
chết. Nếu tu tưởng về sự chết thì không sinh kinh sợ, cho nên phải
tu tập.
Lại tưởng vô thường gọi là con đường gần. Còn tưởng bất
tịnh, tưởng chán ăn và tưởng về sự chết gọi là đướng xa. Người
chưa đắc đạo dùng các tưởng nầy nên có thể chế phục được tâm.
Thành Thật Luận Trang 480 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 180 : Ba tưởng sau
Tưởng dứt là như trong 4 chính cần có nói : Vì muốn dứt
pháp ác bất thiện đã sinh nên siêng năng tinh tiến. Các pháp ác bất
thiện nầy là nhân duyên khổ não của địa ngục v.v..., và cũng là
gốc các điều khổ của các tiếng tăm xấu ác và tâm ăn năn v.v....
Cho nên phải dứt.
Hỏi: Phải dứt bằng cách nào ?
Đáp : Được pháp không tạo tác, bấy giờ là dứt.
Lại nghĩ nhớ tà là nhân tham dục v.v... các phiền não. Dứt sự
nghĩ nhớ tà vạy đó là pháp dứt.
Hỏi : Tu tưởng dứt nầy được những lợi ích gì ?
Đáp : Người tu tưởng nầy thường không theo pháp ác, mà
làm những việc đáng làm.
Lại đây là lìa 8 nạn, làm thân người lợi, gọi là dứt phiền não.
Lại ưa dứt phiền não là mặc pháp phục hủy bỏ hình hảo, lợi
người xuất gia. Nếu ai không như vậy thì luống uổng tự hổ thân.
Lại nếu hành giả ưa tu tưởng dứt, thì dùng pháp cúng dường
Phật.
Tưởng lìa dục, tưởng diệt, là nếu dục hết không sinh gọi là
lìa dục. Nghĩ lìa dục nầy gọi là tưởng lìa.
Hỏi : Nếu nói tưởng dứt tức là tưởng lìa, sao còn nói lại ?
Đáp : Do dứt được lìa. Dứt là diệt trừ tham dục. Như trong
kinh nói : Vì dứt tham dục nên 5 ấm dứt.
Lại tưởng dứt là tưởng lìa dục. Bởi vì sao ? Vì nếu với pháp
nầy không tham gọi là dứt pháp đó. Cho nên nếu được lìa dục, thì
khổ não diệt. Như trong kinh nói : Người lìa dục được giải thoát.
Được giải thoát tức là dứt. Nếu vào được vô dư, đó gọi là diệt.
Lại trong kinh nói có 3 tính là tính dứt, tính lìa dục và tính
diệt. Nếu nói tính dứt, tính lìa dục tức là A-la-hán, dứt tất cả phiền
Thành Thật Luận Trang 481 Tuệ Quang Foundation
não, lìa dục 3 cõi, trụ Nê-hoàn hữu dư. Nếu nói tính diệt tức lâm
chung xả thọ mạng dứt ấm nối nhau vào Nê-hoàn vô dư.
Lại có 2 thứ giải thoát là tuệ giải thoát và tâm giải thoát. Nếu
nói dứt tức là lìa vô minh, nên tuệ được giải thoát. Nếu nói lìa dục
tức là lìa tâm ái, được giải thoát. Quả của 2 giải thoát nầy gọi là
diệt.
Lại nếu nói dứt tưởng tức là nói dứt lậu vô minh. Nếu nói lìa
tưởng dục tức là nói dứt dục lậu hữu lậu. Nếu nói tưởng diệt tức là
2 quả nầy.
Lại như trong kinh nói : Dứt tất cả các hành nên gọi là dứt,
lìa tất cả các hành nên gọi là lìa, diệt tất cả hành nên gọi là diệt.
Vậy thì 3 pháp này nghĩa một mà tên khác nhau. Nếu tu tưởng vô
thường cho đến tưởng diệt thì xong tất cả việc. Diệt các phiền
não, dứt ấm kết nối nhau, vào Nê-hoàn vô dư.
Phẩm 181 : Năm định cụ đầu trong các định cụ
Hỏi : Ông trước nói đạo đế, gọi là định cụ và định. Đã nói
định, nay cần phải nói định cụ. Bởi vì sao ? Vì nếu có định cụ thì
định mới thành, nếu không là không thành ?
Đáp : Định cụ có tất cả 11 pháp : 1. Thanh tịnh trì giới. 2.
Được thiện tri thức. 3. Giữ gìn căn môn. 4. Ăn uống biết lường. 5.
Đầu đêm cuối đêm bớt ngủ nghỉ. 6. Đầy đủ thiện giác. 7. Đầy đủ
tín giải. 8. Đủ phần hành giả. 9. Đủ chỗ giải thoát. 10. Không bị
chướng ngại. 11. Không chấp trước.
1. Thanh tịnh trì giới : Lìa nghiệp bất thiện gọi là trì giới.
Nghiệp bất thiện như là sát, đạo, tà dâm là 3 thân nghiệp. Vọng
ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ là 4 khẩu nghiệp. Xa lìa tội nầy
gọi là trì giới.
Lại lễ kính đưa rước, và cúng dường v.v..., tu hành các pháp
thiện cũng gọi là giới. Vì giới có thể làm nhân cho định cho nên
phải thụ trì. Bởi vì sao ? Vì như gia công vàng, trước trừ chỗ thô
Thành Thật Luận Trang 482 Tuệ Quang Foundation
bẩn. Như vậy trước lấy trì giới trừ lỗi lớn là phá giới, sau mới lấy
định v.v... trừ các lỗi nhỏ. Bởi vì sao ? Vì nếu không trì giới thì
không có thiền định. Nhờ nhân duyên trì giới thiền định dễ thành.
Như trong kinh nói : Giới là gốc đạo và cũng là bậc thang tốt.
Lại nói : Giới là cái xe đầu tiên, nếu không lên xe đầu làm
sao lên được xe thứ hai v.v....
Lại nói : Giới là đất bằng; đứng nơi đất bằng này quan sát
được 4 đế.
Lại nói : Hai sức là sức nghĩ và sức tu. Sức nghĩ tức là trì
giới, sức tu là đạo. Trước suy nghĩ so lường tội lỗi phá giới, lợi
ích trì giới nên mới có thể trì giới. Sau khi đắc đạo tự nhiên lìa ác.
Lại nói : Giới là rễ cây Bồ-đề, mà không rễ là không cây.
Nên phải có tịnh giới.
Lại pháp là phải như vậy. Nếu không trì giới thì không thiền
định, giống như liệu pháp trị bệnh, phải dùng như vậy trị bệnh
phiền não, nếu không trì giới thì liệu pháp không đủ.
Lại nói người trì tịnh giới thì tâm không ăn năn, cho đến lìa
dục tâm được giải thoát, các công đức nầy đều do trì giới, nên gọi
định cụ.
Lại có nghiệp chướng, phiền não chướng. Quả 2 thứ chướng
nầy gọi là báo chướng. Nếu trì tịnh giới thì không có 3 chướng
nầy. Nếu tâm không có chướng thì có thể thành định.
Lại người tịnh trì giới không bại hoại, ắt đến Nê-hoàn, như
gỗ trôi trong dòng sông Hằng.
Lại tịnh trì giới nên có thể an lập. Trì giới có thể ngăn nghiệp
bất thiện nơi thân miệng. Thiền định có thể ngăn nghiệp bất thiện
nơi ý. Ngăn các phiền não như vậy, được trí thật chân trí thì rốt
ráo dứt trừ.
Lại lâu đài của đạo phẩm lấy giới làm trụ cột. Thành trì của
tâm thiền định lấy giới làm tường thành chung quanh. Qua biển
sinh tử lấy giới làm cầu. Vào trong đám đông người thiện lấy giới
Thành Thật Luận Trang 483 Tuệ Quang Foundation
làm dấu tin. Ruộng 8 Thánh đạo lấy giới làm bờ. Nếu ruộng
không bờ không giữ nước. Cũng như vậy, nếu không tịnh giới
nước định không giữ được.
Hỏi : Sao gọi là tịnh trì giới ?
Đáp : Nếu hành giả thâm tâm không ưa làm ác, khiếp sợ đời
sau và tiếng xấu, gọi là tịnh trì giới.
Lại hành giả đem tịnh tâm nên trì giới thanh tịnh. Như trong
Kinh Thất Dâm Dục nói : Thân tuy không phạm, mà tâm không
tịnh nên giới không tịnh.
Lại nhân duyên phá giới là các phiền não, nếu có thể chế
phục là trì giới được tịnh.
Lại Thanh Văn trì giới chỉ vì Nê-hoàn; người cầu Phật đạo
đem lòng đại bi vì tất cả chúng sinh không chấp giới tướng, có thể
khiến giới đó, như tính Bồ-đề. Trì giới như vậy gọi là thanh tịnh.
2. Thiện tri thức : Trong kinh nói do 2 nhân duyên có thể
sinh chính kiến là một theo người nghe pháp, hai tự nghĩ nhớ
đúng đắn pháp đã được nghe. Đó gọi là thiện tri thức.
Hỏi : Nếu vậy, sao chỉ nói thiện tri thức ?
Đáp : Trong kinh nói : A-nan hỏi Phật : Con ngồi yên một
nơi, suy nghĩ như vầy: Gặp được thiện tri thức là được nửa phần
nhân duyên đắc đạo ? Phật bảo đừng nói như vậy. Thiện tri thức
là nhân duyên đắc đạo đầy đủ. Bởi vì sao ? Vì chúng sinh sinh lão
bệnh tử được ta làm thiện tri thức, thì đều được giải thoát sinh lão
bệnh tử.
Lại chúng sinh nhờ thiện tri thức, được tăng trưởng giới v.v...
5 pháp. Như cây Sa-la nhờ núi Tuyết-Sơn được 5 sự tăng trưởng.
Lại Phật hãy còn ưa thích thiện tri thức. Như khi mới đắc
đạo nghĩ như vầy : Nếu người không có thầy thì không khiếp sợ,
không có tâm cung kính, thường bị ác pháp che khuất, không có
hạnh yên ổn. Ta phải lấy ai làm thầy, nương ai mà trụ ? Khởi nghĩ
như vậy rồi mới khắp xem tất cả không ai hơn mình được, liền
Thành Thật Luận Trang 484 Tuệ Quang Foundation
sinh ý nghĩ rằng : Pháp ta đã chứng được, nhờ đó mà thành Phật,
nay phải trở lại nương pháp đó. Các Phạm thiên cũng khen rằng :
Vậy không ai bằng Phật. Tất cả chư Phật đều lấy pháp làm thầy.
Lại thiện tri thức giống như đèn sáng; có mắt mà không đèn
thì không thấy gì được. Như vậy hành giả tuy có lợi căn phúc đức
nhân duyên mà không có thiện tri thức thì không được ích gì.
Hỏi : Người như thế nào là thiện tri thức ?
Đáp : Tùy theo có thể làm cho người tăng trưởng pháp thiện
gọi là thiện tri thức.
Lại tất cả những người thiện an trụ nơi chính pháp, đều là
thiện tri thức của trời người thế gian.
3. Giữ gìn căn môn : Là nghĩ nhớ chân chính. Hành giả
không nên nhắm mắt không thấy, chỉ nên nhất tâm chính niệm
hiện tiền.
Lại gọi là chính tuệ, lấy chính tuệ nầy có thể phá cảnh duyên
hiện tiền. Có thể phá cảnh duyên hiện tiền nên có thể không chấp
lấy tướng. Không chấp lấy tưởng nên không chạy theo giả danh.
Nếu không giữ các căn, để chấp lấy tướng thì các phiền não sinh,
lưu xuất ra 5 cửa tức thì phá giới các pháp thiện. Nếu có thể giữ
gìn căn môn thì các giới được bền chắc.
4. Ăn uống biết lường : Không vì sức mạnh, dâm dục, tham
vị mà ăn, ăn chỉ để nuôi thân.
Hỏi : Hành giả nuôi thân để làm gì ?
Đáp : Để tu pháp thiện. Nếu bỏ pháp thiện thì không đạo
pháp. Không đạo pháp thì làm sao lìa khổ được ! Nếu người
không vì tu hành mà ăn, là luống uổng nuôi kẻ giặc thù, và cũng
phá hoại phúc của thí chủ, tổn hại người cúng dường. Như vậy
không nên ăn thức ăn của người.
Hỏi : Lấy gì mà lường sự ăn uống ?
Đáp : Tùy lượng đủ có thể giúp nuôi thân, đó gọi là lường.
Hỏi : Nên ăn những thứ gì ?
Thành Thật Luận Trang 485 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu thức ăn không tăng thân bệnh như lạnh nóng
v.v..., tâm bệnh tham giận v.v..., là nên ăn. Những thức ăn nầy
cũng phải tùy thời, như biết thức ăn đó đối với lúc nầy có thể tăng
thêm các bệnh lạnh nóng tham giận v.v... thì không nên ăn.
Hỏi : Các ngoại đạo nói : Nếu ăn thứ thanh tịnh thì có thể
được phúc thanh tịnh, nghĩa là tùy ý thèm muốn sắc, hương, vị,
xúc, nhưng nước phải lọc lượt chú nguyện rồi sau mới ăn dùng.
Đó gọi là tịnh. Việc đó thế nào ?
Đáp : Đồ ăn uống không có quyết định là tịnh. Bởi vì sao ?
Vì nếu cho rằng đồ ăn thừa là bất tịnh, thì tất cả đồ ăn uống không
thứ nào không phải là thừa. Như sữa là vật thừa của bò con, mật là
đồ thừa của ong, nước là thừa của trùng, hoa là thừa của ong, và
trái cây là thừa của chim chóc. Cứ như vậy v.v....
Lại thân nầy từ bất tịnh sinh ra, thể tính bất tịnh, bất tịnh đầy
nhẫy. Đồ ăn uống trước là bất tịnh, sau vào trong thân không một
chút tịnh. Chỉ vì điên đảo mê lầm vọng tưởng đó là tịnh mà thôi.
Hỏi : Nếu đều là bất tịnh, thì cùng hạng người hèn hạ, Chiênđà-
la đâu có khác chi ?
Đáp : Lại nhờ không sát hại sinh mạng, không trộm cắp,
không nuôi sống bất chính v.v..., đúng như pháp mà có cái ăn.
Đem trí tuệ quán tưởng các lỗi do ăn uống, gạn lọc bằng nước trí
tuệ xong rồi sau mới ăn. Không phải chỉ có lọc nước mà cho là
tịnh.
5. Đầu đêm cuối đêm bớt ngủ nghỉ : Hành giả biết sự nghiệp
do tinh tiến siêng năng mà thành đạt nên không ngủ nghỉ.
Lại thấy ngủ nghỉ luống qua không được gì. Nếu ông cho
ngủ nghỉ là vui, chút vui hèn đó không đáng nói.
Lại hành giả không ưa chung cùng với phiền não, như người
không ưa ở chung với kẻ oán thù. Lẽ đâu có người đang ở trong
trận giặc mà ngủ ngon ? Cho nên không ngủ nghỉ.
Hỏi : Cơn buồn ngủ đến làm sao xua đuổi ?
Thành Thật Luận Trang 486 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Người nầy được mùi vị Phật pháp, tâm rất vui mừng,
nên có thể xua đuổi được.
Lại nghĩ tội lỗi già bệnh chết trong sinh tử thì tâm khiếp sợ
nên không ngủ nghỉ.
Lại hành giả nhận thấy được làm thân người, các căn đầy đủ,
lại may được gặp Phật pháp, có thể phân biệt tốt xấu, phải quấy là
việc rất khó, mà nay không cầu độ còn đợi khi nào mới được giải
thoát ? Cho nên phải siêng năng tinh tiến để diệt trừ ngủ nghỉ.
Phẩm 182 : Bất thiện giác
6. Đầy đủ thiện giác: Nếu người tuy không ngủ nghỉ mà khởi
các bất thiện giác, như dục giác, sân giác, não giác, hoặc thân lý
giác, quốc độ giác, bất tử giác, lợi tha giác, khinh tha giác v.v....
thì thà nên ngủ nghỉ, để đừng khởi những thứ bất thiện giác nầy.
Cần phải nghĩ nhớ cần, chính, xuất, các thiện giác, như xuất
giác, không sân não giác, 8 bậc Đại nhân giác.
Dục giác là nương lòng tham dục mà sinh tri giác, trong 5
dục thấy có lợi lạc, gọi là dục giác.
Làm suy hại chúng sinh, gọi là sân giác, não giác. Hành giả
không nên nhớ nghĩ 3 thứ giác nầy. Bởi vì sao ? Vì nghĩ đến 3
giác này thì bị tội nặng.
Lại như trước đã nói tội lỗi tham v.v.... Bởi tội lỗi nầy không
nên nghĩ nhớ.
Hỏi : Sao không nói si giác ?
Đáp : Ba ác giác nầy sinh theo thứ lớp, còn các phiền não
khác không phải như vậy. Hành giả nếu nghĩ đến 5 dục nên sinh
tham giác, tham mà không được mới sinh giận dữ; thành giận dữ
gọi là não. Cho nên không nói si.
Lại kết quả của si là tham giận. Nếu từ tham giận sinh nghiệp
bất thiện. Ba giác nầy là nghiệp nhân bất thiện. Như trong kinh
Thành Thật Luận Trang 487 Tuệ Quang Foundation
nói : Ví như cục đất, đêm thì khói ra, ngày thì lửa đốt. Khói tức là
giác, lửa gọi là nghiệp.
Thân lý giác : Bởi bà con, xóm làng nên khởi nghĩ nhớ muốn
làm cho bà con, xóm làng được yên ổn vui vẻ. Nếu nghĩ đến suy
hại thì sinh buồn rầu. Nếu nghĩ muốn cùng cộng tác với bà con
xóm làng làm việc nọ việc kia gọi là thân lý giác. Hành giả không
nên nghĩ nhớ thứ giác nầy. Bởi vì sao ? Vì bản nguyện khi xuất
gia đã xả bỏ bà con xóm làng, mà nay lại khởi giác nầy là điều
không nên.
Lại nếu người xuất gia lại nghĩ đến bà con xóm làng thì
luống bỏ gia thuộc, uổng công không thành gì. Vì yêu bà con xóm
làng nên sinh tham đắm. Vì tham đắm mới giữ gìn. Vì nhân duyên
giữ gìn mà các nghiệp bạo lực thứ tự sinh khởi. Cho nên không
nên sinh thân lý giác.
Lại cùng bà con xóm làng hòa hợp thì không thể tăng trưởng
pháp thiện.
Lại hành giả nghĩ tất cả chúng sinh trôi lăn trong sinh tử,
không một ai là không phải bà con xóm làng thì vì sao chấp đắm
thiên lệch.
Lại trong sinh tử vì bà con xóm làng nên buồn thương khóc
lóc nước mắt chảy thành biển cả, mà nay lại tham đắm nữa thì khổ
không bao giờ hết.
Lại chúng sinh vì nhân duyên lợi ích nên thân ái nhau không
có nhất định.
Lại người hay nghĩ bà con là tướng ngu si. Người ngu ở thế
gian không có ai chưa lợi mình mà muốn lợi người. Nếu nghĩ bà
con xóm làng thì ít tự lợi. Vì những lẽ trên đây nên hành giả
không nên khởi thân lý giác.
Quốc độ giác : Hành giả sinh ý nghĩ có cõi nước nào đó giàu
vui yên ổn nên đến đó có thể được an vui.
Thành Thật Luận Trang 488 Tuệ Quang Foundation
Lại tâm nông nổi muốn dạo xem khắp. Hành giả không nên
khởi ý giác như vậy. Bởi vì sao ? Vì tất cả cõi nước đều có lỗi
xấu, có nước rất lạnh, có nước rất nóng, có nước nhiều nguy hiểm,
có nước nhiều bệnh tật, có nước nhiều giặc trộm. Có nhiều lỗi
khác nhau như vậy, nên không nên nghĩ tới.
Lại người nông nổi thì mất thiền định. Tùy theo chỗ ưa vui
có thể được tăng thêm pháp thiện thì đó là tốt, chứ cần gì phải
xem khắp các cõi nước ? Tất cả các cõi nước chỉ nghe từ xa, đến
đó chưa chắc vừa lòng, vì người đời phần nhiều nói quá sự thật.
Lại những người đi qua các nước chịu nhiều sự khổ.
Lại thân là nhân khổ, mà mang nhân khổ nầy theo thì đi đến
đâu cũng đều chịu khổ.
Lại hưởng chịu khổ vui do nghiệp nhân thì dù đi xa đến đâu
cũng không ích gì. Cho nên không nên khởi quốc độ giác.
Bất tử giác : Là hành giả khởi nghĩ như vầy : Ta nên từ từ sẽ
tu đạo. Trước hết phải đọc tụng Tu-đa-la, Tì-ni, A-tì-đàm, tạp
tạng, Bồ-tát tạng, rộng họp các sách ngoại điển, nuôi nhiều đệ tử,
dắt dẫn người thiện, cúng dường 4 tháp, khuyến hóa chúng sinh
khiến tu đại bố thí, sau phải tu đạo
gọi là bất giác tử.
Hành giả không nên khởi nghĩ như vậy. Bởi vì sao ? Vì giờ
khắc chết không định được, không thể dự biết trước được. Nếu
trong khi đang kinh doanh các việc, không may mạng tận thì đâu
kịp tu đạo được. Đến khi sắp chết lòng dạ ăn năn buồn rầu rằng ta
luống dưỡng thân nầy uổng không được gì hết, đồng chết như loài
súc sinh nào khác. Như trong kinh nói : Phàm phu nên dùng 20
pháp để chiết phục tự tâm nghĩa là như vầy : Ta chỉ có hình hài và
y phục khác người thế tục mà không được một sở đắc gì hết. Cho
đến sẽ như thế này cho đến chết thôi.
Lại người trí không làm những việc không nên làm. Như
trong Kinh Pháp Cú nói :
Thành Thật Luận Trang 489 Tuệ Quang Foundation
Không nên làm, không làm,
Nên làm thì thường làm.
Nghĩ nhớ tâm an tuệ,
Thì được hết các lậu.
Lại trong kinh nói :
Người chưa được 4 đế,
Phương tiện vì muốn được,
Phải siêng năng tinh tiến,
Hơn cứu lửa cháy đầu.
Cho nên không nên khởi bất tử giác.
Lại bất tử giác là tập khí ngu si, có đâu người trí biết mạng
sống vô thường, như hạt sương trên cành, dễ gì có thể bảo tồn một
khắc !
Lại trong kinh nói : Phật hỏi các Tì-kheo : Các ông tu tập
tưởng chết như thế nào ? Có vị thưa Phật rằng : Con không bảo
đảm được 7 năm. Có vị thưa 6 năm. Cứ như vậy giảm bớt cho đến
còn trong giây lát. Phật nói : Các ông đều là những người phóng
dật mà tu tưởng về sự chết. Khi đó có một Tì-kheo trịch vai áo
bên hữu thưa Phật rằng : Con thì cho rằng hơi thở ra không chắc
đã hít vào, hơi hít vào không chắc sẽ thở ra. Phật khen : Hay thay
! Hay thay ! Ông mới là chân thật tu tưởng về sự chết. Cho nên
không nên khởi bất tử giác.
Lợi tha giác: Là đối với người không phải trong bà con xóm
làng muốn làm cho họ được lợi ích. Nếu khởi ý nghĩ như vầy : Có
thể tu bố thí làm cho ai đó giàu sang an vui, còn ai đó thì không.
Hành giả không nên khởi giác như vậy. Bởi vì sao ? Vì
không bởi ý nghĩ mà có thể làm cho ai được khổ vui. Chỉ có tự
mình vì ý nghĩ đó làm hoại loạn định tâm mà thôi.
Hỏi : Muốn khiến người được lợi không phải tâm từ hay sao
?
Thành Thật Luận Trang 490 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Hành giả cầu đạo nên nghĩ đến lợi đệ nhất nghĩa là vô
thường v.v.... Trong đó tuy có ít được phúc nhưng vì có thể hại
đạo, lợi ít hại nhiều, vì loạn định tâm. Nếu đem tản tâm nghĩ lợi
người khác thì không thể thấy tội lỗi tham đắm, cho nên không
nên nghĩ.
Khinh tha giác : Là hành giả, hoặc nghĩ người này chủng
tính, hình sắc, giàu sang, tài năng, trì giới, lợi căn, thiền định, trí
tuệ v.v... đều không bằng ta.
Hành giả không nên khởi giác như vậy. Bởi vì sao ? Vì tất cả
muôn vật đều vô thường, nếu thượng trung hạ đâu có sai khác ?
Lại tóc lông móng răng của người này đều gọi là bất tịnh như
nhau không khác.
Lại già bệnh chết v.v... và suy não cũng vẫn đồng nhau.
Lại tất cả chúng sinh trong ngoài khổ não đều đồng nhau
không khác.
Lại phàm phu mà giàu sang là nhân duyên gây tội lỗi.
Lại giàu sang không bao lâu rồi cũng nghèo cùng lại. Cho
nên không khởi giác khinh dể người khác.
Lại kiêu mạn là một phần của vô minh, người trí làm sao
khởi giác đó.
Phẩm 183 : Thiện giác
Xuất giác : Là tâm ưa xa lìa, như lìa 5 dục và 2 cõi Sắc, Vô
sắc. Ưa vui xa lìa này nên gọi xuất giác. Vì ưa vui xa lìa nầy là
không các khổ mà tùy theo tham đắm mới có khổ, không tham
đắm thì vui. Trong các giác, 2 thứ giác vui là vô sân giác và vô
não giác. Bởi vì sao ? Vì 2 giác nầy gọi là an ổn giác. Như trong
Phẩm Như Lai nói : Như Lai thường có 2 thứ giác hiện tiền là an
ổn giác và viễn ly giác. An ổn giác tức thứ giác không sân não.
Viễn ly giác tức là xuất giác.
Thành Thật Luận Trang 491 Tuệ Quang Foundation
Lại nghĩ 3 giác nầy thì phúc tăng trưởng, cũng có thể thành
định tâm, và tâm được thanh tịnh.
Lại nghĩ 3 giác nầy có thể ngăn các trói buộc, vì dứt các trói
buộc nên mau chứng được dứt diệt.
Lại hành giả vì ưa xa lìa, nhóm họp được nhiều pháp thiện,
nên mau được giải thoát.
Tám bậc đại nhân giác : Là trong Phật pháp, nếu người thiểu
dục mới có thể được lợi ích, chứ không phải người đa dục, người
tri túc, người xa lìa, người tinh tiến, người nghĩ nhớ chân chính,
người định tâm, người trí tuệ, người không hý luận có thể được
lợi ích, và người phi hý luận gọi là tám.
Thiểu dục mà gọi là hạnh, là vì muốn tu đạo nên phải muốn
vật cần dùng, nhưng không nên cầu nhiều vật thừa không dùng,
gọi là thiểu dục.
Tri túc là có người hoặc vì nhân duyên, hoặc vì trì giới, hoặc
muốn người khiến người khác tâm được thanh tịnh, cho nên lấy ít
mà tâm không cho là đủ. Nếu có người lấy ít tâm cho là đủ, đó gọi
là tri túc. Có người tuy lấy ít vật mà tìm thứ tốt, đó là thiểu dục
mà không phải là tri túc. Nếu lấy vừa được ít vật, gọi là tri túc.
Hỏi : Nếu lấy vật cần dùng gọi là thiểu dục, thì tất cả chúng
sinh đều được gọi thiểu dục vì đều lấy vật cần dùng thôi ?
Đáp : Hành giả không đem lòng tham đắm mà lấy, chỉ vì
dùng mới lấy nên không lấy nhiều, không như người đời vì trang
điểm, tiếng khen, thường lấy mà lấy nhiều.
Hỏi : Hành giả vì sao phải thiểu dục và tri túc ?
Đáp : Trong việc giữ gìn thấy có tội lỗi.
Lại chứa để mà không dùng là tướng ngu si.
Lại người xuất gia không nên tích trữ như người thế gian. Vì
các lỗi đó nên phải thiểu dục tri túc.
Lại hành giả, nếu không thiểu dục tri túc thì lòng tham tăng
dần, rồi vì tài lợi mà tìm cầu những gì không đáng tìm cầu.
Thành Thật Luận Trang 492 Tuệ Quang Foundation
Lại tham tài lợi rốt cuộc không yên ổn, vì quá tham đắm.
Lại người xuất gia nầy ưa tu hạnh xa lìa, mà vì tham lợi nên
quên mất điều nên tu.
Lại cũng không thể bỏ các phiền não. Bởi vì sao ? Vì ngoại
vật còn không bỏ được huống chi nội pháp.
Lại thấy lợi dưỡng là nhân suy não, như mưa đá hại lúa má.
Cho nên thường tu tập thiểu dục tri túc.
Lại thấy nhận của tín thí khó đền, như mắc nợ không trả, về
sau phải chịu khổ não.
Lại thấy lợi dưỡng là vật bỏ của Phật và người thiện. Như
Phật nói : Ta không gần lợi dưỡng, lợi dưỡng đừng gần ta.
Lại hành giả này đầy đủ pháp thiện, nên bỏ lợi dưỡng. Như
Phật nói : Chư thiên còn không thể được vui xuất, vui ly, vui tịch
diệt và vui chân trí như ta đã được. Cho nên bỏ lợi dưỡng.
Lại như Xá-lợi-phất nói : Ta khéo tu vô tướng, lấy không
Tam-muội quán tất cả vạn vật bên ngoài, coi như đờm dãi.
Lại hành giả không thấy có người nào thụ dục mà chán đủ,
như uống nước mặn không trừ hết khát được. Cho nên siêng cầu
trí tuệ mới là đầy đủ.
Lại thấy người đa dục thường phát nguyện cầu, cầu nhiều mà
được ít, nên thường bị khổ.
Lại thấy người cầu xin, bị người khinh tiện không chút kính
trọng như người thiểu dục.
Lại người xuất gia mà đa cầu là việc rất không nên làm, mà
người ta cho không lấy mới phải. Cho nên cần phải tu hạnh thiểu
dục tri túc.
Viễn ly : Là đối với những người tại gia xuất gia tu thân xa
lìa, với các phiền não tu tâm xa lìa. Đó gọi là viễn ly.
Hỏi : Hành giả vì sao phải xa lìa ?
Thành Thật Luận Trang 493 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Những người xuất gia tuy chưa đắc đạo lấy xa lìa làm
vui. Ở trong các chỗ người thế gian, nơi nữ sắc, chỗ ồn ào quyết
không thể an vui được.
Lại nếu xa lìa thì tâm dễ vắng lặng, như nước không khuấy,
tự nhiên lắng trong. Cho nên tu xa lìa.
Lại pháp xa lìa nầy đã được chư Phật nhiều như cát sông
Hằng ngợi khen. Vì sao biết được ? Là Phật thấy Tì-kheo ngồi
thiền định gần nơi xóm làng thì lòng không vui, mà thấy Tì-kheo
nằm ngủ ở chỗ trống vắng thì hoan hỷ. Bởi vì sao ? Vì ngồi thiền
gần xóm bị nhiều nhân duyên làm tán loạn định tâm, khiến cho
điều nên được thì không được, pháp phải chứng thì không chứng.
Còn nằm ngủ chỗ vắng tuy có chút biếng nhác, nhưng nếu thức
dậy cầu vào định thì thâu nhiếp được tâm tán loạn. Nhiếp tâm là
có thể được giải thoát.
Lại bởi chấp lấy tướng nên mới khởi tham v.v... các phiền
não. Còn chỗ trống vắng không có sắc v.v... các tướng thì phiền
não dễ dứt, như lửa không củi, thì tự nhiên tắt mất.
Lại trong kinh nói : Nếu Tì-kheo ưa ở chỗ đông người, ưa
nói năng đủ chuyện, không lìa chỗ đông người còn không thể
được ái duyên giải thoát, huống là có thể được bất hoại giải thoát.
Người tu hạnh xa lìa thì chắc chắn chứng được cả hai.
Lại như đèn lìa gió thì có thể soi sáng. Hành giả cũng như
vậy, nhờ tu hạnh xa lìa nên có thể mau được chân trí.
Tinh tiến : Là hành giả, nếu tu chính cần, dứt pháp bất thiện,
tu nhóm thiện pháp. Trong đó siêng năng tu nên gọi là tinh tiến.
Như vậy thì có thể được lợi Phật pháp. Bởi vì sao ? Vì nhóm họp
pháp thiện ngày ngày tăng trưởng như các loài hoa sen Ưu-bát-la,
Bát-đầu-ma v.v... tùy theo nước mà tăng trưởng dần lên. Còn
người hành giả biếng nhác như khúc chày gỗ từ khi được làm
thành đến nay, ngày một mòn dần đến hết.
Thành Thật Luận Trang 494 Tuệ Quang Foundation
Lại người tinh tiến, vì được lợi ích nên tâm thường hoan hỷ,
còn người biếng khác bị ác che tâm hằng ôm khổ não.
Lại người tinh tiến trong từng niệm pháp thiện tăng trưởng,
thường xuyên không có tổn giảm.
Lại thâm tu tinh tiến được chỗ vượt trội hơn hết là đạo của
chư Phật. Như trong kinh Phật bảo A-nan rằng thâm tu tinh tiến
có thể đến Phật đạo.
Lại người tinh tiến dễ được định tâm.
Lại kẻ độn căn mà tinh tiến tuy còn ở trong sinh tử cũng mau
được giải thoát; còn người lợi căn mà biếng nhác thì không thể
được.
Lại có bao nhiêu lợi ích đời nay, đời sau, thế gian, xuất thế
gian đều nhờ tinh tiến. Trái lại tất cả thế gian có bao nhiêu sự suy
não đều do biếng nhác. Như vậy thấy lỗi biếng nhác, lợi ích tinh
tiến, nên phải nghĩ nhớ tinh tiến.
Nghĩ nhớ chân chính : Là thường đối với thân, thụ, tâm và
pháp, tu tập nghĩ nhớ chân chính.
Hỏi : Nghĩ nhớ 4 pháp nầy được những lợi ích gì ?
Đáp : Pháp ác bất thiện không đến nhập vào tâm, như khéo
giữ đề phòng thì kẻ ác không xâm nhập được.
Lại như bình đầy thì nước không vào nữa được. Như vậy
người nầy pháp thiện đầy nhẫy nên không dung các điều ác.
Lại nếu tu nghĩ nhớ chân chính nầy thì gồm thâu tất cả pháp
thiện nghiệp vào trong phần giải thoát như uống nước biển là
uống đủ các nguồn, vì tất cả nguồn đều chảy vào biển cả.
Lại tu nghĩ nhớ chân chính nầy gọi là an trụ chỗ hành xứ tự
tại, ma dân phiền não không thể phá hoại được, như ví dụ chim
ưng chim cắt.
Lại người này tâm đã an trụ khó động như động, như chiếc
bình tròn đã đặt trên cái đế.
Thành Thật Luận Trang 495 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy không bao lâu sẽ được lợi ích, như trong Kinh
Tì-kheo-ni nói : Các Tì-kheo-ni hỏi A-nan rằng : Thưa Đại đức !
Bọn chúng tôi khéo tu niệm xứ giác khác hơn trước ? A-nan bảo :
Khéo tu pháp đó là như vậy.
Định tâm : Là nếu tu tập định tâm được lợi ích vi diệu. Như
trong kinh nói : Người tu định tâm có thể biết như thật.
Lại vì người nầy thân có phép hơn người như là thân mình
phun ra nước lửa, bay đi tự do v.v....
Lại người nầy được cái vui, cho đến chư thiên và Phạm
Vương v.v... không thể nào bằng được.
Lại người nầy là người làm việc đáng làm, không làm điều gì
không nên làm.
Lại khéo tu tập định, pháp thiện thường tăng.
Lại người tu tập định, về sau tâm không ăn năn, người nầy
gọi là được quả xuất gia. Cũng gọi là người thuận theo Phật dạy,
chứ không như những người luống lãnh của tín thí cúng dường.
Người nầy có thể trả ơn cho người thí phúc, mà người khác không
thể trả được.
Lại pháp định tâm nầy được chư Phật và Hiền thánh đều gần
gũi.
Lại có thể kham thụ tất cả pháp thiện.
Lại nếu định tâm được thành tựu thì chứng Thánh đạo, mà
không thành thì sinh về Tịnh thiên là 2 cõi Sắc và Vô sắc. Bởi vì
sao ? Vì như bố thí v.v... không thể được việc như vậy. Nghĩa là
có thể rốt ráo không tạo ác. Như trong kinh nói : Nếu đứa trẻ con
từ lúc còn nhỏ bé, tu tập lòng từ, có thể khởi tâm ác nghĩ việc ác
chăng ? Thưa không, Thế Tôn ! Đó đều là định lực.
Lại định tâm gọi là nhân chân trí tuệ. Nhân chân trí tuệ mới
có thể diệt hết các hành nghiệp. Các hành hết nên các khổ não
cũng diệt hết.
Thành Thật Luận Trang 496 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả đối với việc tất cả thế gian và xuất thế gian khởi
nghĩ tức làm xong không nhọc gia công sức. Còn các người khác
còn không thể phát tâm lường chỗ sở đắc của người kia cho nên
nói định tâm có thể được lợi ích.
Trí tuệ : Là người trí trong tâm không sinh phiền não, nếu
sinh liền diệt, như một giọt nước rơi trên tấm sắt nóng.
Lại tâm người trí không khởi các tướng, nếu khởi liền diệt,
như sương trên cành, gặp ánh nắng liền khô.
Lại nếu có con mắt trí có thể xem Phật pháp, như người có
mắt ban ngày dùng được.
Lại người trí gọi là được phần Phật pháp, như chính là con
thì được hưởng phần của cải của cha mẹ.
Lại trí tuệ gọi là có mạng sống ngoài ra gọi là chết.
Lại người trí tuệ gọi là người chân đạo nhân, vì có thể biết
đạo.
Lại người trí biết mùi vị Phật pháp, như thiệt căn không hư
có thể phân biệt 5 vị.
Lại người trí tuệ ở trong Phật pháp tâm định không động,
như núi đá gió không lay động được.
Lại người trí tuệ gọi là Tín, vì tự được 4 pháp tin mà không
theo người khác mới có được.
Lại được Thánh tuệ căn gọi là đệ tử Phật, ngoài ra là ngoại
phàm phu. Cho nên nói người trí có thể được lợi ích.
Vô hý luận : Là như lối nghị luận cho là một, hoặc cho là
khác, gọi là hý luận. Như A-nan hỏi Xá-lợi-phất : Nếu 6 xúc nhập,
lìa dục diệt hết rồi, nếu có còn thừa ư ? Xá-lợi-phất nói : Nếu 6
xúc nhập lìa dục tận diệt rồi, nếu còn có thừa là không thể luận
mà ông luận ư ? Nếu không có cũng có, cũng không, không phải
có, không phải không, hỏi đáp cũng như vậy.
Hỏi : Việc ấy vì sao không thể luận ?
Thành Thật Luận Trang 497 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Hỏi nầy là hỏi pháp thật ngã là một hay là khác, cho
nên không đáp, vì ngã không quyết định. Chỉ trong 5 ấm giả lập
danh tự mà nói đó thôi. Nếu lấy có, không mà đáp, tức là sa vào
dứt, thường. Nếu đem pháp nhân duyên mà luận nói ngã thì không
phải là hý luận.
Lại nếu người thấy chúng sinh trống không, pháp trống
không, thì không hý luận. Cho nên nói người không hí luận mới
được lợi ích của Phật pháp. Đó gọi là đầy đủ thiện giác.
Phẩm 184 : Năm định cụ sau
7. Đầy đủ tín giải tốt : Nghĩa là như người hành giả có thể ưa
thích Nê-hoàn mà chán ghét sinh tử gọi là tín giải tốt. Tín giải như
vậy chóng được giải thoát.
Lại người ưa thích Nê-hoàn tâm không đắm gì cả.
Lại ưa thích Nê-hoàn thì không khiếp sợ. Bởi vì sao ? Vì nếu
là phàm phu mà tâm nghĩ Nê-hoàn liền sinh kinh sợ cái ngã sẽ
mất hẳn.
Hỏi : Do nhân duyên gì tín giải Nê-hoàn ?
Đáp : Hành giả thấy thế gian vô thường, khổ, không, vô ngã
thì đối với Nê-hoàn sinh tưởng tịch diệt.
Lại người nầy bản tính phiền não nhẹ yếu, nghe nói Nê-hoàn
thì lòng tin vui ưa thích.
Lại nếu theo vị thầy giỏi, hoặc đọc kinh sách, nghe sinh tử
tội lỗi, như Kinh Vô Thủy và các Kinh Ngũ Thiên Sứ v.v... nói,
thì chán lìa sinh tử tin vui Nê-hoàn.
8. Đủ phần hành giả : Như trong kinh nói có 5 phần của hành
giả là : 1. Có tin. 2. Tâm không dua dọc. 3. Ít bệnh. 4. Tinh tiến. 5.
Trí tuệ.
Có tin là tâm đối với Tam Bảo và 4 đế không nghi hối.
Không nghi hối nên mau được thành định.
Thành Thật Luận Trang 498 Tuệ Quang Foundation
Lại người có lòng tin nhiều vui vẻ nên chóng được thành
định.
Lại người có tin, tâm điều hòa dễ thu nhiếp nên chóng được
định.
Hỏi : Nếu do định sinh tuệ, sau có thể dứt nghi. Nay vì sao
trước định rồi nói không nghi ?
Đáp : Vì nhờ đa văn nên có thể dứt nghi chứ không phải
được định.
Lại sinh vào nhà rất có lòng tin, hoặc cùng làm việc với
những người có lòng tin, nên thường tu lòng tin, tuy chưa được
định, nhưng không sinh nghi v.v....
Không dua dọc : Là đem tâm chất trực, tâm không che giấu,
thì dễ độ, như người nói thật và đầy đủ bệnh trạng với thầy thuốc
thì dễ cứu chữa.
Ít bệnh : Ít bệnh thì có thể đầu đêm cuối đêm tinh tiến không
dứt. Nếu người tật bệnh thì trở ngại sự hành đạo.
Tinh tiến : Là vì cầu đạo nên thường siêng năng tinh tiến,
như dùi cây để lấy lửa mà không nghỉ tay thì chóng được lửa.
Trí tuệ : Nhờ có trí tuệ nên được quả 4 việc. Đó là Thánh
đạo.
Hỏi : Các pháp niệm xứ ... cũng là phần của hành giả. Vì sao
chỉ nói 5 pháp nầy ?
Đáp : Tuy đều là phần, mà pháp nầy vượt trội hơn, nên hành
giả phải cần dùng, cho nên nói riêng. Cũng lìa tất cả ác, nhóm tất
cả thiện, nên gọi phần của hành giả, như có nói trong Kinh Cù-nisa.
9. Đủ chỗ giải thoát : Là 5 giải thoát xứ : 1. Như Phật và các
Tì-kheo tôn thắng vì đó nói pháp, theo chỗ được nghe, riêng có
thể tính thông đạt ngôn ngữ nghĩa lý. Nhờ thông đạt đó nên sinh
tâm hoan hỷ. Hoan hỷ thì thân khoan khoái, khoan khoái thì thụ
vui, thụ vui là tâm được thu nhiếp. Đó là chỗ giải thoát đầu tiên.
Thành Thật Luận Trang 499 Tuệ Quang Foundation
Hành giả an trụ chỗ giải thoát nầy nên nhớ nghĩ mạnh mẽ thì tâm
nhiếp định, các lậu được diệt hết, chắc chứng được Nê-hoàn. 2.
Siêng đọc tụng kinh điển. 3. Vì người khác nói pháp. 4. Ở riêng
một chỗ suy nghĩ các pháp. 5. Khéo giữ định tướng, là 9 tướng
v.v... như trên đã nói.
Hỏi: Phật và Tì-kheo tôn thắng vì sao nói pháp cho hành giả
nầy ?
Đáp : Vì có khả năng thụ pháp có thể được lợi ích lớn, cho
nên nói cho hành giả này.
Lại Tì-kheo nầy nhờ Phật xuất gia các căn thuần thục, nên vì
nói pháp. Còn Tì-kheo tôn thắng vì chỗ đồng nghiệp nên nói cho
nhau.
Lại người hành giả nầy cần phải nghe pháp, cho nên vì nói.
Lại người nầy có các công đức tịnh giới v.v... đã thành tựu,
giống như cái đồ đựng đã làm xong có thể đựng đồ vật, cho nên vì
nói pháp. Đó gọi là 3 tuệ. Thông đạt ngôn ngữ là đa văn tuệ,
thông đạt nghĩa lý là tư duy tuệ. Do đạt 2 tuệ trên có thể sinh tâm
hỷ, cho đến nhiếp tâm sinh như thật trí, đó gọi là tu tuệ. Ba tuệ
nầy có 3 thứ quả là chán, lìa, và giải thoát.
Lại nữa, nghe pháp, đọc tụng, vì người nói pháp là đa văn
tuệ. Suy nghĩ so lường các pháp là tư duy tuệ, khéo giữ lấy định
tướng là tu tuệ.
Hỏi : Tâm giải thoát và hết lậu 2 pháp đó có gì sai khác ?
Đáp : Dùng định ngăn phiền não nên nói tâm giải thoát, vĩnh
viễn dứt hẳn phiền não mới nói hết lậu.
Hỏi : Như tu pháp trì giới v.v... cũng là chỗ giải thoát, như
nói trì giới thì tâm không hối, tâm không hối thì hoan hỷ v.v....
Hoặc nhờ thí v.v... cũng được giải thoát. Vì sao chỉ nói 5 pháp nầy
ư ?
Đáp : Vì vượt trội nên được nói riêng.
Hỏi : Pháp nầy có gì vượt trội ?
Thành Thật Luận Trang 500 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Là nguyên nhân gần của giải thoát, giới v.v... vì là
nguyên nhân xa nên không nói.
Hỏi : Sao biết được là nguyên nhân gần ?
Đáp : Hành giả nghe pháp biết ấm, giới, nhập v.v... chỉ các
pháp hòa hợp, trong đó không ngã, cho nên tức là đã phá giả
danh. Phá giả danh tức là giải thoát, nên gọi đó là nguyên nhân
gần.
Lại trong kinh nói : Công đức đa văn là không theo người
khác cầu nghe pháp, tâm dễ thâu nhiếp v.v.... Cũng do đó nên biết
là nguyên nhân gần.
Lại Phật pháp có công đức lớn có thể diệt phiền não, đến Nêhoàn
v.v.... Trong pháp tịch diệt nầy, hoặc nghe hoặc tụng hoặc tự
suy nghĩ thì chóng được giải thoát, cho nên gọi là nguyên nhân
gần.
Lại thí được đại phú, trì giới được tôn quý, đa văn được trí.
.Nhờ trí tuệ nên được diệt hết các lậu, chứ không nhờ phú quí cho
nên biết là nguyên nhân gần.
Lại Xá-lợi-phất v.v... được tôn xưng là bậc đại trí, đều do đa
văn.
Hỏi : Nếu nhờ đa văn tâm dễ nhiếp thì vì sao A-nan đầu
hôm, giữa đêm, cuối đêm đều không được giải thoát ?
Đáp : Đầu của A-nan chưa kê lên gối đã được giải thoát. Cho
nên thường ở trong pháp hiếm có, vì sao không nhanh chóng ?
Lại A-nan trong đêm đó tinh tiến có chút lỗi, vì quá mỏi mệt
nên không được giải thoát.
Lại A-nan tự thề rằng : Trong đêm nay ta quyết được hết lậu.
Cũng như Bồ-Tát tự thề trong đạo tràng. Thử hỏi ai có sức nầy ?
Người như A-nan đều là nhờ sức đa văn.
10. Không bị chướng ngại : Như nói 3 chướng là nghiệp
chướng, báo chướng, và phiền não chướng. Nếu ai không có 3
Thành Thật Luận Trang 501 Tuệ Quang Foundation
chướng ngại nầy thì không đọa chỗ nạn. Nếu lìa được các nạn là
kham thụ đạo pháp.
Lại người đó gọi là đầy đủ 4 luân là : cõi nước tốt đẹp, y chỉ
người thiện, tự phát chính nguyện và phúc đức đời trước.
Lại có thể thành tựu 4 phần Tu-đà-hoàn là : gần gũi người
thiện, ưa nghe chính pháp, tự nghĩ nhớ chân chính và có thể thực
hành theo chính pháp.
Lại có thể lìa bỏ tham v.v... 3 pháp, như trong kinh nói :
Không dứt 3 pháp thì không vượt qua được già, bệnh, chết.
11. Không chấp trước : Là không đắm trước bờ bên này,
không đắm trước bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không vọt
lên đất bằng, không bị người bắt lấy, và phi nhân bắt lấy, không
vào trong dòng nước xoáy, không tự mục nát. Bờ bên này là 6
nhập bên trong. Bờ bên kia là 6 nhập bên ngoài. Giữa dòng là
tham, hỷ. Đất bằng là ngã mạn. Người bắt là hòa hợp với người
tại gia xuất gia. Phi nhân bắt lấy là trì giới để sinh lên trời. Dòng
xoáy là phá giới. Mục nát là phá trọng cấm. Nếu người đối với nội
nhập chấp ngã, tức đối với ngoại nhập sinh tâm ngã sở. Từ nội
ngoại nhập kia sinh tham hỷ, cho nên mới chìm đắm trong đó. Từ
đó sinh ngã mạn. Tại vì sao. Nếu người đắm chấp thân thụ có vui,
cho nên người đến khinh chê thì sinh kiêu mạn. Như vậy vì ngã,
ngã sở, tham hỷ, ngã mạn làm loạn tâm, nên mới gây thành các
việc khác.
Hỏi : Trong dụ này lấy gì làm nước, nếu lấy 8 Thánh đạo làm
nước, thì không nên lấy nội ngoại 6 nhập làm bờ sông, tham, hỷ
v.v... làm giữa dòng, cũng không nên có dòng xoáy, mục nát. Nếu
lấy tham ái làm nước, thì làm sao theo đó được đến Nê-hoàn ?
Đáp : Lấy 8 Thánh đạo làm nước. Thí dụ bất tất khiến cho
giống hệt nhau hết. Như cây này nếu lìa 8 nạn quyết trôi đến biển
cả. Tì-kheo cũng vậy, lìa các dòng, nạn, thì theo nước 8 Thánh
đạo trôi vào Nê-hoàn. Như nói sữa trắng như vỏ sò, chỉ lấy màu
Thành Thật Luận Trang 502 Tuệ Quang Foundation
sắc của sò mà không lấy cứng mềm, cũng như nói mặt như mặt
trăng, mà chỉ lấy cái đầy đặn mà không lấy hình dạng vậy.
Lại hành giả ra khỏi Thánh đạo rồi, lại đắm trước nội ngoại
nhập, thì không bằng cây này ở giữa dòng nước, vướng mắc bờ
bên này bờ bên kia và mục nát v.v....
Lại có luận sư nói : Như nước sông Hằng quyết chảy về biển
lớn. Như vậy 8 Thánh đạo chắc đến Nê-hoàn. Cho nên mới lấy
làm thí dụ.
Như trên đã lược nói đủ 11 định cụ. Nếu có pháp này tự
nhiên được định.
Phẩm 185 : Hơi thở ra vào
A-na-ba-na tức hơi thở, có 16 hạnh tất cả là : Nghĩ nhớ hơi
thở ra vào hoặc dài hoặc ngắn. Nghĩ hơi thở khắp thân, trừ các
thân hành, giác hỷ, giác lạc, giác tâm hành, trừ tâm hành. Nghĩ
hơi thở ra vào, giác tâm, khiến tâm hỷ, khiến tâm nhiếp, khiến tâm
giải thoát. Nghĩ hơi thở ra vào, tùy vô thường, quán tùy dứt, quán
ly diệt. Nghĩ hơi thở ra vào hoặc dài hoặc ngắn.
Hỏi : Thở dài ngắn là thế nào ?
Đáp : Như người trèo lên núi, hoặc gánh nặng bị mệt lả nên
hơi thở ngắn. Hành giả cũng như vậy, còn ở trong thô tâm bấy giờ
là ngắn. Thô tâm đó chỗ gọi là tâm vội vả tán loạn. Hơi thở dài là
nếu hành giả ở trong trạng thái tế tâm thì hơi thở dài. Bởi vì sao ?
Vì tâm dịu nên nên hơi thở cũng tùy theo đó mà dịu dàng dần.
Như ngay khi người đó quá mệt nên nghỉ để thở thì cũng tùy mà
dịu, bấy giờ thì hơi thở dài.
Khắp thân, là hành giả vì tin và hiểu thân trống không nên
thấy tất cả lỗ chân lông có gió ra vào.
Trừ thân hành, là hành giả được sức cảnh giới, tâm yên ổn
nên hơi thở thô diệt, bấy giờ hành giả mới nhớ đủ chỗ trong thân.
Thành Thật Luận Trang 503 Tuệ Quang Foundation
Giác hỷ, là người đó từ định pháp nầy tâm sinh đại hoan hỷ,
trước kia tuy có hoan hỷ nhưng không bằng, bấy giờ gọi là giác
hỷ.
Giác lạc, là từ hỷ sinh lạc. Bởi vì sao ? Vì nếu tâm được hoan
hỷ thì thân điều hòa thỏa thích, thân điều điều hòa thỏa thích là
được an vui khoan khoái. Như trong kinh nói : Tâm hoan hỷ nên
thân khoan khoái, thân khoan khoái thì cảm thụ vui.
Giác tâm hành, là hành giả thấy tội lỗi của hỷ là vì có thể
sinh tham. Tham là hành vi của tâm, do tâm khởi, cho nên trong
thụ sinh tham, cho nên thấy thụ là hành vi của tâm.
Trừ tâm hành, là hành giả thấy lỗi do thụ sinh tham. Trừ diệt
thì tâm yên ổn, cũng trừ diệt thô thụ nữa nên nói trừ tâm hành.
Giác tâm, là hành giả trừ mùi vị của cảm thụ nên thấy tâm
tịch diệt không chìm không động. Tâm này có khi lặn chìm, bây
giờ khiến hỷ. Nếu tâm lại nổi động thì bấy giờ khiến nhiếp giữ.
Nếu lìa được 2 pháp nầy, bấy giờ nên xả, cho nên nói khiến tâm
giải thoát. Hành giả như vậy tâm tịch định nên sinh vô thường
hành. Nhờ vô thường hành dứt các phiền não, gọi là dứt hành. Dứt
phiền não nên tâm chán lìa gọi là ly hành. Vì tâm lìa nên được
được tất cả diệt, gọi là diệt hành. Như vậy thứ lớp được giải thoát,
nên mới gọi là 16 hạnh nghĩ nhớ hơi thở ra vào.
Hỏi : Vì sao nghĩ nhớ thở ra vào gọi là Thánh hạnh, Thiên
hạnh, Phạm hạnh, học hanh, vô học hạnh ư ?
Đáp : Gió vận hành trong hư không, tướng hư không có thể
mau mở đường cho tướng hoại. Tướng hoại tức là trống không.
Không tức là Thánh hạnh, cho nên gọi là Thánh hạnh. Vì muốn
sinh về cõi tịnh thiên nên gọi là thiên hạnh. Vì muốn đến tịch diệt,
nên gọi Phạm hạnh. Vì muốn học pháp nên gọi là học hạnh. Vì
đến bậc vô học, nên gọi là vô học hạnh.
Hỏi : Nếu quán bất tịnh rất chán lìa thân, chóng được giải
thoát, cần gì tu 16 pháp hạnh nầy ư ?
Thành Thật Luận Trang 504 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Tu bất tịnh quán chưa được lìa dục, tự chán ghét thân
tâm thì sinh mê muội, như uống thuốc quá liều thì lại gây thêm
bệnh. Như vậy bất tịnh ưa sinh chán ghét. Như các Tì-kheo tu
quán bất tịnh bên bờ sông Bạt-cầu-mạt, nên rất sinh chán ghét, bởi
đó mà gây ra các việc như uống thuốc độc, nhào đầu từ trên cao tự
sát v.v.... Hạnh nầy không như vậy. Có thể được lìa dục mà không
sinh chán ghét, nên gọi là thắng.
Lại hạnh nầy dễ được, duyên tự thân nên bất tịnh dễ mất.
Lại hạnh nầy vi tế, vì có thể tự hoại thân, bất tịnh hạnh thô
kịch, khó hoại tướng xương.
Lại hạnh nầy có thể phá tất cả phiền não, bất tịnh chỉ phá
dâm dục. Bởi vì sao ? Vì tất cả phiền não đều do giác sinh, nghĩ
nhớ hơi thở ra vào để dứt các giác.
Hỏi : Hơi thở ra vào là thuộc thân hay thuộc tâm ?
Đáp : Cũng thuộc thân, cũng thuộc tâm. Bởi vì sao ? Vì ở
trong thai không có, nên biết do thân, nếu đệ tứ thiền v.v..., và
những người vô tâm không có nên biết do tâm.
Hỏi : Thở không cố ý khởi, không nên do tâm. Bởi vì sao ?
Hơi thở này không do ý khởi như tâm nghĩ các việc khác. Hơi thở
thường ra vào, như thức ăn vào bụng tự tiêu, như bóng tự di
chuyển theo hình, không phải người làm ?
Đáp : Thở không do cố ý khởi, không do nghĩ nhớ, chỉ do
các duyên hòa hợp mà khởi. Nếu có tâm thì có, mà không tâm là
không, cho nên biết do tâm.
Lại tùy theo tâm mà có sai khác. Thô tâm thì ngắn, tế tâm thì
dài.
Lại thở ra vào còn do cõi do tâm. Nếu ở tại cõi thở ra vào,
cũng có cõi tâm thở ra vào, bấy giờ thì có thở ra vào. Cõi như là
cõi Dục và Tam thiền. Nếu ở tại cõi thở ra vào, mà không cõi tâm
thở ra vào, và tại vô tâm, bây giờ thì không có. Nếu tại cõi không
thở ra vào, bấy giờ cũng không có.
Thành Thật Luận Trang 505 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Khi khởi thở, thở ra trước hay thở vào trước ?
Đáp : Khi sinh trước ra, khi chết sau vào. Ra vào đệ tứ thiền
cũng như vậy.
Hỏi : Nghĩ nhớ thở ra vào này, sao gọi là đầy đủ ?
Đáp : Hành giả nếu được 16 hạnh nầy, bấy giờ gọi là đầy đủ.
Có luận sư nói : Do 6 nhân duyên nên gọi đầy đủ. Đó là Sổ,
Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Duyên, Thanh tịnh.
Sổ, là đếm hơi thở ra vào từ 1 đến 10. Có 3 lối đếm : hoặc
bằng, hoặc quá hơn, hoặc giảm bớt. Bằng là 10 thì đếm là 10. Quá
hơn là 11 đếm cho là 10. Giảm bớt là đếm 9 cho là 10.
Tùy, là tâm hành giả theo dõi hơi thở ra vào.
Quán, là hành giả thấy hơi thở luồn trong thân như sợi chỉ
luồn hạt châu.
Chỉ, là khiến tâm trụ theo hơi thở ra vào.
Chuyển, là chuyển thân.
Duyên, là tâm khiến thụ duyên tâm hiện tiền. Tâm pháp cũng
như vậy.
Thanh tịnh, là hành giả lìa tất cả phiền não và các nạn, tâm
được thanh tịnh. Đây không nhất định. Bởi vì sao ? Vì trong các
hạnh nầy không nhất thiết phải cần dùng 2 pháp Số, Tùy, hành giả
chỉ khiến tâm trụ trong hơi thở để dứt các giác. Nếu có thể tu 16
pháp nầy gọi là đầy đủ.
Lại tướng đầy đủ nầy cũng không quyết định, vì chỗ sở hành
của người độn căn đối với người lợi căn là không đầy đủ.
Hỏi : Thở ra vào nầy, vì sao trong kinh nói gọi là ăn ?
Đáp : Nếu thở ra vào ngừng v.v..., thân được khoái lạc như
được ăn thứ ngon, lợi ích hòa thích cho thân thể nên gọi là ăn.
Hỏi : Trong 16 hành nầy, đều phải nhớ thở ra vào luôn sao ?
Đáp : Người nầy gọi là xé rách 5 ấm phương tiện. Nếu xé
rách 5 ấm trừ giả danh rồi, đâu còn dùng nghĩ nhớ hơi thở ra vào
Thành Thật Luận Trang 506 Tuệ Quang Foundation
làm chi nữa ? Đó gọi là thân nhớ. Có 4 pháp nhớ thân nên gọi
thân nhớ.
Hỏi : Nhớ là duyên về quá khứ, thở là hiện tại, mà sao gọi là
nhớ ?
Đáp : Đó là trí phá giả danh, vì nhớ nên mới nói. Các tâm số
pháp thay nhau mà gọi tên như 10 tưởng v.v..., cũng nhớ chỗ sở
hành trước sau, nên gọi là nhớ.
Hỏi : Trong thở dài ngắn v.v... không nói Thánh hành, vì sao
vô hành lại gọi chỗ nhớ ? Trong kinh nói : Nếu hành giả học thở
ra vào, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc khắp thân, hoặc trừ thân hành,
bấy giờ gọi là chỗ nhớ thân ?
Đáp : Đó là phương tiện đạo đầu tiên. Vì muốn tâm thanh
tịnh nên về sau gọi là dứt đạo.
Lại trong đây có vô thường v.v... các hạnh. Chỉ kinh đó
không nói, các kinh khác có nói. Hành giả ở trong thở ra vào quán
thân sinh tướng, diệt tướng, và sinh diệt tướng.
Lại nói quán thân vô thường v.v.... Chỉ trong đệ tứ vô thường
v.v... các hành đầy đủ cho nên nói.
Phẩm 186 : Định nạn
Định nầy, nếu lìa chướng ngại các nạn có thể thành lợi ích
lớn. Định nạn, là như thô hỷ. Như trong kinh nói : Ta sinh thô hỷ
là pháp tâm nạn. Hành giả không nên sinh thô hỷ đó, vì sẽ có các
lỗi tham đắm làm loạn định tâm.
Hỏi : Từ pháp sinh hỷ, làm sao không cho sinh được ?
Đáp : Hành giả nghĩ nhớ trống không thì không sinh hỷ. Vì
tưởng có chúng sinh nên mới sinh hỷ, chứ 5 ấm trống rỗng không
có chúng sinh thì làm sao có hỷ ?
Lại hành giả nên khởi nghĩ như vầy : Vì nhân duyên nên có
các pháp sinh, nghĩa là ánh sáng v.v..., trong đó có gì đáng vui
mừng ư ?
Thành Thật Luận Trang 507 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả thấy pháp được hỷ đều liền bại hoại, thì thô hỷ
diệt.
Lại hành giả lại còn cầu việc lớn, không dùng ánh sáng v.v...
các pháp làm gì, cho nên không sinh hỷ.
Lại hành giả vì thấy tướng diệt là lợi, nên không cho ánh
sáng v.v... các tướng là đáng vui mừng.
Lại hành giả nầy tu tập tịch diệt để muốn dứt hết phiền não,
nên không sinh hỷ. Bởi các duyên nầy nên có thể diệt được thô
hỷ.
Lại có định nạn khiếp sợ. Hành giả thấy duyên đáng sợ nên
sinh sợ hãi. Thế gian có bao nhiêu điều đáng sợ hãi hành giả đều
thấy hết. Đối với những việc đó đều phải nghĩ kỹ vô thường bại
hoại, không nên tùy theo nó. Bởi vì sao ? Vì trong pháp tọa thiền
có thấy những nhân duyên nầy là việc có thể sợ, không nên vì đó
mà sinh khiếp sợ, vì việc đó đều hư vọng trống không, như ảo
thuật có thể gạt người phàm chứ không phải chân thật. Suy nghĩ
như vây là lìa được sợ hãi.
Lại nương không pháp thì không sợ hãi.
Lại khởi ý nghĩ như vầy : Do sức ta tu nên mới cảm hiện
tướng lạ nầy, không nên khiếp sợ.
Lại tự nghĩ thân có các công đức trì giới đa văn đầy đủ,
không nhân duyên nào có thể gia hại ta được, nên không khiếp sợ.
Lại hành giả nầy vì vui đạo sâu sắc, nên không tiếc thân
mạng, nào còn sợ gì nữa ?
Lại tâm người nầy thường ở trong chính niệm, cho nên việc
khiếp sợ không thể chen vào được.
Lại nghĩ tướng dũng cảm nên không sợ hãi. Sợ hãi là tướng
khiếp nhược. Dùng các pháp như vậy để diệt trừ sợ hãi.
Lại có định nạn không thích hợp, là hành giả có bệnh nóng
lạnh v.v..., hoặc các nhân duyên mệt mỏi mất ngủ khiến thân thể
không điều hòa thích hợp, hoặc có các phiền não tham buồn ganh
Thành Thật Luận Trang 508 Tuệ Quang Foundation
ghét v.v... khiến tâm không điều hòa thích hợp, nên mất thiền
định. Cho nên hành giả phải tự lo giữ gìn thân tâm cho được điều
hòa thích hợp.
Lại có định nạn dị tướng, là như tướng nhơ bẩn, và cũng có
tướng không không phải nhơ bẩn nhưng có thể làm loạn thiền
định, như tướng bố thí v.v....
Lại có định nạn không bình đẳng, là như tinh tiến, hoặc mau
hoặc chậm. Mau thì thân tâm mỏi mệt, chậm thì không lấy được
định tướng, đều thoái lui mất định, như bắt chim, gấp thì mỏi mệt,
hoãn thì bay mất.
Lại như chỉnh dây đàn, nếu căng hoặc chùng đều không
thành tiếng.
Lại tinh tiến nếu mau thì khó rốt ráo. Như Phật bảo A-na-luật
rằng : Ông tinh tiến quá sau ắt sẽ trễ nải. Bởi vì sao ? Vì nếu quá
tinh tiến thì việc không thành trở lại biếng nhác, mà tinh tiến nếu
chậm việc cũng không xong. Cho nên không bình thường cũng
gọi là định nạn.
Lại có định nạn vô niệm, là không nghĩ pháp thiện, dù có
nghĩ pháp thiện lại không phải chỗ sở thụ.
Lại không nghĩ định tướng mà nghĩ ngoại sắc. Đó gọi là
không nghĩ nhớ. Hành giả nên nhất tâm tinh tiến nghĩ nhớ pháp đã
thụ như tay bưng bát dầu đầy.
Lại có định nạn điên đảo, là người nhiều tâm dục chịu tu
pháp tâm từ, người nhiều giận dữ tu tập pháp bất tịnh. Hai hạng
người trên quán 12 nhân duyên.
Lại trong tâm chìm mà tu chỉ, trong tâm động mà tu tinh tiến,
trong 2 tâm này mà tu xả, đó gọi là điên đảo.
Lại có định nạn nhiều lời, nghĩa là nhiều giác quán. Giác
quán là nhân của ngôn ngữ. Lại vì tâm không lạc trụ, bắt buộc ở
tại cảnh duyên.
Thành Thật Luận Trang 509 Tuệ Quang Foundation
Lại có định nạn không lấy tướng. Có 3 thứ tướng là chỉ
tướng, tiến tướng và xả tướng.
Lại có 3 tướng nữa là nhập định tướng, trụ tướng và khởi
tướng. Hành giả không rành phân biệt các tướng như vậy, nên mất
thiền định.
Lại có mạn định nạn, là như nói ta đây vào định được, mà
người kia không vào được, gọi là kiêu mạn. Hoặc nói người kia có
thể mà ta không thể, gọi là bất như mạn. Hoặc chưa được định mà
tự bảo đã được, là tăng thượng mạn. Đối với định không vi diệu
mà sinh tưởng cho là vi diệu, gọi là tà mạn.
Lại pháp tham v.v... cũng gọi định nạn. Như trong kinh nói :
Nếu hành giả một pháp thành tựu thì không thể quán mắt vô
thường. Đó gọi là tham.
Hỏi : Tất cả những người chưa lìa dục, đều không thể quán
mắt vô thường sao ?
Đáp : Lời đó có chút lỗi. Phải nói hiện tại khởi tham không
thể quán mắt vô thường.
Lại trong thành tựu có sai khác. Có người tham v.v... dày
nặng thường đến với tâm, thì hay chướng định, hoặc mỏng mà
không thường xuyên, thì không thể làm chướng nạn.
Lại trong kinh nói 13 pháp ác đều gọi là định nạn, 13 bạch
pháp đều là thuận định.
Như Phật nói : Nếu không dứt 3 pháp thì độ được già, bệnh,
chết. Đó là tham, nhuế, si. Nếu không dứt 3 pháp đó thì không thể
dứt tham, nhuế, si là thân kiến, giới lấy, nghi.
Lại có 3 pháp là tà niệm, tà hành, tâm chìm.
Lại có 3 pháp là nhớ quấy, bất an, tuệ loạn tâm.
Lại có 3 pháp là điệu hý, không giữ các căn, phá giới.
Lại có 3 pháp là bất tín, tà giới, biếng nhác.
Lại có 3 pháp là không ưa người thiện, ghét nghe chính pháp,
ưa xoi bói lỗi người.
Thành Thật Luận Trang 510 Tuệ Quang Foundation
Lại có 3 pháp là không cung kính, khó trao đổi giải bày, tập
theo ác tri thức. Nếu không dứt 3 pháp thì không dứt được sự
không cung kính, khó trao đổi giải bày, ác tri thức, nghĩa là không
hổ, không thẹn, phóng túng. Nếu dứt được sự không hổ, không
thẹn, phóng túng thì dứt được sự không cung kính, khó trao đổi
giải bày, quen tập theo ác tri thức, cho đến dứt được thân kiến,
giới thủ, nghi, thì dứt được tham, nhuế, si độ thoát già, bệnh, chết.
Trong đây độ thoát già, bệnh chết là Niết-bàn vô dư. Dứt
tham, nhuế, si là quả A-la-hán Nê-hoàn hữu dư. Dứt thân kiến,
giới thủ, nghi, là 3 quả Sa-môn. Dứt tà niệm, tà hành, tâm chìm là
ở trong noãn v.v... đạt phần thiện căn. Dứt nghĩ nhớ sai quấy,
không an tuệ, loạn tâm là tu 4 ức niệm xứ. Dứt điệu hý không giữ
các căn phá giới, là thụ giới xuất gia. Dứt sự không ưa người
thiện, ghét nghe chính pháp, ưa xoi bói lỗi người, không tin tà
giới, biếng nhác, không cung kinh, khó trao đối giải bày, quen tập
theo ác tri thức, không hổ, không thẹn, phóng túng, là tại gia
thanh tịnh.
Bởi vì sao ? Vì nếu người ở một mình làm ác mà không biết
xấu hổ, gọi là không hổ, người nầy về sau tâm ác tăng dần, ở giữa
chúng mà làm ác cũng không chút liêm sỉ, gọi là không thẹn. Mất
gốc pháp thiện của 2 bạch pháp nầy nên thường đuổi theo pháp ác
gọi là phóng túng. Bởi thành tựu 3 ác pháp nầy nên không chịu
vâng lãnh những lời giáo huấn của các bậc sư trưởng tôn quí, gọi
là không cung kính. Chống trả lời thầy dạy, gọi là khó trao đối
giải bày. Như vậy xa lìa sư trưởng, gần gũi người ác gọi là tập
quen theo ác tri thức.
Trong đây, từ chỗ không hổ sinh không cung kính, từ không
thẹn sinh khó trao đổi giải bày, từ phóng túng sinh quen tập theo
ác tri thức. Cho nên sinh bất tín mà thụ pháp tà giới, thường biếng
nhác, gần gũi người ác, được dạy cho điều bất tín, rằng làm ác
không có báo. Hoặc nghe nói làm ác bị quả báo, liền thụ hành giới
Thành Thật Luận Trang 511 Tuệ Quang Foundation
pháp gà, chó v.v..., mong chóng hết tội. Thụ hành giới pháp nầy
không ngờ có chút lợi lại sinh biếng nhác, vì biếng nhác nên
không ưa người thiện, cho rằng không phải người chân thật làm
chính hạnh. Cũng ghét nghe chính pháp, cho rằng tu chính pháp
đều như tà pháp không được lợi ích gì. Bởi tâm vẩn đục nên ưa
xoi bói lỗi người, cho rằng pháp người kia làm cũng như mình
đều không được gì cả. Như vậy không chế ngự được phiền não
nên tâm hý điệu. Vì hý điệu nên không nhiếp hộ các căn thì có thể
phá giới, vì phá giới nên sinh nghĩ nhớ sai quấy, mà hành không
an tuệ tâm chí tán loạn liền sinh tà niệm. Sinh tà niệm nên liền tu
tà đạo. Khi tu tà đạo không được lợi ích, nên tâm mê mờ. Tâm
không sáng suốt, nên không dứt được 3 kết. Không dứt 3 kết, nên
không dứt được tham v.v... các bệnh phiền não ... các suy kém.
Trái với những thứ kể trên thì gọi là bạch pháp tức là pháp
thanh tịnh.
Lại có định nạn lo rầu, là hành giả sinh ý nghĩ : Ta đã trải
nhiều năm tháng mà không đắc định nên sinh lo rầu.
Lại tham đắm mùi vị hỷ lạc, đó cũng là định nạn.
Lại có định nạn không vui, nghĩa là tuy được chỗ tốt thầy
giỏi v.v… duyên tâm cũng không vui.
Lại tham v.v…các thứ ngăn che, cũng đều gọi là định nạn.
Tóm lại, cho đến áo mặc, ăn uống v.v... các pháp làm tổn
giảm thiện căn, tăng trưởng bất thiện đều gọi là định nạn, tức
những khó khăn trong tu định, cần phải biết rõ, siêng cầu mong
lìa bỏ.
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 15 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Thành Thật Luận Trang 512 Tuệ Quang Foundation
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 187 : Chỉ Quán
Hỏi : Nhiều chỗ trong kinh Phật thường bảo các Tì-kheo
hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở dưới cây, hoặc ở trong nhà trống
vắng, nên nghĩ nhớ 2 pháp là Chỉ và Quán.
Nếu tất cả các pháp thiền định đều nên nghĩ nhớ, vì sao chỉ
nói Chỉ và Quán ?
Đáp : Chỉ là định, Quán là tuệ. Tất cả pháp thiện nào do tu
mới sinh thì đều nhiếp thuộc trong 2 pháp đó. Và còn ở tản tâm
mà có các tuệ nghe nghĩ cũng nhiếp trong pháp nầy, vì 2 pháp nầy
có thể thành xong đạo pháp.
Bởi vì sao ? Vì Chỉ có thể ngăn kết, Quán có thể dứt diệt.
Chỉ như nắm cỏ, Quán như liềm cắt. Chỉ như quét đất, Quán như
trừ phân. Chỉ như dọn bẩn, Quán như rửa nước. Chỉ như nước làm
thấm, Quán như lửa làm chín. Chỉ như ung nhọt, Quán như dao
khoét. Chỉ như khởi mạch, Quán như chích máu. Chỉ là ngăn tâm
động, Quán như vực dậy tâm chìm. Chỉ như vẩy nước vàng, Quán
như đem lửa nướng. Chỉ như dây buộc dắt, Quán như dùng dao
nạo. Chỉ như lấy nhiếp nhổ gai, Quán như kéo dao cắt tóc. Chỉ
như áo giáp, Quán như binh trượng. Chỉ như đứng thẳng, Quán
như bắn tên. Chỉ như uống dầu, Quán như uống thuốc. Chỉ như
nhồi đất, Quán như in ấn. Chỉ như gia công vàng, Quán như làm
đồ vật.
Lại chúng sinh trong thế gian đều sa vào 2 bên hoặc khổ
hoặc vui. Chỉ có thể xả bỏ vui, Quán có thể lìa khổ.
Lại trong 7 tịnh, giới tịnh, tâm tịnh là Chỉ, còn 5 pháp kia là
Quán.
Trong 8 pháp giác ngộ của bậc Đại nhân, 6 giác là Chỉ, 2
giác là Quán.
Thành Thật Luận Trang 513 Tuệ Quang Foundation
Trong 4 ức xứ, 3 ức xứ là Chỉ, ức xứ thứ tư là Quán, 4 như ý
túc là Chỉ, 4 chính cần là Quán.
Trong 5 căn, 4 căn là Chỉ; tuệ căn là Quán, 5 lực cũng vậy.
Trong 7 giác phần, 3 giác phần là Chỉ, 3 giác phần là Quán,
còn niệm giác phần chung cả hai.
Trong 8 chính đạo phần, 3 phần là giới, 2 phần là Chỉ, 3 phần
là Quán. Giới cũng thuộc Chỉ.
Lại Chỉ có thể dứt tham, Quán trừ vô minh. Như trong kinh
nói : Tu Chỉ là tu tâm, tu tâm là dứt tham thụ. Tu Quán là tu tuệ,
tu tuệ thì vô minh dứt.
Lại vì lìa tham nên tâm được giải thoát, vì lìa vô minh tuệ
được giải thoát. Giải thoát được 2 thứ đó lại không còn việc gì
nữa nên chỉ nói 2 pháp đó.
Hỏi : Nếu Chỉ Quán có thể tu tâm tu tuệ vì tu tâm tuệ nên dứt
tham và vô minh. Vậy sao định nói Chỉ có thể tu tâm, có thể dứt
tham ái, Quán có thể tu tuệ có thể dứt vô minh ?
Đáp : Tản tâm là các tâm nối nhau đi trong sắc v.v.... Tâm
nối nhau nầy được pháp Chỉ thì dứt, cho nên nói Chỉ có thể tu
tâm. Do dứt tâm sinh trí nên cho nói Quán có thể tu tuệ. Vì sinh
Quán rồi sau mới có tu, nên đều gọi tu tuệ. Sơ tuệ gọi là Quán, sau
mới gọi là tuệ. Như trong kinh nói : Tu Chỉ có thể dứt tham là nói
ngăn dứt.
Làm sao biết được ? Vì với sắc v.v... ngoại dục sinh tham,
nếu được thuốc Chỉ thì không thể sinh lại. Như trong kinh nói :
Hành giả khi được tịnh hỷ, là xả bỏ bất tịnh hỷ. Nếu nói vô minh
dứt là dứt rốt ráo. Vì sao biết được ? Vì vô minh dứt nên tham
v.v... phiền não dứt hẳn không còn. Trong kinh cũng nói lìa tham
nên tâm được giải thoát gọi là ngăn dứt. Lìa vô minh nên tuệ được
giải thoát, gọi là rốt ráo dứt.
Thành Thật Luận Trang 514 Tuệ Quang Foundation
Có 2 thứ giải thoát : thời gian giải thoát và bất hoại giải
thoát. Thời gian giải thoát là ngăn dứt; bất hoại giải thoát là rốt
ráo dứt.
Hỏi : Thời gian giải thoát là 5 loại A-la-hán vô lậu giải thoát.
Bất hoại giải thoát là bất hoại pháp A-la-hán vô lậu giải thoát, vì
sao chỉ nói ngăn dứt ư ?
Đáp : Đó không phải vô lậu giải thoát. Bởi vì sao ? Vì thời
gian giải thoát là chỉ nhờ thượng lực ngăn kết một thời gian ngắn
mà chưa có thể dứt vĩnh viễn, về sau phát sinh lại, nên không phải
vô lậu.
Lại giải thoát nầy gọi là thời, là ái giải thoát, chứ lậu tận Ala-
hán không còn chỗ khả ái.
Hỏi: Nếu vậy là không có Thánh sở ái giới ?
Đáp : Vì các học nhân chưa hết lậu nên ngã tâm thỉnh thoảng
phát khởi, cho nên đối với giới sinh ái, chứ không phải A-la-hán
ngã tâm đã diệt hẳn mà lại sinh ái.
Hỏi : A-la-hán Cù-đề với thời giải thoát 6 phen thoái lui
mất, lo sợ thoái lui lần thứ 7 nên dùng dao tự sát. Nếu mất hữu lậu
không nên tự hại. Cho nên biết thời giải thoát không gọi hữu lậu ?
Đáp : Người nầy thoái lui mất sở dụng dứt kết thiền định, ở
trong định đó 6 phen lui mất, đến phen thứ 7 lại được định đó lại,
bèn muốn tự sát. Bấy giờ liền chứng được đạo A-la-hán. Cho nên
ma vương bảo nhau rằng học nhân chết đi quanh 4 phía thây để
tìm thức nó chạy ra. Rồi đến thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Đệ
tử của ngài vì sao lậu chưa hết mà chết ? Phật nói : Người này đã
nhổ gốc ái, được vào Nê-hoàn.
Hỏi : Nếu dứt tham gọi là ngăn dứt thì trong kinh có nói : Từ
tham tâm được giải thoát, từ nhuế si tuệ được giải thoát. Lại nói :
Từ dục lậu tâm được giải thoát. Như vậy đều nên gọi ngăn chận là
giải thoát, chứ không phải giải thoát thật sự ?
Thành Thật Luận Trang 515 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trong đó cũng có nói dứt vô minh, nên mới biết là rốt
ráo giải thoát. Nếu nói dứt tham thì hoặc ngăn dứt, hoặc rốt ráo
dứt. Nếu không sinh chân trí thì đó là ngăn dứt; tùy sinh chân trí
thì đó là rốt ráo dứt. Chứ không có dùng pháp Chỉ mà dứt rốt ráo
dứt tham được. Nếu như vậy ngoại đạo cũng có thể rốt ráo dứt
tham. Nếu vậy ngoại đạo cũng có thể rốt ráo dứt tham, mà thật sự
không phải vậy. Cho nên biết chỉ là ngăn dứt.
Hỏi : Trong kinh nói : Dùng Chỉ tu tâm, nương Quán được
giải thoát. Dùng Quán tu tâm, nương Chỉ được giải thoát. Việc đó
thế nào ?
Đáp : Hành giả, nếu nhân thiền định sinh duyên diệt trí, đó là
dùng Chỉ tu tâm, nương Quán được giải thoát. Nếu dùng tản tâm
phân biệt ấm, giới, nhập v.v..., nhờ đó được duyên diệt dứt; đó là
dùng Quán tu tâm nương Chỉ được giải thoát. Nếu được niệm xứ
v.v... đạt phần nhiếp tâm thì đều tu Chỉ Quán. Lại tất cả hành giả
đều nương 2 pháp nầy được diệt tâm giải thoát.
Phẩm 188 : Tu định
Hỏi : Ông nói phải tu tập định. Định tâm nầy là niệm niệm
sinh diệt làm sao tu được ?
Đáp : Hiện thấy thân nghiệp tuy niệm niệm diệt, nhờ tu tập
nên có kỹ năng khác thường, tùy tu tập lâu dần chuyển đổi khác,
khẩu nghiệp cũng vậy. Tùy chỗ tu tập chuyển tăng, điều hòa lợi
ích kiên cố dễ nhớ, như đọc tụng v.v… Phải biết ý nghiệp tuy
niệm niệm diệt nhưng có thể tu tập, như lửa có thể biến sống
thành chín, nước có thể xói mòn đá, gió có thể thổi vật. Như vậy
các pháp niệm niệm diệt đều có sức nhóm họp.
Lại tùy tập phiền não thì tùy theo đó mà bùng phát, như
người đời đời quen tập dâm dục thì thành đa dục. Nhuế si cũng
vậy. Như trong kinh nói : Nếu người tùy nghĩ việc gì, thì tâm
hướng theo việc đó, như thường tùy theo dục giác thì tâm hướng
Thành Thật Luận Trang 516 Tuệ Quang Foundation
theo dục. Hai giác kia cũng vậy. Cho nên biết tâm nầy tuy niệm
niệm diệt mà cũng có thể tu tập.
Lại tu gọi là tăng trưởng. Hiện thấy các pháp đều có tăng
trưởng. Như trong kinh nói: : Hành giả bởi tà niệm nên dục v.v...
các lậu chưa sinh thì sinh, đã sinh thì tăng trưởng, nghĩa là từ hạ
sinh trung, từ trung sinh thượng, như hạt giống, mộng cộng nhánh
lá hoa quả. Hiện thấy đều từ nhân dần dần tăng trưởng. Pháp định
tuệ v.v... cũng phải như vậy.
Lại hiện thấy ướp mè, mùi hương càng lúc càng tăng.
Hương đó và mè niệm niệm không ngừng mà có sức ướp. Cho
nên biết pháp niệm niệm diệt cũng có thể tu tập.
Hỏi : Mè là pháp trụ, hoa hương đến xông ướp không có tâm
trụ . Đem trí niệm niệm diệt mà đến tu tập, thì làm sao ví dụ được
?
Đáp : Không có pháp trụ. Tất cả các pháp đều niệm niệm
diệt. Điều nầy trước đã thành lập nên không còn đem nạn vấn
được.
Lại nếu pháp không niệm niệm diệt thì không tu tập được,
tức thể thường trụ tu tập ích gì ? Nếu pháp niệm niệm sinh diệt do
hạ, trung, thượng nên mới có tu tập.
Hỏi : Các hoa đến mè có thể xông ướp. Trí không đến tâm
nên không tu tập ?
Đáp : Trong ví dụ về nghiệp ở trước đã nói rõ việc này. Như
nói nghiệp sau không đến nghiệp trước. Lời nói trước không đợi
lời nói sau, mà thân khẩu nghiệp cũng vẫn có tướng tu. Cho nên
ông nói không đến không tu, không gọi là nạn vấn được.
Lại hiện thấy nhiều quả tuy không đồng thời, nhưng cũng
được do nhân có quả. Như vậy tâm pháp tuy niệm niệm diệt, mà
vẫn có tu tập được.
Thành Thật Luận Trang 517 Tuệ Quang Foundation
Lại như giống được nước tuy không đến mầm v.v..., nhưng
cũng vẫn khiến mầm tươi tốt. Như vậy tu tập trí tuệ, tâm trước
tâm sau tăng trưởng.
Hỏi : Nếu mè niệm niệm diệt thì sinh mè khác. Mè nầy là do
ướp mà sinh hay không ướp sinh ? Nếu không ướp sinh, thì hoàn
toàn không có sự xông ướp. Nếu xông ướp sinh, thì cần gì xông
ướp lâu ?
Đáp : Vì nhân xông ướp. Như hạt giống được nước thì mầm
thấm nhuần tốt tươi. Như nhân hoa trước hợp lại mà sinh thứ mè
khác, vậy là do xông ướp sinh.
Ông nói cần gì ướp lâu, như trong kinh của ông nói : Do lửa
hợp với pháp vi trần mà tướng đen diệt tướng đỏ sinh. Nếu ban
đầu lửa hợp với pháp diệt tướng đen đó, thì không nên sinh lại
tướng đen. Nếu ban đầu lửa hợp với pháp sinh tướng đỏ đó, thì
cần gì lửa sau phải hợp với pháp nữa ? Nếu khi lửa ban đầu hợp,
tướng đen sinh, tướng đỏ lẽ ra hoàn toàn không nên sinh. Nếu khi
thời gian thứ 2 tướng đỏ sinh, lại cần gì lâu hợp với lửa ? Nếu ý
ông bảo tướng đỏ sinh dần dần. Tâm cũng như vậy, đâu có lỗi gì ư
? Hư hoại v.v... cũng như vậy.
Lại các pháp tuy có nhân duyên nhưng cũng thứ lớp sinh,
như thụ thai v.v... dần dần thành thân, như hạt giống, gốc rễ v.v...
cũng lần lượt sinh. Cũng như vậy, các pháp định tuệ v.v... tuy
niệm niệm diệt, nhưng cũng do pháp hạ trung thượng tuần tự sinh.
Lại tu pháp vi tế dị tâm nối nhau, như hơi nóng vi tế của quả
trứng làm cho biến dần thành lông con chim con, như hơi nóng vi
tế của da tay làm mòn dần cán búa đến hết.
Tâm cũng như vậy, định tuệ vi diệu nên lần lượt tu tập.
Lại khi tu tập pháp, đến thì mới biết. Như có bài kệ nói :
Một phần theo thầy thụ.
Một phần nhờ bạn được.
Một phần tự tư duy.
Thành Thật Luận Trang 518 Tuệ Quang Foundation
Một phần đợi thời đến.
Nếu có người tuy đọc tụng suốt ngày không rõ ràng nghĩa lý
được, như thời chín muồi chưa đến, như đem nhiều hoa một lúc
xông ướp mè không bằng ít hoa mà xông ướp lâu. Nước thấm vào
tường vách dày cũng như vậy. Hiện thấy hạt giống rễ mầm v.v...
tăng trưởng rất vi tế còn không thấy được, lớn lên từng ngày
chừng bằng đầu sợi lông. Thân trẻ con v.v..., bơ sữa v.v... chín
muồi cũng như vậy. Cho nên biết pháp tu hành rất vi diệu khó biết
được.
Hỏi : Hoặc thấy có pháp nhất thời tụ tập rất gấp. Như có
người xưa nay không thấy săc, mà thấy sắc là đắm nhiễm ngay.
Cũng có người chút ít thời gian mà thông đạt nhiều điều. Vì sao
chỉ nói lần lượt tu tập ?
Đáp : Đó đều là quá khứ từng tu tập nên biết chứa nhóm sự
tích tập dần dần điều này đã rõ.
Lại không chỉ phát tâm mà có thể thành xong sự nghiệp. Như
trong kinh nói : Nếu đối với pháp thiện không siêng tu tập mà chỉ
mong muốn không thụ các pháp, đối với các lậu tâm muốn được
giải thoát, thì ý nghĩ người nầy hoàn toàn không theo ước nguyện
được, vì không thể siêng tu pháp thiện. Hành giả, nếu có thể siêng
tu pháp thiện dù không phát nguyện, tâm cũng được giải thoát các
lậu vì do từ nhân sinh quả không phải cầu nguyện, như con chim
sẻ cần lo ấp trứng, không cần nguyện cầu chim con từ trứng nở ra.
Lại không vì nguyện nên đèn sáng trong trẻo, mà cần đầy đủ
dầu trong, tim sạch, không vật gì xúc động ánh sáng mới trong
trẻo.
Lại không chỉ nguyện mà có thể được lúa tốt, mà quyết phải
có ruộng mầu mỡ, giống tốt, thời tiết thuận hòa, công sức đầy đủ
mới có thu hoạch.
Lại không chỉ nguyện suông mà thân được sức mạnh, mà cần
phải có các duyên như uống thuốc tốt, ăn thức ngon bổ v.v... mới
Thành Thật Luận Trang 519 Tuệ Quang Foundation
được đầy đủ sức lực. Như vậy không phải chỉ nguyện suông mà
có thể được hết lậu, phải có chân trí mới được giải thoát. Có đâu
người trí biết do nhân sinh quả, mà bỏ nhân để theo đuổi cầu quả
ở những gì khác.
Lại tu tập pháp hiện thấy quả báo. Như trong kinh Phật nói :
Không cần 7 ngày, ta dạy đệ tử cho đến tu tập pháp thiện trong
giây lát sẽ thường được hưởng vui trong nhiều đời.
Lại các Tì-kheo-ni thưa Đại đức A-nan rằng : Chị em chúng
tôi khéo tu niệm xứ, nghiệm biết khác hơn lúc ban đầu.
Lại trong kinh Phật bảo các Tì-kheo : Nếu ai tâm không dua
dọc, đến đây với ta, ta vì ban mai nói pháp, khiến chiều được lợi,
nói pháp ban chiều khiến sáng mai được lợi.
Lại nếu người được đạo A-la-hán, thì không cùng người
khác, cũng không cùng phi nhân. Chỉ tu nhân chân chính nên
được lợi đó.
Lại vô thượng Phật đạo còn phải tích chứa, tập các pháp
thiện mới chứng được, huống là những việc khác ! Như trong kinh
Phật bảo các Tì-kheo : Ta nương nhờ 2 pháp mà được đạo vô
thượng : một là ưa thích điều thiện không chán, hai là tu đạo
không biết mỏi. Phật đối với pháp thiện hoàn toàn không có giới
hạn.
Lại các Bồ-Tát dù không được định cũng không biếng nhác
mỏi mệt. Bởi vì sao ? Vì nếu không làm thiện thì không được gì
hết. Làm thiện cũng không mâu thuẫn nhau. Người không làm
thiện quyết không yên ổn. Suy nghĩ vậy rồi, thì siêng năng tinh
tiến tu tập pháp thiện. Nếu phát tâm tinh tiến hoặc được hoặc mất,
còn người không tinh tiến thì mãi mãi không có hy vọng. Cho nên
phải siêng năng tu tập, đừng sinh biếng nhác.
Lại người trí cuối cùng phải được giải thoát. Nếu bỏ tu tập
không còn phương tiện nào khác. Cho nên người trí phải siêng tu
tập đừng sinh biếng nhác.
Thành Thật Luận Trang 520 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả nghĩ tu chính hành ắt có quả báo, tuy chưa được
liền không lấy làm lo.
Lại hành giả nên nghĩ : Ta đã từng được quả báo tu tập, vì
chúng sinh xưa nay đều được tất cả thiền định, nay ta chính tu
cũng chắc sẽ được. Nên không biếng nhác.
Lại người chính hành được Phật chứng minh. Ta nay chính
hành, nên biết chắc được.
Lại ta được đầy đủ nhân duyên đắc đạo là : được thân người,
các căn đầy đủ, rõ biết tội phúc, cũng tin giải thoát, gặp thiện tri
thức. Đủ các duyên may nầy, làm sao tu tập không được quả ?
Lại chính hành tinh tiến không hề luống bỏ, nên không chán
mỏi.
Lại phiền não dứt một cách vi tế âm thầm khó biết, như cán
búa mòn dần đến hết. Các phiền não ta cũng phải sẽ dứt, nhưng vì
vi tế nên không thể biết hết được. Cho nên biết tu thiện tinh tiến là
hơn hết.
Lại kẻ ít trí tuệ còn có thể phá được phiền não, như chút ánh
sáng cũng có thể trừ tối. Như vậy chỉ được chút ít trí tuệ thì sẽ
xong việc, nên không chán mỏi.
Lại lâu mà khó thành, như đắc định. Nếu đắc định rồi thì các
công phu khác sẽ không lâu. Cho nên tuy không mau đắc, quyết
không chán mỏi.
Lại hành giả nên nghĩ đắc định là rất khó, như Bồ-tát xưa
phúc tuệ sâu dày mà phải tinh cần đến 6 năm mới chứng được !
Còn các Tì-kheo đắc định cũng khó, huống là chúng ta phàm phu
bạc phúc độn căn mà có thể mau được ư ? Nghĩ như vậy rồi
không sinh chán mỏi.
Lại điều tất yếu của các hành giả phải là tu định, không còn
nghiệp nào khác hơn, nên dù được dù không vẫn cần phải tu tập.
Lại người tu tập dù không được định, nhưng cũng gọi thân
được xa lìa. Thân xa lìa rồi thì dễ được định.
Thành Thật Luận Trang 521 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu siêng tu định thì không phụ ơn Phật. Mà cũng vì tu
hạnh xa lìa mới được gọi là hành giả.
Lại tu tập pháp thiện lâu thì được thành tính thiện, cho đến
chuyển mang thân khác pháp thiện đó vẫn thường theo, nên được
thường gặp gỡ người thiện, đó là lợi lớn.
Lại người thường tu thiện hoặc ngay thân nầy chắc được hết
lậu, hoặc được ngay khi lâm chung, hoặc sau khi mạng chung hóa
sinh về chỗ thiện và được hết lậu ở đó, như trong Văn pháp lợi đã
nói.
Lại trong tâm hành giả phát khởi tướng dũng mãnh nghĩ như
vầy : Nếu ta không phá được trận giặc phiền não nầy quyết chẳng
trở về không.
Lại hành giả nương tâm kiêu mạn mà sinh ý nghĩ như vầy :
Người khác có tín v.v... các thiện căn nên có thể được đinh, ta nay
cũng có, vì sao không được ? Như Bồ-tát xưa theo người tiên Ala-
la nghe pháp khởi ý nghĩ như vầy : Người nầy có tín v.v... các
thiện căn, nên có thể được pháp nầy. Ta nay cũng có, mà vì sao lại
không được ?
Lại hành giả biết phiền não yếu ớt, sức trí tuệ mạnh mẽ, diệt
nó đâu khó gì ? Như nói Tì-kheo thành tựu 6 pháp, có thể dùng
miệng thổi tan núi Tuyết, huống là thứ vô minh chết.
Lại hành giả sinh ý nghĩ : Do đời trước ta không tu định, nên
nay không thể được, nay nếu không siêng tu sau lại sẽ không
được, cho nên phải siêng tu tập.
Lại vì thường tu định nên tâm được chỗ trụ như chiếc bình
lăn không dừng chắc phải có chỗ trụ.
Lại hành giả sinh ý nghĩ : Nếu ta thường siêng năng tinh tiến,
dù được dù không, sau khỏi ăn năn. Cho nên phải nhất tâm siêng
năng tu tập các định.
Phẩm 189 : Tướng của trí trong luận về trí
Thành Thật Luận Trang 522 Tuệ Quang Foundation
của nhóm đạo đế
Chân tuệ gọi là trí. Chân là không, vô ngã. Trong đó trí tuệ
gọi là chân trí. Trong giả danh, tuệ là tưởng không phải trí. Bởi vì
sao ? Vì trong kinh nói : Như dao có thể cắt. Đệ tử Phật dùng dao
trí tuệ có thể cắt đứt tất cả phiền não kết, phược, sử, triền, chứ
không nói pháp nào khác. Không dùng thứ không thật mà có thể
dứt phiền não được. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Hỏi : Ông chỉ nói tuệ có thể dứt phiền não. Việc đó không
đúng. Bởi vì sao ? Vì tưởng cũng có thể dứt các phiền não. Như
trong kinh nói : Khéo tu tưởng vô thường có thể phá ất cả Dục
nhiễm, Sắc nhiễm, và Vô sắc nhiễm, tất cả hý diệu, kiêu mạn, vô
minh ?
Đáp : Không đúng. Tuệ mới dứt phiền não, lấy tên tưởng mà
gọi. Phật có 2 lối nói : một là thật ngữ, hai là danh tự ngữ. Như
trong kinh nói : Tâm từ dứt giận dữ. Mà thật không phải pháp từ
dứt kết, chỉ trí mới có thể dứt, như nói dao trí dứt các phiền não.
Cho nên biết từ có thể dứt giận dữ, đó là danh tự ngữ.
Lại nghĩa trong kinh nói hiểu biết nên gọi tuệ. Có thể hiểu
biết việc gì ? Là sắc vô thường như thật biết vô thường, thụ tưởng
hành thức vô thường như thật biết vô thường. Đó là trí tuệ.
Lại nói đệ tử Phật là người tu định nhiếp tâm như thật thấy
biết. Cho nên biết duyên đệ nhất nghĩa gọi là trí tuệ.
Lại trong ví dụ trí tuệ gọi trí là con dao tuệ là mũi tên v.v....
Trong dụ nầy đều chỉ rõ dứt trừ phiền não, chỉ chân trí tuệ mới có
thể dứt phiền não. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Lại trong kệ nói :
Hành giả thấy thế gian,
Tất cả các trời người,
Vì thoái mất chân trí,
Nên tham đắm danh sắc.
Thành Thật Luận Trang 523 Tuệ Quang Foundation
Thế gian phần đông chấp hư vọng cho là thường, lạc, tịnh
v.v... gọi là mất chân trí. Nếu thấy chân thật không, vô ngã v.v...
gọi là được chân trí. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Lại trong kinh Phật nói : Như người mất của gọi là mất tiểu
lợi. Nếu mất trí tuệ gọi là mất đại lợi.
Lại nói : Trong các lợi, của cải là lợi nhỏ, tuệ là lớn.
Lại nói : Trong các ánh sáng, ánh sáng mặt trời mặt trăng là
ánh sáng nhỏ, ánh sáng tuệ là đệ nhất. Nếu tuệ không phải thật,
sao Phật phải nói lên như vậy ?
Lại trong kinh nói tuệ căn nhiếp thuộc Thánh đế.
Lại nói phải biết trí khổ, tập là chân thật, duyên đệ nhất đế
gọi là tí tuệ.
Lại nói, trong các pháp trí tuệ là thượng.
Lại nói, cũng gọi Vô thượng Chính biến tri là tuệ nhãn. Cho
nên biết trí tuệ là thật vì duyên đệ nhất nghĩa.
Hỏi : Nếu vậy thì không có thế gian trí-tuệ?
Đáp : Thật không có trí tuệ thế gian. Làm sao biết được ? Vì
tâm thế gian duyên giả danh, tâm xuất thế gian duyên không, vô
ngã. Bởi vì sao ? Vì thế gian là giả danh, vượt khỏi giả danh gọi
là xuất thế gian.
Hỏi : Ông nói không đúng. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói :
Thức biết chỗ nào ? Là biết sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Như vậy ấm, giới, nhập v.v... đều do thức biết. Nay cái biết này
đều nên gọi là xuất thế gian. Cho nên ông nói tâm thế gian chỉ
duyên giả danh không thể duyên thật. Điều này không đúng.
Lại ý thức cũng có thể duyên thật, vì có thể duyên thụ,
tưởng, hành v.v...
Lại Phật nói 2 thứ chính kiến là thế gian và xuất thế gian.
Thấy có phúc tội v.v... gọi là thế gian. Như đệ tử Phật duyên khổ
tập diệt đạo, vô lậu niệm, tương ưng tuệ gọi là xuất thế gian.
Lại trong kệ nói :
Thành Thật Luận Trang 524 Tuệ Quang Foundation
Được chính kiến trên đời,
Dù qua lại sinh tử,
Cho đến trăm ngàn đời,
Thường không đọa ác đạo.
Lại trong kinh nói : Người tà hành được sinh về chỗ thiện.
Người nầy tội nghiệp chưa thành, mà duyên thiện thành thục
trước, hoặc chính khi chết chính kiến tương ưng, thiện tâm hiện
tiền, nên được sinh chỗ thiện.
Lại trong 10 thiện đạo cũng có nói chính kiến. Sao ông nói
không có thế gian trí ?
Lại Phật tự nói có 3 thứ tuệ là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Văn
tuệ tư tuệ đều là thế gian. Tu-tuệ gồm cả 2.
Lại Phật sinh ý nghĩ rằng Tì-kheo La-hầu-la chưa có thể
thành tựu được tuệ giải thoát.
Lại nói có 5 pháp có thể khiến tâm chưa thành thục giải thoát
được thành thục. Đó đều là trí tuệ thế gian.
Lại trong kinh nói : Có người có thể xuất mà không thể quán.
Có người có thể quán mà không thể độ. Được thế gian trí nên gọi
là có thể xuất. Chưa thấy 4 đế nên không thể quán. Nếu thấy 4 đế
mà chưa được hết lậu nên gọi không thể độ.
Lại Phật tự nói : Pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí, thế trí.
Lại nói : Túc mạng trí, sinh tử trí đều là hữu lậu.
Lại nói : Pháp trụ trí, Nê-hoàn trí v.v… do trong kinh nói có
như vậy v.v.... cho nên phải biết có trí hữu lậu ?
Đáp : Nếu có trí tuệ hữu lậu, thì nay cần phải nói tướng sai
khác của trí hữu lậu và vô lậu.
Hỏi : Nếu pháp sa vào hữu gọi là hữu lậu, khác đi là vô lậu.
Đáp : Pháp nào là sa vào hữu, pháp nào không sa vào hữu ?
Điều này phải giải đáp. Nếu không đáp được thì không phải tướng
hữu lậu và vô lậu.
Thành Thật Luận Trang 525 Tuệ Quang Foundation
Ông nói có tâm thế gian duyên phi giả danh, gọi là thức
duyên các trần, điều này không đúng.
Bởi vì sao ? Vì Phật nói phàm phu thường theo giả danh mà
lấy nghĩa. Vì tất cả tâm phàm phu không phá được giả danh, nên
thường chạy theo tướng ngã, hoàn toàn không thể lìa bỏ được.
Tuy thấy sắc cũng không lìa được tướng cái bình v.v... Cho nên
tâm phàm phu không duyên được thật nghĩa. Dù có duyên các
pháp thụ tưởng v.v... cũng vẫn thấy là ngã và ngã sở. Cho nên biết
tất cả tâm thế gian đều duyên giả danh.
Ông nói có các trí tuệ thế gian là 2 thứ chính kiến v.v.... Nay
sẽ giải đáp tâm có 2 thứ là tâm si và tâm trí. Duyên pháp giả danh
gọi là tâm si. Nếu chỉ duyên pháp, là không, vô ngã gọi là tâm trí.
Như trong Kinh Giải Vô Minh nói : Vô minh là không biết trước,
không biết sau, không biết trước sau, không biết nghiệp, không
biết báo, không biết nghiệp báo trước sau. Như vậy v.v... chỗ chỗ
như thật không biết, không thấy, không hiểu, si vọng đen tối, nên
gọi là vô minh.
Như thật không biết, nghĩa là không biết không, vô ngã, vì là
tâm phàm phu thường ở trong giả danh và duyên giả danh nên gọi
là vô minh, duyên không, gọi là trí. Nay nếu tất cả tâm thế gian
đều duyên giả danh, tâm duyên giả danh gọi là vô minh, thì làm
sao được nói thế gian có trí tuệ ?
Hỏi : Như ông nói tướng trí tuệ duyên giả danh gọi là vô
minh thì nay A-la-hán phải có vô minh, vì cũng có tâm duyên cái
bình v.v... ?
Đáp : A-la-hán không có tâm duyên cái bình v.v.... Bởi vì
sao ? Vì khi mới đắc đạo đã phá vỡ các tướng giả danh rồi. Nhưng
chỉ vì sự dụng nên nói bình v.v... mà không chấp đắm kiêu mạn.
Có 3 thứ ngôn ngữ : một do thấy sinh, hai do kiêu mạn sinh,
ba do sự dụng sinh. Phàm phu khi nói cái bình, khi nói con người,
những lời đó đều do thấy sinh. Học nhân tuy không ngã kiến, vì
Thành Thật Luận Trang 526 Tuệ Quang Foundation
mất chính niệm nên trong 5 ấm lấy tướng ngã mạn nói là con
người, là cái bình, như trong Kinh Sai-ma-già đã nói.
Sự dụng, là A-la-hán như Đại Ca-diếp thấy áo Tăng-già-lê
nói : Vật nầy của ta. Thiên thần sinh nghi. Phật giải thích rằng :
Người đó đã vĩnh viễn nhổ gốc mạn, đốt cháy hết nhân duyên làm
sao có mạn ? Nhưng vì danh tự thế gian nên nói vậy thôi. Cho nên
biết A-la-hán không có tâm cái bình v.v....
Hỏi : Nếu thế gian không trí tuệ, mà nói 2 thứ chính kiến
v.v..., thì làm sao thông với kinh được ?
Đáp : Đó đều là tưởng, lấy tên trí mà nói. Phật có thể thông
đạt thật tướng các pháp, tùy theo có thể độ chúng sinh mà lập
nhiều danh tự, như trí tuệ lấy tên thụ v.v... mà nói, như nói thụ là
đối với các pháp được giải thoát. Cũng nói, khéo tu tưởng vô
thường v.v... có thể phá tất cả phiền não. Cũng nói nghiệp thứ tư
không đen không trắng có thể hết các nghiệp, như nói học tư.
Lại nói, lấy ý dứt các tham đắm.
Lại nói, tin có thể qua sông, nhất tâm qua biển, tinh tiến trừ
khổ, tuệ có thể thanh tịnh.
Lại nói, mắt muốn thấy sắc, mắt thật không muốn chỉ tâm
muốn thấy, mà lấy tên mắt nói.
Hỏi : Nếu trí thế gian thật sự là tưởng đó, vì sao gọi là trí ?
Nếu không nhân duyên gì mà gọi là trí, thì tất cả tưởng đều phải
gọi trí. Cũng có thể nói có 2 thứ tưởng, một duyên thế đế, hai
duyên đệ nhất nghĩa đế ?
Đáp: Không phải. Tưởng có nhiều thứ sai khác, có tưởng rất
ngu si, đến nổi không biết thiện ác thế gian. Có tưởng si kế tiếp có
thể phân biệt thiện ác, có tưởng ít si hơn nữa có thể duyên tướng
xương v.v.... Không lìa giả danh thì không thể hoại tướng các ấm.
Tưởng này có thể thuận với trí hoại ấm tướng, nên Phật gọi là trí.
Thế gian có lối nói quả trong nhân. Như nói ăn vàng, thí người 5
Thành Thật Luận Trang 527 Tuệ Quang Foundation
việc, gái làm bẩn giới pháp, bờ tốt dòng nước ngon, pháp phục
người vui.
Lại trong Kinh Thất Lậu nói : Dụng dứt v.v... lậu nhân gọi là
lậu.
Lại nói, lấy cái ăn làm mạng sống, cỏ làm bò dê. Cũng nói,
áo cơm các vật đều là ngoại mạng. Như cướp của người tức là
cướp mạng. Đó đều nói nhân làm quả. Như vậy nhân của trí nói là
trí, nên không lỗi.
Hỏi : Các niệm xứ là trong noãn pháp v.v..., tâm có thể
duyên thật pháp là vô lậu sao ?
Đáp : Tâm vô lậu có thể phá giả danh. Cho nên tùy tâm có
thể phá giả danh, từ đó về sau gọi là vô lậu.
Hỏi : Tâm đến bậc nào có thể phá giả danh ?
Đáp : Tùy có thể thấy đầy đủ tướng 5 ấm sinh diệt, bấy giờ
được tưởng vô thường. Tưởng vô thường có thể khiến hành giả đủ
tưởng vô ngã. Như nói Thánh đệ tử dùng tưởng vô thường tu tâm
thì có thể trụ tưởng vô ngã. Dùng tưởng vô ngã tu tâm có thể
chóng được giải thoát tham sân si v.v.... Bởi vì sao ? Vì nếu dùng
tưởng vô ngã tu tâm thì có thể trụ tưởng khổ, vì tưởng ngã nên dù
bị khổ vẫn không biết. Cho nên, nếu pháp vô thường, vô ngã, mà
cũng khổ thì người trí vẫn có thể rất sinh chán ghét. Nên tưởng
vô ngã có thể đủ tưởng khổ.
Hỏi : Vì sao ông phá thuyết thứ lớp ? Trong kinh nói : Nếu
vô thường tức là khổ; khổ tức là vô ngã, cho nên tưởng vô thường
có thể đủ tưởng khổ, tưởng khổ có thể đủ tưởng vô ngã ?
Đáp : Trong kinh nói : Tu tưởng vô thường, tâm Thánh đệ tử
có thể tu tưởng vô ngã. Cho nên tưởng vô thường có thể đầy đủ
tưởng vô ngã.
Lại nói như vậy cũng có đạo lý. Bởi vì sao ? Vì người nói
ngã muốn để thành lập đời sau, nên mới nói ngã là thường. Cho
nên, nếu thấy 5 ấm vô thường liền biết vô ngã. Như trong kinh
Thành Thật Luận Trang 528 Tuệ Quang Foundation
nói: Nếu người nói mắt là ngã thì không đạo lý. Bởi vì sao ? Vì
mắt có sinh diệt. Nếu mắt là ngã, ngã tức sinh diệt. Có những lỗi
như vậy.
Hỏi : Hai kinh đó nên nói thế nào cho thông ?
Đáp : Tưởng khổ có 2 thứ : một do tưởng vô thường sinh gọi
là tưởng hoại khổ, hai do tưởng vô ngã sinh, gọi là tưởng hành
khổ. Cho nên 2 kinh đó vẫn không mâu thuẫn nhau.
Hỏi : Nếu như vậy thì niệm xứ trong pháp noãn v.v... có
tưởng vô thường, nên pháp nầy đều phải là vô lậu ?
Đáp : Trong niệm xứ v.v..., nếu là vô lậu đâu có lỗi chi ?
Hỏi : Tâm phàm phu không nên vô lậu được, lại tâm phàm
phu còn có vọng niệm xứ v.v... làm sao mà vô lậu được ?
Đáp : Người nầy không phải hoàn toàn là phàm phu. Người
đó gọi là đang tu quả Tu-đà-hoàn.
Hỏi : Tu quả Tu-đà-hoàn là ở trong kiến đạo đế, pháp niệm
xứ v.v... không gọi kiến đế ?
Đáp : Tu quả Tu-đà-hoàn có gần có xa. An trụ trong niệm xứ
v.v... là xa, hành giả kiến đế là gần. Làm sao biết được ? Phật nói
trong Kinh Phủ Kha Dụ rằng : Hoặc biết hoặc thấy nên được hết
lậu. Biết thấy pháp gì ? Nghĩa là sắc này v.v... sắc này sinh v.v...
sắc này diệt v.v…. Nếu không tu đạo thì không hết lậu mà tu thì
được, như ví dụ ấp trứng.
Lại hành giả thường tu đạo phẩm phiền não vi trần, tuy
không đếm biết được, nhưng hết rồi mới hay, như thí dụ cái cán
búa.
Lại hành giả thường tu 37 phẩm trợ đạo thì dục, phược, kết,
triền dễ có thể tán hoại như thí dụ tàu biển. Cho nên biết do niệm
xứ đến tu tập đạo phẩm đều gọi là người tu hành sơ quả.
Lại nếu trong một niệm hoặc 15 niệm không được tu tập,
phải biết đó là người xa tu hành Tu-đà-hoàn.
Thành Thật Luận Trang 529 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Ban đầu nói biết sắc này v.v... sắc này sinh v.v…sắc
này diệt v.v…, là đạo sơ quả. Ba dụ sau là dụ 3 quả. Cho nên
không gọi là người tu hành sơ quả ?
Đáp : Nếu trứng không ấp thì hư, ấp thì thành tựu. Như vậy
từ niệm xứ đến mới phát tu tập, nếu không thành không gọi là
hành, mà có thể thành thì học nhân nầy gọi là không hư hoại, có
thể kham nhận. Cho nên nếu trong niệm xứ v.v... hư hoại thì gọi
phàm phu. Nếu tu tập thành thì gọi là người hành sơ quả. Giống
như còn ở trong vỏ trứng, nếu được ra khỏi vỏ gọi là Tu-đà-hoàn.
Cho nên biết còn ở trong niệm xứ v.v... gọi là người đi xa.
Lại như Trưởng giả Úc-già cúng dường chúng Tăng, có
thiên thần giới thiệu : Đây là A-la-hán, cho đến đây là người hành
sơ quả. Nếu còn ở trong kiến đế đạo, làm sao chỉ được như vậy ?
Phải biết đó là người đi xa.
Lại trong kinh Phật nói : Nếu không có tín v.v... 5 căn thì
người nầy gọi là còn ở trong ngoại phàm phu. Nghĩa nầy nói có
nội phàm phu và ngoại phàm phu. Nếu không được đạt phần thiện
căn gọi là ngoại phàm phu, mà được gọi là nội. Nội phàm phu nầy
cũng gọi Thánh nhân, cũng gọi phàm phu. Bởi ngoại phàm phu
nên gọi Thánh nhân, nhờ kiến đế đạo nên gọi phàm phu. Như Anan
bảo Xa-nặc rằng : Phàm phu không thể nghĩ sắc không, vô
ngã thụ tưởng hành thức không, vô ngã, tất cả các hành vô
thường; tất cả pháp vô ngã, Nê-hoàn tịch diệt. Bấy giờ Xa- nặc
chưa vào pháp vị, cũng nói phàm phu không thể nghĩ các pháp đó.
Hỏi : Hoặc gần hoặc xa đều gọi là hành giả, có gì sai khác ?
Đáp : Nếu thấy diệt đế gọi chân hành giả. Nếu còn ở viễn
phần thiện căn thấy 5 ấm vô thường, khổ, không, vô ngã mà chưa
thấy diệt, gọi là danh tự hành giả. Bởi vì sao ? Như trong kinh nói
: Chư Tì-kheo hỏi Phật : Thế nào gọi là thấy pháp ? Phật nói : Do
mắt duyên sắc sinh nhãn thức, tức cùng sinh thụ, tưởng, tư v.v…
tất cả pháp nầy đều vô thường bại hoại không thể tin tưởng bảo
Thành Thật Luận Trang 530 Tuệ Quang Foundation
đảm được. Nếu pháp vô thường tức là khổ. Pháp khổ nầy sinh
cũng khổ, trụ cũng khổ, thường xuyên khỏi tướng cũng khổ. Cho
đến ý pháp cũng như vậy. Nếu khổ đó diệt, các khổ khác không
sinh, không còn nối nhau nữa. Hành giả tâm nghĩ rằng nơi đó là
tịch diệt nhiệm mầu, nghĩa là xả bỏ tất cả hư vọng, diệt hết tham
ái, ly tịch Nê-hoàn.
Nếu trong pháp nầy tâm vào tín giải, không lay không động
không lo không sợ, từ đây trở đi mới gọi là thấy pháp. Cho nên
biết hành giả nếu dùng vô thường v.v... tu quán thấy 5 ấm gọi là
người đi xa, nếu thấy diệt đế gọi là người đi gần. Như Xa-nặc trả
lời các Thượng tọa rằng : Con cũng có thể nghĩ sắc v.v... là vô
thường, mà với tất cả hành diệt hết ái, tâm Nê-hoàn không thể vào
thông đạt tín giải. Nếu biết như vậy không gọi là thấy pháp.
Lại nói, nếu hành giả trong pháp nầy dùng nhuyễn tuệ tín
nhẫn gọi là người tín hành. Vượt khỏi địa vị phàm phu vào chính
pháp vị, không được sơ quả quyết không chết yểu. Nếu dùng lợi
tuệ tín nhẫn gọi là người pháp hành. Thấy pháp đó rồi có thể dứt 3
kết, gọi là Tu-đà-hoàn. Rõ ràng không còn sót lọt gì hết gọi là Ala-
hán. Cho nên biết thấy diệt gọi là người đi gần.
Hỏi : Vì sao hành giả không đều thấy diệt ?
Đáp : Trong kinh nói : Các pháp vô tính, do nhiều nhân
duyên sinh. Pháp đó rất sâu xa, hết tất cả ái, tịch diệt Nê-hoàn, nơi
đó khó thấy được ! Phật quán 12 nhân duyên diệt nên chứng được
Vô thượng đạo.
Lại trong Kinh Pháp Ấn nói : Nếu hành giả quán thấy 5 ấm
vô thường bại hoại hư vọng không bền chắc, cũng gọi là không,
mà gọi là tri kiến chưa tịnh. Kinh nầy sau nói hành giả khởi ý nghĩ
như vầy : Những điều ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và nghĩ,
bởi nhân duyên nầy mà sinh thức, thì nhân duyên thức đó là
thường hay vô thường, tức biết là vô thường. Nếu từ nhân duyên
vô thường mà sinh thức thì làm sao thường được ? Cho nên thấy
Thành Thật Luận Trang 531 Tuệ Quang Foundation
tất cả 5 ấm vô thường do nhiều duyên sinh, tận tướng, ly tướng và
diệt tướng. Bấy giờ tri kiến hành giả mới thanh tịnh. Bởi nói diệt
tận là tri kiến tịnh. Cho nên tri kiến diệt gọi là thấy Thánh đế.
Lại trước là pháp trụ trí, sau là Nê-hoàn-trí. Cho nên thấy
diệt đế, gọi là được Thánh đạo.
Phẩm 190 : Thấy một đế
Hỏi: Ông nói chỉ thấy diệt đế gọi là người hành quả. Việc đó
không đúng. Bởi vì sao ? Trong kinh Phật nói : Ta và các ông
không thể như thật thấy 4 đế, nên ở lâu trong sinh tử. Nay thấy 4
đế nầy dứt nhân duyên thân, hết tướng sinh tử, không có thụ thân
nữa. Phải biết thấy 4 đế nên gọi là người hành quả, không phải chỉ
thấy diệt đế.
Lại nữa, Phật nói : Thượng pháp đó là 4 đế. Cho nên hành
giả cần phải thấy biết hết.
Lại nói : Nếu người mặc pháp phục hủy bỏ hình hảo, chính
tín xuất gia, đều vì mục đích thấy 4 đế. Nếu người muốn được đạo
quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, đều vì thấy 4 đế. Nếu
người được Phật đạo A-la-hán, Bích-chi-phật, là đều đã thấy 4 đế.
Cho nên biết không những chỉ thấy diệt đế.
Lại Phật tự nói : Bốn đế được theo thứ tự.
Lại trong Kinh Chuyển Pháp Luân nói : Ta quán đây là khổ,
đây là nhân khổ, đây là diệt khổ, đây là đạo diệt khổ. Ở trong đó
sinh nhãn trí minh giác. Ba phen chuyển như vậy đều nói 4 đế.
Lại trong kinh nói : Tấm vải mới trắng sạch đem ngâm vào
trong ao hồ tức thì ăn màu. Người nầy cũng vậy tức là một khi
ngồi là thấy 4 chân đế.
Lại nói : Hành giả tịnh tâm chính quán khổ đế cho đến đạo
đế thấy như vậy rồi từ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tâm được
giải thoát.
Thành Thật Luận Trang 532 Tuệ Quang Foundation
Lại trong các kinh nói Thánh đế xứ v.v... đều nói 4 đế không
chỉ nói diệt.
Lại Phật nói 4 trí là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí đều vì 4 đế.
Lại pháp của hành giả phải quán thấy cả 4-đế, giống như
thầy thuốc giỏi phải biết bệnh, biết nguyên nhân của bệnh, biết
cách chữa bệnh, và biết thuốc chữa bệnh. Cũng như vậy, hành giả
muốn thoát các khổ, cần phải biết khổ, khổ nhân, diệt khổ, và đạo
diệt khổ. Nếu không biết khổ thì do đâu biết nhân khổ, biết diệt
khổ và đạo diệt khổ. Cho nên biết không chỉ thấy diệt ?
Đáp : Có các thuyết nói 4 Thánh đế lợi, đều nói trong ấm
giới nhập v.v..., nghĩa là biết sắc này v.v..., sắc v.v... sinh diệt cho
nên được hết lậu.
Lại Phật tự nói : Ta đối với trong sắc ấm v.v... không như
thật biết vị, quá, xuất, ly, thì hoàn toàn không tự gọi được đạo Vô
thượng. Nếu biết như thật thì tự biết được đạo.
Lại trong Kinh Thành Dụ nói : Nếu ta chưa biết lão tử, lão tử
sinh, lão tử diệt, và đạo diệt lão tử, cho đến các hành, các hành
sinh, các hành diệt, và đạo diệt các hành, thì không tự nói ta được
đạo Vô thượng. Nếu như thật biết, tự nói ta được thành Phật, thấy
như vậy v.v..., nếu là được thấy đạo, thì 16 thứ tâm không gọi là
được đạo.
Hỏi : Tôi không nói đó gọi là thấy được đạo, mà là lúc suy
nghĩ ?
Đáp : Trong 4 đế cũng nói như vậy. Cũng có thể nói là lúc
suy nghĩ. Nếu không phải như vậy, thì cần phải nói nhân duyên
khi thấy 4 đế gọi được đạo khi thấy 5 ấm v.v... là suy nghĩ.
Hỏi : Trí dứt phiền não gọi là được đạo. Suy nghĩ 5 ấm v.v...
không dứt phiền não ?
Đáp : Trước tôi đã nói 5 ấm v.v... trí cũng dứt phiền não, như
nói thấy biết sắc v.v... nên được hết lậu.
Thành Thật Luận Trang 533 Tuệ Quang Foundation
Lại nói, thấy thế gian nhóm thì diệt chấp không, thấy thế
gian diệt thì diệt chấp có.
Lại Phật tự quán nhân duyên đắc đạo.
Lại trong Kinh Chân-thúc-già nói có nhiều thứ nhân duyên
đắc đạo. Có người quán 5 ấm mà đắc đạo, hoặc quán 12 nhập, 18
giới, 12 nhân duyên v.v... mà đắc đạo. Cho nên biết không phải
chỉ nhờ 4 đế mà được đạo. Nếu ý ông bảo tuy có thuyết đó, nhưng
không bởi quán nầy có thể dứt phiền não, thì cũng có thể nói tuy
quán 4 đế mà không dứt phiền não.
Lại cần phải nhờ chân đế mới đắc đạo, mà lời giải trong 4 đế
nói : sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán ghét gặp nhau
khổ, yêu thương xa lìa khổ, và cầu không được khổ. Tóm lại 5 ấm
là khổ.
Lại nói, nhân của khổ là tham ái thường đeo bám theo nơi ưa
thích mà thụ thân. Quán như vậy v.v... không thể hết lậu, vì đó
đều là thế đế chứ không phải đệ nhất nghĩa. Hỏi : Tuy quán sinh
tử v.v... mà không hết lậu. Lược nói 5 ấm đều khổ, trong đó người
có trí có thể phá phiền não ?
Đáp : Còn 3 đế kia thì sao ? Cho nên biết ông tự nhớ tưởng
phân biệt.
Lại quán 5 ấm đều khổ là tâm tán loạn nên không được đạo.
Hỏi : Nếu không dùng 4 đế được đạo thì phải dùng pháp nào
được đạo ?
Đáp: Dùng Một đế được đạo. Đó là Diệt. Như trong kinh nói
: Vọng là hư dối, thật gọi là không điên đảo. Tất cả pháp hữu vi
đều hư dối do vọng chấp lấy. Cho nên biết hành giả tùy tâm ở
trong pháp hữu vi, đều không phải chân thật. Như trong kinh nói :
Các pháp hữu vi hư dối như ảo hóa, như sóng nắng, như chiêm
bao, như vay mượn v.v.... Như trong Kinh Pháp Cú nói :
Hư vọng buộc thế gian.
Giống như có chắc thật.
Thành Thật Luận Trang 534 Tuệ Quang Foundation
Thật không, thấy như có.
Chính quán thì đều không.
Như thật không có pháp nam nữ, chỉ 5 ấm hòa hợp miễn
cưỡng gọi là nam nữ, phàm phu lầm lẫn cho đó là thật có. Hành
giả quán sát 5 ấm đó trống rỗng, không ngã, nên tức thì không còn
thấy. Như trong Kinh Pháp Ấn nói : Hành giả quán sắc vô thường,
là tướng trống, rỗng, lìa. Vô thường là thể tính sắc vô thường.
Trống, rỗng là như trong bình không nước gọi là bình không. Như
vậy trong 5 ấm không có thần ngã, nên gọi là không. Quán như
vậy cũng gọi là không, cũng gọi tri kiến chưa thanh tịnh, vì chưa
thể thấy 5 ấm diệt. Về sau mới thấy diệt, như hành giả khởi ý
nghĩ như vầy : Những gì ta đã thấy nghe v.v.... nên tri kiến diệt thì
hết các phiền não.
Hỏi : Vì sao thấy diệt đế thì hết phiền não mà không phải các
đế khác ?
Đáp : Lúc bấy giờ hành giả đã quyết định tưởng khổ. Nếu
chưa chứng tướng diệt, thì đối với pháp hữu vi tâm khổ chưa
quyết định, như người chưa được hỷ lạc của sơ thiền, thì trong 5
dục không sinh tưởng nhàm chán.
Lại như chưa được định Vô giác quán, đối với định Giác
quán không lấy gì làm lo. Hành giả cũng vậy, khi chưa chứng
tướng Nê-hoàn tịch diệt, không được hành khổ. Phải biết thấy diệt
đế nên tưởng khổ đầy đủ. Tưởng khổ đầy đủ mới dứt được ái
v.v… các kết.
Hỏi : Nếu thấy diệt đế nên tưởng khổ đầy đủ thì lẽ ra thấy
diệt đế rồi sau mới dứt phiền não. Bởi vì sao ? Vì thấy diệt đế rồi
tưởng khổ mới đủ ?
Đáp : Không phải dứt sau. Tùy ở trong diệt, được tướng tịch
diệt tức thì tưởng khổ đầy đủ, sau sẽ hiện tiền. Như trong kinh nói
: Hành giả đối với tập sinh tướng, pháp trí tận diệt tướng, ngay
trong pháp đó được pháp nhãn thanh tịnh.
Thành Thật Luận Trang 535 Tuệ Quang Foundation
Lại người đối với các ấm thường có ngã tâm. Tuy quán các
ấm vô thường, khổ v.v..., nhưng chưa được diệt vĩnh viễn. Nếu
thấy diệt đế, nhờ vô tướng nên ngã tâm diệt vĩnh viễn.
Hỏi : Nếu thấy diệt đế thì hết ngã tâm. Vì sao Phật quán
người đối cơ tâm nhu nhuyến v.v... mới vì nói 4 đế mà không chỉ
nói diệt ?
Đáp : Trong đó có thuận đạo hành. Người nào dùng tưởng vô
thường, tưởng vô ngã đầy đủ nên được khổ quán nầy là người gần
đạo. Cho nên hợp lại mà nói.
Hỏi : Nếu khi đắc đạo dứt thân kiến, thì sao lại còn nói giới
lấy và nghi nữa ư ?
Đáp : Hành giả đắc đạo hiện thấy các pháp đều không, vô
ngã, tức không còn nghi, không còn nghe, nghĩ, quán v.v... đồng
với phàm phu. Nếu thấy đạo đế thì biết chỉ có đó là một sự thật,
không còn con đường nào khác. Cho nên nói ba.
Hỏi : Nếu khi đắc đạo thấy đế dứt hết các phiền não, mà vì
sao chỉ nói hết 3 kết ư ?
Đáp : Tất cả phiền não đều lấy thân kiến làm gốc. Như Phật
hỏi Tì-kheo : Con người do việc gì, bởi việc gì, thấy việc gì, sinh
kiến chấp như vầy : Chỉ có thân nầy chết là mất hẳn, có tất cả
những kiến chấp như vậy v.v...? Tì-kheo thưa Phật : Phật là Pháp
vương, cúi xin giải thích. Phật nói : Con người do sắc, bởi sắc,
thấy sắc là ngã, nên mới khởi kiến chấp đó. Cho đến thức cũng
như vậy. Phải biết bởi kiến chấp ngã mà khởi các phiền não. Bởi
vì sao ? Vì nếu có thân kiến thì cho rằng cái ngã này là hoặc
thường, hoặc vô thường. Nếu định kiến là thường thì đó là thường
kiến, định kiến là vô thường thì đó là đoạn kiến. Nếu ngã là
thường thì không nghiệp, không báo, không giải thoát khổ. Nếu
ngã là vô thường cũng không nghiệp, không báo và không giải
thoát khổ, không do tu đạo mà được Nê-hoàn. Nếu cho kiến chấp
đó là hơn, tức là kiến thủ, và cho là có thể được độ tức là giới lấy.
Thành Thật Luận Trang 536 Tuệ Quang Foundation
Tự yêu kiến chấp của mình, giận ghét kiến chấp người khác, lấy
kiến chấp đó làm tự cao tức là kiêu mạn. Đều bởi không biết như
thật, nên mới khởi kết nầy tức là vô minh. Cho nên dứt thân kiến
mới dứt kết của kiến đế.
Hỏi : Nếu dứt thân kiến các thứ khác cũng dứt theo, thì cần
gì nói riêng giới lấy và nghi ư ?
Đáp : Vì nó hơn. Hành giả hiện thấy pháp tướng thì không có
nghi. Nghi này là nghi ngã có hay không. Cũng nghi đạo nầy có
được thanh tịnh chăng. Nay thấy khổ đế thì dứt ngã kiến. Cũng
biết chỉ một con đường mà không có con đường nào khác. Cho
nên nói dứt thân kiến là chân thật thấy khổ, dứt giới lấy nên gọi là
con đường tu hành. Không ngăn ngại đối với pháp tri và sở tri.
Dùng chính trí biết pháp sở tri, tức dứt tập, chứng diệt gọi là đủ 4
đế. Cho nên nói 3 pháp này để làm rõ tướng không nghi. Nghi này
do ngã đạo sinh, như trong kinh nói : Đầu tiên được tướng đạo.
Nghĩa là thấy pháp, được pháp, biết pháp, đạt pháp, vượt quá các
lưới nghi, không theo ai chỉ bày, ở trong Phật pháp được sức vô
úy an trụ trong chính quả.
Phẩm 191 : Duyên tất cả
Hỏi : Trí nào có thể duyên tất cả ?
Đáp : Nếu trí hành giới, nhập v.v... gọi là duyên tất cả. Bởi vì
sao ? Vì như nói pháp các nhập các giới, sự vật có các duyên các
trần có thể nhận biết v.v..., đều gồm hết các pháp, nếu trí có thể
duyên gọi là duyên tất cả.
Hỏi : Trí nầy không biết các pháp tương ưng cọng sinh ?
Đáp : Có thể biết, nếu duyên nhập v.v..., đó gọi là trí tổng
tướng. Vì trí tổng tướng nên có thể duyên tất cả. Bởi vì sao ? Vì
như nói 12 nhập thì không còn thừa pháp nào nữa. Cho nên biết
trí nầy cũng duyên tự thể.
Thành Thật Luận Trang 537 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong kinh nói : Hai nhân duyên sinh thức. Cho nên
không có trí tự duyên.
Lại các trí không có nhân duyên, ví dụ để chỉ nghĩa có thể
duyên tự thể, như đầu ngón tay không thể tự chạm xúc, con mắt
không thể tự thấy được ?
Đáp : Ông nói 2 nhân duyên sinh thức. Điều này không nhất
định. Cũng có không duyên sinh trí, chứ không phải tất cả đều do
2 nhân duyên sinh.
Lại thức thứ 6 ở trong ấm của chính nó đều không có cảnh
duyên, vì không có hiện pháp nên thức nầy không thể duyên pháp
sắc v.v.... Nếu có thể duyên, thì những người mù lẽ ra cũng phải
thấy sắc ? Bấy giờ tâm và tâm số pháp của người nầy còn ở trong
quá khứ, vị lai, mà quá khứ, vị lai là không có pháp thì lấy gì làm
cảnh duyên ? Chỉ vì ngăn chấp thần ngã nên nói như vậy thôi.
Nếu các thức sinh đều do 2 thứ này không phải 4 nhân duyên,
hoặc có thức sinh không có 2 nhân duyên, như trong kinh nói :
Sáu nhập làm nhân duyên xúc, mà thật không có xúc bởi 6 nhập là
nhân duyên. Nếu sinh thì không xuất nơi 6 nhập vì ngăn pháp
nhập thứ bảy. Như vậy ngăn 4 nhân duyên nên Phật nói hai.
Lại đối với quá khứ, vị lai, hư không, thời gian, phương
hướng v.v... sinh biết, mà những pháp đó thật sự không có. Đó tức
là không duyên mà biết.
Hỏi : Nếu như vậy thì do nhân duyên đó, các pháp quá khứ
vị lai lẽ ra phải có, vì nếu không, làm sao sinh cái biết ? Với
những sừng thỏ, lông rùa, chân rắn v.v... hoàn toàn không sinh cái
biết ?
Đáp : Trong tạo tác sinh cái biết. Như thấy người đi là nhớ
khi đi, nghe người nói là nhớ khi nói. Như vậy v.v... trong quá
khứ không tạo tác, cho nên không đúng.
Hỏi : Nay đối với quá khứ là nhớ thứ gì ?
Thành Thật Luận Trang 538 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nhớ pháp vô sở hữu. Ông nói sao không nhớ sừng thỏ
v.v.... Nếu pháp sinh rồi mà diệt là có thể nhớ được. Nếu xưa nay
không có, thì nhớ cái gì ? Như pháp trước kia gọi chúng sinh, nay
tuy đã là quá khứ nhưng cũng gọi chúng sinh. Như vậy trước kia,
với pháp nầy sinh nhớ, cho nên nay ngay tâm này nhớ lại, không
phải tâm khác.
Lại người nầy trước lấy tướng pháp đó, pháp đó nay tuy đã
diệt mà có thể sinh pháp nhớ tưỏng phân biệt. Nếu pháp sinh ở
tâm đó nơi người này, pháp nầy diệt mất sau ý thức sinh, có thể
biết việc đó gọi là tướng duyên thức.
Lại tướng nầy có thể làm nhân duyên cho tướng duyên thức
sau, chứ biết sừng thỏ v.v... không tướng làm nhân, cho nên
không sinh.
Lại cũng nên có biết duyên sừng thỏ v.v..., nếu không làm
sao có thể nói ra được.
Hỏi : Sừng thỏ v.v... tính không thể biết. Bởi vì sao ? Vì
hoàn toàn không sinh các ý nghĩ dài ngắn đen trắng v.v..., cho nên
pháp quá khứ cũng như vậy. Bởi vì sao ? Vì chúng ta không thể
dùng pháp quá khứ khiến được hiện tiền, như Thánh nhân biết
việc tương lai nói việc này sẽ như vậy, việc kia sẽ không như vậy
?
Đáp : Trí lực Thánh nhân là vậy, pháp tuy chưa có mà có thể
dự biết. Như Thánh nhân có thể phá vách đá ra vào không ngại.
Điều này cũng vậy, không mà có thể biết.
Lại vì sức nhớ nên biết. Như nhãn thức không thể phân biệt
nam nữ. Nếu nhãn thức không có thể, thì lẽ ra ý thức cũng không
có thể, mà ý thức thật có thể. Điều này cũng vậy.
Lại như chúng ta với việc trước từng dùng đã diệt rồi mới
sinh biết. Thánh nhân cũng vậy, với pháp không có mà có thể sinh
biết.
Thành Thật Luận Trang 539 Tuệ Quang Foundation
Lại như nói Đề-bà-đạt-đa không có một thức có thể biết 4
chữ, mà cũng có thể biết. Điều này cũng vậy.
Lại như các số lượng sai khác hợp ly đây kia v.v..., trong đó
tuy không hiện pháp cũng có thể sinh biết.
Lại như thân người không thể dùng một niệm mà biết khắp,
cũng không thể dùng phân tách từng phần mà hiểu biết. Tuy phân
tách từng phần không biết, một niệm không biết mà cũng sinh biết
người. Điều này cũng vậy.
Ông nói không có nhân duyên thí dụ có thể biết tự thể. Trong
đó có nói ý có thể tự biết, nói hành giả tùy tâm quán mà quá khứ
vị lai không có tâm. Cho nên biết dùng tâm hiện tại duyên tâm
hiện tại. Nếu không vậy thì hoàn toàn không có người có thể biết
pháp hiện tại tâm tương ưng.
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu có thể đem tuệ quán tất cả pháp
vô ngã tức được chán lìa khổ, đạo này là thanh tịnh. Trí tuệ này
trừ tự thể và pháp cọng sinh ngoài ra tất cả duyên pháp ?
Đáp : Trí này chỉ duyên hữu lậu không phải vô lậu. Bởi vì
sao ? Vì trong kệ nói : Tức chán lìa khổ. Cho nên biết chỉ duyên
khổ đế.
Lại vì phá ngã kiến, tu vô ngã trí. Ngã kiến duyên 5 thứ thụ
ấm, phải biết vô ngã cũng là duyên thụ ấm. Năm thụ ấm này vô
thường cho nên vô ngã. Như trong kinh nói : Nếu vô thường tức
vô ngã. Nếu vô ngã tức là khổ.
Lại Phật bảo Tì-kheo : Dứt không phải pháp sở hữu của ông.
Tì-kheo nói : Được rồi, thưa Thế Tôn ! Phật hỏi : Ông được như
thế nào ? Bạch Thế Tôn ! Sắc là phi ngã sở, thụ, tưởng, hành,
thức, cũng đều phi ngã sở. Phật khen : Hay thay! Hay thay! Phải
biết chỉ trong thụ ấm sinh tâm vô ngã.
Lại trong kinh nói : Các sở hữu sắc hoặc quá khứ vị lai, nội
ngoại thô tế, gần xa lớn nhỏ, đều nên biết phi ngã phi ngã sở. Như
vậy lấy chính tuệ mà quán như thật.
Thành Thật Luận Trang 540 Tuệ Quang Foundation
Lại nói : Quán sắc vô ngã, thụ, tưởng, hành, thức vô ngã.
Quán sắc vô thường, hư vọng, như trò ảo hóa, gạt người không có
mắt trí, là oán, là giặc, không ngã, không ngã sở.
Lại Phật nói : Ngồi ở đây, có người ngu si còn ở trong vỏ vô
minh, bị vô minh làm mù quáng, lìa bỏ Phật pháp mà sinh tà kiến
này. Nếu sắc vô ngã, thụ, tưởng, hành, thức đều vô ngã, thì làm
sao vô ngã khởi nghiệp mà đem ngã ra chịu ? Cho nên biết vô ngã
chỉ duyên thụ ấm.
Lại trong kinh không chỗ nào nói trí vô ngã duyên tất cả
pháp, mà chỗ chỗ đều nói duyên 5 thứ thụ ấm.
Hỏi : Phật tự nói : Tất cả pháp vô ngã. Cho nên biết hữu vi
vô vi trí này đều duyên, chứ không phải chỉ duyên 5 thụ ấm.
Lại nói : Có 10 thứ không, duyên tất cả pháp. Không tức là
vô ngã.
Lại nói : Các hành vô thường, khổ, tất cả pháp vô ngã. Nếu
trí vô ngã chỉ duyên khổ đế, vì sao không nói các hành vô ngã ?
Vì nói tất cả pháp vô ngã nên phải biết rằng nếu nói hành là nói
hữu vi; nếu nói pháp tức gồm chung tất cả.
Lại nói : Người nào đối với pháp một tướng và pháp khác
tướng, trí tuệ hiện tại tiền như mắt sáng thấy sắc ? Chỉ chư Phật
Thế Tôn chính trí được giải thoát mới có thể đối với pháp một
tướng và pháp khác tướng, trí tuệ hiện tại tiền như người sáng mắt
thấy sắc. Vì tưởng vô ngã nên các pháp một tướng. Cho nên biết
vô ngã duyên tất cả pháp không phải chỉ duyên khổ ?
Đáp : Nói tất cả, là có 2 thứ : một là thâu nhiếp tất cả, hai là
thâu nhiếp một phần. Thâu nhiếp tất cả là như Phật nói : Ta là
người Nhất thiết trí. Nói tất cả, gọi là 12 nhập. Thâu nhiếp một
phần là như nói tất cả là vậy, mà vô lậu vô vi không thể được vậy.
Lại trong Phẩm Như Lai nói Như Lai là người bỏ tất cả, là
người hơn tất cả. Nói thế nhưng không thể bỏ pháp trì giới v.v...,
Thành Thật Luận Trang 541 Tuệ Quang Foundation
mà chỉ bỏ pháp ác nên nói bỏ tất cả. Cũng như không thể hơn các
Phật khác, mà chỉ hơn các chúng sinh nói hơn tất cả.
Lại nói : Tì-kheo như thế nào gọi là Nhất thiết trí ?
Đáp : Nghĩa là như thật biết 6 thứ xúc nhập sinh diệt. Đó gọi
là biết tướng chung tất cả pháp, không phải trí tướng riêng. Với
Phật chung riêng đều biết hết, nên gọi là bậc Nhất thiết trí. Tìkheo
đó đã biết chung các pháp vô thường v.v... nên gọi Nhất
thiết trí. Tên tuy đồng, mà kỳ thật có khác, đó gọi là thâu nhiếp
một phần.
Lại Phật nói : Nếu pháp đã hội nhập vào Tu-đa-la, tùy thuận
Tì-ni, không trái pháp tướng, thì pháp đó nên lãnh thụ.
Lại nói : Nếu ai nói đây là lời Phật nói, người đó lời đúng mà
nghĩa sai. Người trí trong đó phải nói nghĩa đúng. Rồi bảo Tìkheo
nầy rằng lời đó nên tương xứng với nghĩa nào ?
Lại có người nói nghĩa đúng mà lời sai. Là trong nghĩa đúng
nầy nên để riêng lời nói đúng. Những kinh như vậy, Phật đều cho
phép.
Lại có kinh liễu nghĩa và không liễu nghĩa. Nghĩa là rốt ráo
và không rốt ráo. Kinh nầy thuộc nghĩa không rốt ráo. Vì sao đối
với một việc mà nói tên tất cả ? Phải biết ý đó.
Lại người đời trong một việc cũng nói tất cả, như nói vì cúng
tất cả, cho ăn tất cả, cũng nói người nầy tất cả đều ăn. Cho nên
biết tuy nói tất cả vô ngã nhưng phải biết chỉ vì 5 thụ ấm mà nói,
chứ không phải vì tất cả pháp. Ông nói 10 thứ không, trong đó
không được có Vô vi không. Bởi vì sao ? Vì không ai trong vô vi
mà sinh tưởng ngã. Cho nên dù có còn các không khác đi nữa
cũng chẳng hại gì, vì ông cũng dùng khổ trí cùng tương ưng với
không. Cho nên không, chẳng phải duyên tất cả pháp.
Hỏi : Thế gian không, duyên tất cả pháp, chẳng phải vô lậu
không ?
Đáp : Không có thế gian không. Tất cả không đều là vô lậu.
Thành Thật Luận Trang 542 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong Kinh Pháp Ấn nói không là thế gian không ?
Đáp : Đó là xuất thế gian không, chứ chẳng phải thế gian
không.
Lại hỏi : Trong đó nói tri kiến chưa tịnh, cho nên biết là thế
gian không ?
Đáp : Tôi trước đã nói tâm vô lậu có thể phá giả danh. Cho
nên từ khi phá giả danh trở đi gọi là tâm vô lậu. Sau thấy diệt đế,
lìa tăng thượng mạn, mới gọi là tri kiến tịnh. Cho nên không có
thế gian không.
Ông nói tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã. Như vậy
phải có hành giả đầy đủ tưởng vô ngã. Khi pháp tướng đầy đủ thì
đối với vô ngã nói pháp danh tự. Như trong Phẩm Kiến đế nói :
Nếu ai không thấy khổ, đó tức là thấy ngã. Khổ như thật thấy khổ,
tức không còn thấy ngã. Như thật, nghĩa là thấy vô ngã. Cho nên
nói tất cả pháp vô ngã, chỉ duyên khổ đế nói vô ngã hành.
Ông nói Phật hiện tiền thấy tướng một, tướng khác. Đó cũng
nên có, vì lấy giới, nhập, v.v... làm một, cho nên nói một tướng
đâu có lỗi gì ?
THÀNH THẬT LUẬN
CÒN NỮA
 
S

suonglanh

Guest
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 16 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 192 : Thánh hành
Có 2 hành là không hành và vô ngã hành. Trong 5 ấm không
thấy chúng sinh gọi là không hành. Thấy 5 ấm cũng không có, là
vô ngã hành. Vì sao biết được ? Trong kinh nói : Thấy sắc không
thể tính, thấy thụ, tưởng, hành, thức là không thể tính.
Thành Thật Luận Trang 543 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Do vô tính được giải thoát. Cho nên biết
tính của sắc không phải chân thật có. Tính của thụ, tưởng, hành,
thức cũng không phải chân thật có.
Lại trong kinh nói : Năm ấm đều trống không như huyễn,
không thể nói huyễn là chân thật. Huyễn, nếu chân thật có, không
gọi là huyễn, nhưng cũng không thể nói không, mà chỉ vì không
thật, có thể làm dối gạt.
Lại hành giả nầy quán tất cả trống không, cho nên biết 5 ấm
không phải chân thật có, như phá một tướng nên không thấy cái
vách tường v.v... một pháp, 5 ấm cũng vậy, không có một thật
pháp.
Hỏi : Nếu sắc v.v... pháp cũng không chân thật, nay nên chỉ
có một thế đế ?
Đáp : Diệt là đệ nhất nghĩa đế cho nên có. Như trong kinh
nói : Vọng là hư dối, đế là như thật. Diệt tức là như thật quyết
định, nên gọi đệ nhất nghĩa có.
Lại hành giả sinh chân thật trí, tất cả hữu vi v.v... đều luống
không, cho nên biết diệt là đệ nhất nghĩa có.
Hỏi : Ông nói thấy trong 5 ấm không có chúng sinh. Do đâu
mà 5 ấm gọi chúng sinh, là hữu lậu hay vô lậu ?
Đáp : Cũng hữu lậu mà cũng vô lậu.
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu thấy chúng sinh đều là thấy 5 thụ
ấm ?
Đáp : Pháp vô lậu cũng ở trong số chúng sinh, chứ không
phải ở trong số phi chúng sinh như gỗ đá v.v.... Cho nên biết cũng
nhân các ấm vô lậu gọi là chúng sinh.
Lại nếu Thánh nhân ở tâm vô lậu, bấy giờ cũng gọi hữu tâm
chúng sinh. Cho nên tâm vô lậu cũng gọi chúng sinh. Tất cả các
ấm đều gọi thụ ấm, vì đều từ thụ sinh ra.
Hỏi : Làm sao biết từ thụ sinh ?
Thành Thật Luận Trang 544 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Pháp vô lậu đều từ bố thí, trì giới tu định v.v... trong
nghiệp tâm sinh, nếu không thì không sinh. Như kinh nói : Vì bị
vô minh che khuất và kết ái trói buộc, nên kẻ ngu được thân nầy
mà người trí cũng như vậy. Thân tức thụ ấm.
Hỏi : Nếu tất cả ấm đều gọi thụ ấm, thì hữu lậu và vô lậu ấm
đâu có sai khác ?
Đáp : Tất cả ấm từ thụ mà sinh nên gọi thụ ấm. Nhưng không
thụ thân đời sau nên gọi là vô lậu, sai khác là ở đó. Ấm và thụ ấm
đều từ thụ sinh, nên gọi thụ ấm. Cho nên không mâu thuẫn kinh
nầy. Hai hành nầy đều duyên vô sở hữu. Nếu sắc v.v... pháp
không, và thể tính diệt, đều là vô sở hữu.
Hỏi : Hai hành nầy đều duyên 5 ấm. Trong kinh nói : Thấy
sắc trống không vô ngã thấy thụ, tưởng, hành, thức trống không
vô ngã. Thì sao ?
Đáp : Do các ấm mới thấy trống không vô ngã. Bởi vì sao ?
Vì với các nhân duyên sinh mới có thấy chúng sinh không, cũng
thấy sắc v.v... pháp diệt.
Hỏi : Đó là đều duyên. Nếu hành giả nghĩ các ấm và không,
tức là duyên ấm và vô sở hữu ?
Đáp : Hành giả trong các nhân duyên sinh, không thấy chúng
sinh, nên liền sinh không tâm, rồi sau mới thấy trống không.
Lại trong 5 ấm diệt, không thấy thể tính của sắc, thể tính của
thụ, tưởng, hành, thức, cho nên mới biết 2 hành nầy đều duyên vô
sở hữu.
Phẩm 193 : Kiến trí
Hỏi : Chính kiến chính trí có gì sai khác ?
Đáp : Là một thể không có gì sai khác. Chính kiến có 2 thứ,
thế gian và xuất thế gian. Thế gian nghĩa là có tội phúc v.v…
Xuất thế gian nghĩa là có thể thông suốt khổ v.v… các đế. Chính
trí cũng vậy.
Thành Thật Luận Trang 545 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Ông nói tướng kiến trí không như vậy. Bởi vì sao ? Các
nhẫn chỉ là kiến không phải trí. Tận trí, vô sinh trí, và 5 thức
tương ưng tuệ chỉ là trí không phải kiến ?
Đáp : Tại sao các nhẫn không phải trí ?
Hỏi : Bởi vì chưa biết muốn biết, cho nên gọi là vị tri căn.
Nếu khổ pháp nhẫn là trí, khổ pháp nhẫn biết rồi thì khổ pháp trí
phải gọi là tri căn, chứ không gọi là vị tri căn. Cho nên nhẫn
chẳng phải là trí.
Lại trong kinh nói : Nếu hành giả đối với các pháp này ít có
khả năng dùng tuệ quán nhẫn, gọi là chưa xong, xong rồi gọi là
trí. Nếu nhẫn gọi là quán chưa xong, lại tuệ vô lậu ban đầu mới
thấy gọi là nhẫn, không nên lấy cái mới thấy làm trí.
Lại khi nhẫn không rõ. Khi có trí mới rõ chắc.
Lại khi sinh nhẫn, tâm nghi còn bám theo, cho nên nhẫn
không phải trí.
Đáp : Nhẫn tức là trí. Bởi vì sao ? Vì dục, lạc, nhẫn đều là
một nghĩa. Hành giả trước biết khổ rồi, sau nhẫn vui. Nếu trước
không biết, làm sao nhẫn vui được ?
Lại trong lời nói thiếu, chỉ nói quán nhẫn mà không nói trí.
Vậy thì người thụ hành quả phải là vô trí ? Nếu ý ông bảo hành
giả có trí mà gọi là nhẫn, thì đây lẽ ra thụ nhẫn cũng là trí.
Lại trong kinh nói : Hành giả khi biết khi thấy liền được hết
lậu.
Lại nói : Biết, thấy, được, là một nghĩa.
Lại Phật nói khổ trí, tập, diệt, đạo trí mà không nói có nhẫn.
Cho nên biết trí tức là nhẫn.
Lại trong giải nghĩa trí, Phật nói : Như thật biết nên gọi là trí.
Nhẫn cũng như thật biết nên không có khác. Nếu ông cho vị tri
căn nên gọi là nhẫn, điều này không đúng. Chúng tôi không nói
trước nhẫn sau trí. Trong một tâm tức gọi nhẫn trí. Nghĩa đó
Thành Thật Luận Trang 546 Tuệ Quang Foundation
không thành, làm sao ông đem cái không thành mà thành lập được
?
Ông nói nhẫn gọi là chưa xong. Trước tôi đã đáp. Nghĩa là
trước biết sau nhẫn. Phải biết nhẫn tức là xong. Nếu không biết
xong làm sao có thể nhẫn ?
Ông nói khi nhẫn chưa quyết định rõ ràng. Trong pháp ông
dùng nhẫn dứt kết. Nếu nhẫn không quyết định rõ ràng sao có thể
dứt kết được ?
Ông nói khi nhẫn nghi ngờ còn bám theo. Nếu vậy thì trong
kiến đế đạo đều có nghi bám theo ? Trong đó trí sinh lẽ ra đều
không phải trí ?
Lại không có phân biệt là nhẫn là trí. Như người đời quán tùy
thuận 4 đế cũng gọi là nhẫn cũng gọi là trí. Vô lậu nhẫn trí cũng
phải như vậy.
Hỏi : Tận trí, vô sinh trí, chỉ là trí, chẳng phải kiến ?
Đáp : Có nhân duyên gì ?
Hỏi : Trong kinh riêng nói chính kiến, chính trí, cho nên trí
chẳng phải kiến ?
Đáp : Nếu vậy thì chính kiến không gọi là chính trí. Nếu ông
bảo chính kiến là chính trí, thì chính trí cũng phải là chính kiến.
Lại 5 phần pháp thân, từ trong Phẩm Tuệ riêng nói giải thoát
tri kiến lẽ nào không phải tuệ ? Vậy thì tận trí, vô sinh trí cũng
không là tuệ. Nay tức chính kiến, vì tướng khác nên nói là chính
trí, nghĩa là hết tất cả phiền não, trong tâm A-la-hán mà sinh nên
nói là chính trí.
Hỏi : Nếu chính trí tức là chính kiến thì A-la-hán không gọi
thập phần thành tựu ?
Đáp : Thể là một mà tên là khác, như pháp trí, khổ trí.
Lại nói A-la-hán là thành tựu 8 công đức phúc điền. Cho nên
chính trí tức là chính kiến.
Thành Thật Luận Trang 547 Tuệ Quang Foundation
Lại trong 6 pháp hòa kính, hòa kính thứ 6 gọi là đồng kiến.
Nếu như ông nói thì tận vô sinh trí không gọi là hòa kính.
Lại chính quán nên gọi chính kiến. Tận vô sinh trí bởi chính
quán nên cũng gọi chính kiến.
Hỏi : Năm thức tương ưng tuệ chỉ là trí chẳng phải kiến ?
Đáp : Tại sao chẳng phải kiến ?
Hỏi : Năm thức đều không có phân biệt, vì ban đầu tại cảnh
duyên nên kiến đó gọi là suy nghĩ quan sát.
Lại 5 thức chỉ duyên hiện tại. Cho nên chẳng phải kiến ?
Đáp : Trong đó không giác quán nên không thể phân biệt.
Nếu nói ban đầu tại cảnh duyên nên chẳng phải kiến, điều này
không đúng. Bởi vì sao ? Vì theo pháp của ông, nhãn thức có
duyên tương tục như ý thức, cho nên không nên nói ban đầu tại
duyên. Nếu vậy ý thức cũng không nên có kiến.
Lại ông nói duyên hiện tại nên chẳng phải kiến. Điều đó
cũng không đúng. Vì tha tâm trí cũng duyên hiện tại, thì lẽ ra
cũng chẳng phải kiến ? Trong 5 thức không chân thật trí, vì không
hành cho nên cũng thường theo giả danh, nên kiến trí tuệ v.v... tất
cả đều không có, huống chỉ là không có kiến.
Hỏi : Có người nói nhãn căn gọi là kiến. Việc đó thế nào ?
Đáp : Nhãn căn không thấy, nhãn thức có thể duyên, tùy
theo thế tục nên gọi mắt thấy.
Hỏi : Có người nói 8 thứ kiến là 5 tà kiến, thế gian chính
kiến, học kiến và vô học kiến. Trừ 8 kiến đó, ngoài ra bao nhiêu
tuệ không gọi là kiến. Điều này thế nào ?
Đáp : Nếu kiến, trí, đắc, giải, liễu, thông và chứng đều là một
nghĩa, nếu nói đây là kiến đây là chẳng phải kiến đều là tự nhớ
tưởng phân biệt mà nói.
Hỏi : Trong kinh nói biết, thấy thì được hết lậu, có gì sai
khác ?
Thành Thật Luận Trang 548 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu trí mới phá giả danh gọi là biết, vào pháp vị rồi thì
gọi là thấy. Mới quán gọi là biết, thông đạt rồi gọi là thấy. Có
những pháp sâu cạn sai khác như vậy.
Phẩm 194 : Ba tuệ
Ba tuệ là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Trí tuệ do từ trong 12 bộ
Tu-đa-la phát sinh gọi là văn tuệ. Nhờ đó có thể sinh Thánh tuệ
vô lậu nên gọi là tuệ. Như trong kinh nói : Tì-kheo La-hầu-la nay
có thể được thành tựu tuệ giải thoát. Tuy nghe Vi-đà v.v... các
kinh điển thế tục mà không thể sinh tuệ vô lậu nên không gọi là
văn tuệ. Nếu có thể tư duy suy lường nghĩa lý trong các kinh gọi
là tư tuệ. Như nói hành giả nghe pháp tư duy nghĩa lý. Lại nói
hành giả nghe pháp tư duy nghĩa lý rồi phải tùy thuận tu hành, nếu
có thể được tri kiến hiện tiền gọi là tu tuệ. Như nói hành giả ở
trong định tâm thấy 5 ấm sinh diệt. Như trong các kinh nói : Tìkheo
các ông ! Tu tập thiền định sẽ được như thật tri kiến hiện
tiền.
Lại trong Kinh Thất Chính Trí nói : Nếu Tì-kheo biết pháp
gọi là văn tuệ, biết nghĩa gọi là tư tuệ, biết thì giờ v.v... gọi là tu
tuệ.
Lại như La-hầu-la đọc tụng bộ Ngũ Thụ Ấm v.v… gọi là văn
tuệ, riêng một mình suy nghĩ nghĩa lý gọi là tư tuệ, sau khi đắc
đạo gọi là tu tuệ.
Lại trong kinh nói 3 thứ vũ khí : vũ khí của sự nghe học hỏi,
vũ khí của sự lìa bỏ và vũ khí của trí tuệ.
Vũ khí của sự nghe gọi là văn tuệ, vũ khí của sự lìa bỏ gọi là
tư tuệ, vũ khí của trí tuệ gọi là tu tuệ.
Lại trong kinh nói nghe pháp có 5 điều lợi : chưa nghe thì
nghe, nghe rồi rõ ràng, dứt nghi chính kiến, dùng tuệ thông suốt
nghĩa lý thâm sâu. Chưa nghe thì nghe, nghe rồi rõ ràng gọi là văn
Thành Thật Luận Trang 549 Tuệ Quang Foundation
tuệ, dứt nghi chính kiến gọi là tư tuệ, dùng tuệ thông suốt nghĩa lý
thâm sâu gọi là tu tuệ.
Lại trong Lợi ích của sự nghe pháp có nói : Hành giả đem tai
nghe pháp, đem miệng tụng tập gọi là văn tuệ, dùng ý nghĩ tư duy
suy lường gọi là tư tuệ, lấy chỗ thấy thông suốt gọi là tu tuệ.
Lại trong 4 phần Tu-đà-hoàn thì nghe chính pháp gọi là văn
tuệ, nhớ nghĩa lý đúng đắn gọi là tư tuệ, theo pháp tu hành gọi là
tu tuệ.
Lại trong 5 pháp môn giải thoát thì theo người Tôn trưởng
nghe pháp là văn tuệ, thông suốt ngữ nghĩa là tư tuệ, sinh hoan hỷ
v.v... là tu tuệ.
Lại trong kinh nói : Pháp Phật nói có 3 thời thiện v.v....
Thiện nam tử ! Nếu có người lớn hoặc người nhỏ nghe pháp nảy
sinh ý nghĩ : Tại gia ồn ào, xuất gia vắng lặng, nếu không xuất gia
không thể tịnh tu thiện pháp. Rồi bỏ sở hữu thân thuộc tài vật,
xuất gia trì giới giữ hộ các căn, quán sát oai nghi, một mình suy
nghĩ, xa lìa 5 thứ ngăn che, chứng được sơ thiền v.v..., cho đến
hết lậu. Trong đó người lớn người nhỏ nghe pháp là văn tuệ, suy
nghĩ tại gia ồn ào, xuất gia vắng lặng là tư tuệ, xa lìa 5 thứ ngăn
che cho đến hết lậu là tu tuệ.
Lại trong kinh nói : Nhờ 2 nhân duyên có thể sinh chính kiến
là theo người nghe pháp và tự chính nghĩ nhớ. Theo người nghe
pháp là văn tuệ, tự chính nghĩ nhớ là tư tuệ, có thể sinh chính kiến
là tu tuệ.
Lại có bài kệ nói :
Tập gần người thiện,
Nghe thụ chính pháp,
Thích ở một mình,
Điều phục tự tâm.
Trong đó tập gần người thiện, nghe thụ chính pháp là văn
tuệ, thích ở một mình là tư tuệ, điều phục tự tâm là tu tuệ.
Thành Thật Luận Trang 550 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật dạy các Tì-kheo : Các ông ! Mỗi khi có nói phải nói
4 đế. Mỗi khi suy nghĩ phải nghĩ 4 đế. Trong đây nếu nói 4 đế là
văn tuệ, suy nghĩ 4 đế là tư tuệ, được 4 đế là tu tuệ. Nhiều chỗ
trong kinh Phật nói 3 thứ tuệ đó.
Hỏi : Ba tuệ nầy bao nhiêu ở cõi Dục, bao nhiêu ở cõi Sắc và
bao nhiêu ở cõi Vô sắc ?
Đáp : Hai cõi Dục, Sắc, có tất cả. Như ông Lấy cư sĩ sinh về
cõi trời Vô Nhiệt, nói pháp ở đó. Nếu người nói pháp ắt phải tư
duy nghĩa lý. Cho nên biết cõi Sắc cũng có tư tuệ. Trong cõi Vô
sắc chỉ có tu tuệ.
Hỏi : Có người nói cõi Dục không có tu tuệ, cõi Sắc không
có tư tuệ. Điều này thế nào ?
Đáp : Vì nhân duyên gì nói cõi Dục không có tu tuệ ?
Hỏi : Vì ở cõi Dục không thể dứt các ngăn che các trói buộc,
khiến các thứ trói buộc cõi Dục không hiện ra trước.
Đáp : Trong Phật pháp không có lời nói nầy : Vì ở cõi Dục
không thể dứt các ngăn che các trói buộc, khiến các trói buộc cõi
Dục không hiện ra trước. Mà nói vì ở cõi Dục có thể phá phiền
não. Bởi vì sao ? Vì cõi Dục có bất tịnh quán v.v.... Như trong
kinh nói : Khéo tu bất tịnh quán có thể phá tham dục. Tâm từ
v.v... cũng như vậy.
Hỏi : Quán bất tịnh ở cõi Dục nầy không thể dứt phiền não
vĩnh viễn ?
Đáp : Quán bất tịnh v.v... ở cõi Sắc cũng không thể dứt các
phiền não rốt ráo.
Hỏi : Dùng thô trọng không điều thích v.v... các hành có thể
dứt phiền não, chứ bất tịnh v.v... thì không thể ?
Đáp : Không có kinh nào nói thô trọng v.v... có thể dứt phiền
não mà bất tịnh v.v... thì không thể, mà trong kinh nói dùng quán
bất tịnh v.v... có thể dứt phiền não.
Thành Thật Luận Trang 551 Tuệ Quang Foundation
Lại thô trọng v.v... có sức mạnh gì có thể dứt phiền não mà
bất tịnh v.v... không thể ?
Lại nếu cõi Dục có thô trọng v.v...các hành, nên dùng các
hành đó để dứt các phiền não. Nếu không, phải nói lý do vì sao
có bất tịnh v.v... mà không có thô trọng v.v...? Nếu có mà không
dứt phiền não thì cõi Sắc dầu có cũng không thể dứt, điều đó
cũng phải nói lý do vì sao cõi Dục không thể mà cõi Sắc lại có thể
?
Hỏi : Cõi Dục tuy có thô trọng v.v... mà không thể dứt các
phiền não vì là cõi tán loạn. Người tâm tán loạn không thể dứt
như trong kinh nói : Nhiếp tâm là đạo, tán tâm là phi đạo ?
Đáp : Phải nói lý do vì sao cõi Dục gọi là cõi tán loạn ?
Trong đó có bất tịnh quán v.v..., nếu là cõi tán loạn làm sao có thể
quán xương cốt v.v... các tướng khác.
Lại cõi Sắc nhiếp tâm có tướng gì khác mà cõi Dục không có
?
Hỏi : Vì ở cõi Sắc có thể được lìa dục. Ở trong đây chết sinh
về cõi Sắc như dùng cái nêm để tháo cái nêm ?
Đáp : Sao gọi là lìa dục ?
Hỏi : Dứt phiền não là lìa dục. Vì ở cõi Sắc có thể dứt phiền
não chứ không phải cõi Dục.
Đáp: Các ngoại đạo dứt kết rồi, rồi khởi lại sinh về cõi Dục. Cho
nên phàm phu không gọi dứt kết. Nếu dứt rồi lại sinh thì dứt kết
vô lậu cũng phải sinh lại ? Việc đó không thể được.
Lại trong kinh nói dứt 3 kết rồi mới có thể dứt 3 thứ độc.
Phàm phu không thể dứt 3 kết nên không được lìa dục.
Lại phàm phu thường có ngã tâm v.v... nên không thể có thể
dứt thân kiến v.v.... Nếu phàm phu có thể lìa dục, thì tất cả phiền
não lẽ ra đều phỉ không có. Bởi vì sao ? Vì tất cả phiền não đều do
nhiều duyên thành, như trong kinh nói do nhiều duyên thành ngã.
Nếu phàm phu nầy đối với 5 ấm cõi Dục không khởi thân kiến mà
Thành Thật Luận Trang 552 Tuệ Quang Foundation
lại chưa được các ấm cõi trên, vậy thì phải không có thân kiến ?
Có những lỗi như vậy. Như vậy phiền não phải dứt hết vĩnh viễn
thì phàm phu nầy phải là La-hán, mà thật phiền não không được
dứt hết. Như trong kinh nói : Nghe tiếng sấm lớn có 2 hạng người
không sợ là Chuyển luân Thánh vương và A-la-hán. Nay phàm
phu nầy cũng phải không sợ ?
Lại A-la-hán sống không mừng, chết không sợ, như A-la-hán
Ưu-ba-tư-na bị rắn cắn, khi mạng lâm chung các căn không đổi
khác, nhan sắc không biến đổi. Người nầy lẽ ra cũng như vậy ?
Lại A-la-hán, 8 pháp của thế gian không thể che tâm. Người
nầy lẽ ra cũng như vậy, vì đã lìa dục, mà thật ra phàm phu tuy nói
lìa dục đều không có các tướng nầy. Cho nên biết không dứt phiền
não.
Hỏi : Phàm phu có thể dứt phiền não, vì mạng chung nơi đây
vãng sinh cõi Sắc, nếu không dứt làm sao sinh kia được ? Trong
kinh cũng nói có ngoại đạo lìa dục.
Lại nói A-la-la-ca-la-ma Uất-đầu-lam-phất lìa bỏ cõi Dục cõi
Sắc sinh về cõi Vô sắc.
Lại nói dùng Sắc lìa Dục, dùng Vô sắc lìa Dục, dùng diệt lìa
khởi nghĩ nhớ. Cho nên ông nói phàm phu tuy dứt phiền não mà
sinh trở lại nên không gọi là dứt. Việc đó không đúng.
Ông cũng nói phàm phu có dứt bao nhiêu đều thật sự là ngăn,
gọi là dứt lìa, kỳ thật không dứt mà nói là dứt, thật không lìa dục
mà nói là lìa dục.
Như trong một bài kệ nói :
Nếu nghĩ ngã, ngã-sở,
Chết đến có thể dứt,
Như trẻ con nghịch đất,
Còn thích còn giữ chơi,
Nếu khi đã phát chán,
Liền phá mà bỏ đi.
Thành Thật Luận Trang 553 Tuệ Quang Foundation
Đó cũng gọi lìa dục. Nhưng ngoại đạo dứt cùng chết dứt có
khác. Chết dứt không sinh cõi Sắc, Vô sắc. Trẻ con bỏ đất tuy là
cúng dường nhưng không quả báo lớn. Nếu cúng dường lìa dục,
ngoại đạo được quả báo lớn. Lời nói tuy đồng mà nghĩa thì khác.
Cho nên biết phàm phu thật có dứt lìa ?
Đáp : Trong pháp ngăn chận có sai khác. Nếu có thể ngăn
phiền não sâu thì sinh 2 cõi Sắc, Vô sắc.
Lại nếu có thể ngăn thân kiến như trước đã nói lỗi, nếu
không thể ngăn thân kiến cõi Dục làm sao có thể sinh cõi Sắc, Vô
sắc. Chỉ có thể ngăn tham giận nên sinh cõi Sắc, không phải ngăn
thân kiến v.v.... Cho nên biết phàm phu thật không dứt kết. Cõi
Dục cũng có pháp thiện có thể ngăn phiền não, cho nên biết cõi
Dục cũng có tu tuệ.
Lại trong kinh nói trừ 7 chỗ nương cũng được gọi là đắc
đạo. Cho nên biết nương định cõi Dục có thể sinh chân trí.
Hỏi : Người nầy nương sơ thiền, cận địa được A-la-hán
không phải định cõi Dục ?
Đáp : Không phải. Nói trừ 7 chỗ nương là trừ cả sơ thiền và
cận địa rồi.
Lại trong đó không có nhân duyên có thể nương cận địa mà
không phải định cõi Dục. Nếu hành giả đó có thể vào cận địa thì
tại sao không thể vào sơ thiền ư ? Việc này cũng không có lý do.
Lại trong kinh Tu-thi-ma nói : Trước là pháp trụ trí, sau là
Nê-hoàn trí. Nghĩa nầy bất tất trước được thiền định mà sau mới
hết lậu, chỉ quyết dùng pháp trụ trí làm đầu, rồi sau hết lậu. Cho
nên biết trừ các thiền định. Trừ thiền định nên mới nói kinh Tuthi-
ma. Nếu thụ cận địa, tức lỗi đồng các thiền.
Lại không có kinh nào nói tên cận địa. Đó là ông tự nhớ
tưởng phân biệt mà thôi.
Hỏi : Trước tôi nói thí dụ cái nêm. Cho nên biết dùng địa
khác có thể dứt kết địa khác. Như dùng cái nêm nhỏ có thể tháo
Thành Thật Luận Trang 554 Tuệ Quang Foundation
cái nêm lớn. Cũng như vậy, dùng pháp ở cõi Sắc có thể dứt pháp
ở cõi Dục. Hành giả, nếu trước dứt dục và pháp ác bất thiện, rồi
sau có thể vào sơ thiền. Cho nên biết chắc có cận địa, dùng định
dứt dục.
Lại nói nhân sắc lìa dục. Nếu không cận địa làm sao nhân sắc
?
Lại trong kinh nói : Nếu hành giả được vui tịnh thì có thể bỏ
vui bất tịnh. Như Nan-đà nhân được thiên nữ yêu mới bỏ được
bản dục.
Lại nếu người không được mùi vị sơ thiền tịch diệt thì với 5
dục không thể sinh tâm thô tệ. Cho nên biết trước được sơ thiền
cận địa mới có thể bỏ cõi Dục ?
Đáp : Được tịnh thiện cõi Dục có thể dứt bất thiện, như nói 5
thứ xuất tính. Như Thánh đệ tử hoặc nghĩ 5 dục mà không sinh hỷ
lạc, tâm không thông hòa như đốt gân lông, nếu nghĩ xuất pháp thì
tâm thông suốt.
Lại nói hành giả tùy khi sinh giác quán bất thiện liền dùng
giác quán thiện mà diệt. Cho nên ông nói thí dụ tháo cái nêm cũng
có thể là cõi Dục.
Ông nói nhân sắc lìa dục là việc sau cùng. Hành giả dùng ở
cõi Dục dứt các phiền não, tùy theo thứ lớp dứt dần, cho đến có
thể được thiện pháp cõi Sắc, bấy giờ mới dứt cõi Dục rốt ráo được
pháp cõi Sắc.
Ông nói A-la-hán diệt tận định cũng được các định. Đó là chỉ
nói quả cuối cùng.
Ông nói được vui tịnh diệu và vị tịch diệt, đều đã đáp chung.
Lại nếu cõi Dục không định, làm sao có thể dùng tản tâm
chứng được thiện cõi Sắc ?
Hỏi : Tuệ giải thoát, A-la-hán không định cũng chỉ có tuệ ?
Đáp : Trong đó chỉ ngăn thiền định. Chắc phải có thời gian
ngắn nhiếp tâm, cho đến một niệm. Như trong kinh Phật nói : TìThành
Thật Luận Trang 555 Tuệ Quang Foundation
kheo khi lấy áo có 3 độc, mặc áo rồi thì liền diệt. Không có kinh
nào nói trong tâm tán loạn có thể sinh chân trí, mà đều nói nhiếp
tâm sinh như thật trí.
Phẩm 195 : Bốn trí vô ngại
Hỏi : Có thế trí cận pháp vị, đó là gì ?
Đáp : Đó là trí trong noãn pháp v.v... có thể phá giả danh. Trí
nầy dùng thế tục thấy đế lý, nên gọi thế trí. Gần Thánh đạo nên
gọi cận pháp vị.
Hỏi : Trong kiến đế đạo là trí tu vị lai v.v...?
Đáp : Không có trí tu vị lai v.v... Sau sẽ nói. Bởi vì sao ? Vì
trong phá pháp tướng không có tâm giả danh, cho nên trong kiến
đế đạo không tu thế trí.
Hỏi : Trong kinh nói có 4 trí vô ngại, đó là gì ?
Đáp : Như trí vô ngại trong danh tự gọi là pháp vô ngại, trí
vô ngại trong ngôn ngữ âm thanh gọi là từ vô ngại nghĩa là khác
phương khác tục nên âm thanh ngôn ngữ sai khác. Như trong kinh
nói : Hành giả không nên đam mê ngôn từ của nước khác. Nếu
ngôn ngữ âm thanh bất tiện cũng khó hiểu nghĩa. Nếu không có
danh tự thì nghĩa không rõ được. Tức nơi ngôn từ nầy không lưu
ngại, không cùng tận, gọi là lạc thuyết vô ngại. Như trong kinh
nói : Có 4 lối nói pháp : Hoặc nói có nghĩa lý mà không thể vô
tận, có thể vô tận mà không có nghĩa lý, có được cả 2, có cả 2 đều
không được. Ba thứ trí nầy gọi là ngôn từ phương tiện. Trí vô ngại
biết nghĩa trong danh tự ngôn ngữ gọi là nghĩa vô ngại.
Như nói có 4 lối nói pháp : Có nghĩa phương tiện không ngữ
phương tiện. Có ngữ phương tiện không nghĩa phương tiện. Có đủ
2 phương tiện. Có cả 2 đều không phương tiện. Nếu ai có được 4
trí vô ngại đó gọi là đầy đủ phương tiện. Bậc trung thượng nói
pháp khó đáp lại khó gần, lạc thuyết vô tận, cũng có nghĩa lý trí
tuệ vô cùng ngôn từ không bị ngăn trệ.
Thành Thật Luận Trang 556 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Làm thế nào được trí vô ngại nầy ?
Đáp : Nhờ nghiệp nhân duyên đời trước nên được. Nếu có
thể đời đời khéo tu nhân duyên trí tuệ và phương tiện các ấm, do
sức tu tập nên đời nay tuy không học tập văn tự, đọc tụng kinh
điển nhưng cũng có thể biết được như thiên nhãn thông v.v....
Hỏi : Hạng người nào có thể được ?
Đáp : Chỉ Thánh nhân có thể được. Có người nói chỉ A-lahán
được, không phải các học nhân. Đây bất tất phải như vậy, học
nhân cũng có thể được 8 thứ giải thoát, tại sao không thể được trí
nầy ?
Hỏi : Bốn vô ngại nầy ở trong cõi nào ?
Đáp : Hai cõi Dục Sắc có tất cả, trong cõi Vô sắc chỉ có
nghĩa vô ngại. Vô-ngại có 2 thứ hữu lậu và vô lậu. Học nhân đủ 2
thứ, vô học chỉ có vô lậu. Nếu được thì nhất thời được hết. Nữ
nhân cũng được. Như Tì-kheo-ni Đàm-ma-trần-na v.v…
Phẩm 196 : Năm trí
Năm trí là Pháp trụ trí, Nê-hoàn trí, Vô tránh trí, Nguyện trí
và Biên tế trí.
Biết các pháp sinh khởi gọi là pháp trụ trí, như sinh duyên
lão tử cho đến vô minh duyên hành. Bởi có Phật hay không Phật,
tính này vẫn thường trụ nên gọi là pháp trụ trí. Pháp nầy diệt gọi
Nê-hoàn-trí, như sinh diệt nên lão tử diệt cho đến vô minh diệt
nên các hành cũng diệt theo.
Hỏi Nếu vậy là Nê-hoàn trí cũng gọi pháp trụ trí ? Bởi vì sao
? Vì nếu có Phật hay không Phật, tính nầy vẫn thường trụ vậy ?
Đáp : Các pháp diệt hết gọi là Nê-hoàn. Trong diệt hết đó,
còn có pháp gì mà trụ ?
Hỏi : Nê-hoàn không phải thật có sao ?
Đáp : Ấm diệt không còn nên gọi Nê-hoàn. Trong đó còn có
gì nữa ?
Thành Thật Luận Trang 557 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Làm sao biết được thật có Nê-hoàn ? Diệt đế gọi là Nêhoàn.
Khổ v.v... các đế thật có, nên Nê-hoàn cũng phải thật có.
Lại trí trong Nê-hoàn gọi là diệt trí. Nếu không có pháp làm
sao sinh trí ?
Lại trong kinh Phật vì các Tì-kheo nói : Có sinh khởi làm
pháp hữu vi, có không sinh khởi làm pháp vô vi.
Lại trong kinh nói : Chỉ có 2 pháp hữu vi và vô vi. Pháp hữu
vi pháp có sinh diệt trụ dị. Pháp vô vi không sinh diệt trụ dị.
Lại trong kinh nói : Có bao nhiêu pháp hoặc hữu vi hoặc vô
vi diệt hết, chỉ Nê-hoàn đó là cao thượng.
Lại nói sắc là vô thường, diệt sắc nên Nê-hoàn là thường,
cho đến thức cũng vậy.
Lại trong kinh nói : Diệt thì phải chứng. Nếu không pháp
chứng cái gì ?
Lại Phật nói trong Kinh Đa Tính : Người trí biết như thật,
tính hữu vi và vô vi. Tính vô vi tức là Nê-hoàn, dùng chân trí mà
biết, làm sao nói là không ?
Lại trong các kinh không quyết định nói Nê-hoàn là vô pháp.
Cho nên biết ông tự nhớ tưởng phân biệt bảo là không có Nê-hoàn
?
Đáp : Nếu lìa các ấm lại pháp khác gọi Nê-hoàn đó, thì
không nên gọi các ấm diệt hết cho là Nê-hoàn. Lại nếu có Nêhoàn
cần nói ra thể nó là thế nào?
Lại định duyên Nê-hoàn gọi là vô tướng, nếu pháp tướng vẫn
còn đó sao gọi vô tướng được ? Như trong kinh nói : Hành giả
thấy sắc tướng dứt, cho đến thấy pháp tướng dứt.
Lại trong kinh nhiều chỗ đều nói : Tất cả hành vô thường, tất
cả pháp vô ngã, Nê-hoàn tịch diệt. Ngã trong đó gọi là thể tính các
pháp. Nếu không thấy thể tính của các pháp mà gọi là thấy vô
ngã, hoặc Nê-hoàn thì pháp đó là không thể tính không thể thấy
được, vì pháp nầy không diệt. Như khi có cái bình thì không có
Thành Thật Luận Trang 558 Tuệ Quang Foundation
pháp cái bình hoại. Nếu khi cái bình hoại thì mới được nói bình
hoại. Chặt cây v.v... cũng như vậy. Như vậy nếu các hành hãy còn
bấy giờ không gọi Nê-hoàn, vì các hành diệt mới có tên Nê-hoàn.
Lại khổ diệt không gọi còn có pháp riêng. Như trong kinh
nói : Các Tì-kheo ! Nếu khổ nầy diệt các khổ khác không sinh,
không còn nối nhau, chỗ đó là đệ nhất tịch diệt an ổn. Như nói lìa
bỏ tất cả thân tâm, vĩnh viễn lìa diệt hết tham ái Nê-hoàn. Trong
đó nói dứt khổ nầy các khổ khác không sinh, đâu còn có pháp gì
gọi Nê-hoàn ư ?
Lại cũng không riêng còn có tận pháp ? Chỉ đã sinh ái, diệt
chưa sinh, không sinh, bấy giờ gọi là tận, lại đâu còn có pháp gì
gọi là tận ư ? Thật không thể nói được !
Lại nữa, có tên khác của pháp nầy. Không có pháp 5 ấm gọi
là Nê-hoàn. Trong đó không có mà gọi là có, đây là điều không
thể được, vì diệt hết nên nói là Nê-hoàn. Giống như hết áo, lại
không pháp khác, nếu không như vậy cũng phải riêng có pháp hết
áo v.v....
Ông nói có diệt trí, cũng không hại gì, như trong việc chặt
cây v.v... trí sinh cũng không riêng có pháp chặt.
Lại do các hành nên trí sinh trong đó, nghĩa là tùy các hành
không gọi là Nê-hoàn, như tùy không có vật đó biết vật đó không
có.
Hỏi : Nay không có Nê-hoàn sao ?
Đáp : Chẳng phải không có Nê-hoàn, chỉ là không thật pháp.
Nếu không có Nê-hoàn thì thường ở trong sinh tử hẳn không
mong ngày giải thoát. Như bình bị vỡ cây bị chặt, chỉ có điều là
không phải thật có pháp riêng.
Nói các đế khác v.v... đều đã đáp chung. Bởi vì sao ? Vì có
khổ diệt nên mới nói có các pháp không sinh, không khởi, không
làm, vô vi v.v... đều không hại gì.
Thành Thật Luận Trang 559 Tuệ Quang Foundation
Vô tránh trí, là tùy dùng trí nào đó không tranh cãi cùng
người khác gọi là vô tránh. Có người nói chính là tâm từ đó. Vì
tâm từ nên không não hại chúng sinh.
Lại có người nói chính là hành. Vì không hành nên không
cùng tranh với vật.
Lại có người nói chính là tâm vui Nê-hoàn. Vì vui Nê-hoàn
nên không tranh.
Lại có người nói ở trong đệ tứ thiền điều này bất tất như vậy.
A-la-hán đó dùng trí nầy tu tâm nên không tranh cãi.
Nguyện trí, là đối với các pháp trí không chướng ngại gọi là
nguyện trí.
Hỏi : Nếu nói như vậy chỉ Phật Thế Tôn có được trí nầy ?
Đáp : Đúng vậy. Chỉ Phật Thế Tôn mới đầy đủ trí này. Còn
người khác tùy sức đến đâu mà được không ngăn ngại.
Biên tế trí là tùy hành giả được trí tối thượng, nhờ tất cả thiền
định huân tu tăng trưởng; như đối với mạng sống lâu tăng tổn
v.v... được sức tự tại gọi là biên tế trí tức trí có giới hạn.
Phẩm 197 : Trí 6 thông
Có trí 6 thông. Sáu thông là thân thông, thiên nhãn, thiên nhĩ,
tha tâm trí, túc mạng và lậu tận.
Thân thông là thân hành giả tuôn ra nước lửa, bay bổng lên
ẩn hiện, nắm bắt mặt trời mặt trăng, đến cõi Phạm Tự Tại và làm
các thứ biến hóa. Làm các nghiệp như vậy gọi là thân thông.
Hỏi : Việc đó làm sao thành được ?
Đáp : Hành giả tu sâu thiền định nên được. Như trong kinh
nói sức thiền định là không thể nghĩ bàn.
Có người nói biến hóa là tâm vô ký. Điều này không đúng.
Vì nếu hành giả đó vì lợi tha mà hiện các thứ biến hóa thì làm sao
gọi vô ký được ?
Thành Thật Luận Trang 560 Tuệ Quang Foundation
Có người nói dùng tâm cõi Dục làm biến hóa cõi Dục, tâm
cõi Sắc làm biến hóa cõi Sắc. Lời đó cũng không đúng. Mắt v.v...
cũng phải như vậy, có thể dùng thức cõi Dục thấy cõi Sắc ư ? Như
vậy v.v... nếu tâm cõi Sắc làm biến hóa cõi Dục đâu có lỗi chi ?
Lại có người nói thần thông sơ thiền có thể đến cõi trời Phạm
Thế, cho đến thần thông tứ thiền có thể đến cõi Sắc Cứu Cánh. Đó
cũng không đúng. Tùy căn lực đến đâu, nếu người lợi căn dùng
thần thông sơ thiền có thể đến tứ thiền. Người độn căn lấy thần
thông nhị thiền không thể dùng sơ thiền. Như Đại Phạm Vương
đến thiền trung gian, trong đó không thần thông, dùng sức sơ
thiền có thể đến các cõi Phạm thiên khác, liền dùng sơ thiền
không thể biết Phạm Vương ở chỗ nào.
Lại Phật dùng túc mạng nghĩ nhớ cõi Vô sắc, như trong kinh
nói : Nếu có chỗ sinh đời trước trong cõi Sắc và Vô sắc Phật đều
nhớ biết. Cho nên không nhất định.
Lại có người nói thiên nhãn là tuệ tính. Điều này cũng không
phải. Thiên nhãn do ánh sáng mà thành, tuệ không phải như vậy.
Hỏi : Trong kinh nói tu tướng ánh sáng có thể thành tri kiến.
Tri kiến tức là thiên nhãn ?
Đáp : Không phải. Cũng nói thiên nhĩ không dùng tuệ tính,
gọi đó là nhĩ nên không phải tuệ.
Lại thiên nhãn duyên sắc hiện tại, ý thức không vậy.
Lại trong giải thích thiên nhãn nói là biết nghiệp báo chúng
sinh. Nhãn thức không có năng lực nầy. Chỉ trong ý thức khi biết
dùng nhãn thức mà sinh, như do thiền định sinh sắc gọi là thiên
nhãn.
Hỏi : Hình chỗ thiên nhãn lớn hay nhỏ ?
Đáp : Chừng bằng con ngươi mắt.
Hỏi : Người mù thế nào ?
Đáp : Cũng bằng chỗ mắt.
Hỏi : Thiên nhãn là một hay hai ?
Thành Thật Luận Trang 561 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Là hai.
Hỏi : Tùy ngó hướng nào thấy hướng đó sao ?
Đáp : Thấy khắp các hướng.
Hỏi : Hóa nhân cũng có sao ?
Đáp : Không có. Hóa nhân có luận thiên nhĩ cũng như vậy.
Hành giả nếu biết tâm người khác gọi là tha tâm trí.
Hỏi : Vì sao không nói biết tâm số người khác ?
Đáp : Vì nhân duyên nầy nên không có tâm số riêng. Biết
thụ, tưởng v.v... của người khác cũng gọi là tha tâm trí.
Lại có người nói trí nầy duyên đồng tính, như dùng hữu lậu
biết hữu lậu, vô lậu biết vô lậu. Điều này không đúng. Người nầy
không nói nhân duyên quyết định, do nhân duyên đó biết là duyên
đồng tính.
Có người nói chỉ duyên hiện tại. Đó cũng không phải. Hoặc
duyên vị lai như người vào định vô giác, biết từ định nầy khởi, sẽ
biết những việc như vậy như vậy.
Có người nói trí nầy không biết kiến đế đạo. Việc nầy không
đúng. Nếu biết có lỗi gì ?
Có thuyết nói : Bích-chi-phật muốn biết kiến đế đạo trong
tâm thứ 3, tức thấy tâm thứ 7. Thanh Văn muốn biết tâm thứ 3,
tức thấy tâm thứ 16. Đó không gọi là kiến đế đạo ư ?
Lại có người nói trí nầy không biết thượng địa, thượng nhân,
thượng căn. Đó cũng không nhất định. Chư thiên cũng biết tâm
Phật, như có một hôm Phật rất muốn đuổi chúng Tăng, rồi lại nghĩ
cho lại, Phạm Vương đều biết.
Lại có một khi tâm nghĩ muốn làm vua để dùng chính pháp
mà giáo hóa cõi đời. Ma vương liền biết đến mà khuyên mời.
Lại chư thiên cũng biết vị nầy A-la-hán, cho đến vị nầy đang
tu Tu-đà-hoàn.
Lại các Tì-kheo cũng biết tâm Phật như khi sắp vào Nê-hoàn
thì A-na-luật thứ lớp biết Phật đã vào các thiền định.
Thành Thật Luận Trang 562 Tuệ Quang Foundation
Lại có người nói trí nầy không biết cõi Vô sắc. Đó cũng
không đúng. Phật dùng túc mạng có thể biết Vô sắc; tha tâm trí
cũng như vậy, biết nào có lỗi gì ?
Hỏi : Làm sao biết tâm người khác ?
Đáp : Biết trong cảnh duyên. Như tâm đi trong sắc gọi là tâm
duyên sắc v.v...
Hỏi : Nếu vậy thì tha tâm trí duyên tất cả pháp ?
Đáp : Như vậy đó. Nếu không biết duyên làm sao biết tâm.
Như trong kinh nói : Ta biết tâm ông như vậy. Như vậy tức là
duyên sắc v.v.... Biết tha tâm có 3 thứ : 1. Tướng biết. 2. Báo
được. 3. Tu được.
Tướng biết, là như dùng chú Ương-già v.v... nên biết. Báo
được, là như quỷ thần v.v.... Tu được, là sức tu thiền định được
tha tâm trí. Trong 6 thông nầy nói tu được là hoặc nhớ các ấm
thân trong đời quá khứ gọi là túc mạng trí.
Hỏi : Nhớ ấm của ai ?
Đáp : Nhớ ấm của mình, ấm người khác và ấm của phi chúng
sinh. Tuy không thể nhớ ấm của người hơn mình mà có thể nhớ
giới v.v... các pháp của người hơn mình.
Làm sao biết được ? Như Xá-lợi-phất đáp Thế Tôn rằng :
Con tuy không biết tâm Phật quá khứ vị lai mà có thể biết các
pháp đó.
Lại trời Tịnh Cư biết tâm Phật nên đến thưa Phật rằng : Như
vậy Thế Tôn ! Oai nghi chư Phật quá khứ cũng như vậy.
Hỏi : Trong giải nghĩa về túc mạng, vì sao nói cọng tướng
cọng tính ?
Đáp : Nghĩ nhớ rõ ràng nên nói tướng danh tự như vậy, như
tên người v.v....
Lại vì biết việc nên gọi là tướng, họ, tên, dòng tộc, như nói
đây là nhà của ông, đây là họ của ông. Tướng tính hợp lại nói, nên
thấy biết rõ ràng.
Thành Thật Luận Trang 563 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì sao nhớ rõ ràng ?
Đáp : Pháp quá khứ diệt hết, vô tướng mà có thể biết được,
Đó mới là lạ lùng.
Có người dùng tướng tư duy suy lường mà biết không được
rõ ràng, rồi cho rằng đệ tử Phật cũng như vậy. Cho nên tính tướng
hợp lại mà nói.
Có người dùng túc mạng trí, hoặc dùng hữu đạo tư tuệ mà
biết đời quá khứ, như hành duyên thức. Trong 2 thứ nầy tư tuệ là
hơn.
Bởi vì sao ? Vì người nầy tuy biết 8 vạn đại kiếp, mà không
có tư tuệ nầy, nên sinh tà kiến cho rằng từ trước đến nay gọi là
sinh tử, quá đây lại không có gì cả. Hữu đạo tư tuệ hoàn toàn
không có tà tâm nầy.
Có người nói trí nầy thứ lớp nghĩ nhớ quá khứ. Điều này
không đúng. Nếu như niệm niệm thứ lớp nhớ việc trong một kiếp
hãy còn khó biết hết, huống là vô lượng kiếp.
Hỏi : Vì sao trong kinh lại nói : Ta từ ở trong 91 kiếp đến
nay chưa hề thấy bố thí tốn kém mà không quả báo ?
Đáp : Phật ở trong đó lấy 7 Phật làm chứng.
Lại cũng có sống lâu trong cõi Tịnh Cư cùng với các Phật kia
đồng thấy.
Lại vì Phật được chân trí nên công đức thanh tịnh, nếu người
cúng dường được phúc 2 đời, cho nên ngang bằng với thuyết nầy.
Có người nói trí nầy không biết thượng địa. Điều này không
đúng. Trong thân thông v.v... ở trên đã đáp.
Hỏi : Nếu đó là tính nhớ vì sao gọi trí ?
Đáp : Nhớ tùy tướng sinh. Quá khứ không có tướng mà có
thể nghĩ nhớ. Phải biết thắng tuệ gọi đó là nhớ. Nhớ túc mạng có
3 thứ : 1. Dùng túc mạng trí. 2. Báo được. 3. Sinh ra liền tự nhớ.
Túc mạng trí là tu được. Báo được là như quỷ thần v.v....
Sinh ra tự nhớ là trong loài người.
Thành Thật Luận Trang 564 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Do nghiệp gì nên sinh ra bèn tự nhớ ?
Đáp : Nhờ không não hại chúng sinh nên được nghiệp này.
Bởi vì sao ? Vì khi chết khi sinh, khổ rất ép ngặt nên quên mất
nghĩ nhớ; trong khi đó khó mà được không quên mất, nên phải
nhờ nghiệp thiện.
Lại có người nói quá khứ nhiều lắm là 7 đời. Điều này không
nhất định. Có người đời đời thâm tu pháp không hại, nên có thể
được nghĩ nhớ lâu xa.
Chứng lậu tận trí thông, chính là Kim cương Tam-muội.
Kim-cương Tam-muội là hết lậu, vô ngại đạo tận trí là trí vô học.
Dùng Kim cương Tam-muội mới diệt hết các lậu nên gọi là chứng
lậu tận trí thông.
Hỏi : Các thần thông khác cũng nên nói nhờ pháp nào mà
chứng được ?
Đáp : Trước đã nói tu sâu thiền định chứng thần túc thông.
Lại tùy sở dụng chứng và việc sở chứng đều gọi thần thông.
Có người nói tất cả Thánh đạo đều là phương tiện để hết lậu. Như
trong kinh nói : Nếu Phật ra đời nếu có người thiện, nghe pháp
xuất gia, vâng giữ cấm giới, bỏ 5 thứ ngăn che, tu định thấy đế…
Những điều đó đều là phương tiện để hết lậu.
Lại có người nói bố thí v.v... các pháp thiện cũng gọi là nhân
duyên hết lậu, như trong kinh nói : Hành giả bố thí để giúp thành
hết lậu, không, vô ngã trí. Đó là thật chứng lậu tận trí thông. Pháp
nầy có tên riêng là Kim cương Tam-muội. Có thể phá các tướng
nên gọi kim cương. Các người ngoại đạo chỉ gọi 5 thông, vì đều
không được chân trí nầy.
Hỏi : Dùng vô ngã trí mới phá ngã kiến, vì sao dùng trí nầy
dứt tham giận v.v...?
Đáp : Vô ngã trí có thể diệt các tướng, vì không còn tướng
nên các phiền não diệt.
Thành Thật Luận Trang 565 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì ban đầu dùng vô ngã trí có thể phá các tướng, còn trí
thứ 2 v.v... lại dùng để làm gì ?
Đáp : Các tướng tuy diệt mà sinh lại, nên phải dùng trí thứ 2
v.v....
Hỏi : Nếu tướng diệt rồi mà sinh lại thì vô cùng không biên
giới. Vậy là không có đạo A-la-hán ?
Đáp : Có biên giới. Như nay hiện thấy sữa diệt lại có sinh.
Có khi sữa diệt bơ sinh. Như vậy là có biên giới. Tướng cũng như
vậy. Như đốt sắt tướng đen diệt rồi sinh lại đến tướng đỏ sinh, bấy
giờ là biên giới. Các thí dụ trạng thái Ca-la-la v.v... cũng như vậy.
Tùy đến khi nào các tướng diệt hết không còn tướng sinh bấy giờ
gọi là được đạo A-la-hán.
Hỏi : A-la-hán đều không có các tướng sao ?
Đáp : Nếu còn ở trong tâm bất định, bây giờ cũng có sắc
v.v... các tướng, nhưng không sinh lỗi, như người thấy sắc, vì tà
tâm, tà phân biệt, khi đó tướng có thể sinh lỗi.
Hỏi : Không vô ngã trí là thế nào ?
Đáp : Nếu hành giả trong 5 ấm không thấy giả danh chúng
sinh, dùng pháp không, nên thấy sắc thể diệt cho đến thức diệt.
Đó gọi là không vô ngã trí.
Hỏi : Giả sử các pháp thường còn, ái v.v... các phiền não
cũng có thể trừ hết. Như nói vạn vật thường tồn tại, mà người tinh
tiến có thể trừ tham ái thì cần gì phải diệt tưởng ?
Đáp : Trong kinh nói : Có các sinh tướng, đều biết diệt
tướng, trong các pháp được pháp nhãn tịnh. Nếu diệt dứt là rốt ráo
dứt. Có hành giả lìa các sắc dục, ngăn dứt tham giận, nên Phật nói
vì đó mà nói kệ như vậy.
Lại nói các hành tính rỗng không như huyễn, người phàm
phu vô trí cho đó là thật có. Người học nhân rõ biết là hư dối như
huyễn. Cho nên biết tùy dùng tuệ nào đó mà chứng các pháp diệt.
Đó gọi là chứng lậu tận trí thông.
Thành Thật Luận Trang 566 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 198 : Trí nhẫn
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu hành giả có 7 phương tiện, 3 thứ
quán nghĩa, thì trong pháp đó chóng được hết lậu. Đó là trí nào ư
?
Đáp : Bảy phương tiện là văn tuệ, tư tuệ. Bởi vì sao ? Vì
người tâm chưa định khởi quán như vầy : Đây là sắc, sắc nhóm,
sắc diệt, và đạo diệt sắc, sắc đắm vị, tội lỗi xuất ly.
Hỏi : Nếu là văn tuệ tư tuệ, vì sao nói chóng được hết lậu ?
Đáp : Tuy là văn tuệ tư tuệ như vậy phân biệt 5 ấm, có thể
phá được ngã tâm, nên mới nói chóng được hết lậu.
Ba thứ quán trí, là quán pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô
ngã. Nếu dùng pháp môn ấm, giới, nhập mà quán pháp hữu vi thì
không nghĩa lợi.
Hỏi : Nếu như vậy, trong lỗi trước đã nói vô thường, khổ,
trong xuất ly đã nói vô ngã, thì vì sao còn nói 3 thứ quán nầy ?
Đáp : Học tập 3 thứ quán, trước tiên là văn tuệ tư tuệ, rồi sau
tuệ tu. Trước trong văn tuệ tư tuệ nói 7 thứ, sau trong tuệ tu nói 3
thứ.
Bởi vì sao ? Nếu vô thường, khổ hoại tướng là hoại vô
thường, chứ không phải hành vô thường. Tuy nói trừ dục nhiễm
mà không nói trừ bằng cách nào, nên sau mới nói nghĩa 3 thứ
quán.
Hỏi : Sao gọi 8 nhẫn ?
Đáp : Nếu có trí có thể phá giả danh, đó gọi là nhẫn. Nhẫn
nầy là ở trong pháp noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.
Hỏi : Hành giả cũng nhẫn trong Phật Pháp Tăng và giới v.v...
Vì sao chỉ nói 8 ?
Đáp : Vì thắng hơn nên nói. Thắng gọi là cận đạo. Tuệ là trí
nên gọi nhẫn. Như là khổ pháp trí gọi là khổ pháp nhẫn, như vậy
v.v.... Bởi vì sao ? Vì trước dùng tư tuệ thuận đạo, sau được hiện
Thành Thật Luận Trang 567 Tuệ Quang Foundation
trí, như người chăn voi trước xem dấu chân voi, dùng trí so sánh
biết nó ở trong đó, rồi sau mới hiện thấy. Hành giả cũng như vậy,
trước dùng nhẫn trí so sánh suy lường Nê-hoàn, rồi sau dùng trí
hiện thấy. Cho nên kinh nói người biết, người thấy có thể được
hết lậu.
Phẩm 199 : Chín trí
Hỏi : Có luận sư nói : A-la-hán khi chứng tận trí được 9 thứ
trí của thế tục là : buộc cõi Dục, thiện, vô ký cho đến thiện, vô ký
cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Việc đó thế nào ?
Đáp : Không phải tất cả A-la-hán đều được hết các thiền
định, làm sao được hết 9 trí ?
Hỏi : Tất cả A-la-hán đều được thiền định chứ, có điều là
không phải tất cả đều có thể hiện vào ?
Đáp : Nếu không thể hiện vào, làm sao gọi là được ? Như
người nói tôi biết đọc sách vậy mà không biết một chữ. Điều này
cũng vậy.
Hỏi : Nếu người lìa dục mà chưa có thể hiện vào sơ thiền,
người đó mạng chung không sinh về đó sao ?
Đáp : Trong kinh nói : Trước ở đây vào, sau mới sinh đó.
Nay ở đây không vào làm sao mà sinh về đó được ?
Hỏi : Như khi lìa dục các thiền quá khứ vị lai đều đã vốn
được, mới được nhờ báo đó mà sinh ?
Đáp : Nghiệp vị lai không làm, không khởi, nên không có
quả báo được. Các thiền quá khứ đã từng sinh nơi tâm, nếu cùng
với quả báo thì không hại gì. Lại không nên được các nghiệp vị
lai, nếu có thể được thì tất cả vị lai lẽ ra đều phải được chứ
chướng ngại gì mà được không được ?
Hỏi : Nếu pháp vị lai không thể được, thì người học nhân
không nên thành tựu 8 phần, người vô học không nên thành tựu
10 phần.
Thành Thật Luận Trang 568 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì nếu nương đệ nhị thiền v.v... vào chính pháp
vị, thì người nầy vị lai mới được chính tư duy.
Lại nếu hành giả tận trí hiện tiền, bấy giờ vị lai được thế
chính kiến.
Lại có người nương định Vô sắc được quả A-la-hán. Người
nầy vị lai được chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp và chính
mạng.
Lại nếu người nương đệ tam thiền v.v... được Thánh đạo
được vị lai hỷ. Các pháp như vậy v.v... thì lẽ ra đều không. Cho
nên biết có pháp vị lai.
Lại nếu không người tu vị lai, làm sao được quả các thiền
định v.v...? Hành giả nếu ở trong đạo tỉ trí, đều được quả nhiếp
trong các trí các định, nếu không như vậy lẽ ra các quả đó thường
được.
Bởi vì sao ? Các quả đều phải được lúc hiện tiền. Điều này là
không thể. Cho nên biết phải có người tu trong vị lai ?
Đáp : Ông nói không các phần đó. Đó không hại gì. Bởi vì
sao ? Vì tôi nói giới v.v... các phần do thứ lớp mà được, đâu phải
đồng thời được. Cho nên không phải nạn vấn làm gì.
Ông nói được các chủng loại đó. Hành giả khi được khổ trí,
các loại trí khác đều gọi là được. Như được nhân chủng nên gọi là
được nhân tướng, cũng không nói ở trong từng niệm lần lượt được
nhân tướng. Điều này cũng như vậy.
Hỏi : Hành giả có các khổ v.v... các trí tuần tự được đó đều
đã rời bỏ, lại đồng thời được quả Tu-đà-hoàn nhiếp được các trí ?
Đáp : Các trí vô lậu được thì không mất.
Hỏi : Nếu trước được không mất thì được hành cũng không
khác biệt. Bởi vì sao ? Vì người được quả tức là hành giả. Có
những lỗi nầy ?
Đáp : Nếu không khác biệt, đâu có lỗi gì ? Như người thành
tựu cũng gọi hành giả. Đó cũng như vậy.
Thành Thật Luận Trang 569 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy còn được thắng pháp nên có sai biệt, cho nên
không lỗi. Như người thụ 5 giới, rồi lại được luật nghi xuất gia
cũng không mất giới đã thụ.
Lại người đắc quả không vì thấy đạo nên có sai khác. Như
người tuy biết việc trước lại vì việc hơn trước nên có sai khác.
Điều này cũng vậy, cho nên biết không có được vị lai.
Lại hành giả an trụ trí không vô ngã, bấy giờ làm sao được
pháp thế gian ? Cho nên biết khi được tận trí không được thế trí.
Hỏi : Các thế trí nầy cọng chung tận trí, được cùng với A-lahán
mà làm tâm xuất nhập định ?
Đáp : Tâm A-la-hán nối nhau mà sinh niệm niệm đều thanh
tịnh. Nếu lại được 9 trí thì nhãn v.v… đều được nữa. Nếu không
như vậy thì không nên chỉ được 9 trí.
Lại nói người tu vị lai đều không nhân duyên.
Bởi vì sao ? Vì trong các thuyết kiến đế đạo nầy chỉ tu tương
tự trí.
Trong tư duy đạo cũng tu tương tự và không tưong tự.
Trong kiến đế đạo không tu thượng địa.
Trong tư duy đạo thì tu.
Trong đạo tỉ trí không tu thiện thế tục.
Trong các trí khác thì tu.
Trong vô ngại đạo không tu tha tâm trí.
Khi tín giải thoát chuyển làm kiến đến thì trong tất cả vô ngại
giải thoát không tu thế tục đạo.
Khi thời giải thoát chuyển làm bất hoại giải thoát thì trong 9
vô ngại và 8 giải thoát đạo không tu thế tục đạo, mà trong giải
thoát đạo thứ 9 thì tu.
Trong vi tế tâm không tu tất cả vô lậu.
Như vậy v.v... đều không nhân duyên. Cho nên ông nay hoặc
nói chính nhân, hoặc nên tín thụ, hoặc lấy học tập làm tu, khi còn
ở trong noãn pháp v.v..., các thiện căn trên tất cả đều tu, để đều
Thành Thật Luận Trang 570 Tuệ Quang Foundation
được tăng ích. Như tụng tập kinh sách thì đều sáng tỏ. Cho nên
khi còn ở trong noãn pháp v.v..., cho đến tận trí tất cả đều tu. Nếu
không phải như vậy thì phải nói chính nhân.
Phẩm 200 : Mười trí
Mười trí, là pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí, danh tự trí, 4 đế trí,
tận trí và vô sinh trí.
Biết pháp hiện tại gọi là pháp trí. Như trong kinh nói : Phật
bảo A-nan : Ông đối với pháp nầy thấy biết như vậy, thông suốt
như vậy, quá khứ vị lai cũng biết như vậy. Lẽ ra phải nói hiện tại
pháp trí. Nay không nói hiện tại nên chỉ nói pháp trí. Như trong
kinh nói : Người ngu quý pháp hiện tại, người trí quý vị lai.
Lại nói các dục hiện tại, các dục vị lai đều là lưới ma, bị ma
trói ma buộc. Trong những câu như vậy v.v... đều nên nói tiếng
hiện, nhưng vì lược bớt tiếng hiện nên chỉ nói có pháp trí.
Biết các pháp còn tàn dư gọi là tỉ trí. Tàn dư là các pháp quá
khứ vị lai. Kế tiếp pháp hiện tại sau mới biết nên gọi tỉ trí.
Bởi vì sao ? Vì trước hiện biết rồi rồi sau mới so sánh biết.
Pháp trí gọi là hiện trí. Tùy theo pháp trí nầy mà tư duy suy lường
so sánh biết gọi là tỉ trí.
Hỏi : Tỉ trí nầy là vô lậu trí, vô lậu trí làm sao gọi tỉ trí được
?
Đáp : Thế gian cũng có tỉ trí.
Bởi vì sao ? Vì pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí, khổ trí, diệt trí và
đạo trí đều có hữu lậu, vô lậu. Các trí nầy ở trong pháp noãn v.v...
là hữu lậu mà vào trong pháp vị mới được gọi vô lậu.
Hỏi : Có người nói biết các hành cõi Dục: các hành tập, các
hành diệt, các hành diệt đạo, gọi là pháp trí. Biết các hành 2 cõi
Sắc, Vô sắc 4 thứ gọi là tỉ trí. Việc đó thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 571 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trong kinh nói Phật bảo A-nan rằng trong đời quá khứ
vị lai cũng biết như vậy, chứ không có kinh nói biết các hành
trong 2 cõi Sắc và Vô sắc gọi là tỉ trí.
Lại trong kinh nói : Hành giả nên nghĩ: Ta nay đang bị hiện
sắc xâm thực, quá khứ cũng đã từng bị sắc xâm thực, trong vị lai
cũng sẽ bị sắc xâm thực.
Lại trong kinh nói : Sinh duyên già chết, trong đời quá khứ,
vị lai cũng như vậy. Như Bồ-tát Mã Minh nói kệ :
Như hiện tại lửa nóng,
Khứ lai lửa cũng nóng.
Hiện tại 5 ấm khổ,
Khứ lai ấm cũng khổ.
Các khổ như vậy v.v... các Đại luận sư cũng đều nói như vậy.
Lại biết pháp đời quá khứ vị lai gọi là tỉ trí, cũng có đạo lý.
Bởi vì sao ? Vì hành giả đối với khổ quá khứ vị lai hiện tại
đều chán lìa. Chán lìa là ở trong pháp đó sinh chân trí tuệ. Như
hành khổ hiện tại, thì các hành khứ lai cũng khổ như vậy. Nay
dùng trí nào biết pháp quá khứ vị lai ? Như pháp trí này, các hành
cõi Sắc, Vô sắc cũng có khứ lai, cái biết trong đó cũng phải gọi
pháp trí. Vậy thì chỉ là pháp trí không có tỉ trí. Nếu hành trong
khứ lai cõi Sắc Vô sắc riêng có trí đó, thì hành khứ lai trong cõi
Dục lẽ ra cũng phải riêng có trí đó ?
Vì những nghĩa nầy nên các luận sư nói : Có được, chưa
được nên thứ lớp thấy đế. Khổ cõi Dục gọi là được. Khổ cõi Sắc
và Vô sắc gọi là chưa được. Cho nên không thể đồng thời đều biết
hết. Nếu khổ chưa được, dùng tỉ trí mà biết. Nay trong cõi Dục
chỗ chưa được khổ, cũng nên dùng tỉ trí mà biết.
Hỏi : Dùng trí nào để dứt kết đạo ?
Đáp : Chỉ nên dùng pháp trí, tỉ trí ở trong phương tiện đạo.
Hỏi : Dùng pháp trí gì ?
Đáp : Dùng khổ pháp trí diệt pháp trí.
Thành Thật Luận Trang 572 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì hành giả khi quán vô thường, khổ thấy
không, vô ngã, bấy giờ chứng các hành diệt. Các trí khác đều là
phương tiện.
Hỏi : Quán khổ nào diệt ?
Đáp : Quán các thụ khổ. Trong đó có thể sinh ngã tâm. Cho
nên cũng ở trong đó thấy diệt. Như nói nội giải thoát. Cho nên các
ái diệt hết, tự nói được A-la-hán.
Hỏi : Trong kinh không nói tất cả hành dứt gọi dứt tính ư ?
Đáp : Hành giả nầy vì chứng nội diệt, nên chán lìa tất cả.
Lại hành giả quyết phải chứng nội diệt, ngoải ra không cần
phải nhất đinh.
Hỏi : Ở trong các đế, trí sinh như thế nào ?
Đáp : Biết sinh khổ v.v... sinh.
Hỏi : Đó không phải định tâm làm sao sinh trí được ?
Đáp : Có phép quán như vậy. Cũng có ấm vô thường các lỗi
sinh tưởng khổ, vô ngã. Như trong kinh nói : Nếu pháp vô thường
tức là vô ngã.
Bởi vì sao ? Vì mắt v.v... các căn có sinh có diệt. Nếu đó là
ngã, ngã tức sinh diệt, nên biết không phải ngã. Khi mắt v.v... sinh
không từ đâu đến, vì có sở tác mới gọi là ngã, mà trong kinh nói
không có tác giả, cho nên biết nếu pháp vô thường tức là vô ngã.
Như vậy hành giả khéo tu vô thường và vô ngã, nên thân tâm
được tịch diệt, có sinh bao nhiêu hành đều giác biết cái não hại
của chúng mới sinh tưởng khổ, như bò không da, chạm một chút
là biết đau. Hành giả cũng vậy, nhờ tưởng vô ngã nên thành tưởng
thượng khổ. Người ngu vì tưởng ngã nên dù bị đại khổ vẫn không
biết nó não hại. Đó gọi là khổ trí.
Thấy các hành sinh gọi là tập trí. Thấy các hành diệt gọi là
diệt trí. Niệm đạo lấyy chung gọi là đạo trí:
Hỏi : Sao gọi là tận trí ?
Đáp : Hết tất cả tướng nên gọi tận trí.
Thành Thật Luận Trang 573 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì học nhân tướng dứt rồi sinh lại. Còn đây dứt
rốt ráo nên gọi tận trí. Như trong kinh nói nếu biết tướng vọng chỉ
là vọng tưởng thì các khổ hết. Tâm trí học nhân chỉ lấy vọng
tưởng làm ngã; dứt hẳn tâm đó gọi là tận trí. Như trong kinh nói :
A-la-hán ở trước Phật tự nhớ lời Thế Tôn nói các kết ta không còn
nữa. Ta đối kết đó không còn sinh nghi. Ta thường nhất tâm nhiếp
chính niệm chính hành, tham v.v... bất thiện không lọt vào tâm.
Trong đó lấy tướng nên sinh các kết, các tướng dứt nên các kết
dứt. Học nhân hành nơi tướng vô tướng, nên ngã tâm thỉnh thoảng
phát khởi. Như thấy gốc cây trơ trụi nghi là người. Cho nên chỉ Ala-
hán độc nhất được không nghi, vì tâm thường hành trong vô
tướng cho nên hiện chúng sinh không. Trong 5 ấm không thấy
thần ngã. Sau do pháp không, nên không thấy sắc tính cho đến
thức tính. Cho nên biết tất cả tướng gọi là tận trí.
Biết các tướng không sinh gọi là vô sinh trí. Học nhân dứt
tướng hết rồi sinh lại. Người vô học tướng hết rồi không sinh nữa.
Nếu có thể khiến các tướng diệt hết không còn sinh lại, bấy giờ
gọi là vô sinh trí.
Hỏi : Học nhân cũng biết có tận trí vô sinh trí, như nghĩ: Ta
hết 3 kết không còn sinh lại. Vì sao không nói 10 phần thành tựu ?
Đáp : Học nhân không dứt tất cả tướng, nên không nói có tận
trí vô sinh trí, như người bị trói cột khắp mình, tuy mở được một
chỗ nhưng không gọi đã được thoát. Cũng có nghĩa như thế nầy :
Xá-lợi-phất nói họ Cấp Cô Độc 10 phần thành tựu.
Lại A-la-hán được sức tự tại nên tự biết kết hết không còn
sinh lại. Học nhân không được như vậy.
Lại A-la-hán khi được vô học đạo có thể tự biết hết tất cả
sinh, gọi là tận trí. Người thành tựu Phạm hạnh là xả các học
hành. Người việc làm đã làm xong là các việc đáng làm đều đã
làm xong, biết thân từ đây không còn nối nhau luôn nữa. Cho nên
biết chỉ A-la-hán đối với tất cả việc làm phải được tự tại thành tựu
Thành Thật Luận Trang 574 Tuệ Quang Foundation
tận trí và vô sinh trí, chứ không phải các người học nhân, ví như
người bị bệnh sốt rét tuy lúc không phát nhưng không gọi là
người lành bệnh. Như trong kinh nói : Lìa tất cả chỗ hỷ, diệt tất cả
chỗ ưu, chứng tất cả pháp diệt, thường tu tâm vô lậu.
Tha tâm trí, là như trong 6 thông nói 5 ấm hòa họp giả danh
chúng sinh. Các tên trí trong đây gọi là danh tự trí, vô lậu trí, chân
thật trí. Tương tự vô lậu nầy được gọi là trí, nên gọi danh tự trí.
Hỏi : Có người nói tất cả chúng sinh thành tựu các trí. Việc
đó thế nào ?
Đáp : Nếu đệ tử Phật có thể biết các pháp do nhiều duyên
sinh, người đó có thể được, chứ đâu phải chúng sinh khác. Nhờ
được tên trí nên tất cả chúng sinh chỉ dùng tưởng mà biết, nếu
được trí nầy gọi là nội phàm phu.
Phẩm 201 : Bốn mươi bốn trí
Hỏi : Trong kinh nói 44 trí là : lão tử trí, lão tử tập trí, lão tử
diệt trí, lão tử diệt đạo trí, sinh, hữu, lấy, ái, thụ, xúc, 6 nhập, danh
sắc, thức, hành cũng như vậy. Vì sao nói như vậy ?
Đáp : Nê-hoàn là chân pháp quí báu, nên dùng nhiều cửa để
vào : Có dùng cửa 5 ấm mà vào, hoặc quán giới, nhập, nhân
duyên và các đế. Các cửa như vậy đều đến Nê-hoàn.
Làm sao biết được ? Như trong kinh nói : Vua ở trong thành,
có 2 sứ giả đến do mỗi người vào mỗi cửa. Đến rồi yết kiến nhà
vua và tâu bày sự thật; tâu xong lui về. Người vào các cửa khác
cũng vậy.
Trong đó vua dụ cho hành giả, các cửa là quán ấm giới nhập
v.v..., 2 sứ giả là như pháp Chỉ và Quán. Người tâu bày sự thật là
thông đạt chân không. Các sứ giả nầy tuy từ các cửa vào nhưng
đều đến một chỗ. Như vậy tuy quán ấm giới nhập v.v... các môn
phương tiện nhưng đều vào Nê-hoàn. Như La-hầu-la nói : Khi ở
Thành Thật Luận Trang 575 Tuệ Quang Foundation
một mình chỗ vắng suy nghĩ pháp, biết pháp như vậy đều tùy
thuận hướng về và ngợi khen Nê-hoàn.
Lại Phật ca ngợi pháp rằng : Pháp nầy có thể tắt lửa phiền
não nên gọi là diệt có thể khiến hành giả tâm được yên ổn, nên gọi
là yên ổn, có thể khiến hành giả đến Chính biến tri nên gọi là đến.
Những nghĩa như vậy đều ca ngợi Nê-hoàn.
Lại phạm hạnh là 8 con đường chính. Trong 8 con đường
chính, chính trí là cao hơn, mà quả của chính trí là Nê-hoàn.
Lại Phật nói ra giáo pháp đều vì Nê-hoàn. Cho nên biết các
cửa 5 ấm v.v... đều đến Nê-hoàn.
Hỏi : Có luận sư nói lão tử trí là khổ trí. Việc đó thế nào ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì trong đó không nói
khổ hành, nên không phải khổ trí.
Hỏi : Vậy thì đó là trí nào ?
Đáp : Đó gọi là lão tử tính trí.
Hỏi : Cũng nói biết lão tử tập, lão tử diệt, lão tử diệt đạo.
Nên biết phải là khổ trí ?
Đáp : Đó là nhân duyên môn, không phải chân đế môn. Cho
nên trong đó không nên nói khổ hành, mà nên nói tập v.v... vì
thuận với nhau hơn.
Hỏi : Trong đó vì sao không nói các trí vị, quá, xuất v.v...?
Đáp : Các nghĩa đó đều có, chỉ vì người kết tập kinh lược bớt
nên không nói.
Phẩm 202 : Bảy mươi bảy trí
Hỏi : Trong kinh nói 77 trí là sinh duyên lão tử, không lìa
sinh mà có lão tử. Trong 2 đời quá khứ vị lai cũng như vậy. Đó là
pháp trụ trí, quán vô thường, hữu vi tạo tác khởi do nhiều duyên
sinh. Tận tướng, hoại tướng, ly tướng, diệt tướng cũng quán như
vậy. Cho đến vô minh duyên hành cũng như vậy. Vì sao trong đó
không nói lão tử tính và diệt đạo v.v...?
Thành Thật Luận Trang 576 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Vì người có trí sắc bén nên nói như vậy. Chỉ mở cửa là
có thể biết, pháp khác cũng như vậy.
Lại ngoại đạo phần nhiều đối với pháp nhân duyên nói lầm
rằng vạn vật thế gian là do thế tính v.v..., nên Phật ở đây chỉ nói
nhân duyên.
Hỏi : Đã nói sinh duyên lão tử, vì sao lại nói không lìa ?
Đáp : Là nói quyết định, vì trong các pháp có nhân bất định.
Như bố thí là nhân phúc, mà trì giới cũng được phúc, như nói trì
giới được sinh lên trời. Hoặc có người sinh ý nghĩ lão tử nhân
duyên sinh, hoặc không nhân duyên sinh, nên phải nói quyết định.
Hỏi : Vì sao trong đời quá khứ vị lai lại phải nói quyết định ?
Đáp : Hiện tại với quá khứ có tướng khác, nghĩa là chúng
sinh đời quá khứ thọ mạng vô lượng, uy thế đồng với chư thiên.
Có những điều như vậy, sợ e người nghi rằng thọ mạng v.v... khác
với lão tử, nên nhân duyên cũng phải khác, nên phải nói quyết
định. Vị lai cũng vậy. Sáu thứ nầy gọi là pháp trụ trí, ngoài ra gọi
Nê-hoàn trí. Có thể khiến lão tử nối nhau luôn, nên gọi vô thường
hữu vi tác khởi, do nhiều duyên sinh. Tận tướng, hoại tướng tức là
vô thường hành. Ly tướng tức là khổ hành. Diệt tướng tức là
không vô ngã hành.
Bởi vì sao ? Vì trong đó sắc tính diệt, thụ tưởng hành thức
tính diệt tức là nghĩa của 3 thứ quán. Như trong kinh nói : Tìkheo
có 7 chỗ phương tiện, 3 thứ quán nghĩa, chóng được hết lậu.
Đó đều là Nê-hoàn trí. Như vậy v.v... nhân duyên trí có trăm ngàn
vô lượng, nghĩa là nhãn trí v.v..., như trong kinh nói : Mắt duyên
nghiệp, nghiệp duyên ái, ái duyên vô minh, vô minh duyên tà
niệm, tà niệm duyên nhãn sắc, các lậu duyên tà niệm, các ăn
duyên ái, 5 dục duyên ăn đoàn thực v.v..., địa ngục đoản mạng
duyên sát sinh v.v.... Nếu trước khổ nay khổ đều duyên vọng
tưởng, vọng tưởng duyên thân tâm yêu ghét, yêu ghét duyên tham
Thành Thật Luận Trang 577 Tuệ Quang Foundation
dục, tham dục duyên tà tư duy. Cứ như vậy v.v... các nhân duyên
trí vô lượng vô biên, tự phải biết lấy./.
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 16 hết, trọn bộ )
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên