Kính huynh Khuclunglinh,
Thiên Không có đọc bài huynh viết trong chuyên mục này và xin gởi góp vài ý đến huynh xem qua:
- Hộ kiếp hay là Hữu phần luôn có mặt trong dòng tâm thức chúng sanh có đủ 5 uẩn từ phàm phu tới Thánh Vô lậu còn chưa tịch diệt.
- Sau loạt diễn tiến của Tâm hộ kiếp vừa qua, rúng động, dứt dòng, khán ngũ môn (ngũ song thức), tiếp thu, quan sát, phán đoán, 7 đổng lực (thiện hoặc bất thiện) - trong trường hợp không phải là vị A La Hán, Tâm na cảnh, trở lại Hữu phần bất định số tâm sinh diệt tới tâm Cận tử. Trong các trường hợp đặc biệt như Nhập định, Đắc quả, Nhập thiền diệt thì sau một loạt diễn tiến của tâm thiền thì trở lại tâm dục giới (nếu vị đó sống tại 7 cõi vui Dục giới = 6 cõi Trời + 1 cõi Nhân loại chúng ta) thì vẫn quay trở lại tâm Hữu phần có duyên từ Dục giới (gọi là tâm bình nhật); nếu vị ấy ở 2 cõi thiền Sắc và Vô sắc giới thì sẽ là tâm Hữu phần có duyên từ 2 cõi ấy mà không có Na cảnh trong lộ tâm đặc biệt.
- Rúng động, Dứt dòng do có tác động chủ quan hoặc khách quan làm tạm dừng dòng Hữu phần cố hữu của kiếp sống hiện tại chứ không đứt luôn, bởi nếu đứt luôn chỉ có 2 trường hợp: người chết hoặc vị Thánh Vô lậu nhập Bát niết bàn.
- Tâm hữu phần không phải là tâm sở Tưởng mà là phần tiến triển của tâm Tục sinh ở kiếp sống vừa qua, Tâm hữu phần còn có tên là tâm Hộ kiếp tức là bảo hộ kiếp sống của chúng sanh (phàm - thánh) nếu đứt tâm Hữu phần (hữu phần bị diệt mà không kịp sinh khởi) thì chúng sinh đó bị chết. Trong lộ cận tử thì tâm cận tử xuất hiện làm duyên cho các tâm sở Tưởng xuất hiện đóng vai trò hỗ trợ tâm Tục sinh kiếp sống mới thông qua các hình ảnh hiện ra trong tâm người sắp chết, kinh sách gọi là Nghiệp tướng, Thú tướng lấy từ cuộc sống bình nhật hoặc cảnh giới chứng thiền mà ra.
- Đối với vị Thánh hữu học thì từ thời điểm chứng thánh tuệ do tuệ Chuyển tộc làm duyên khiến cho dòng Hữu phần bị thay đổi tính chất trở thành Hữu phần thánh nhân còn gọi là nhập dòng Thánh (nhập lưu). Đối với vị Thánh Vô lậu thì thời điểm chứng Lậu tận trí thì tuệ Chuyển tộc được gọi là Dũ tịnh tức là nâng cấp lên từ Thánh bậc thấp thành bậc cao, lúc này tuệ Dũ tịnh từ Hữu học sang Vô học khiến cho tâm Hữu phần trở thành tâm Duy tác (chỉ có hành động mà không tạo quả), một tên gọi khác là Tâm Tố.
Trong suốt cuộc đời còn lại của vị Thánh Vô lậu tuy dùng danh từ Hữu phần nhưng thật chất là Duy tác trong mọi sự: thiền của bậc Thánh hữu học gọi là Thiền thiện siêu thế, nhưng cũng thiền đó mà bậc Lậu tận thực hiện thì gọi là Duy tác siêu thế. Thần thông của bậc Thánh hữu học và phàm nhân đắc thiền gọi là Thông thiện nhưng với bậc Vô lậu thì sẽ gọi là Thông Duy tác hoặc Thông Tố. Thiền của phàm nhân là Thiền thiện Hiệp thế.
- Đối với phàm nhân thì Thú tướng sẽ là Nghiệp tướng: thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp Dục giới tích luỹ trong thời bình nhật (cuộc sống hàng ngày). Bậc thánh hữu học còn Nghiệp tướng và cảnh giới chứng đắc làm duyên cho tâm Tục sinh vào Thiện thú. Bậc thánh vô lậu dứt Nghiệp quả tương tục nên không có cảnh Nghiệp tướng, Thú tướng nên sau tâm Cận tử là trạng thái Vô sanh xuất hiện (tạm gọi như vậy cho dễ hình dung, chứ không còn gì xuất hiện ở đây cho bậc Lậu tận).
- Đối với người hoá sanh vào Sắc giới thì tâm hữu phần sẽ là tâm Tục sinh cho kiếp làm Phạm thiên ấy, cảnh Cận tử sẽ là cảnh giới đắc và trú tầng thiền ấy (muốn hoá sanh vào Phạm thiên giới phải dùng tâm thiền đang trú trong thời điểm Cận tử), tương tự với Vô Sắc giới. Đối với người hoá sanh vào 6 cõi Trời Dục thì tâm Cận tử phải là tâm sở Tưởng câu thông với thiện nghiệp Dục giới (bố thí, trì giới, xả ly...) chứ không hẳn là Trần cảnh (vọng động và bất thiện nghiệp Dục giới) - bất thiện nghiệp Dục giới dẫn tới thoái đoạ vào 4 Khổ cảnh Dục giới (địa ngục, ngạ quỷ, a tu la, súc sinh).
Kính.