Thảo luận về Ngủ Uẩn(VQ chuyển về từ GLTT)

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63

Kính Doccoden,
Những người tu có chút thành tựu thì khả nằng thấy tiền kiếp của mình và của chúng sanh cũng là hết sức bình thường. Các vị chân tu tùy căn duyên cũng có khả năng này. Một điều hết sức bình thường. Do đó Nammo không nói sai. Có một số bạn đạo trong diễn đàn này vì chưa hay không có căn duyên trải nghiệm những điều này nên khi nghe namo chia sẻ cứ nghĩ bạn ấy sai đường. Nhưng kỳ thật những vĩ chân tu có khả năng này. Và trong kinh điển Đức Phật hay các vị tổ đều có khả năng này. A di đà Phật!


Chào bạn nguoidienhocphat1.

Khi tìm hiểu phật giáo thì chúng ta nên dùng trí tuệ để phán xét đúng sai, chứ không nên tin suông, vì như vậy chẳng khác gì ngoại đạo. Khi đã công nhận những điều căn bản của phật giáo là đúng đắn thì dựa vào đó mà suy xét những vấn đề khác để không bị lầm tưởng nữa.

Những gì bạn nói ở trên từ đâu mà có? Do bạn đọc kinh sách nghe nói như vậy là bạn tin rằng sự thật là như vậy à? :D Vậy kinh phật viết rằng Phật sinh ra từ nách, mới sinh ra đã biết đi biết nói, thì bạn có tin điều đó là sự thật không? Kinh phật viết có long cung, có rồng, thì bạn có tin điều đó không? :D
 
Last edited by a moderator:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Kinh Vị Tằng Hữu - Trung A Hàm. đã viết:
“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn biết mình trụ trong thai mẹ, tựa vào hông bên phải. Nếu Đức Thế Tôn biết mình trụ trong thai mẹ, tựa vào hông bên phải, thì con xin thọ trì pháp vị tằêng hữu này của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn hình thể duỗi dài trụ trong thai mẹ. Nếu Đức Thế Tôn hình thể duỗi dài trụ trong thai mẹ, thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn, được bao che, trụ trong thai mẹ, không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí các thứ bất tịnh khác làm cho ô uế. Nếu Đức Thế Tôn, được bao che, trụ trong thai mẹ, không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí bất tịnh khác làm cho ô uế; thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn biết mình ra khỏi thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất trời, có ánh sáng vi diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối, cũng không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt trăng này dù có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu rọi ánh sáng đến được, thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời.

Chúng sanh ở các nơi ấy do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức rằng: ‘Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời!’

Nếu Đức Thế Tôn biết mình ra khỏi thai mẹ, lúc ấy chấn động tất cả đất trời, có ánh sáng vi diệu quảng đại chiếu khắp thế gian cho đến chỗ u tối, cũng không có gì ngăn che được; nghĩa là nơi nào mặt trời, mặt trăng này dù có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không chiếu rọi ánh sáng đến được, thì tất cả nơi ấy đều được chiếu ngời. Chúng sanh ở các nơi ấy do thấy ánh sáng nhiệm mầu này đều mỗi mỗi phát sanh nhận thức rằng: ‘Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời! Có một chúng sanh kỳ diệu, hy hữu ra đời!’ Thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn thân thể duỗi dài mà ra khỏi thai mẹ. Nếu Đức Thế Tôn thân thể duỗi dài mà ra khỏi thai mẹ thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu này của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, Đức Thế Tôn được bao che khi ra khỏi thai mẹ, không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí và các vật bất tịnh khác làm cho ô uế. Nếu Đức Thế Tôn được bao che khi ra khỏi thai mẹ, không bị máu dơ làm cho ô uế, cũng không bị tinh khí và các thứ bất tịnh khác làm cho ô uế; thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu này của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, khi Đức Thế Tôn mới sanh ra, có bốn vị thiên tử, tay cầm tấm vải rất mịn đứng trước thai mẹ, làm cho người mẹ hoan hỷ, tán thán rằng: “Đồng tử này rấy kỳ diệu, rất hy hữu, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hữu, có đại oai thần’. Nếu như Đức Thế Tôn mới sanh ra, có bốn vị thiên tử, tay cầm tấm vải rất mịn đứng trước thai mẹ, làm cho người mẹ hoan hỷ, tán thán rằng: “Đồng tử này rấy kỳ diệu, rất hy hữu, có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hữu, có đại oai thần’. Thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu này của Đức Thế Tôn.

“Con nghe rằng, khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, liền đi bảy bước không khiếp sợ, không kinh hãi, quan sát các phương. Nếu Thế Tôn vừa mới sanh ra, liền đi bảy bước không khiếp sợ, không kinh hãi, quan sát các phương; thì con xin thọ trì pháp vị tằng hữu này của Đức Thế Tôn.

Kinh điển Phật giáo nói về sự ra đời của Đức Phật kể lại hai chi tiết quan trọng là Hoàng hậu Maha Maya mang thai đến 10 tháng âm lịch mới sinh ra Thái tử Tất Đạt Đa và sau khi sinh Thái tử bảy ngày thì Hoàng hậu qua đời. Người ta nhớ chi tiết thứ hai nhưng thường bỏ qua chi tiết thứ nhất, mà đó là một chi tiết then chốt trong việc tìm hiểu thực chất sự ra đời của Đức Phật.

Theo Wikipedia , một tháng âm lịch luân phiên là 29 và 30 ngày, tương ứng với tháng thiếu và tháng đủ. Tính ra, một tháng âm Lịch trung bình có 29,5388 ngày. Như vậy, 10 tháng âm lịch là khoảng hơn 295 ngày, hay hơn 42 tuần.

1. Trong y khoa, thời gian mang thai trung bình là 40 tuần. Một thai nhi sinh ra trước tuần thứ 38 của thai kỳ (tức 2 tuần sớm hơn thời gian trung bình) gọi là sinh non (prematurity) và một thai kỳ kéo dài 42 tuần (tức 2 tuần chậm hơn thời gian trung bình) gọi là thai kỳ quá ngày (postterm pregnancy) hay sinh muộn (postmaturity).

Sự phát triển trong thời kỳ bào thai rất nhanh, cho nên trong thời gian hai tuần kéo dài hơn trung bình này, [ngoại trừ những trường hợp bệnh lý (pathologic postterm pregnancy)] bào thai sẽ lớn hơn bình thường khiến cho sản phụ khó có thể sinh con theo đường âm đạo bởi vì đầu của thai nhi quá lớn không thể chui ra khỏi khung chậu. Đó là tình trạng mà trong khoa sản gọi là bất tương xứng đầu-chậu (cephalopelvic disproportion). Biến chứng của tình trạng này nếu không kịp thời giải phẫu lấy thai là vỡ tử cung, đưa đến tử vong cả mẹ lẫn con.

Thai kỳ kéo dài đến một lúc nào đó rồi cũng sẽ dẫn đến sự chuyển dạ, khi đó các bắp thịt tử cung sẽ co bóp rất mạnh để tống bào thai ra ngoài. Có lẽ lúc Hoàng hậu Maha Maya đến gần cây hoa vô ưu, Hoàng Hậu bắt đầu chuyển dạ. Trong tình huống đó, với trình độ của người thầy thuốc vào hạng giỏi nhất của triều đình, ngự y của hoàng hậu (chắc chắn thế nào cũng tháp tùng hoàng hậu trong chuyến đi này) hiểu rằng hoàng hậu không thể sống sót qua lần sinh đẻ này nên đã sáng suốt và dũng cảm quyết định rạch bụng của Hoàng Hậu để cứu Thái tử.

Theo Wikipedia, điều này đã từng được thực hiện tại La Mã. Theo phong tục có từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên ở La Mã, khi người phụ nữ có thai đến tháng thứ 10, người ta buộc lòng phải hy sinh người mẹ bằng cách mổ bụng sản phụ khi người này còn sống để cứu thai nhi. Phong tục này chứng tỏ lúc đó người ta hiểu rằng (với trình độ sản khoa thời bấy giờ, chưa có kỹ thuật mổ lấy thai, kềm (forceps), giác hút (ventouse) người đàn bà có thai kỳ kéo dài 10 tháng không thể nào sống sót sau khi sinh.

Chính quyết định sáng suốt và dũng cảm của ngự y rạch bụng hoàng hậu khi hoàng hậu còn sống không những đã cứu sống Thái tử Tất Đạt Đa mà còn kéo dài cuộc sống của hoàng hậu thêm bảy ngày. Nếu không, việc vỡ tử cung nhất định không thể nào tránh khỏi và hậu quả của vỡ tử cung kèm xuất huyết nội khó lòng kéo dài sự sống của hoàng hậu đến bảy ngày.


2. Về phương diện cơ thể học vùng bụng, ở phía sau có cột xương sống và nhiều lớp cơ rất chắc trong đó có Cơ Lưng Lớn (Le muscle grand dorsal - latin: musculus latissimus dorsi).

Phía trước có các cơ Thẳng Lớn và một cấu trúc sợi chạy từ xương ức đến xương mu gọi là Đường Màu Trắng (Linea alba). Những cơ Thẳng Lớn và Đường Màu Trắng rất chắc.

Phía ngoài bờ ở hai bên Cơ Thẳng Lớn tương ứng với vùng hông là những chỗ yếu trong vành đai của bụng. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng ngự y đã rạch bụng hoàng hậu Maha Maya ở vùng hông để lấy bào thai ra. Một đường rạch ở vùng này có lẽ ít gây tổn thương hơn đường rạch qua cơ thẳng lớn. Điểm đáng lưu ý rằng đây là cuộc giải phẫu cấp cứu, khác với cuộc giải phẫu lấy thai (césarienne – C-section) có sửa soạn như thường làm hiện nay.

(Link)
http://thegioivohinh.com/diendan/sh...-hông-bên-phải-quot-thực-hay-huyền-thoại-quot



Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã viết:
Bấy giờ, ở hạ phương vị Bồ-Tát theo hầu đức Đa-Bảo Như-Lai tên là Trí-Tích bạch với đức Đa-Bảo-Phật nên trở về bổn quốc. Đức Thích -Ca Mâu-Ni Phật bảo Trí-Tích rằng: "Thiện-nam-tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ-Tát tên Văn-Thù-Sư-Lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ".

Lúc đó, ngài Văn-Thù-Sư-Lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ-Tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta-Kiệt-La trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh-Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, làm lễ xong, qua chỗ Trí-Tích cùng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.

Ngài Trí-Tích Bồ-Tát hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu?"

Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói: "Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết".

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Đề Bà Đạt Đa. đã viết:
Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói : "Ta ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa".

Ngài Trí-Tích hỏi ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: "Kinh này rất sâu vi diệu là báu trong các kinh, trong đời rất ít có vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau được thành Phật chăng?

Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi nói:
Có con gái của vua rồng Ta-Kiệt-La mới tám tuổi mà căn tính lanh lẹ, có trí huệ, khéo biết các căn tính hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng-trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát-na phát tâm Bồ-đề được bậc Bất-thối-chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhân đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến Bồ-đề".

Trí-Tích Bồ-Tát nói rằng :
"Tôi thấy đức Thích-Ca Như-Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ-đề chưa từng có lúc thôi dứt: Ta xem trong cõi tam-thiên đại-thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hạt cải, mà không phải là chỗ của Bồ-Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sau mới được thành đạo Bồ-đề, chẳng tin Long-Nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc Chánh-giác".

Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long-vương bỗng hiện ra nơi trước đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:

Thấu rõ tướng tội phước

Khắp soi cả mười phương

Pháp thân tịnh vi diệu

Đủ ba mươi hai tướng

Dùng tám mươi món tốt

Để trang nghiêm pháp thân

Trời, người đều kính ngưỡng

Long thần thảy cung kính

Tất cả loài chúng sanh

Không ai chẳng tôn phụng

Lại nghe thành Bồ-đề

Chỉ Phật nên chứng biết

Tôi nói pháp Đại-thừa

Độ thoát khổ chúng sanh.​

Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Quyển 7. đã viết:
Bởi do thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, hòa hợp thành sanh, vọng tưởng ngang dọc, vì thế nên có loài thai sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như người, súc, rồng, tiên, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Chào bạn nguoidienhocphat1.

Khi tìm hiểu phật giáo thì chúng ta nên dùng trí tuệ để phán xét đúng sai, chứ không nên tin suông, vì như vậy chẳng khác gì ngoại đạo. Khi đã công nhận những điều căn bản của phật giáo là đúng đắn thì dựa vào đó mà suy xét những vấn đề khác để không bị lầm tưởng nữa.

Những gì bạn nói ở trên từ đâu mà có? Do bạn đọc kinh sách nghe nói như vậy là bạn tin rằng sự thật là như vậy à? :D Vậy kinh phật viết rằng Phật sinh ra từ nách, mới sinh ra đã biết đi biết nói, thì bạn có tin điều đó là sự thật không? Kinh phật viết có long cung, có rồng, thì bạn có tin điều đó không? :D

Kính doccỏden
Hãy tu đi hãy trải nghiệm đi từ từ sẽ biết. Tự mình uống nước mới biết nước nóng lạnh. Khi mà tu tốt mai sau thì sẽ thấy suy nghĩ của mình bây giờ nó ngây ngô ấu trĩ và đầy ngã chấp. Con người bản chất côi chap sâu dày nên cứ thay cái gì khác mình đều cho là sai và luôn cho rằng suy nghĩ mình luôn luôn đúng mặc dù những cái đó mình chẳng biết gì và chưa bao giờ trải nghiệm thực chứng qua. A di Đà phật.
 

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63
Hơn nữa điều mà Nam Mô Nam Mô đưa ra không phải là lục thông của người đắc đạo ở đạo Phật. Đó chỉ là một trạng thái tinh thần mà được các nhà khoa học đặt cho cái tên là Deja Vu.
Nếu muốn tìm hiểu cái này thì vào đây thử: https://www.google.com.vn/search?q=...sourceid=chrome&ie=UTF-8#q=trạng+thái+Deja+Vu
Còn người tu học theo đạo Phật, thì hãy lấy chánh Pháp làm kim chỉ nam thì mới không bị sai đường lạc lối...


Chào bạn auduongphong.

Chính vì lấy chánh Pháp làm kim chỉ nam thì thấy rõ cái gọi là 'lục thông của người đắc đạo' là không có thật, kể cả đạo Ấn độ lẫn đạo Phật. Lấy 'Túc mệnh thông', là thần thông nhớ lại những kiếp trước của mình, đem ra suy xét thì thấy:

_ Để nhớ lại những gì đã xảy ra trước đây thì cần phải có ký ức và nơi lưu trữ nó.
_ Theo phật học cũng như khoa học thì khi chết, ký ức và bộ não lưu trữ ký ức đều bị hoại diệt.
_ Khi tái sinh thì một ngũ uẩn mới hình thành.
_ Ký ức và bộ não của con người tái sinh này không hề chứa ký ức cũ (vì ký ức và bộ não của kiếp trước đã bị hoại diệt rồi)

=> không thể nào nhớ lại kiếp trước.



Ví dụ về cái máy tính cho dễ thấy:

_ Trong máy tính, những dữ liệu được lưu trữ trong ổ cứng.
_ Nếu có một cái máy tính mới mà muốn lấy lại dữ liệu của máy tính cũ thì cần phải có ổ cứng của máy tính cũ trước đây.
_ Nếu ổ cứng của máy tính cũ bị hư hoặc mất đi thì không thể lấy lại dữ liệu từ máy tính trước.


Kính doccỏden
Hãy tu đi hãy trải nghiệm đi từ từ sẽ biết. Tự mình uống nước mới biết nước nóng lạnh. Khi mà tu tốt mai sau thì sẽ thấy suy nghĩ của mình bây giờ nó ngây ngô ấu trĩ và đầy ngã chấp. Con người bản chất côi chap sâu dày nên cứ thay cái gì khác mình đều cho là sai và luôn cho rằng suy nghĩ mình luôn luôn đúng mặc dù những cái đó mình chẳng biết gì và chưa bao giờ trải nghiệm thực chứng qua. A di Đà phật.


Cái quan điểm 'ai tu nấy chứng' được bọn ngoại đạo hay dùng lắm :D Khi có người bài bác những quan điểm sai trái của họ thì họ sẽ nói y như bạn vậy đó. Đại khái như vầy:

_ Những gì tôi thấy biết là do nội chứng mà ra nên không thể chứng minh.
_ Nếu các người không tin thì hãy tự mình làm theo hướng dẫn, khi đó sẽ tận mắt nhìn thấy.

Trường phái Yoga không chú trọng lý thuyết mà nhấn mạnh phần thực hành. Phương châm của họ là "Hãy thực hành và tự nhìn thấy".

Tất nhiên mỗi đạo giáo đều có cách thực hành và những điều "tự nhìn thấy" khác hẳn nhau, ai cũng cho rằng mình đúng còn những người khác sai. Vậy thì theo bạn nguoidienhocphat1, làm cách nào để biết được ai đúng ai sai? :D
 

auduongphong

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
29 Thg 4 2015
Bài viết
698
Điểm tương tác
264
Điểm
63
Vấn Đạo Thiền Sư Bassui (1327-1387)

Có người hỏi: "Chư Phật chư Tổ xưa nay đã dùng biết bao pháp môn và phương tiện để tu học pháp Phật, làm sao có câu nói là "không có gì ngoài kiến tánh thành Phật"? Xin đại sư chỉ giáo".
Bassui trả lời: "Ta thọ giới xuất gia trong những năm sau này, chưa từng học kinh. Ngươi hãy nói cho ta nghe có pháp nào ngoài việc "kiến tánh thành Phật" không.
Hỏi: "Theo như kinh nói, Đức Thế Tôn đã thành tựu Phật quả sau khi tu được Lục Độ Vạn Hạnh. Làm sao điều này có thể được gọi là "Kiến tánh thành Phật"?
Đại sư: "Lục Độ Vạn Hạnh" là gì?
Hỏi: "Đó là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ. Cho đi hết những gì mình có với tâm không phân biệt gọi là Bố Thí. Nghiêm trì giới luật gọi là Trì Giới. Đối với thân thù đều bình đẳng, dù có bị đánh mắng cũng không nổi giận, đó là Nhẫn Nhục. Làm những hạnh lành không ngưng nghỉ trên con đường tu tập và hoàn thành đại nguyện là Tinh Tấn. Tọa thiền cho thân và tâm được tĩnh lặng là Thiền Định. Học hỏi kinh pháp, thâm nhập giáo lý không ngăn ngại gọi là Trí Tuệ."
Bassui trả lời: "Tất cả những điều đó chỉ đem lại phước báo trong cõi Trời Người. Hành trì những hạnh đó là điều nên làm nếu so với những hành động vô minh - khởi từ tâm ham muốn, xấu ác, sân hận, lười biếng, bất tín, chao đảo trong tư tưởng hành động và si mê - khiến cho chúng sanh phải rơi vào ba cõi Tam Đồ não loạn. Nhưng đừng tường sáu hạnh đó có thể khiến cho ngươi thành Phật.
Lục Độ Vạn Hạnh mà Đức Phật hành trì là chánh pháp để kiến Tánh. Ánh sáng chân chính của Tự Tánh thắp lên cả vạn những đức tính quý báu và tùy duyên mà trải đều đến chúng sinh khắp các phương trời. Đó gọi là Bố Thí.
Tánh Phật nguyên thủy là trong sáng thuần khiết, là chủ của sáu căn, nhưng không bị sáu trần làm ô nhiễm. Người nào giác ngộ được tánh ấy thì thân tâm sẽ tự nhiên hòa hợp an ổn. Người ấy không cần phải cố ý tỏ ra mình đang giữ giới luật, cũng không hề khởi ác niệm trong tâm. Đó gọi là Trì Giới.
Bởi vì Tánh Phật thường hằng không hề có phân biệt giữa ta và người, nên người ở trong sự hòa đồng không đối đãi ấy sẽ chẳng khởi sân hận khi bị phê bình chỉ trích, cũng không vui mừng khi được tôn vinh. Đó gọi là Nhẫn Nhục.
Tánh Phật vốn đã có vô lượng điều ích lợi; nó làm cho mọi công đức đều thành tựu, khởi phát vô lượng pháp. Nó tiếp tục cho đến tương lai, không hề có giới hạn. Đó gọi là Tinh Tấn.
Tánh Phật không biến đổi, vượt khỏi mọi hiện tượng, mọi pháp tu, mọi giới luật, không phân biệt thánh và phàm, không ở trong sự giới hạn của ngôn ngữ, cũng không bị vướng mắc trong những đánh giá tốt và xấu. Đó gọi là Thiền Định
Tánh Phật tự nó là trong sạch, chiếu sáng vạn hạnh, là con mắt của thánh phàm như nhau, chiếu sáng thế giới này như mặt trời và mặt trăng. Đó là ánh sáng xuyên suốt quá khứ và hiện tại - là chân lý vô biên của ánh sáng thuần khiết. Đó gọi là Trí Tuệ.
Sự nhiệm mầu của tánh Phật là vô lượng vô biên, giống như đại dương với biết bao ngọn sóng lớn và nhỏ. Từ tánh Phật này phát ra diệu dụng trong đó có sáu chức năng gọi là Lục Độ Vạn Hạnh. Vì thế cổ đức có nói rằng: "Khi đã hiểu được Như Lai Thiền, nơi tự thân sẽ tràn ngập sự an bình với Lục Độ Vạn Hạnh."

Hỏi: "Nếu người nào kiến Tánh tức khắc thành Phật, vậy người ấy có đắc được sáu thần thông như chư Phật không?"
Bassui:" Kiến Tánh tức là có đủ lục thông."
Hỏi: "Kiến tánh chỉ là một trong lục thông. Sao ngài lại nói là có đủ lục thông?"
Bassui: "Tánh Phật vốn là chủ của sáu căn. Giữ cho người chủ luôn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi sáu trần gọi là lục thông của Phật."

Hỏi: "Tôi không nghe như vậy. Theo như tôi hiểu, sáu thần thông là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, thân như ý thông, lậu tận thông. Làm sao người ta có thể đạt được sáu thần thông ấy chỉ trong một diệu dụng thôi?"
Bassui: "Tại sao tánh vi diệu hằng hữu của chúng ta lại không là gì hơn ngoài sáu thần thông được? Ánh sáng vô biên ấy tự chiếu sáng và thắp sáng tất cả, là chân không diệu hữu hằng chiếu và tịch tĩnh. Mọi hiện tướng đều được thấy trong thực tánh của nó, không bị mê hoặc. Đó là Thiên Nhãn Thông.
Tánh Phật là trong sạch và vô nhiễm. Khi tai nghe âm thanh, tiếng vang của những làn sóng rung động được nhận thấy rõ ràng, nhưng không có những khởi niệm phân biệt hay vướng mắc vào đó. Đó gọi là Thiên Nhĩ Thông.
Khi đã hiểu bản tánh của tự tâm rồi, ta sẽ tỏ ngộ thấy sự đồng nhất của tâm chư Phật chư Tổ trong ba cõi và tâm chúng sanh trong cõi giới hiện tại cũng như các cõi giới khác. Đó gọi là Tha Tâm Thông.
Kể từ lúc đã tỏ ngộ tánh hằng hữu của mình rồi, tâm ta sẽ thâm nhập vô lượng kiếp tánh Không từ vô thủy đến vô chung. Sáng tỏ và tự tại, tâm ấy không còn vướng mắc trong những hiện tượng biến đổi của sanh và tử, của quá khứ và tương lai, mà luôn luôn kiên cố thường hằng không có gì nghi ngờ ngăn ngại. Đó là Túc Mệnh Thông.
Khi đã hiểu rõ tánh của tự tâm, những hang sâu đen tối của vô minh sẽ được chiếu sáng, và cái đẹp nguyên thủy sẽ hiển lộ. Chỉ trong chớp mắt tâm ta sẽ bay bổng khắp mười phương, không ngừng lại đâu cả trên nền trời cao rộng. Đó là Thân Như Ý Thông.
Khi đã hiểu được tự tánh rồi, vô minh sẽ chuyển thành trí tuệ giác ngộ (Bồ Đề). Bởi vì Bồ Đề chính là bản chất hằng hữu nguyên thủy nơi ta, nên nó vượt ngoài mê và ngộ. Chẳng thấy mình là thánh hay phàm, cũng chẳng bị vướng nhiễm trong những hiện tượng sinh diệt của thế gian này, đó gọi là Lậu Tận Thông."

Hỏi: "Trên lý thuyết điều ngài nói về Lục Thông có thể như vậy. Nhưng nếu nó không hiển hiện ra ngoài qua những hiện tượng vật chất thì có thành vô giá trị hay không?"
Bassui: "Tánh Phật vốn đã hàm chứa vô lượng đức hạnh. Lục Độ Vạn Hạnh là pháp tu căn bản cho con người hoàn thiện trong thân xác này. Thế thì sao gọi là vô giá trị?
Người có trí tuệ xem những biểu hiện năng lực thần thông siêu nhiên như nghiệp chướng; kẻ phàm phu vô minh xem đó là điều đáng ham muốn nên muốn tìm cầu. Đối với cách suy nghĩ của người thường thì mức độ thâm sâu của thiền định khó mà đo lường được. Như mặt trời chiếu sáng mọi nơi trong nền trời trong không gợn mây, làm sao ngươi có thể đặt giới hạn trên năng lực có được từ sự kiến tánh?
Chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, cũng không thể nói cho hết điều đó được. Năng lực ấy có thể thâu tóm đại dương trong một sợi tóc, đem núi Tu Di đặt lên trên một hạt giống, và chứa cả ba mươi hai ngàn ngai sư tử và tám mươi ngàn vị tăng trong một căn phòng chỉ có mười bộ vuông. Chỉ với một bát cơm cũng đủ để cúng dường vô lượng chư thánh hiền tăng. Thế nhưng Pháp chẳng phải là điều gì khác thường.
Bần tăng này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả cho hết được năng lực siêu nhiên này. Nó như một bánh xe quay tít, chuyển động còn nhanh hơn cả ánh sáng. Khi những diệu dụng của nó được hoàn toàn hiển lộ, ngay cả mắt của Phật cũng không thể nhìn thấy được. Khi những hoạt động của nó trải rộng đến tất cả, những năng lực xấu ác sẽ bị phá hủy, những viên than hồng đang đun nước trong bếp lửa sẽ nổ bùng, và chỉ trong một tiếng hét, tất cả những cây kiếm và núi đao sẽ bị nghiền nát ra từng mảnh.
Tất cả chúng ta vốn sẵn đều có năng lực siêu nhiên này. Nếu bạn muốn hiểu điều đó, hãy ngưng lại những hoạt động tạo tác và nhìn vào bên trong mình. Bạn sẽ tự mình tỏ ngộ khi thấm thấu được tự tánh của mình. Tất cả chúng ta đều đã được trang bị sẵn bản tánh nguyên thủy của mình, và mỗi mỗi đều hoàn hảo toàn diện. Tánh ấy là chủ của sự thấy, nghe và hiểu. Đó được gọi là "Thậm thâm tối thắng trí Phật".
Sự nhiệm mầu không thể nghĩ bàn của năng lực siêu nhiên này đơn giản chỉ đặt trên nền tảng của Tánh Phật trong mỗi người chúng ta."

(Lưu Ly trích dịch từ Daily Zen Journal)

Hỏi: Thế nào là ý nghĩa của câu nói trong kinh: “Nếu có người nào làm năm hành trì như sau: thọ trì, đọc tụng, tuyên dương, và ghi chép lại kinh này sẽ được công đức vô lượng vô biên?”
Bassui: “Ðó có nghĩa là người ấy đã kiến tánh thành Phật, ngay bây giờ và ở đây. Thọ trì là nói về bản tánh của Tâm. Bản tánh này đều như nhau nơi thánh cũng như phàm. Trong mỗi người chúng ta đều vốn đã có sẵn chân tánh tròn đầy. Tin tưởng và hiểu sự quan trọng của chân tánh ấy là ý nghĩa của đọc tụng kinh. Dứt trừ mọi diễn giải biện luận và tuyệt mọi tư tưởng, khai ngộ bản tánh của mình là ý nghĩa của tưyên dương kinh. Ðược thọ ký khai ngộ là ý nghĩa của ghi chép kinh.”
Hỏi: Nếu năm hành trì ấy đều chỉ là ở nơi một tâm và không cần đến ngôn ngữ, lý do gì khiến có nhiều kinh thuyết lời Phật giảng như vậy?
Bassui: “Nếu không có những kinh đó, làm sao những người còn chấp nơi tướng có thể học được rằng không có pháp nào là ở ngoài tâm?”

Hỏi: Nếu năm hành trì ấy đều là như vậy với bất cứ kinh nào, tại sao hầu hết người ta lại chọn kinh Pháp Hoa?
Bassui: “Năm chữ tựa đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đều đã bao hàm năm hành trì đó như sau:
Thọ là ở trong ý nghĩa chữ Diệu
Trì là ở trong ý nghĩa chữ Pháp
Ðọc tụng là ở trong ý nghĩa chữ Liên.
Tuyên dương là ở trong ý nghĩa chữ Hoa.
Ghi chép lại là ở trong ý nghĩa chữ Kinh.”

Hỏi: Làm sao “Thọ” lại có ý nghĩa “Diệu” được?
Bassui: “Diệu là bản tánh cố hữu của tất cả mọi chúng sinh. Nó là chủ của sáu căn. Bản tính sẵn có này thọ nhận tất cả các pháp, tuy vậy nhưng không có ai là người thọ nhận và cũng không có gì được thọ nhận cả. Ðó là nguyên tắc căn bản của chữ “Diệu”. Vì thế “thọ” có nghĩa là “Diệu”.
Hỏi: Làm sao “trì” có liên hệ với ý nghĩa của “Pháp”?
Bassui ngừng lại một chút rồi nói: “Ngươi có hiểu ta vừa nói gì không?”
Hỏi: “Thưa, không hiểu.”.
Bassui: Pháp luôn luôn hiển hiện, không che dấu ở đâu cả. Tất cả những gì có hình tướng đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi một người có ước nguyện muốn được giải thoát và quay về quán chiếu vào bản tánh của mình, những đám mây bao phủ của cảm xúc sẽ tan đi, những đợt sóng phân biệt sẽ ngừng lại, và sự hiểu biết sẽ rõ ràng sáng tỏ. Lúc đó ta sẽ nhận ra rằng Diệu Pháp là bản tính sẵn có của tất cả các vị Phật cũng như của chúng sanh. Ðó là sự trong sáng thanh tịnh hoàn toàn.
Tuy rằng tánh ấy ở trong vô minh và mê lầm, nhưng nó không hề bị dính nhiễm. Cũng giống như hoa sen sống trong bùn mà vẫn giữ được bản tính thuần khiết, vì thế nên được gọi là “đọc tụng”. Ðóa hoa tượng trưng cho sự giải thoát. Bản tính vi diệu này, trọng tâm cho sự giác ngộ, là vượt ngoài mọi thứ bậc và phân loại. Nhưng sau khi vừa khai ngộ lần đầu, sự hiểu biết của người học đạo có thể là hời hợt, cũng có thể là sâu xa.
Có kiến thức rõ ràng sáng suốt và hiểu được tinh yếu của lý đạo rồi, cũng chưa phải là đã nhập được vào cảnh giới giác ngộ thực sự. Ðó mới chỉ là cái bóng phản chiếu của ánh sáng thôi, mới chỉ là vị khách đứng ở ngoài cổng. Khi đã buông bỏ hết mọi kiến thức, đã quên đi những khái niệm phân biệt, khi đóa hoa sen giác ngộ đã lần đầu tiên được nở ra, mười chặng đường của Bồ Tát mới có thể được hoàn thành và kinh nghiệm khai ngộ đã qua mới thấm thấu được. Lúc đó tri kiến Phật sẽ hiển hiện rõ ràng.
Những nụ hoa hàm tiếu của đóa sen sẽ hé mở và rơi rụng như những thứ hiện ra rồi mất đi trong cuộc sống. Khi người học Ðạo đã đến được tới đó, họ mới bắt đầu có đủ tư cách để thuyết pháp Phật và độ lại được cho người khác. Vì lý do này, tuyên dương pháp Phật được xem như là ngang với đóa hoa sen. Khi chân lý này được hiểu đến, dấu ấn của các vị Phật xưa sẽ được truyền đến tâm ta, cũng tựa như một bản kinh xưa được ghi chép lại toàn bộ trên một tập giấy mới sẽ cho ra một ấn bản y hệt như vậy. Vì thế, “ghi chép” lại được coi như là ngang với chữ Kinh. Kinh cũng là một tên gọi khác cho tâm, trong đó mang vô số những ý nghĩa khác thường.
Như thế, chúng ta thấy rằng năm sự hành trì này chỉ là một cách nói bóng bẩy cho việc áp dụng phương pháp dạy Ðạo mà thôi. Ðức Phật dùng phương pháp ấy để làm sáng tỏ cái tâm quý báu độc nhất vô nhị, và chỉ cho những phàm nhân thấy rằng kiến tánh được tức là thành Phật.
Những phàm nhân nào sai lầm đi tìm Ðạo ngoài tâm của mình, không biết rằng chính nơi họ đã có sẵn Phật, thì cũng giống như những đứa trẻ lầm lạc quên mất mẹ của mình. Vì thế, khi tinh tấn hành trì năm điều này, bạn sẽ nhận ra được cái tâm duy nhất ấy. Ðừng thèm muốn những thứ dư thừa của người khác trong khi bỏ mất đi viên ngọc quý giá chính mình đang đeo trên cổ.”

Hỏi: “Viên ngọc quý giá đang đeo trên cổ đó là gì?”
Bassui: “Khi rồng gọi, mây sẽ hiện ra. Khi hổ gầm, gió sẽ thổi.”

Ngọc Bảo

Trích từ "Bùn và Nước" - tuyển tập những lời giảng dạy của Thiền sư Bassui, do Arthur Braverman chuyển dịch sang Anh ngữ, 1989
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Vấn Đạo Thiền Sư Bassui (1327-1387)

Có người hỏi: "Chư Phật chư Tổ xưa nay đã dùng biết bao pháp môn và phương tiện để tu học pháp Phật, làm sao có câu nói là "không có gì ngoài kiến tánh thành Phật"? Xin đại sư chỉ giáo".
Bassui trả lời: "Ta thọ giới xuất gia trong những năm sau này, chưa từng học kinh. Ngươi hãy nói cho ta nghe có pháp nào ngoài việc "kiến tánh thành Phật" không.
Hỏi: "Theo như kinh nói, Đức Thế Tôn đã thành tựu Phật quả sau khi tu được Lục Độ Vạn Hạnh. Làm sao điều này có thể được gọi là "Kiến tánh thành Phật"?
Đại sư: "Lục Độ Vạn Hạnh" là gì?
Hỏi: "Đó là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ. Cho đi hết những gì mình có với tâm không phân biệt gọi là Bố Thí. Nghiêm trì giới luật gọi là Trì Giới. Đối với thân thù đều bình đẳng, dù có bị đánh mắng cũng không nổi giận, đó là Nhẫn Nhục. Làm những hạnh lành không ngưng nghỉ trên con đường tu tập và hoàn thành đại nguyện là Tinh Tấn. Tọa thiền cho thân và tâm được tĩnh lặng là Thiền Định. Học hỏi kinh pháp, thâm nhập giáo lý không ngăn ngại gọi là Trí Tuệ."
Bassui trả lời: "Tất cả những điều đó chỉ đem lại phước báo trong cõi Trời Người. Hành trì những hạnh đó là điều nên làm nếu so với những hành động vô minh - khởi từ tâm ham muốn, xấu ác, sân hận, lười biếng, bất tín, chao đảo trong tư tưởng hành động và si mê - khiến cho chúng sanh phải rơi vào ba cõi Tam Đồ não loạn. Nhưng đừng tường sáu hạnh đó có thể khiến cho ngươi thành Phật.
Lục Độ Vạn Hạnh mà Đức Phật hành trì là chánh pháp để kiến Tánh. Ánh sáng chân chính của Tự Tánh thắp lên cả vạn những đức tính quý báu và tùy duyên mà trải đều đến chúng sinh khắp các phương trời. Đó gọi là Bố Thí.
Tánh Phật nguyên thủy là trong sáng thuần khiết, là chủ của sáu căn, nhưng không bị sáu trần làm ô nhiễm. Người nào giác ngộ được tánh ấy thì thân tâm sẽ tự nhiên hòa hợp an ổn. Người ấy không cần phải cố ý tỏ ra mình đang giữ giới luật, cũng không hề khởi ác niệm trong tâm. Đó gọi là Trì Giới.
Bởi vì Tánh Phật thường hằng không hề có phân biệt giữa ta và người, nên người ở trong sự hòa đồng không đối đãi ấy sẽ chẳng khởi sân hận khi bị phê bình chỉ trích, cũng không vui mừng khi được tôn vinh. Đó gọi là Nhẫn Nhục.
Tánh Phật vốn đã có vô lượng điều ích lợi; nó làm cho mọi công đức đều thành tựu, khởi phát vô lượng pháp. Nó tiếp tục cho đến tương lai, không hề có giới hạn. Đó gọi là Tinh Tấn.
Tánh Phật không biến đổi, vượt khỏi mọi hiện tượng, mọi pháp tu, mọi giới luật, không phân biệt thánh và phàm, không ở trong sự giới hạn của ngôn ngữ, cũng không bị vướng mắc trong những đánh giá tốt và xấu. Đó gọi là Thiền Định
Tánh Phật tự nó là trong sạch, chiếu sáng vạn hạnh, là con mắt của thánh phàm như nhau, chiếu sáng thế giới này như mặt trời và mặt trăng. Đó là ánh sáng xuyên suốt quá khứ và hiện tại - là chân lý vô biên của ánh sáng thuần khiết. Đó gọi là Trí Tuệ.
Sự nhiệm mầu của tánh Phật là vô lượng vô biên, giống như đại dương với biết bao ngọn sóng lớn và nhỏ. Từ tánh Phật này phát ra diệu dụng trong đó có sáu chức năng gọi là Lục Độ Vạn Hạnh. Vì thế cổ đức có nói rằng: "Khi đã hiểu được Như Lai Thiền, nơi tự thân sẽ tràn ngập sự an bình với Lục Độ Vạn Hạnh."

Hỏi: "Nếu người nào kiến Tánh tức khắc thành Phật, vậy người ấy có đắc được sáu thần thông như chư Phật không?"
Bassui:" Kiến Tánh tức là có đủ lục thông."
Hỏi: "Kiến tánh chỉ là một trong lục thông. Sao ngài lại nói là có đủ lục thông?"
Bassui: "Tánh Phật vốn là chủ của sáu căn. Giữ cho người chủ luôn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi sáu trần gọi là lục thông của Phật."

Hỏi: "Tôi không nghe như vậy. Theo như tôi hiểu, sáu thần thông là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, thân như ý thông, lậu tận thông. Làm sao người ta có thể đạt được sáu thần thông ấy chỉ trong một diệu dụng thôi?"
Bassui: "Tại sao tánh vi diệu hằng hữu của chúng ta lại không là gì hơn ngoài sáu thần thông được? Ánh sáng vô biên ấy tự chiếu sáng và thắp sáng tất cả, là chân không diệu hữu hằng chiếu và tịch tĩnh. Mọi hiện tướng đều được thấy trong thực tánh của nó, không bị mê hoặc. Đó là Thiên Nhãn Thông.
Tánh Phật là trong sạch và vô nhiễm. Khi tai nghe âm thanh, tiếng vang của những làn sóng rung động được nhận thấy rõ ràng, nhưng không có những khởi niệm phân biệt hay vướng mắc vào đó. Đó gọi là Thiên Nhĩ Thông.
Khi đã hiểu bản tánh của tự tâm rồi, ta sẽ tỏ ngộ thấy sự đồng nhất của tâm chư Phật chư Tổ trong ba cõi và tâm chúng sanh trong cõi giới hiện tại cũng như các cõi giới khác. Đó gọi là Tha Tâm Thông.
Kể từ lúc đã tỏ ngộ tánh hằng hữu của mình rồi, tâm ta sẽ thâm nhập vô lượng kiếp tánh Không từ vô thủy đến vô chung. Sáng tỏ và tự tại, tâm ấy không còn vướng mắc trong những hiện tượng biến đổi của sanh và tử, của quá khứ và tương lai, mà luôn luôn kiên cố thường hằng không có gì nghi ngờ ngăn ngại. Đó là Túc Mệnh Thông.
Khi đã hiểu rõ tánh của tự tâm, những hang sâu đen tối của vô minh sẽ được chiếu sáng, và cái đẹp nguyên thủy sẽ hiển lộ. Chỉ trong chớp mắt tâm ta sẽ bay bổng khắp mười phương, không ngừng lại đâu cả trên nền trời cao rộng. Đó là Thân Như Ý Thông.
Khi đã hiểu được tự tánh rồi, vô minh sẽ chuyển thành trí tuệ giác ngộ (Bồ Đề). Bởi vì Bồ Đề chính là bản chất hằng hữu nguyên thủy nơi ta, nên nó vượt ngoài mê và ngộ. Chẳng thấy mình là thánh hay phàm, cũng chẳng bị vướng nhiễm trong những hiện tượng sinh diệt của thế gian này, đó gọi là Lậu Tận Thông."

Hỏi: "Trên lý thuyết điều ngài nói về Lục Thông có thể như vậy. Nhưng nếu nó không hiển hiện ra ngoài qua những hiện tượng vật chất thì có thành vô giá trị hay không?"
Bassui: "Tánh Phật vốn đã hàm chứa vô lượng đức hạnh. Lục Độ Vạn Hạnh là pháp tu căn bản cho con người hoàn thiện trong thân xác này. Thế thì sao gọi là vô giá trị?
Người có trí tuệ xem những biểu hiện năng lực thần thông siêu nhiên như nghiệp chướng; kẻ phàm phu vô minh xem đó là điều đáng ham muốn nên muốn tìm cầu. Đối với cách suy nghĩ của người thường thì mức độ thâm sâu của thiền định khó mà đo lường được. Như mặt trời chiếu sáng mọi nơi trong nền trời trong không gợn mây, làm sao ngươi có thể đặt giới hạn trên năng lực có được từ sự kiến tánh?
Chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, cũng không thể nói cho hết điều đó được. Năng lực ấy có thể thâu tóm đại dương trong một sợi tóc, đem núi Tu Di đặt lên trên một hạt giống, và chứa cả ba mươi hai ngàn ngai sư tử và tám mươi ngàn vị tăng trong một căn phòng chỉ có mười bộ vuông. Chỉ với một bát cơm cũng đủ để cúng dường vô lượng chư thánh hiền tăng. Thế nhưng Pháp chẳng phải là điều gì khác thường.
Bần tăng này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả cho hết được năng lực siêu nhiên này. Nó như một bánh xe quay tít, chuyển động còn nhanh hơn cả ánh sáng. Khi những diệu dụng của nó được hoàn toàn hiển lộ, ngay cả mắt của Phật cũng không thể nhìn thấy được. Khi những hoạt động của nó trải rộng đến tất cả, những năng lực xấu ác sẽ bị phá hủy, những viên than hồng đang đun nước trong bếp lửa sẽ nổ bùng, và chỉ trong một tiếng hét, tất cả những cây kiếm và núi đao sẽ bị nghiền nát ra từng mảnh.
Tất cả chúng ta vốn sẵn đều có năng lực siêu nhiên này. Nếu bạn muốn hiểu điều đó, hãy ngưng lại những hoạt động tạo tác và nhìn vào bên trong mình. Bạn sẽ tự mình tỏ ngộ khi thấm thấu được tự tánh của mình. Tất cả chúng ta đều đã được trang bị sẵn bản tánh nguyên thủy của mình, và mỗi mỗi đều hoàn hảo toàn diện. Tánh ấy là chủ của sự thấy, nghe và hiểu. Đó được gọi là "Thậm thâm tối thắng trí Phật".
Sự nhiệm mầu không thể nghĩ bàn của năng lực siêu nhiên này đơn giản chỉ đặt trên nền tảng của Tánh Phật trong mỗi người chúng ta."

(Lưu Ly trích dịch từ Daily Zen Journal)

Hỏi: Thế nào là ý nghĩa của câu nói trong kinh: “Nếu có người nào làm năm hành trì như sau: thọ trì, đọc tụng, tuyên dương, và ghi chép lại kinh này sẽ được công đức vô lượng vô biên?”
Bassui: “Ðó có nghĩa là người ấy đã kiến tánh thành Phật, ngay bây giờ và ở đây. Thọ trì là nói về bản tánh của Tâm. Bản tánh này đều như nhau nơi thánh cũng như phàm. Trong mỗi người chúng ta đều vốn đã có sẵn chân tánh tròn đầy. Tin tưởng và hiểu sự quan trọng của chân tánh ấy là ý nghĩa của đọc tụng kinh. Dứt trừ mọi diễn giải biện luận và tuyệt mọi tư tưởng, khai ngộ bản tánh của mình là ý nghĩa của tưyên dương kinh. Ðược thọ ký khai ngộ là ý nghĩa của ghi chép kinh.”
Hỏi: Nếu năm hành trì ấy đều chỉ là ở nơi một tâm và không cần đến ngôn ngữ, lý do gì khiến có nhiều kinh thuyết lời Phật giảng như vậy?
Bassui: “Nếu không có những kinh đó, làm sao những người còn chấp nơi tướng có thể học được rằng không có pháp nào là ở ngoài tâm?”

Hỏi: Nếu năm hành trì ấy đều là như vậy với bất cứ kinh nào, tại sao hầu hết người ta lại chọn kinh Pháp Hoa?
Bassui: “Năm chữ tựa đề Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đều đã bao hàm năm hành trì đó như sau:
Thọ là ở trong ý nghĩa chữ Diệu
Trì là ở trong ý nghĩa chữ Pháp
Ðọc tụng là ở trong ý nghĩa chữ Liên.
Tuyên dương là ở trong ý nghĩa chữ Hoa.
Ghi chép lại là ở trong ý nghĩa chữ Kinh.”

Hỏi: Làm sao “Thọ” lại có ý nghĩa “Diệu” được?
Bassui: “Diệu là bản tánh cố hữu của tất cả mọi chúng sinh. Nó là chủ của sáu căn. Bản tính sẵn có này thọ nhận tất cả các pháp, tuy vậy nhưng không có ai là người thọ nhận và cũng không có gì được thọ nhận cả. Ðó là nguyên tắc căn bản của chữ “Diệu”. Vì thế “thọ” có nghĩa là “Diệu”.
Hỏi: Làm sao “trì” có liên hệ với ý nghĩa của “Pháp”?
Bassui ngừng lại một chút rồi nói: “Ngươi có hiểu ta vừa nói gì không?”
Hỏi: “Thưa, không hiểu.”.
Bassui: Pháp luôn luôn hiển hiện, không che dấu ở đâu cả. Tất cả những gì có hình tướng đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi một người có ước nguyện muốn được giải thoát và quay về quán chiếu vào bản tánh của mình, những đám mây bao phủ của cảm xúc sẽ tan đi, những đợt sóng phân biệt sẽ ngừng lại, và sự hiểu biết sẽ rõ ràng sáng tỏ. Lúc đó ta sẽ nhận ra rằng Diệu Pháp là bản tính sẵn có của tất cả các vị Phật cũng như của chúng sanh. Ðó là sự trong sáng thanh tịnh hoàn toàn.
Tuy rằng tánh ấy ở trong vô minh và mê lầm, nhưng nó không hề bị dính nhiễm. Cũng giống như hoa sen sống trong bùn mà vẫn giữ được bản tính thuần khiết, vì thế nên được gọi là “đọc tụng”. Ðóa hoa tượng trưng cho sự giải thoát. Bản tính vi diệu này, trọng tâm cho sự giác ngộ, là vượt ngoài mọi thứ bậc và phân loại. Nhưng sau khi vừa khai ngộ lần đầu, sự hiểu biết của người học đạo có thể là hời hợt, cũng có thể là sâu xa.
Có kiến thức rõ ràng sáng suốt và hiểu được tinh yếu của lý đạo rồi, cũng chưa phải là đã nhập được vào cảnh giới giác ngộ thực sự. Ðó mới chỉ là cái bóng phản chiếu của ánh sáng thôi, mới chỉ là vị khách đứng ở ngoài cổng. Khi đã buông bỏ hết mọi kiến thức, đã quên đi những khái niệm phân biệt, khi đóa hoa sen giác ngộ đã lần đầu tiên được nở ra, mười chặng đường của Bồ Tát mới có thể được hoàn thành và kinh nghiệm khai ngộ đã qua mới thấm thấu được. Lúc đó tri kiến Phật sẽ hiển hiện rõ ràng.
Những nụ hoa hàm tiếu của đóa sen sẽ hé mở và rơi rụng như những thứ hiện ra rồi mất đi trong cuộc sống. Khi người học Ðạo đã đến được tới đó, họ mới bắt đầu có đủ tư cách để thuyết pháp Phật và độ lại được cho người khác. Vì lý do này, tuyên dương pháp Phật được xem như là ngang với đóa hoa sen. Khi chân lý này được hiểu đến, dấu ấn của các vị Phật xưa sẽ được truyền đến tâm ta, cũng tựa như một bản kinh xưa được ghi chép lại toàn bộ trên một tập giấy mới sẽ cho ra một ấn bản y hệt như vậy. Vì thế, “ghi chép” lại được coi như là ngang với chữ Kinh. Kinh cũng là một tên gọi khác cho tâm, trong đó mang vô số những ý nghĩa khác thường.
Như thế, chúng ta thấy rằng năm sự hành trì này chỉ là một cách nói bóng bẩy cho việc áp dụng phương pháp dạy Ðạo mà thôi. Ðức Phật dùng phương pháp ấy để làm sáng tỏ cái tâm quý báu độc nhất vô nhị, và chỉ cho những phàm nhân thấy rằng kiến tánh được tức là thành Phật.
Những phàm nhân nào sai lầm đi tìm Ðạo ngoài tâm của mình, không biết rằng chính nơi họ đã có sẵn Phật, thì cũng giống như những đứa trẻ lầm lạc quên mất mẹ của mình. Vì thế, khi tinh tấn hành trì năm điều này, bạn sẽ nhận ra được cái tâm duy nhất ấy. Ðừng thèm muốn những thứ dư thừa của người khác trong khi bỏ mất đi viên ngọc quý giá chính mình đang đeo trên cổ.”

Hỏi: “Viên ngọc quý giá đang đeo trên cổ đó là gì?”
Bassui: “Khi rồng gọi, mây sẽ hiện ra. Khi hổ gầm, gió sẽ thổi.”

Ngọc Bảo

Trích từ "Bùn và Nước" - tuyển tập những lời giảng dạy của Thiền sư Bassui, do Arthur Braverman chuyển dịch sang Anh ngữ, 1989

kinh auduongphong
bài pháp rất hay. a di đà phật.
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Chào bạn auduongphong.

Chính vì lấy chánh Pháp làm kim chỉ nam thì thấy rõ cái gọi là 'lục thông của người đắc đạo' là không có thật, kể cả đạo Ấn độ lẫn đạo Phật. Lấy 'Túc mệnh thông', là thần thông nhớ lại những kiếp trước của mình, đem ra suy xét thì thấy:

_ Để nhớ lại những gì đã xảy ra trước đây thì cần phải có ký ức và nơi lưu trữ nó.
_ Theo phật học cũng như khoa học thì khi chết, ký ức và bộ não lưu trữ ký ức đều bị hoại diệt.
_ Khi tái sinh thì một ngũ uẩn mới hình thành.
_ Ký ức và bộ não của con người tái sinh này không hề chứa ký ức cũ (vì ký ức và bộ não của kiếp trước đã bị hoại diệt rồi)

=> không thể nào nhớ lại kiếp trước.



Ví dụ về cái máy tính cho dễ thấy:

_ Trong máy tính, những dữ liệu được lưu trữ trong ổ cứng.
_ Nếu có một cái máy tính mới mà muốn lấy lại dữ liệu của máy tính cũ thì cần phải có ổ cứng của máy tính cũ trước đây.
_ Nếu ổ cứng của máy tính cũ bị hư hoặc mất đi thì không thể lấy lại dữ liệu từ máy tính trước.





Cái quan điểm 'ai tu nấy chứng' được bọn ngoại đạo hay dùng lắm :D Khi có người bài bác những quan điểm sai trái của họ thì họ sẽ nói y như bạn vậy đó. Đại khái như vầy:

_ Những gì tôi thấy biết là do nội chứng mà ra nên không thể chứng minh.
_ Nếu các người không tin thì hãy tự mình làm theo hướng dẫn, khi đó sẽ tận mắt nhìn thấy.

Trường phái Yoga không chú trọng lý thuyết mà nhấn mạnh phần thực hành. Phương châm của họ là "Hãy thực hành và tự nhìn thấy".

Tất nhiên mỗi đạo giáo đều có cách thực hành và những điều "tự nhìn thấy" khác hẳn nhau, ai cũng cho rằng mình đúng còn những người khác sai. Vậy thì theo bạn nguoidienhocphat1, làm cách nào để biết được ai đúng ai sai? :D

bây giờ mà còn đi tìm ai đúng ai sai là quá muộn rồi. Đức Phật dạy cái gì mang lai lợi lạc cho minh và cho chúng sanh thì nên làm. A di đa Phật.
 

Bình Đẳng Giác

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
4 Thg 10 2015
Bài viết
522
Điểm tương tác
221
Điểm
43
Loanh quanh luẩn quẩn,cuối cùng vẫn chỉ là dính mắc,có-không,chân-giả,thực-hư,vv...Xem ra ngày nào còn chưa thể ngộ chánh kiến vẫn uổng chịu mê lầm.
 

ngokhong

Registered
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2009
Bài viết
826
Điểm tương tác
6
Điểm
18
Chào bạn auduongphong.

Chính vì lấy chánh Pháp làm kim chỉ nam thì thấy rõ cái gọi là 'lục thông của người đắc đạo' là không có thật, kể cả đạo Ấn độ lẫn đạo Phật. Lấy 'Túc mệnh thông', là thần thông nhớ lại những kiếp trước của mình, đem ra suy xét thì thấy:

_ Để nhớ lại những gì đã xảy ra trước đây thì cần phải có ký ức và nơi lưu trữ nó.
_ Theo phật học cũng như khoa học thì khi chết, ký ức và bộ não lưu trữ ký ức đều bị hoại diệt.
_ Khi tái sinh thì một ngũ uẩn mới hình thành.
_ Ký ức và bộ não của con người tái sinh này không hề chứa ký ức cũ (vì ký ức và bộ não của kiếp trước đã bị hoại diệt rồi)

=> không thể nào nhớ lại kiếp trước.



Ví dụ về cái máy tính cho dễ thấy:

_ Trong máy tính, những dữ liệu được lưu trữ trong ổ cứng.
_ Nếu có một cái máy tính mới mà muốn lấy lại dữ liệu của máy tính cũ thì cần phải có ổ cứng của máy tính cũ trước đây.
_ Nếu ổ cứng của máy tính cũ bị hư hoặc mất đi thì không thể lấy lại dữ liệu từ máy tính trước.





Cái quan điểm 'ai tu nấy chứng' được bọn ngoại đạo hay dùng lắm :D Khi có người bài bác những quan điểm sai trái của họ thì họ sẽ nói y như bạn vậy đó. Đại khái như vầy:

_ Những gì tôi thấy biết là do nội chứng mà ra nên không thể chứng minh.
_ Nếu các người không tin thì hãy tự mình làm theo hướng dẫn, khi đó sẽ tận mắt nhìn thấy.

Trường phái Yoga không chú trọng lý thuyết mà nhấn mạnh phần thực hành. Phương châm của họ là "Hãy thực hành và tự nhìn thấy".

Tất nhiên mỗi đạo giáo đều có cách thực hành và những điều "tự nhìn thấy" khác hẳn nhau, ai cũng cho rằng mình đúng còn những người khác sai. Vậy thì theo bạn nguoidienhocphat1, làm cách nào để biết được ai đúng ai sai? :D

hic...hình như Phật Giáo cho rằng sau khi chết thì cái gọi là Tâm sẽ đi tái sanh thì phải bạn doccoden

mà cái gọi là Tâm đó nó vừa là mới nhưng cũng vừa là cũ cho nên đôi khi chúng ta vẫn có thể nhớ về kiếp trước của mình

tôi có thấy rất nhiều bài viết từ ở Việt Nam cho đến trên Thế Giới đều đề cập đến những trường hợp những người nhớ lại tiền kiếp của họ

nói như bạn thì hầu như phủ định Luân Hồi rồi ... hihih
 

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63
bây giờ mà còn đi tìm ai đúng ai sai là quá muộn rồi. Đức Phật dạy cái gì mang lai lợi lạc cho minh và cho chúng sanh thì nên làm. A di đa Phật.


:D Đạo giáo nào lại chẳng dạy cho tín đồ như vậy, luôn cho rằng tin theo giáo lý sẽ đạt được nhiều lợi ích.



hic...hình như Phật Giáo cho rằng sau khi chết thì cái gọi là Tâm sẽ đi tái sanh thì phải bạn doccoden

mà cái gọi là Tâm đó nó vừa là mới nhưng cũng vừa là cũ cho nên đôi khi chúng ta vẫn có thể nhớ về kiếp trước của mình

tôi có thấy rất nhiều bài viết từ ở Việt Nam cho đến trên Thế Giới đều đề cập đến những trường hợp những người nhớ lại tiền kiếp của họ

nói như bạn thì hầu như phủ định Luân Hồi rồi ... hihih


Trước đây tôi đã nói rồi, giờ nói lại nhé:

_ Con người bao gồm thân và tâm, Phật giáo gọi là ngũ uẩn, ngoài thân và tâm ra thì con người không có thành phần nào khác nữa, không có 'uẩn thứ 6' nào khác nữa. Trong khi Ấn giáo thì cho rằng con người ngoài thân tâm ra còn có linh hồn.

_ Khi chết thì ngũ uẩn bị hoại diệt, còn AG cho rằng linh hồn bất diệt.

_ Thuyết "nghiệp - luân hồi" là của AG. Theo AG thì con người khi sống tạo nghiệp, khi chết thì linh hồn của người đó tái sinh luân hồi đi các cõi thùy theo nghiệp thiện hay ác.

_ PG mượn thuyết "nghiệp - luân hồi" để phá chấp quan điểm đoạn diệt. Theo PG thì "nghiệp" tái sinh luân hồi.

Suy cho cùng thì không có gì là có thật cả. Mọi thứ Phật thuyết giảng chỉ là để phá chấp chứ không phải sự thật là như vậy. Ngay cả điều tưởng là "sự thật rành rành ra đó" như là vạn vật vô thường. Sự thật là vạn vật có đặc tính vô thường hay không? Nếu đúng như vậy thì cái gì làm cho nó vô thường? :D

Phật tử tùy theo căn cơ trí tuệ mà có cách hiểu khác nhau về đạo Phật. Có người tin rằng đến chùa cúng bái cầu xin thì Phật sẽ phù hộ độ trì cho mình. Có người bảo rằng điều đó không đúng, nhưng vì người đời cố chấp nên đành phải chiều theo ý họ... :D

Cái khó nhất trong PG là phá chấp ngã. Do con người còn chấp ngã nên sinh ra quan điểm thường kiến và đoạn kiến. "Nghiệp - luân hồi" cũng chỉ là một loại thuốc mà thôi, nếu hết bệnh rồi thì ai lại uống thêm thuốc nữa :D
 

ngokhong

Registered
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2009
Bài viết
826
Điểm tương tác
6
Điểm
18
:D Đạo giáo nào lại chẳng dạy cho tín đồ như vậy, luôn cho rằng tin theo giáo lý sẽ đạt được nhiều lợi ích.






Trước đây tôi đã nói rồi, giờ nói lại nhé:

_ Con người bao gồm thân và tâm, Phật giáo gọi là ngũ uẩn, ngoài thân và tâm ra thì con người không có thành phần nào khác nữa, không có 'uẩn thứ 6' nào khác nữa. Trong khi Ấn giáo thì cho rằng con người ngoài thân tâm ra còn có linh hồn.

_ Khi chết thì ngũ uẩn bị hoại diệt, còn AG cho rằng linh hồn bất diệt.

_ Thuyết "nghiệp - luân hồi" là của AG. Theo AG thì con người khi sống tạo nghiệp, khi chết thì linh hồn của người đó tái sinh luân hồi đi các cõi thùy theo nghiệp thiện hay ác.

_ PG mượn thuyết "nghiệp - luân hồi" để phá chấp quan điểm đoạn diệt. Theo PG thì "nghiệp" tái sinh luân hồi.

Suy cho cùng thì không có gì là có thật cả. Mọi thứ Phật thuyết giảng chỉ là để phá chấp chứ không phải sự thật là như vậy. Ngay cả điều tưởng là "sự thật rành rành ra đó" như là vạn vật vô thường. Sự thật là vạn vật có đặc tính vô thường hay không? Nếu đúng như vậy thì cái gì làm cho nó vô thường? :D

Phật tử tùy theo căn cơ trí tuệ mà có cách hiểu khác nhau về đạo Phật. Có người tin rằng đến chùa cúng bái cầu xin thì Phật sẽ phù hộ độ trì cho mình. Có người bảo rằng điều đó không đúng, nhưng vì người đời cố chấp nên đành phải chiều theo ý họ... :D

Cái khó nhất trong PG là phá chấp ngã. Do con người còn chấp ngã nên sinh ra quan điểm thường kiến và đoạn kiến. "Nghiệp - luân hồi" cũng chỉ là một loại thuốc mà thôi, nếu hết bệnh rồi thì ai lại uống thêm thuốc nữa :D

Ôi ... Nếu hiểu thế này thì chết là hết hả doccoden ... Suốt ngày "phá chấp" với chả "chấp" ...

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!

Nếu ngũ uẩn bị hoại diệt thì còn cái gì mà Luân hồi với tái sanh ?

Nghiệp lực là gì vậy ? Nghiệp lực tái sanh ra sao ?

Hic ... Phật tử học như thế này thì hiểu sai là đúng rồi

Khi chúng ta chết thì cái thân chúng ta hoại diệt mà thôi,còn cái gọi là "TÂM" làm sao hoại diệt ...
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Nhân Quả ba đời, Thiện Ác nghiệp báo không những là thuốc trị bệnh ngu si, mà còn là chân lý chắc thật trong thế giới hiện tượng.

Suy cho cùng, học mà không hành thì học vô dụng!

Hiện tại vẫn khổ đau, tương lai tuỳ nghiệp chuyển!

 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Ôi ... Nếu hiểu thế này thì chết là hết hả doccoden ... Suốt ngày "phá chấp" với chả "chấp" ...

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!

Nếu ngũ uẩn bị hoại diệt thì còn cái gì mà Luân hồi với tái sanh ?

Nghiệp lực là gì vậy ? Nghiệp lực tái sanh ra sao ?

Hic ... Phật tử học như thế này thì hiểu sai là đúng rồi

Khi chúng ta chết thì cái thân chúng ta hoại diệt mà thôi,còn cái gọi là "TÂM" làm sao hoại diệt ...

Kính ngộ không!
Đây là vấn nạn học Phật trên lý thuyết và văn tự, không có sự trải nghiệm thực chứng, nhưng do bản chất cố chấp sâu dày cứ nghĩ mình đúng người sai. Do đó, khó mà thâm nhập trí tuệ Phật pháp hay nói cách khác trí huệ không có khai mở. Trong đạo Phật muốn trí huệ khai mở cần phải có sự tinh tấn rèn luyện tu sửa tâm tánh, tu sửa nghiệp lực chứ không phải đọc kinh điển rồi dùng cái trí tuệ phàm phu của thế gian mà suy diễn theo cách nghĩ của mình. Vì bản chất vốn vô minh nhưng lại suy diễn từ cái vô minh đó, nên càng nói càng sai, vô minh lại chồng chất vô minh. A di đà Phật!
 

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63
Ôi ... Nếu hiểu thế này thì chết là hết hả doccoden ... Suốt ngày "phá chấp" với chả "chấp" ...

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!

Nếu ngũ uẩn bị hoại diệt thì còn cái gì mà Luân hồi với tái sanh ?

Nghiệp lực là gì vậy ? Nghiệp lực tái sanh ra sao ?

Hic ... Phật tử học như thế này thì hiểu sai là đúng rồi

Khi chúng ta chết thì cái thân chúng ta hoại diệt mà thôi,còn cái gọi là "TÂM" làm sao hoại diệt ...


Đã đặt câu hỏi cho bạn tự tìm hiểu:
_ Sự thật là vạn vật có đặc tính vô thường hay không? Nếu đúng như vậy thì cái gì làm cho nó vô thường?

Nhưng bạn vẫn cứ thích có câu trả lời nhanh thì tôi xin trả lời luôn:

_ Nếu học phật pháp thì phải tìm hiểu "tôi là ai/cái gì?" -> hiểu đúng vô ngã -> hiểu rằng không có cái tôi -> vậy thì cái gì sống và cái gì chết?

_ Vạn vật vô ngã thì dù là phật là thánh hay là phàm phu cũng đều vô ngã -> đối với "cảnh giới vô ngã" thì câu hỏi "Phật sau khi chết thì còn hay mất?" cũng cùng nghĩa như câu hỏi "Tôi sau khi chết thì còn hay mất?"

_ Vì chấp ngã nên cho rằng có cái tôi, sau khi chết thì có 2 quan điểm là thường kiến (tôi còn tồn tại sau khi chết) và đoạn kiến (tôi mất tiêu sau khi chết). Nhưng sự thật là con người không có bản ngã nên không có cái tôi, mà đã không có cái tôi thì 2 quan điểm đó đều sai. Phật dùng thuyết "Nghiệp - Luân hồi" là để phá chấp đoạn kiến.

_ Người đời hầu hết theo quan điểm duy vật, cho rằng khi chết thì con người trở thành cát bụi. Phật lại dùng duy tâm để phá chấp duy vật. Sự thật thì cả duy vật và duy tâm đều sai.

-----------------

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!


"Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Vị Tỷ-kheo tu tập Thiền định thì hiểu biết một cách như thật. Hiểu biết gì một cách như thật? - Sắc tập khởi và sắc đoạn diệt, thọ tập khởi và thọ đoạn diệt, tưởng tập khởi và tưởng đoạn diệt, hành tập khởi và hành đoạn diệt, thức tập khởi và thức đoạn diệt". (Tương Ưng III, tr.16)


"Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không biết rõ sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; không biết rõ thọ tập khởi, không biết rõ thọ đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thọ đoạn diệt; không biết rõ tưởng tập khởi, không biết rõ tưởng đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến tưởng đoạn diệt; không biết rõ hành tập khởi, không biết rõ hành đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt; không biết rõ thức tập khởi, không biết rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt. Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh". (Tương Ưng III, tr.194).

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22a.htm



Nếu phật tử hiểu đúng thì không chỉ con người mà vạn vật đều vô thường sinh diệt theo quá trình "thành, trụ, hoại, không". Nếu phật tử hiểu đúng thì Phật không thể phù hộ độ trì cho bất kỳ ai :D Biết rõ vậy nhưng các nhà sư vẫn phải chiều theo ý của phần lớn các Phật tử không am hiểu phật pháp....
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Ngã là chủ thể quán.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng là đối tượng của sự quán.

Cho nên ở nơi đối tượng của sự quán mà lập nên tri kiến rằng thường, vô thường, ngã, vô ngã... đều là trong vòng của vô minh.

Nơi đối tượng của sự quán chẳng lập tri kiến thường, vô thường, ngã, vô ngã...gọi là Niết Bàn.

Cái Niết Bàn này cũng chưa phải là Niết Bàn của chư Phật.

Phàm cái gì có thể gọi tên đều chẳng phải là Đệ nhất nghĩa đế.

Cái không thể gọi tên thì cũng chẳng phải là Đệ nhất nghĩa đế.


Hữu, Vô đều lìa thì lọt vào Không chấp !

Đây là chỗ thấy của Doccoden. !!!

Nước chết chẳng cứu được rồng !


MUÔN PHÁP VỀ MỘT, MỘT VỀ CHỖ NÀO ?
 

ngokhong

Registered
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2009
Bài viết
826
Điểm tương tác
6
Điểm
18
Đã đặt câu hỏi cho bạn tự tìm hiểu:
_ Sự thật là vạn vật có đặc tính vô thường hay không? Nếu đúng như vậy thì cái gì làm cho nó vô thường?

Nhưng bạn vẫn cứ thích có câu trả lời nhanh thì tôi xin trả lời luôn:

_ Nếu học phật pháp thì phải tìm hiểu "tôi là ai/cái gì?" -> hiểu đúng vô ngã -> hiểu rằng không có cái tôi -> vậy thì cái gì sống và cái gì chết?

_ Vạn vật vô ngã thì dù là phật là thánh hay là phàm phu cũng đều vô ngã -> đối với "cảnh giới vô ngã" thì câu hỏi "Phật sau khi chết thì còn hay mất?" cũng cùng nghĩa như câu hỏi "Tôi sau khi chết thì còn hay mất?"

_ Vì chấp ngã nên cho rằng có cái tôi, sau khi chết thì có 2 quan điểm là thường kiến (tôi còn tồn tại sau khi chết) và đoạn kiến (tôi mất tiêu sau khi chết). Nhưng sự thật là con người không có bản ngã nên không có cái tôi, mà đã không có cái tôi thì 2 quan điểm đó đều sai. Phật dùng thuyết "Nghiệp - Luân hồi" là để phá chấp đoạn kiến.

_ Người đời hầu hết theo quan điểm duy vật, cho rằng khi chết thì con người trở thành cát bụi. Phật lại dùng duy tâm để phá chấp duy vật. Sự thật thì cả duy vật và duy tâm đều sai.

-----------------

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!


"Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Vị Tỷ-kheo tu tập Thiền định thì hiểu biết một cách như thật. Hiểu biết gì một cách như thật? - Sắc tập khởi và sắc đoạn diệt, thọ tập khởi và thọ đoạn diệt, tưởng tập khởi và tưởng đoạn diệt, hành tập khởi và hành đoạn diệt, thức tập khởi và thức đoạn diệt". (Tương Ưng III, tr.16)


"Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không biết rõ sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; không biết rõ thọ tập khởi, không biết rõ thọ đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thọ đoạn diệt; không biết rõ tưởng tập khởi, không biết rõ tưởng đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến tưởng đoạn diệt; không biết rõ hành tập khởi, không biết rõ hành đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt; không biết rõ thức tập khởi, không biết rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt. Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh". (Tương Ưng III, tr.194).

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22a.htm



Nếu phật tử hiểu đúng thì không chỉ con người mà vạn vật đều vô thường sinh diệt theo quá trình "thành, trụ, hoại, không". Nếu phật tử hiểu đúng thì Phật không thể phù hộ độ trì cho bất kỳ ai :D Biết rõ vậy nhưng các nhà sư vẫn phải chiều theo ý của phần lớn các Phật tử không am hiểu phật pháp....

Chào bạn doccoden,

Để trả lời cho bài viết của bạn thật là khó,tôi gần như phải dùng 2 buổi tối để ngồi lục lại kệ sách,ôn lại kiến thức của mình qua mấy năm tiếp thu...Nhờ vậy mà tôi giật mình chợt nhận ra rằng đã có rất nhiều kiến thức cơ bản Phật học rơi rụng theo thời gian.Có những cái mình gần như mặc định cho là như vậy khi mới bắt đầu tìm hiểu Phật Giáo,nhưng hóa ra lại không phải.

Trước hết,chúng ta đi vào phần "Ngũ uẩn" hoại diệt.(Xin nhớ dùm là từ ngũ uẩn tôi để trong ngoặc kép)

Nó sẽ là một sự đơn giản chứ không phải phức tạp đến mức khó hiểu(thậm chí chả hiểu được gì) như câu trả lời của ông mộ phần...hihih

Qua các bài viết của bạn thì bạn cho rằng,khi ngũ uẩn hoại diệt thì sẽ không còn lại gì để tái sinh,luân hồi cho kiếp sau nữa và Phật thuyết "nghiệp lực tái sinh " chỉ là để phá chấp cho chúng ta mà thôi ==> Vậy khi ngũ uẩn hoại diệt thì cái gọi là TÂM sẽ ra sao theo cách nói của bạn ?

Tôi đã đọc kỹ lại 2 bài viết của bạn mấy lần nhưng vẫn không hiểu bạn có kết luận như thế nào về việc sau khi chết thì sẽ ra sao?Bạn chỉ nói rằng Phật dùng các thuyết đó để phá chấp thường kiến và đoạn kiến nhưng bạn lại không nêu rõ ý kiến của mình về việc này.Chúng ta là những chúng sinh phàm phu cho nên sau khi chết chắc chắn phải có một điều gì đó xảy ra chứ ?

CON NGƯỜI = THÂN + TÂM

Đây là 1 công thức mà Phật tử nào cũng biết cả.

Thân thì không nói vì nó chịu ảnh hưởng của qui luật Thành-Trụ-Hoại-Không,Sinh-Lão-Bệnh-Tử quá rõ ràng.Cái đáng nói là cái TÂM

NGŨ UẨN = THÂN + TÂM

Trong đó :

THÂN = Đất+Nước+Gió+Lửa

Vậy còn TÂM = ?

TÂM = Thọ+Tưởng+Hành+Thức ?????

Chẳng lẽ TÂM chỉ đơn giản là tập hợp của 4 thức này thôi sao ? Và khi ngũ uẩn tan rã tức là thân xác,thọ,tưởng,hành,thức hoại diệt thì chả còn gì để tái sinh,luân hồi ? Nếu là vậy thì có khác gì chết là hết (đoạn kiến) đâu ?

THỌ-TƯỞNG-HÀNH-THỨC chỉ là 4 công năng,4 tác dụng của TÂM mà thôi...

Hic,bàn về chữ TÂM này thật nhức đầu và mệt óc...Nói nhanh cho nó gọn là theo THIỀN TÔNG thì TÂM gồm có 2 trạng thái : CHÂN TÂM và VỌNG TÂM

Chân Tâm(còn gọi là Bản lai diên mục,Tánh Giác,Pháp Thân,Chân Như...) : tâm ở trạng thái thanh tịnh,vô nhiễm

Vọng Tâm : tâm vì vô minh mà khởi lên đủ mọi thứ phiền phức ... hihih

Mượn bài Lục Tổ Huệ Năng :

Đâu ngờ Tự tánh vốn thanh tịnh
Đâu ngờ Tự tánh vốn không sinh diệt
Đâu ngờ Tự tánh vốn đầy đủ
Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp

Trong đó câu 2 nói rõ bản chất của TÂM là không sinh không diệt...Tâm vôn không sinh diệt thì làm sao mà còn hay mất,hoại hay diệt ? Hoại và diệt chỉ là các công năng,tác dụng do vô minh mà khởi lên của Tâm mà thôi ...

Vậy "Ngũ Uẩn" hoại diệt làm sao được ?
 

ngokhong

Registered
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2009
Bài viết
826
Điểm tương tác
6
Điểm
18
Đã đặt câu hỏi cho bạn tự tìm hiểu:
_ Sự thật là vạn vật có đặc tính vô thường hay không? Nếu đúng như vậy thì cái gì làm cho nó vô thường?

Nhưng bạn vẫn cứ thích có câu trả lời nhanh thì tôi xin trả lời luôn:

_ Nếu học phật pháp thì phải tìm hiểu "tôi là ai/cái gì?" -> hiểu đúng vô ngã -> hiểu rằng không có cái tôi -> vậy thì cái gì sống và cái gì chết?

_ Vạn vật vô ngã thì dù là phật là thánh hay là phàm phu cũng đều vô ngã -> đối với "cảnh giới vô ngã" thì câu hỏi "Phật sau khi chết thì còn hay mất?" cũng cùng nghĩa như câu hỏi "Tôi sau khi chết thì còn hay mất?"

_ Vì chấp ngã nên cho rằng có cái tôi, sau khi chết thì có 2 quan điểm là thường kiến (tôi còn tồn tại sau khi chết) và đoạn kiến (tôi mất tiêu sau khi chết). Nhưng sự thật là con người không có bản ngã nên không có cái tôi, mà đã không có cái tôi thì 2 quan điểm đó đều sai. Phật dùng thuyết "Nghiệp - Luân hồi" là để phá chấp đoạn kiến.

_ Người đời hầu hết theo quan điểm duy vật, cho rằng khi chết thì con người trở thành cát bụi. Phật lại dùng duy tâm để phá chấp duy vật. Sự thật thì cả duy vật và duy tâm đều sai.

-----------------

Ai nói khi chết thì "ngũ uẩn" bị diệt vậy hả trời !!!!


"Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập Thiền định. Vị Tỷ-kheo tu tập Thiền định thì hiểu biết một cách như thật. Hiểu biết gì một cách như thật? - Sắc tập khởi và sắc đoạn diệt, thọ tập khởi và thọ đoạn diệt, tưởng tập khởi và tưởng đoạn diệt, hành tập khởi và hành đoạn diệt, thức tập khởi và thức đoạn diệt". (Tương Ưng III, tr.16)


"Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không biết rõ sắc tập khởi, không biết rõ sắc đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt; không biết rõ thọ tập khởi, không biết rõ thọ đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thọ đoạn diệt; không biết rõ tưởng tập khởi, không biết rõ tưởng đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến tưởng đoạn diệt; không biết rõ hành tập khởi, không biết rõ hành đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến hành đoạn diệt; không biết rõ thức tập khởi, không biết rõ thức đoạn diệt, không biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt. Này Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh". (Tương Ưng III, tr.194).

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22a.htm



Nếu phật tử hiểu đúng thì không chỉ con người mà vạn vật đều vô thường sinh diệt theo quá trình "thành, trụ, hoại, không". Nếu phật tử hiểu đúng thì Phật không thể phù hộ độ trì cho bất kỳ ai :D Biết rõ vậy nhưng các nhà sư vẫn phải chiều theo ý của phần lớn các Phật tử không am hiểu phật pháp....

Còn cái câu hỏi : Cái gì tạo ra Vô Thường ? của bạn thì Phật trả lời rồi : Cái này có là cái kia có ... Có các pháp hữu vi thì sẽ có tính chất vô thường cũng như có các pháp vô vi thì sẽ có Ông Phật...và nói cho đơn giản là dùng định luật bảo toàn năng lượng là hay nhất : năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi ... Chân lý chỉ có ý nghĩa khi có sự nhận thức của chúng sinh,cũng như Đức Phật được sinh ra là vì chúng sinh ... Mỗi một sự vật hiện tượng tồn tại trong cái Thế Giới này đều có sự tương quan với vạn sự vật hiện tượng khác...

Hay nói cách khác là VẠN PHÁP VÔ NGÃ là vậy.

Đạo Phật : Vô Thường-Vô Ngã-Duyên Khởi-Như Huyễn ... 4 giáo lý này hòa quyện với nhau,bổ sung cho nhau,hỗ trợ lẫn nhau ... Cứ cái gì khó giải thích thì cứ lấy 4 giáo lý này để giải thích là ổn.
 

nguoidienhocphat1

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
31 Thg 8 2015
Bài viết
1,934
Điểm tương tác
347
Điểm
83
Kính ngộ không!
Một số đạo hữu học Phật thích tìm hiểu những cái cao siêu, rồi học Phật trên văn tự dùng cái vô minh của mình mà suy diễn lời kinh theo ý chí chủ quan của mình. Đó là vấn nạn bệnh đa số cũa người học Phật trên văn tự. Bệnh nan y này thấy vậy nhưng rất khó chữa vì họ bám chặt cố chấp và tìm được niềm vui hay sự ngã mạn trên những gì họ đang học. Họ sẵn sáng công kích ai hay lên án ai mà có ý định giúp họ tỉnh ngộ hay cố ý phá bỏ cái lâu đài cát của họ mà họ cố gắng cả đời xây dựng.

Phật pháp rất gần gũi và thực tế, rất cơ bản, người hiểu đạo có chút thành tựu trong tu học sẽ thấy phật pháp rất gần gũi rất chân thật rất thực tế mang lại những lợi ích thiết thực cho chúng sanh và cho bản thân mình trong từng sát na của thân khẩu ý. Còn người đang chạy long nhong vòng ngoài sẽ thấy Phật pháp như một cài gì đó rất cao siêu vĩ đại xa rời thực tế chỉ những người tài giỏi như mình hay ai đó mới có thể lãnh hội được. Họ sẵn sáng bỏ ra hàng ngày hàng giờ hàng tháng hàng năm để mà suy luận kinh điển và đắm chìm trong chữ nghĩa văn tự, nhưng lại quên mất điều căn bản sao không dành thời gian quý bàu đó mà áp dụng lời kinh vào việc tu sửa thân khẩu ý của mình trong từng sát na, sao không giành thời gian quý báu đó mà chuyển tải cốt lõi ý nghĩa lời kinh vào việc hoẳng dương phật pháp mang lại lợi ích cho gia đình bạn bè và những người xung quanh mình. Kinh điển nếu không áp dụng vào thực tế thì đó chỉ là kinh chết chẳng có giá trị gì. Kinh điển nếu không mang lại lợi lạc cho mình và cho chúng sanh thì kinh đó cũng chẳng có ý nghĩa gì khác gì đâu sấp giấy lộn. Trách niệm của người học Phật là hãy làm cho kinh điển đó sống động đi vào thực tiễn cuộc sống là đi vào tâm thức của mỗi chúng sanh. Giúp chúng sanh được hạnh phúc an vui không còn khổ đau nhờ lời kinh tiếng kệ. A di đà Phật!

Vấn đề này người điên nói hoài xuyên suốt trong diễn đàn này, bây giờ vẫn phải nói tiếp. Họ không biết rằng các tổ đưa ra kinh điển uyên thâm bác học như vậy để làm gì? Chắc không hải để chúng sanh say sưa với chữ nghĩa văn tự, chắc không phải để chúng sanh học Phật trên văn tự, chứ không phải để chúng sanh tranh luận câu chữ? Hoàn toàn không phải vậy. Vì chúng sanh có tám muôn bốn ngàn bệnh khác nhau cần phải có 8 muôn bốn ngàn phương thuốc khác nhau cần có tám muôn bốn vạn cục kẹo khác nhau để dẫn dụ chúng sanh bước vào đường đạo. Mỗi người mỗi bệnh khác nhau không thể dùng 1 loại thuốc dùng một vị mà chữa bệnh chúng sanh. Cho dù thuốc nào thì đều chung một kết quả giúp chúng sanh chữa bệnh cho thân tâm an lạc. Do đó, đạo phật là đạo bình đẳng với tất cả chúng sanh. Không ai dám nói tôi là hòa thượng tôi là tiến sỹ phật học, tôi là người trí thức tôi tu sẽ về Tây phương cực lạc hơn bà lão hay gã ăn mày mù chữ chỉ biết trì niệm 4 chữ A di đà Phật.

Cụ thể dẫn chứng các đệ tử của đức Phật lúc còn tại thế. Vì sao tên tướng cướp vô não kia giết 999 người,1 ả kỹ nữ kia, 1 người gánh phân kia, 1 người khù khờ chỉ nhớ 2 chữ quét bụi trừ bẩn kia, 1 cậu bé cắt tóc kia lại đắc a la hán trước 1 ngài Anan trí nhớ đệ nhất, là người kết tập kinh điển những lời dạy đức Phật, để cho ngày hôm này chúng ta có kinh điển mà đọc mà học, là người thị giả kề cận với đức Phật suốt 49 năm mà mãi đến đêm trước kết tập kinh điển lần thứ nhất mới đắc quả A la han.
Một lần nữa người điên xin chia sẻ học Phật đừng bao giờ xa rời cái căn bản cốt lõi của đạo Phật đó là tu tâm sửa tánh tu sửa thân khẩu ý, để có một nội tâm an lạc thanh tĩnh. A di đà Phật!
 

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63
Bạn ngộkhông thân mến!

Những gì mà bạn vừa nói đến có liên quan đến nhiều vấn đề của phật pháp, từ căn bản vỡ lòng đến thậm thâm vi diệu. Để cho việc bàn luận không vô ích thì trước hết bạn và tôi phải có sự đồng nhất về quan điểm về phương pháp luận. Do không ai hiểu ai, nên tôi xin nêu lên quan điểm của mình trước:

_ Phật giáo khác với các đạo giáo khác, là dựa vào trí tuệ chứ không dựa vào lòng tin. Chẳng hạn Thiên chúa giáo có câu nổi tiếng "Phước cho ai không thấy mà tin", còn Phật giáo thì ngược lại: "Chớ vội tin những gì ta nói...". Do đó những gì ngài nói mà có thể kiểm chứng được thì hãy bàn luận, còn không thì hãy để đó, đừng đem ra bắt doccoden phải tin đó là chân lý.

_ Cần phải xác định điều gì là phổ quát, là căn bản, có thể bao quát hết thảy, và điều gì là riêng biệt chỉ hàm chứa trong một vấn đề nào đó. Đối với doccoden thì "thành, trụ, hoại, không" và "cái này có do cái kia có" là mang tính phổ quát, bao hàm toàn bộ sự vật hiện tượng trong vũ trụ. Chính nó làm cho Phật giáo khác hẳn những đạo giáo khác, và trở thành "cao siêu" cũng từ nó mà ra. Nhiều Phật tử cho rằng câu đó chỉ nói đến "pháp hữu vi", nếu vậy thì Phật giáo có gì khác với Ấn độ giáo? :D

Hiện nay khoa học đã biết không gian và thời gian cũng không tự tồn tại, vai trò của người quan sát trong thế giới lượng tử... -> ngày càng xác nhận sự đúng đắn của Phật giáo.

-------------------

Giờ điểm qua vài điều bạn nói:

1. Bạn đã công nhận con người bao gồm Thân và Tâm, ngoài ra không còn gì nữa, đúng không? Chỉ có điều bạn cho rằng tiến trình "thành, trụ, hoại, không" chỉ xảy ra ở thân xác, còn tâm thức thì bất biến, đúng không? :D

Những gì bạn suy diễn sau đó dẫn bạn tiến thẳng đến tư tưởng của Ấn giáo! Phật giáo quan niệm rằng con người cũng như vạn vật, đều do duyên hợp, chỉ là thân và tâm. Ấn giáo thì quan niệm rằng con người ngoài thân tâm còn có linh hồn làm chủ thể điều khiển chúng.

Đề nghị bạn giải thích rõ xem Chân tâm là cái gì, nó khác với Linh hồn ở chỗ nào?

2. Bạn đã nhắc lại "Cái này có là cái kia có" và "Mỗi một sự vật hiện tượng tồn tại trong cái Thế Giới này đều có sự tương quan với vạn sự vật hiện tượng khác" nhưng lại cho rằng "Có các pháp hữu vi thì sẽ có tính chất vô thường". Trong khi bạn cũng biết rằng vạn pháp là vô tự tánh, tức là tự chúng không hề có tính chất nào cả, kể cả tính chất vô thường. Còn câu "có các pháp vô vi thì sẽ có Ông Phật" thì tôi không hiểu bạn nói cái gì luôn :D Bạn dẫn giải định luật bảo toàn năng lượng thì lại dựa theo "Cái này có là cái kia có" để thắc mắc: năng lượng do đâu mà có? Cũng vậy, pháp hữu vi và vô vi cũng do đâu mà có?...

Ngoài ra, khi kinh sách nói lúc thế này lúc thế kia, thì bạn thấy cái nào đúng? Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy?

Đối với tôi thì luôn dựa vào điều gì là phổ quát, là căn bản...
 

doccoden

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
10 Thg 7 2016
Bài viết
631
Điểm tương tác
372
Điểm
63
Tôi đã đọc kỹ lại 2 bài viết của bạn mấy lần nhưng vẫn không hiểu bạn có kết luận như thế nào về việc sau khi chết thì sẽ ra sao?Bạn chỉ nói rằng Phật dùng các thuyết đó để phá chấp thường kiến và đoạn kiến nhưng bạn lại không nêu rõ ý kiến của mình về việc này.Chúng ta là những chúng sinh phàm phu cho nên sau khi chết chắc chắn phải có một điều gì đó xảy ra chứ ?

....

Vậy còn TÂM = ?

TÂM = Thọ+Tưởng+Hành+Thức ?????

Chẳng lẽ TÂM chỉ đơn giản là tập hợp của 4 thức này thôi sao ? Và khi ngũ uẩn tan rã tức là thân xác,thọ,tưởng,hành,thức hoại diệt thì chả còn gì để tái sinh,luân hồi ? Nếu là vậy thì có khác gì chết là hết (đoạn kiến) đâu ?

THỌ-TƯỞNG-HÀNH-THỨC chỉ là 4 công năng,4 tác dụng của TÂM mà thôi...

Bạn nói là đã đọc kỹ những gì tôi viết nhưng không thấy tôi nói chỗ nào? :D

Phật cho rằng TÂM là THỌ-TƯỞNG-HÀNH-THỨC, điều này ai cũng có thể kiểm chứng được. Nếu bạn cho rằng ngoài những thứ đó thì Tâm còn cái gì khác nữa thì mời bạn nói xem, nó là gì và hãy chứng minh sự tồn tại của nó :D

Quan điểm "chết là hết" không có gì sai nếu như không cho rằng con người có bản ngã. Nếu như sau này khoa học tiến bộ đến mức làm cho con người bất tử thì bạn nghĩ sao? Tức là sao chép lại phần "hồn" của con người là tính cách, tình cảm, ký ức...để khi chết thì sẽ nhân bản thân xác và nạp tâm thức vào thân người mới đó. Nếu vậy thì đó có phải là người cũ không? Tại sao phải và tại sao không? :D

Trong tương lai chúng ta sẽ phải chiêm nghiệm thật sâu sắc về bản ngã của mình, câu hỏi "Tôi là ai?" lúc đó sẽ được đem ra mổ xẻ phân tích. Cũng như hiện nay, vấn đề phá thai đặt ra câu hỏi "Giai đoạn nào thì được xem là con người?" để xác định xem "Phá thai có phải là giết người?"...

Ngoài vấn đề bản ngã, quan điểm duy vật hiện nay đang bị lung lay, cho nên cho rằng "chết là trở về cát bụi" cũng chỉ là do chấp trước chứ sự thật chắc gì đúng như vậy :D
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên