Thảo luận: Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
<TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng

Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ

</TD></TR></TBODY></TABLE></TD></TR></TBODY></TABLE>
001.- Bốn Chơn đế.

Chữ Chơn đế được dùng để tạm dịch từ ngữ Pali Paramattha, có nghiã là bản thể nội tại cao thượng. Tĩnh từ cao thượng, ở đây, chẳng có nghiã là ở trên chỗ cao, cao quí hay tốt lành; nó chỉ được dùng để chỉ vào tánh cách thẳng đứng và bền chắc, chẳng đổi thay, do nơi bản thể nội tại.
[Parama + attha = cao thượng + bản thể nội tại].

Bốn Chơn đế đó là: Tâm hay Tâm thức (citta), Tâm sở (cetasikas), Sắc pháp (rùpa) và Niết-bàn (Nibbana), sự thật tuyệt đối duy nhứt.

002.- Tánh cách chẳng thay đổi của Chơn đế như thế nào?

Các Tâm sở bao gồm có sự tham lam (lobha) và sự sân hận (dosa).

Sự tham lam chẳng hề thay đổi bản thể nội tại của nó, cho dầu nó khởi lên nơi tâm của người hiền và có đức hạnh hay nơi kẻ hung ác, hoặc nơi con chó.

Sự sân hận cũng chẳng đổi thay bản thể cứng rắn căm hờn hay ác ý khi nó khởi lên nơi bất cứ một chúng sanh nào. Do đó, ta nên nhận định rằng, cùng thế ấy, bốn Chơn đế cũng luôn luôn duy trì bản thể nội tại của chúng.

Các Chơn đế chẳng hề vướng phải thiên kiến hay có thiên vị; và chúng luôn luôn tự phát khởi theo bản thể nội tại của riêng chúng. Bản thể nội tại của sự vật cần được thông đạt thấu đáo như vừa được giải thích, mới có thể hiểu rõ được các tâm trạng của chính mình và của kẻ khác.

Ghi nhớ:
1.- Bản thể chơn thật, luôn luôn thường hằng, bền chắc và chẳng đổi thay, được gọi là Chơn đế (Paramattha).

2.- Có bốn Chơn đế: Tâm, Tâm sở, Sắc pháp và Niết-bàn.

Forum:

Thảo luận không phải là tranh thắng bằng bút chiến, cũng không phải là nơi so sánh Tông phái, kinh luận, danh sư thầy tổ.

Thảo luận không phải đem ra đấu tố, chỉ trích, chê bai, bình luận sự tiêu cực của dịch giả/tác giả.

Thảo luận kinh sách: Chúng ta cần giữ sự bình đẳng, tôn trọng quyền sở hữu của dịch giả, tác giả. Bằng sự ghi chú lời trích dẫn và nguồn gốc. Là để tránh bị lầm mình là đạo văn.

Là Thảo luận với tinh thần học tập cải tiến, cho mình và cho người.


Thân kính và chúc các bạn an vui với Cầu Pháp. Mọi sơ sót mong nhờ vào các bạn chỉ dạy cho. Thật cảm ơn.
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
001.- Bốn Chơn đế.

Ghi nhớ:
1.- Bản thể chơn thật, luôn luôn thường hằng, bền chắc và chẳng đổi thay, được gọi là Chơn đế (Paramattha).

2.- Có bốn Chơn đế: Tâm, Tâm sở, Sắc pháp và Niết-bàn.

003.- Ý thức được về một sự vật, đó là Tâm thức.
Chúng ta thường ý thức được mọi sự vật. Bản thể của sự hay biết đó được gọi là Tâm thức. Ở đây, chữ Tâm thức chẳng có nghiã là sự lãnh hội bằng kiến thức hay trí huệ. Nó chỉ có nghiã là khả năng cảm nhận sự vật xuyên qua các giác quan. (Sắc thanh hương vị xúc pháp).

004.- Bản thể của Tâm, hay Tâm thể.

Ghi nhớ: Tâm thức cảm nhận các sự vật, đối tượng của các giác quan. Tâm có thể dạo đi xa, lang thang một mình, chẳng có hình dạng vật chất; Theo vật lý thì trú sở của tâm nằm trong buồng tim.

009.- Bằng cách nào tâm sở thiện và bất thiện trộn lẫn nhau?

010.- Tâm sở khác biệt nhau, cũng như các đặc tánh vật chất chẳng giống nhau.

Trích dẫn Thắng Pháp tập yếu luận (Chương 1. Tâm Vương).

Bốn thắng Pháp: Tâm, Tâm sở, Sắc và Niết bàn.

Tục đế và Ðệ nhứt nghĩa đế, Tục đế (Sammuti-sacca) là sự thật ngoài mặt, sự thật của thế tình. Còn Ðệ nhứt nghĩa đế (Paramattha-sacca) là sự thật tuyệt đối. Ví dụ cái bàn chúng ta thấy là tục đế. Theo đệ nhứt nghĩa đế, cái gọi là cái bàn, sự thật gồm nhiều cơ năng và đặc tánh.

Bốn loại tâm: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới.

THÍCH NGHĨA:

Dục giới tâm
- Kàmà: Dục, hoặc là ái dục hay là những đối tượng của ái dục như sắc, thanh, hương, vị, xúc. Avacara: nghĩa là lãnh vực địa giới hoạt động. Những tâm vương khởi lên hệ thuộc với các văn và đối tượng của chúng nên gọi là Dục giới tâm.

Sắc giới tâm là những tâm từ đệ nhứt thiền đến đệ ngũ thiền ở cõi Sắc giới. Sở dĩ gọi là Sắc giới tâm vì tâm này khởi lên do dùng các sắc pháp để tu thiền định.

Vô sắc giới tâm là những tâm từ đệ nhứt thiền đến đệ tứ thiền ở cõi Vô sắc giới. Sở dĩ gọi là Vô sắc giới vì tâm này khởi lên do dùng Vô sắc pháp để tu thiền định.

Siêu thế giới
Loka uttara: Lokuttara, nghĩa là Siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Do quán tưởng ba pháp ấn vô thường, khổ, vô ngã, chứng được các thánh vị, không còn là phàm phu nữa nên gọi là siêu thế, ra ngoài sự hạn cuộc của dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.
Theo Pàli Abhidhamma, có tất cả là 89 Tâm vương, 54 Dục giới tâm, 15 Sắc giới tâm, 12 Vô sắc giới tâm và 8 Siêu thế tâm.

==========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:

1. THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN Tỳ kheo THÍCH MINH CHÂU (dịch và giải) http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-mc/vdpmc01.htm

2. Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng
Hòa thượng Janakabhivamsa U Ko Lay dịch sang Anh ngữ Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm

 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
011.- Tâm có thể điều phục được.

Nếu có kẻ sanh ra và lớn lên nơi đồng quê lại ham thích cuộc đời đua chen và theo thời trang nơi thị tứ mà tập tành theo lối sống ở đô thành, trong vài năm, dáng vóc và tác phong của anh ta, cái rupa (sắc thân, hình dạng về thể chất) của anh sẽ làm ngac nhiên các bạn cũ khi nhìn lại anh.

Như thế, hình dạng vật chất tuy thay đổi chậm nhưng cũng có thể sửa đổi được, thì về mặt tâm thức, sao lại chẳng có thể điều phục được tâm thức, nếu ta thật sự muốn cải thiện nó? Vì tâm thức có thể biến đổi nhanh hơn và dễ tu sửa hơn.

Nếu ai biết canh chừng tâm thức mình hằng ngày và điều phục cái tâm vô kỷ luât, khó trị nầy, thì cũng trong vài năm, sẽ trở nên một người có tinh thần cao thượng, đầy đủ tự trọng để kính nễ tự tâm.

012.- Tại sao Tâm cần được cải thiện?

013.- Vua Di-lan-đà đã điều phục tâm cách nào?
Sau khi thỉnh vấn Tôn giả Na-tiên (Nagasena) một số việc, Vua Di-lan-đà (Milinda) định thưa hỏi thêm vài câu thật quan trọng về Chánh pháp của Đức Phật (Sasana, giáo pháp của Phật). Nhưng nhà vua chẳng mở lời ngay mà chờ trong bảy hôm để có thì giờ điều phục tâm mình cho được an định. Đấy là một tấm gương tốt để định tâm, mà người đức hạnh nên noi theo.

014.- Vua Di-lan-đà chuẩn bị cách nào?
Ngài thức giấc sớm, đi tắm, khoác áo nhuộm màu vàng và quấn lên đầu một chiếc khăn che tóc lại như người đã cạo trọc. Nóì cách khác, trang phục của Ngài giống như một vị tỳ-kheo (bhikkhu), mặc dầu Ngài chưa xuất gia đi tu.

Trong bảy ngày qua, Ngài đã giữ gìn cẩn trọng tám điều giới luật sau đây:
1.- Tôi quyết chẳng thực hành mọi vương sự trong bảy ngày.
2.- Tôi quyết thúc liễm thân tâm tôi để tránh khỏi sự tham luyến (raga).
3.- Tôi quyết thúc liễm thân tâm tôi để tránh khỏi sự giận hờn (dosa).
4.- Tôi quyết thúc liễm thân tâm tôi để tránh sự si mê (moha).
5.- Tôi quyết tỏ ra nhũn nhặn và khiêm tốn với quan, dân của tôi để tránh khỏi sự khoe khoang.
6.- Tôi quyết giữ gìn cẩn thận lời nói và hành động của tôi.
7.- Tôi quyết thúc liễm các căn (như mắt, tai), để tránh các tư tưởng chẳng lành mạnh, mỗi khi thấy, nghe hay cảm nhận sự vật.
8.- Tôi quyết ban rải tâm từ bi đến mọi chúng sanh.

Ngài đã tuân giữ tám điều giới luật đó trong bảy ngày và đến sáng ngày thứ tám, dậy thật sớm, với tâm thần bình thản, thanh lương và tươi vui, Ngài đến thưa hỏi Tôn giả Na-tiên các vấn đề quan trọng về Chánh pháp (Dhamma) cao siêu của Đức Phật.

015.- Một tấm gương tốt.
Theo tấm gương của vua Di-lan-đà, ngườì làm lành phải nên tập luyện để thúc liễm tâm thức mình ngay cả trong một hai ngày, hay chỉ trong một buổi sáng, để cho các tư tưởng bất thiện chẳng có dịp khởi lên. Nhờ thường thường thực tập thúc liễm tâm thức mà các ý tưởng xấu ác từ từ giảm bớt, để trở nên cao quí và có đức hạnh hơn, giúp cho sự phát triển tín tâm và trí huệ. Ác ý thường khởi lên khi trước, nay sẽ vắng bóng đi trong nhiều ngày.
Tâm thức hướng dẫn thế giới.
Tâm thức dẫn đạo thế giới.
Chúng sanh phải tuân phục theo ý chí của tâm thức.

==========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:

<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng
Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ
</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm

Forum:

012.- Tại sao Tâm cần được cải thiện?
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Vô minh

Chương 2
Về Tâm sở (Cetasikas) và Tâm sở bất thiện (Akusala Cetasikas)

Tâm sở (Cetasikas), yếu tố tinh thần phụ hợp.

016.- Các Tâm sở xác định Tâm thức.

...Chữ Tâm sở, ở đây, có nghiã như vầy: "Yếu tố tinh thần phối hợp với Tâm thức, khiến cho Tâm thức trở nên thiện hay bất thiện"....

Thí dụ: Như nước chẳng có màu sắc, nhưng nước trở thành đỏ, vàng, xanh hay đen, tuỳ theo ta lần lượt pha vào chất nhuộm màu đỏ, vàng, xanh hay đen. Cùng thế ấy, tâm thức cũng biến chuyển như vậy theo các tâm sở phụ thuộc. Vì lẽ ấy., bạn nên học tập tiếp về các tâm sở để có thể thấu hiểu các tâm thức thiện và bất thiện.

Ghi nhớ:Tâm thức chỉ nhận biết về sự vật; tự nó, nó chẳng lành cũng chẳng ác. Chính do nơi các tâm sở, yếu tố tinh thần phụ hợp với tâm thức, mới xác định tính cách thiện ác cho tâm thức.

017.- Mười bốn Tâm sở bất thiện có ảnh hưởng đến Tâm thức.
1.- Moha = Vô minh;2.- Ahirika = Vô tàm;3.- Anottappa = Vô quí;4.- Uddhacca = Tán loạn;5.- Lobha = Tham;6.- Ditthi = Tà kiến;7.- Mana = Kiêu mạn;8.- Dosa = Sân hận;9.- Issa = Ganh tị;10.- Macchariya = Tật đố;11.- Kukkucca = Hối tiếc;12.- Thina = Giải đãi;13.- Middha = Hôn trầm;14.- Vicikiccha = Nghi ngờ.
thumbnail.php

Ảnh:Thái Minh Trung, M.D Vô minh & khoa học não bộ​
<!--<vte:include file="templates/xhtml/box/font_size.tpl" />--><!-- style="width:360px;" -->
(1) Vô minh (Moha).

018.- Hai loại Vô minh.
Chẳng hiểu biết, đó là Moha, Vô minh. Có hai loại vô minh:
- anusaya moha = căn bản vô minh
- pariyutthana moha = chi mạt vô minh
Từ ngữ anusaya nghiã là khuynh hướng cố hữu, hay đã nằm tiềm phục sẵn đó.
Từ ngữ pariyutthana có nghiã là trổi dậy, khởi lên. Như thế, sự vô minh còn nằm tiềm ẩn trong tâm được gọi là anusaya moha, (thường được kinh sách Bắc tông dịch là căn bản vô minh, vô minh ở gốc); đó là sự vô minh ở trong thế tiềm tàng. Còn sự vô minh tuỳ dịp khởi lên cùng với tâm thức được gọi là pariyutthana moha (thường được kinh sách Bắc tông dịch là chi mạt vô minh, vô minh ở ngọn ngành); đó là sự vô minh ở trong thế khởi sanh.

019.- Loại vô minh thứ nhứt: Anusaya Moha (Căn bản vô minh).

Cũng như có chất độc sẵn trong cây khiến cho cây sanh ra trái độc, nơi thân tâm con người, có sẵn một yếu tố, dhatu, đang che dấu Chánh pháp (Dhamma) mà ta cần phải hiểu biết đến.

Yếu tố đó được gọi là anusaya moha, sự vô minh trong thế tiềm ẩn. Chính vì sức phủ tàng của anusaya moha, của căn bản vô minh, đã khiến cho phàm phu (puthujjanas) chúng ta chẳng có đủ khả năng để thông đạt tường tận nghiã lý sâu xa của ba đặc tánh chánh yếu là: vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), của bốn Chơn lý Nhiệm mầu (Tứ Diệu Đế), và của Lý mười hai nhơn duyên (Paticcasamuppada).

Phàm phu, với kiến thức còn bị hạn chế, chẳng thể nhận chân được sự vô minh căn bản tiềm phục nầy. Ngày nay, mặc dầu lắm người tự nhận mình đã hiểu rõ thế nào là vô thường (Anicca), khổ (Dukkha), vô ngã (Anatta), v.v., nhờ đọc qua sách vở, nhưng sự hiểu biết của họ vẫn còn phiến diện, chưa rời bề mặt bên trên mà đi sâu vào sự thực nghiệm.

Ngay cả nơi các bực đã đắc các quả vị Tu-đà-huờn (Sotapanna), Tư đà hàm (Sakadagami), A na hàm (Anagami), căn bản vô minh chỉ trở nên càng ngày càng mỏng thôi. Cho đến khi đã chứng đắc được đạo quả A-la-hán (Arahant), thì căn bản vô minh mới hoàn toàn bị tận diệt. Vì vậy, ngay cả trong khi thực hành các thiện pháp hay hành vi tốt lành, trước khi trở thành A-la-hán, căn bản vô minh vẫn còn tiềm tàng nơi tâm hành giả; nó còn đang nằm ngủ ngầm, lặng lẽ.

020.- Loại vô minh thứ hai: Pariyutthana Moha (Chi mạt vô minh).

Khi sự vô minh khởi lên cùng với tâm thức, đó là môt tâm thức xấu, chẳng lành mạnh, đang sanh khởi. Vì bản chất che đậy của chi mạt vô minh nầy, cho nên các quả báo tai hại mà ta phải gánh chịu sau nầy, còn chưa được thấy hiểu. Và cả các hậu quả xấu ác trong hiện tại cũng chẳng được biết đến. Vì vậy cho nên, ngay cả với bực có đức hạnh và siêng năng tu tập cũng chẳng thấy được sự tác hại của loại vô minh nầy khi nó khởi lên, nên đôi khi cũng vướng phải các hành vi bất thiện.

Trong các đìều bất thiện, vô minh chiếm hàng đầu. Ở thế gian nầy, tất cả mọi điều xấu ác đều bắt nguồn từ vô minh; vô minh chính là gốc rễ của tất cả mọi bất thiện pháp.

021.- Một vị hiền giả bị Vô minh áp đảo.

Một vị Bồ-tát, tên Haritaca, đã rời cuộc sống trần tục, buông bỏ cả sản nghiệp trên tám trăm triệu đồng, để trở thành tu sĩ ẩn cư, đã chứng đắc đưọc thần thông. Rồi vì mưa dầm trên núi Hi mã lạp sơn, vị ấy quay về thành Ba la nại (Baranasi) và trú trong công viên của vua.

Vua xứ Ba la nại vốn là bạn cũ, người thường thực hành các hạnh Ba-la-mật (Paramis) để nguyện trở thành Tôn giả Ananda. Khi gặp lại vị ẩn sĩ, vua rất kính mến, mời vào ở trong vườn thượng uyển và cung cấp tứ sự cúng dường; mỗi buổi sáng nhà vua đích thân dâng cơm lên trong cung điện.

Một hôm có phiến loạn nổi lên, Vua phải dẫn quân đi đánh dẹp. Trước khi đi, vua đã nhiều bận yêu cầu hoàng hậu đừng quên cúng dường vị ẩn sĩ. Hoàng hậu vâng làm theo lịnh. Một buổi sáng sớm, bà tắm với nước hoa xong, mặc đồ lụa mỏng và nằm trên ghế, chờ đến giờ cúng dường.

Vị Bồ-tát thi triển thần thông, bay trên không, đến bên cửa sổ hoàng cung. Nghe tiếng áo phất qua của tu sĩ, hoàng hậu vội vàng ngồi dậy và rủi thay, y phục của bà bị tụt rơi xuống.

Trông thấy cảnh hoàng hậu bị thoát y, căn bản vô minh (anusaya moha) tiềm phục trong tâm thức của vị Bồ-tát, liền chổi dậy, trở thành chi mạt vô minh (pariyutthana moha) nhuốm đầy duc tình, khiến cho vị ấy liền nắm tay hoàng hậu và phạm vào tội dâm.

Ghi chú:Chúng ta cần cứu xét cẩn trọng tánh cách ngu xuẩn phát sanh xuyên qua sự vô minh. Nếu vô minh chẳng khởi lên trong tâm, vị ấy đâu phạm tội dâm, ngay cả khi được sự ưng thuận của vua.
Nhưng vào giờ phút ấy, vì bị tràn ngập bởi màn đen dầy dặc của vô minh xâm chiếm, vị ấy đã chẳng thấy được hậu quả xấu ác của hành động, ngay trong hiện tại và cả về tương lai nơi các kiếp sống tiếp theo trong vòng luân hồi. Thiền định (jhanas) và thần thông (abhinnas) mà vị ấy đã chứng đắc được suốt một đời tu luyện, cũng chẳng đủ sức để phá tan màn vô minh đó; trái lại, vô minh đã khiến cho các thần thông ấy biến đi mất.

Nhưng vị ẩn sĩ, vì đã thuần thục trong các Ba-la-mật (Paramis), nên đã học được bài học chua cay đó. Vị ấy vô cùng hối hận về hành động của mình và xin sám hối trước mặt vua. Vị ấy lại tiếp tục nỗ lực hành thiền, tập luyện để đắc lại thần thông, thường quán tưởng: "Tôi đã làm một việc xấu ác vì sống quá gần với dân chúng", rồi quay lui về Hi mã lạp sơn.

022.- "Chẳng biết" chẳng phải luôn luôn là Vô minh (Moha).

Như trên có giải thích rằng Vô minh là sự chẳng hiểu biết, nhiều người có thể tưởng lầm, hễ chẳng biết một vấn đề còn chưa được học hỏi đến, hễ chẳng biết những nơi mà mình chưa đặt chơn đến, hễ chẳng nhớ được những tên mà mình chưa được quen lắm, cũng đều là vô minh cả.
Các sự chẳng biết vừa kể chỉ là sự thiếu hiểu biết suông mà thôi; chúng chẳng phải thật sự là vô minh; do đó, chúng chẳng phải là những tâm sở bất thiện; đấy chỉ là sự vắng bóng của sự nhận thức, hay sự cảm nhận về một tri giác, sanna, mà trước còn chưa được thâu nhận. Cả các bực A-la-hán (Arahant) cũng vẫn có những sự chẳng biết như thế, huống hồ là phàm phu chúng ta.

Ngay như Tôn giả Xá-lợi-phất (Sariputta), người chỉ đứng vào hàng thứ nhì sau Đức Phật về phương diện trí huệ, cũng đã chỉ dạy một lối hành thiền chẳng thích ứng cho một tỳ-kheo (bhikkhu) còn trẻ.

Nghĩ rằng tỳ-kheo nầy vào lứa tuổi mà dục tình hay khởi phát, Tôn giả đã dạy phép asubha kammatthana, để quán tưởng về các vật chẳng những chẳng vừa ý mà lại đáng kinh tởm, ví dụ như xác chết; phép quán nầy chẳng thích hợp với khuynh hướng người đệ tử. Mặc dầu người đệ tử đã bỏ ra bốn tháng để quán tưởng nhưng chẳng được một chút xíu nimitta nào, dấu hiệu của sự định tâm. [asubha = chẳng thích thú; kammatthana = đề tài quán tưởng]; [nimitta = điềm;dấu hiệu báo điều gì].


Sau đó, người đệ tử đượcdẫn đến gặp Phật. Đức Phật cầm một bó hoa sen vửa mới nở trao cho, người đệ tử rất là hoan hỉ. Rồi Đức Phật lại đưa ra thêm một cọng hoa sen đã héo tàn. Tâm người đê tử liền khởi lên một linh cảm (sanvega), về sự đột biến nhanh chóng. Liền đó, Đức Phật thuyết giảng cho nghe một bài pháp khiến cho vị tỳ-kheo ý thức được rõ ràng về các đặc tánh vô thường (anicca), khổ (dukkha) với vô ngã (anatta), và chứng đắc ngay được đạo quả A-la-hán.


Ở đây, các bạn hãy nên ghi nhận hai điểm: thứ nhứt là trí huệ vô biên của Đức Phật; thứ hai là có nhiều sự vật mà ta còn chưa hiểu biết đến,ngay cả đối với Tôn giả Xá-lợi-phất, người đã dẹp sạch màn vô minh. Như thế, chẳng biết các sự vật mình chưa được nghe dạy và những sự vật thuộc điạ hạt riêng của các đức Phật, điều đó đâu phải là vô minh.

Đấy chỉ là sự yếu kém của kiến thức hay của việc học hỏi. Hãy lấy thí dụ về trường hợp một người, giữa ban ngày, chẳng thể nhìn thấy một vật ở xa. Chẳng phải đã có một tấm màn nào ngăn che vật ấy khiến mắt chẳng nom ra đưọc, mà chính là vì nhãn lực đôi mắt của y còn yếu kém đấy thôi.

023.- Vô minh thô và tế.

Sự vô minh chẳng thể phân biện được giữa một điều tốt, hay thiện pháp, với một điều xấu, hay ác pháp, đó là sự vô minh thô.

Còn sự vô minh làm chướng ngại cho việc thông suốt về bản thể của tâm thức và của vật chất là vô thường, khổ vô ngã, về Bốn Chơn lý Nhiệm mầu, về Lý Mười Hai Nhơn Duyên, sự vô minh nầy được gọi là vô minh tế.

Tâm thức nào còn bị vô minh che đậy được gọi là tâm "u tối, ngu xuẩn", còn con người có tâm thức bị vô mình tràn ngập được gọi là "người ngu, người đần, người cuồng, người ngốc, người vô dụng".

‘Thế gian nầy đang chìm trong màn đen dầy dặc. Chỉ một thiểu số trên thế gian nầy mới có thể nhận chân được một cách khác thường. Cũng như chỉ có một vài con chim thoát khỏi mẻ lưới, số người tái sanh lên cõi Trời rất là ít ỏi." (Kinh Pháp Cú, câu 174) [Dhammapada, v,174].
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:



<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng


Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ


</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm

Forum:

Hỏi 1:
Trông thấy cảnh hoàng hậu bị thoát y, căn bản vô minh (anusaya moha) tiềm phục trong tâm thức của vị Bồ-tát, liền chổi dậy, trở thành chi mạt vô minh (pariyutthana moha) nhuốm đầy duc tình, khiến cho vị ấy liền nắm tay hoàng hậu và phạm vào tội dâm.

Hỏi 2: Căn bản vô minh là gì ? - VÔ MINH
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Vô tàm và vô quí

(2) Vô tàm (Ahirika)

024.- Thế nào là Vô tàm (Ahirika)?

Thiếu sự hổ thẹn tinh thần được gọi là Vô tàm (Ahirika).

Tất cả những hành vi xấu ác, thiếu đạo đức đều giống như phẩn (= chất thải ra của bộ tiêu hoá).
Vô tàm, Ahirika, cũng tựa như con heo trong làng. Phẩn là chất dơ, đáng ghê tởm; bị dính phẩn thật là bối rối trước mặt người khác. Nhưng với con heo, phẩn là món ăn ngon, chẳng đáng gớm ghiếc, đâu cần phải bối rối khi bị dính phẩn; cho nên chắc chắn là heo thích lăn mình trong đống phẩn và nhận lấy phần ăn trong đó.

Cùng thế ấy, các ác pháp, duccaritas, hành vi tội lỗi, như sát sanh chẳng hạn, đối với người có đức hạnh, đều là những hành vi đáng khinh chê. Ngay cả khi các hành vi xấu, vì sơ xuất mà lỡ phạm phải, người có đức hạnh cũng xem đó là điều đáng hổ thẹn.

Nhưng sự vô tàm chẳng phải là chỉ có khinh ghét các hành vi xấu ác và chẳng cảm thấy xấu hổ vì hành vi đó. Kỳ thật, giữa những người vô tàm với nhau, họ lại còn xem các việc làm tội lỗi của họ như là đìều mà họ hãnh diện nữa.

Khi vô minh (moha) khởi lên, nó dẫn đến sự vô tàm; cho nên, các bực hiền giả, khi bị vô minh che lấp, có hành vi sai lầm cũng chẳng sanh lòng hỗ thẹn. Vì thế, những ai được kẻ khác khen ngợi là hiền giả, tưởng cũng nên nhìn lại và tự phán xét các kinh nghiệm riêng của mình, về sự thật của điều vừa nói.

025.- Ghi chú thêm về câu chuyện của ẩn sĩ Haritaca.

Trong hành vi bất chánh của ẩn sĩ Haritaca (xem lại tiết mục vừa qua về Vô minh, Moha), sự vô tàm của ẩn sĩ rất là rõ rệt. Ẩn sĩ là một bực hiền giả đã chứng đắc được thần thông (abhinnas), có trí huệ rất cao thâm. Điều mà ẩn sĩ đã phạm phải, là một hành vi đáng hổ thẹn về dục tình, xãy ra ngay trong cung điện, trước sự hiện diện của các thể nữ của nữ hoàng. Hành vi đê tiện, mất cả phẩm cách nầy, sở dĩ đã xảy ra, là do sự u mê cùng cực của cả vô minh vô tàm.
Mọi hành vi tệ hại, các ác pháp, đều đáng hổ thẹn. Chẳng những chỉ có hành động ô danh của vị ẩn sĩ mới đáng phỉ nhổ, cả những cử chỉ khi căm giận như nặng lời với kẻ khác, phát cáu, nổi xung, quát tháo, văng tục, những thái độ kiêu kỳ, hợm hĩnh, khinh người, xỏ xiên bâng quơ để mạ lỵ vì bụng dạ hiểm độc ganh tị (issa), vân vân, tất cả mọi ác pháp ấy đều đáng ghê tởm và hổ thẹn cả.
Bởi thế cho nên, ta cần ghi nhớ trong lòng, mọi hành động chẳng lành đều đáng hổ thẹn cả. Tâm thức nào cùng khởi lên với sự vô tàm được gọi là "tâm thức vô tàm", và người đã làm các việc xấu ác đó được gọi là "kẻ vô tàm hay kẻ vô sỉ".


(3) Vô quí (Anottappa).

026.- Thế nào là Vô quí (Anottappa)?

Danh từ Vô quí, Anottappa, có nghiã là chẳng biết lo sợ trong lòng khi làm điều quấy. Hành động xấu ác cũng tựa như ngọn lửa đang bừng cháy.

Vô quí, Anottappa, được ví với những con thiêu thân. Lửa bùng lên dễ đốt cháy là điều đáng ngại; thế nhưng loài thiêu thân lại hay bay lăn xả vào, tìm lấy cái chết, chẳng chút ngại ngùng.

Cùng thế ấy, các ác pháp đem đến một loạt đủ loại các khổ đau; vì thế cần phải lo sợ chúng.
Nhưng vô minh (moha) đang che lấp các hậu quả khốc hại đi, khiến cho sự vô quí (anottappa) chẳng nhìn thấy chúng là những đìều đáng e sợ. Các yếu tố chẳng lành đó đẩy nhanh đến sự thực hiện một cách liều lĩnh các hành động tệ hại. Sau đây là các mối hiểm nguy còn chực chờ sẵn, khi sắp thi hành điều bất thiện:

1.- Attanuvada bhaya: mối hiểm nguy phải tự trách mình, làm mất sự tự kính nễ, sự tự trọng. Người như thế thường bị ý tưởng sau đây đè nặng trong tâm: "Mặc dầu nhiều người nghĩ tôi là kẻ có đức hạnh, nhưng tôi biết rõ chính tôi. Tôi là một người xấu ác, lén lút làm các việc chẳng lành."
(atta = tự kỷ, tự mình + anuvada = trách móc, buộc tội) (bhaya = sợ nguy hiểm)

2.- Paranuvada bhaya: mối hiểm nguy phải bị kẻ khác quở trách hay buộc tội, như vầy: "Anh là người xấu ác đã làm các hành vi tệ hại."
(para = do kẻ khác; anuvada = trách móc, buộc tội.)

3.- Danda bhaya: mối hiểm nguy phải chịu khổ đau và hình phạt; ví dụ như bị kẻ khác giết lại nếu cố sát; bị chủ đánh đập nếu lấy trộm đồ vật; bị giết hay bị thương nếu đã gian dâm; bị tù đày nếu phạm tội hình sự.
(danda = hình phạt)

4.- Duggati bhaya: mối hiểm nguy phải đau khổ vì hối hận, khi sắp chết, về tội lỗi trước kia của mình; và viễn ảnh sẽ bị tái sanh vào trong bốn đường ác trong đời sau.
(Duggati = cõi ác, như điạ ngục, ngạ quỉ, súc sanh)

Mặc dầu với mưu mô, xảo quyệt, gian trá, con người có thể lẩn tránh được ba mối hiểm nguy kể trước; nhưng với mối hiểm nguy thứ tư, chẳng ai làm cách nào để khỏi phải sa vào bốn đường ác trong đời sau. Vì thế, các ác pháp thật là đáng ghê sơ. Tuy nhiên, khi sự vô quí khởi lên và can thiệp vào, thì ngay cả bực hiền giả, bình thường hay e ngại các hành động xấu ác, cũng vẫn bị lôi kéo để phải sa vào tội lỗi.

027.- Lại ghi chú thêm về câu chuyện ẩn sĩ Haritaca.

Xét lại câu chuyện về ẩn sĩ Haritaca, ta thấy được rõ ràng ba mối hiểm nguy trong số vừa kể trên, nơi tiểu mục số 026, đã thật sự xảy ra cho ông. Chẳng cần phải nói nhiều, ta cũng thấy ông đang khổ sở vì tự trách mình và mất đi lòng tự trọng: đó là attanuvada bhaya.
Khi tin xấu lan truyền ra ngoài thành "Vị quốc sư của nhà vua đã làm nhục đến hoàng hậu", ông đang bị dân chúng nguyền rủa thậm tệ: đó là paranuvada bhaya. Đến khi nhà vua trở về hoàng cung, nếu chẳng phải là người đã tuân trì theo các Ba-la-mật (Paramis) để sau nầy trở thành Tôn giả Ananda,thì nhà vua có coi mạng sống của người tu sĩ phạm tội hơn gì một ngọn cỏ mà chẳng lên án tử hình.

Ẩn sĩ đã thoát khỏi tội chết chỉ trong một sợi tóc: đó là danda bhaya.
Chính sự vô quí (anottappa) đã can thiệp vào, khiến cho tu sĩ ẩn cư đã cả gan hành động một cách vô luân, liều lĩnh đến quên cả nguy cơ sẽ bị rơi đầu.

Tâm thức nào cùng khởi lên với sự liều lĩnh mê muội như thế được gọi là tâm vô quí (anottappa citta).

Cũng như con heo trong làng chẳng hề ghê tởm phẩn dơ, con người vô sỉ chẳng hề hổ thẹn về hành động xấu ác của mình. Cũng như con thiêu thân chẳng biết e ngại ngọn lửa bừng cháy, con người vô quí chẳng hề lo sợ về hành động tệ hại. (Trích trong Vibhavini Tika).
*********************************************************
Forum:

Khi vô minh (moha) khởi lên, nó dẫn đến sự vô tàm; cho nên, các bực hiền giả, khi bị vô minh che lấp, có hành vi sai lầm cũng chẳng sanh lòng hỗ thẹn. Vì thế, những ai được kẻ khác khen ngợi là hiền giả, tưởng cũng nên nhìn lại và tự phán xét các kinh nghiệm riêng của mình, về sự thật của điều vừa nói.

Vô tàm, Vô quí ví như:
Cũng như con heo trong làng chẳng hề ghê tởm phẩn dơ, con người vô sỉ chẳng hề hổ thẹn về hành động xấu ác của mình. Cũng như con thiêu thân chẳng biết e ngại ngọn lửa bừng cháy, con người vô quí chẳng hề lo sợ về hành động tệ hại. (Trích trong Vibhavini Tika).

Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Hình phạt:

Một thời, Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, vườn ông Anàthapindika, gọi các Tỷ-kheo:

Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp đen. Thế nào là hai? Không tàm và không quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp đen.

Hai pháp này, này các Tỷ-kheo, là pháp trắng. Thế nào là hai? Tàm và quý. Các pháp này, này các Tỷ-kheo, là hai pháp trắng.

Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai? Tàm và quý. Nếu hai pháp trắng này không che chở cho thế giới, thời không thể chỉ được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng. Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có hai pháp trắng này che chở cho thế giới, nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.
************************************************
Các bài liên quan đến tàm và quí.
Giác Ngộ Online - Tàm Quý


 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Chương 2
Về Tâm sở (Cetasikas) và Tâm sở bất thiện (Akusala Cetasikas)


(4) Tán loạn (Uddhacca).

028.- Thế nào là Tán loạn (Uddhacca)?

- Tán loạn (Uddhacca) có nghiã là xao lãng, thiếu sự chú ý. Có thể gọi đó là tình trạng tâm chẳng an. Cũng như các bụi tro bốc lên, bay lung tung, khi ta quẳng một hòn đá vào một đống tro, tâm thức tán loạn chẳng thể dừng lâu trong chốc lát trên một đối tượng, mà bay nhảy từ vật nầy sang vật khác.. Tâm thức nào khởi lên cùng với sự tán loạn (Uddhacca), được gọi là tâm tán loạn, tâm xao lãng.

Khi một người bị xao lãng, người ấy trở thành một kẻ buông trôi, lang thang, nhởn nhơ, vô tích sự.

029.- Khi Tôn giả Nan đà chẳng định tâm được.

Khi vị vương tử trẻ tuổi Nan đà (Nanda) sắp sửa kết hôn với công chúa Janapada Kalyani, Đức Phật dẫn vương tử đến tu viện và truyền thọ giới tỳ-kheo (bhikkhu) cho. Tâm thức của Vương tử còn vấn vương, chẳng thể an định vào Chánh pháp (Dhamma) được, thường bay lang thang trở về bên công chuá Janapada. Trong câu chuyện nầy, tâm trạng của vương tử Nan đà, chẳng thể chú tâm định ý về Chánh pháp, là một thí dụ rất đúng về tâm tán loạn.

030.- Năng lực yếu ớt của sự Tán loạn.

Như đã biết, sự tán loạn (Uddhacca) là sự thiếu khả năng tập trung tâm ý qui tụ vào một điểm, trong một thời gian. Vì bị xao lãng, tâm thức trôi lang thang từ một sự vật nầy đến một sự vật khác. Mặc dầu sự tán loạn là một tâm sở bất thiện, akusala, có tánh cách chẳng lành mạnh, nhưng sự tán loạn chẳng thật sự làm sanh khởi lên các hành vi bất thiện, nó chẳng có đủ năng lực để xô ta tái sanh vào các nẻo ác (các cảnh giới địa ngục, ngạ quỉ, ...) như tham, sân, sì đã làm.
==============================================================
==============================================================


(5) Tham (Lobha).

031.- Tham lam khác với Ham muốn.

Tham lam (Lobha) là sự thèm khát, ao ước, mong muốn về các khoái lạc về nhục thể.

Nhưng sự ham nuốn được chứng đắc Niết-bàn (Nibbana), ham muốn được thấu hiểu Chánh pháp (Dhamma), ham muốn được trở thành bực hữu học, ham muốn có của cải để bố thí cho người nghèo khó, các sự ham muốn đó chẳng phải là tham lam (lobha). Các sự ham muốn đó được gọi là chanda, sự mong muốn, mà ta sẽ xét đến sau.

032.- Các tên khác của sự Tham lam.

Có rất nhiều danh từ để chỉ đến các hình thức khác nhau của sự tham lam. Đó là: pema, tanha, raga, samudaya.

32.1.Tình thương người thân: Pema tình thương các người thân trong gia đình, anh chị em thương nhau, chồng vợ thương nhau, họ hàng thương nhau. Dó đó, chữ pema có nghiã là tình thương chơn thật. Tình thương thành thật nầy, pema, còn được gọi là samyojana, sợi dây thân ái, có nghiã là sợi dây ràng buộc giữa các người thân, khiến chẳng cho lía xa nhau.

32.2.Dây luyến ái: Năm đối tượng của các giác quan, như hình sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm (kinh sách Bắc tông gọi là năm trần: sắc, thanh, hương, vị xúc). Khi năm đối tượng nầy được người ham muốn và tham luyến, chúng trở nên ràng buộc và được gọi là kamaguma, dây luyến ái; (kama = dễ được yêu thích + guna = sợi dây).

Cũng như sự đói và cơn khát, cái nhiệt tình ham muốn mãnh liệt về các đối tượng của giác quan, khi vượt xa quá mức bình thường, được gọi là ái dục.

32.3.Tham dục: tanha, tức là sự thèm thuồng cao độ. Một kẻ say mê đeo đuổi một người khác phái, thường bị dán cho nhãn hiệu "si tình", "đắm mê về dục tình" hay "điên cuồng vì dục tình". Trong năm loại đối tượng của các cảm thọ, sự đụng chạm về thân thể, rờ rẫm, giao hợp, là điều thường được thèm khát, ao ước nhứt; trường hợp nầy được gọi là ái nhiễm, ái trước, Raga, (ái = thương, yêu, thích; nhiễm = dính thấm vào; trước = trói buộc);

32.4. Trìu mến: có nghiã là sự Raga , đeo dính vào một sự vật nào. Cũng như các chất màu nhuộm thấm vào vải, sự ái nhiễm, raga, chính là sự tham lam, lobha, đeo dính chặt vào một người.
(Các danh từ trên đây chỉ được dùng theo nghiã rộng của sự thông dụng).

32.5.Trong kinh Tứ Diệu đế, Bốn Chơn lý Nhiệm mầu, lobha, sự ái dục, được gọi là Tập đế, Samudaya, nguyên nhơn gây ra mọi sự khổ đau, hay khả năng gây ra sự khổ đau. Chúng sanh vì chẳng tận diệt được sự tham lam,sự ái dục (lobha), nên phải trôi lăn mãi trong vòng luân hồi sanh tử, tử sanh, để mà chịu lấy sự khổ đau.

Sự khổ đau, nặng nề hay nhỏ nhiệm, bắt nguồn từ ái dục (tanha),tham lam (lobha) hay, từ tập đế (samudaya), của mọi chúng sanh. Do đó, tham lam càng lắm thì khổ đau càng nhiều; hễ biết bớt tham lam, thì giảm được đau khổ; nếu đã dứt sạch bụng dạ tham lam, tức chẳng còn phải đau khổ nữa.
Tâm thức nào khởi lên cùng với sự tham lam, (lobha), được gọi tham tâm, tâm ái nhiễm, tâm bị ràng buộc. Người có tham tâm được gọi là người tham lam, người khao khát, người si ái, người mang gông cùm.

033.- Sự tham lam chỉ có tăng mà chẳng có giảm.

Sự tham lam, dầu là thèm khát thông thường, hoặc ham muốn dục tình, nếu chẳng được tiết chế theo Chánh pháp (Dhamma), mà để cho tự do phát triển, sẽ chẳng bao giờ giảm bớt cả.

Cũng tựa như cái sừng của con bò non ngày càng lú dài thêm ra, theo năm tháng, lòng tham lam đã chung sống với con người ngay cả từ khi còn trong bụng mẹ. Những kẻ đã lớn tuổi mà chẳng kềm chế lòng tham được, thường bị chế giễu bằng câu: "Già mà ham!"

034.- Tham giống như người uống nước mặn.

Từ tấm bé, trẻ con đã bắt đầu thương yêu cha mẹ, anh em, họ hàng. Lớn lên, chúng phát triển lòng ưa thích bạn bè. Đến khi được bản năng căn bản thúc dục chúng, chúng càng ngày càng trở nên khao khát tình yêu nam nữ, cũng như đang uống phải nước mặn, càng uống lại càng khát thêm. Vì khao khát dục tình, chúng chiều theo các đòi hỏi vật chất, xác thịt; đâu biết rằng đằng sau còn có sự khổ đau đang nằm chờ đó, chúng hân hoan quay cuồng trong biển ái nguồn ân.

"Ái tình! Tình ái! Càng yêu, họ lại càng khao khát; cũng tựa như đang uống nước mặn. Ái tình, tình thân ái, sự ái nhiễm đã nhắm mắt trước các khuyết điểm; chờ mong nơi tình ái, con người nuôi dưỡng ái tình. Đấy là bản thể của tình ái, đấy là con đường của tình ái." (Một bài thơ cổ của Miến-điện).

035.- Tham đã dẫn ta đến bốn nẻo ác bằng cách nào?

Cũng như một hòn đá thật nhỏ chìm từ từ xưống đáy nước, một sự tham lam nhỏ nhiệm cũng có thể lần lần dẫn ta đến bốn nẻo ác của Luân hồi, nếu ta chẳng được phước lành do các thiện pháp trước đã vun bồi. Bởi thế cho nên, có nhiều kẻ trở thành ngạ qủi (peta), những hồn ma đau khổ, cũng chỉ vì đã quá tríu mến vào vợ, vào chồng, vào con cái, vào sản nghiệp, khi đang hấp hối trên giường bịnh.

Vào thời Đức Phật Thích-ca còn tại thế, một vị tỳ-kheo đã tái sanh làm con rận, chỉ vì khi chết đi còn quá quyến luyến chiếc áo cà sa mới. Trong kinh có nói rằng vị ấy được giải thoát khỏi kiếp con rận chỉ sau bảy ngày thôi.

036.- Tham chẳng đưa ta đến bốn nẻo ác, nếu đã có sẵn thiện pháp.

Tình thân (pema) và ái dục (tanha), cho dầu đã có sẵn sự ràng buộc, cũng chẳng phải luôn luôn đưa ta vào các nẻo ác, nếu chúng ta đã có tích tập các thiện pháp từ trước để yểm trợ. Một hòn đá quẳng xuống nước phải chìm, nhưng nếu được chở trên thuyền, thì lại có thể lướt qua khỏi dòng sông.

Trong Kinh Jataka là Kinh nói về Tiền kiếp của Đức Phật, có kể lại nhiều trường hợp của những người, mặc dầu chưa tận diệt được ái dục và tình thân, vẫn có thể cùng hợp tác chặt chẽ với nhau để tuân trì các hạnh Ba-la-mật (Paramis, các đức hạnh toàn thiện).

037.- Điểm cần suy gẫm.

Sống chung nhau rất hoà hợp, đôi vợ chồng chẳng muốn rời nhau ra, đời đời kiếp kiếp; họ cùng nhau tuân thủ và thực hành các hạnh Ba-la-mật (Paramis, sự toàn thiện), và chứng đắc được Niết-bàn (Nibbana).

Đó là trường hợp của vị phụ nữ hiền đức Sumitta đã phát nguyện lời mong ước được sống luôn bên cạnh Bồ-tát Thiện Huệ (Sumedha). Đó cũng là trưòng hợp của đôi uyên ương Mahakassapa và Bhadda. Họ đã cùng nhau tu tập các Ba-la-mật trong nhiều đại kiếp.
Sự ao ước chung sống với nhau đó có phải, hoặc là chanda, sự mong muốn, hoặc là tanha pema, sự aíi dục, tình thân ái chăng? Ta cần suy gẫm về điểm nầy.

038.- Giải quyết sự phân vân.

Các nhơn vật nêu trong tiểu mục số 037, đều là nhựng vị có đầy đủ các đức hạnh cả. Sự ao ước được sống chung bên nhau của họ chỉ là sự mong muốn có tánh cách thiện pháp,kusala chanda, một sự mong muốn lành mạnh, chẳng hề vướng chút xấu ác nào.

Họ lại là những người đạo đức cao, quyết tâm theo đuổi việc tu trì các Ba-la-mật. Đại Tạng Kinh có đoạn ghi: "Lời ước mong của kẻ có đức hạnh thường được thực hiện. Xuyên qua sự mong muốn (chanda), mọi việc đều được viên mãn." Do đó, ta có thể xác quyết được rằng, mặc dầu có thể họ còn ái dục (tanha) và tình thân (pema),

nhưng sự mong muốn (chanda) mãnh liệt của họ là lời ước nguyện thiện lành, đã khiến cho họ được mãn nguyện."Ijjhati bhikkhave silavato cetopanidhi, visuddhatta."

"Này các tỳ-kheo, sự ước mong của kẻ đức hạnh luôn luôn được mãn nguyên vì tánh cách thanh tịnh." (Tăng Chi Bộ Kinh [Anguttara Nikaya])

039.- Tích chuyện: Nakulapita và Nakulamata.

Vào thời Đức Phật Thích-ca, có người gia chủ giàu sang tên Nakulapita và vợ của ông là bà Nakulamata. Cả hai đã sống bên nhau trải qua nhiều đời kiếp. Họ đắc quả vị Tu-đà-huờn (Sotapanna), kể từ khi họ đến yết kiến đức Phật lần đầu. Đôi vợ chồng nầy đã từng là bà con, hoặc chú, thiếm hoặc bác của Đức Phật, khi Ngài còn là Bồ-tát. Họ rất mến thương Đức Phật xem như con đẻ; cư xử rất thân tình và thường hỏi han nhiều điều. Một hôm, người chồng nói: "Thưa Tôn giả, tôi đã cưới Nakulamata làm vợ, từ ngày tôi còn trẻ. Từ bấy đến nay, tôi chẳng hề nghĩ đến sự phản bội đối với vợ tôi lần nào, nói chi là có sự ngoại tình. Tôi luôn luôn muốn được có mặt bên Nakulamata trong đời nầy và cả trong các kiếp sống luân hồi (samsara) nữa."

Khi nghe chồng nói như thế, bà Nakulamata liền thật tình thưa rằng: "Thưa Tôn giả, tôi đến sống chung với chàng trong ngôi nhà nầy của chàng, từ hồi tôi còn trẻ. Từ dạo ấy đến nay, tôi chẳng hề tưởng nghĩ đến ai khác cả. Tôi luôn luôn muốn sống bên cạnh chàng trong đời nầy và cả các đời sau của kiếp luân hồi."

Đức Phật bảo: "Nếu người đàn ông và người đàn bà sống chung nhau hoà hợp, muốn được ở mãi bên nhau trong nhiều đời kiếp, họ cần phải có chung một niềm tin (saddha), chung một giới đức (sila), chung một lòng nhơn từ bác ái (caga) và một trình độ ngang nhau về trí huệ (panna).

Lời Đức Phật có nghiã là: "Hễ người chồng có niềm tin thanh tịnh, thì người vợ cũng tin như vậy. Hễ người chồng giữ giới hạnh thanh tịnh thì người vợ cũng giữ gìn như thế. Nếu một trong hai người muốn bố thí, thì người kia cũng vui lòng và khuyến khích thêm. Trí huệ và kiến thức của hai người cũng phải ngang nhau."

Một đoạn trong Pancavudha Pyo, bài cổ thi Miến-điện, diễn lại ý trên, như sau: "Trong cõi người, nếu vợ chồng sống chung hoà hợp nhau và muốn được mãi mãi bên nhau, nếu họ có chung một niềm tin, chung một giới đức, chung một tấm lòng nhơn từ rộng rãi và chung một sự tín nhiệm vào nhau, thì họ sẽ được sống mãi bên nhau trong kiếp Luân hồi, chẳng khác chi với chư Thiên huy hoàng cùng ngự trong cung điện ở cõi Trời trải qua nhiều đời kiếp tái sanh."

040.- Ghi chú về câu chuyện Nakulapita và vợ.

Truớc hết, ta nên ghi nhận mối tình thấm thiết giữa đôi vợ chồng đã chứng đắc được quả vị Tu-đà-huờn (Sotapanna) là quả vị đầu tiên trên con đường tu tập theo Chánh pháp. Thành thật thương yêu nhau, họ chẳng hề nghĩ đến việc phản bội, thất tiết cùng nhau. Tâm thức họ thật thanh tịnh, họ rất quí mến nhau nên chẳng hề muốn có lúc phải rời nhau. Họ luôn luôn mong muốn được sống chung bên nhau đời đời kiếp kiếp trong cõi Luân hồi (samsara). Mặc dầu sự ước mong được chung sống bên nhau là một mong muốn, chanda, một tâm sở còn dựa trên các tâm sở ái dục (tanha), tình thân (pema) và tham lam (lobha), nhưng các tâm sở nầy của đôi vợ chồng có đức hạnh cao quí chẳng những chỉ có hiệu lực ràng buộc kết hợp họ lại với nhau mà thôi, lại còn nhờ vào sự tu tập tất cả các hạnh lành, nên đã đưa họ đến bờ an vui.

========================================================
========================================================

Che dấu:

041.- Sự Phú tàng, che dấu, (Maya).

Trong một vài trường hợp, sự phối hợp giữa hai tâm sở tham lam và ái dục (tanha lobha) được gọi là Maya, được tạm dịch là Phú tàng, tức là sự che dấu, Sự phú tàng cũng tựa như một tên phù thủy, một nhà ảo thuật trỏ vào viên đá mà khiến cho cử toạ tưởng đó là một khối vàng. Phú tàng che dấu các lỗi lầm, ác tâm của con người; kẻ bị tâm sở phú tàng ám ảnh luôn luôn muốn người khác tưởng rằng mình chẳng hề lầm lỗi, một bực toàn thiện, trong khi sự thật lại khác hẳn.

042.- Sự che dấu của một người đàn bà.

Một thời kia, có vị sư phụ và một người đệ tử. Vợ người đệ tử thường hay ngoại tình với một người đàn ông khác. Ngày nào mụ làm quấy, mụ lại tỏ ra chiều chuộng chồng hết mực. Nhưng đến những hôm mụ chẳng làm chuyện xấu hổ đó thì lại coi chồng như một tên nô lệ. Người đệ tử chẳng thể hiểu được thái độ khác thường của vợ, thắc mắc mà trình với sư phụ. Vị nầy liền giải thích rõ bản tính điêu ngoa của vợ y cho y nghe.

Ghi chú: Trong câu chuyện, vì muốn che dấu lỗi lầm của mình vào những ngày ngoại tình, mụ giả làm ra dáng thân yêu nồng nàn với chồng. Thái độ xảo quyệt, gian trá đó là sự phú tàng Trong vài trường hợp, thái độ lừa dối, che đậy đó được gọi là tankhanuppatti mana, sự lanh trí đúng lúc, (tankhana = vào ngay lúc ấy; uppatti mana = sự lanh trí.). Đó chẳng phải thật sự là có trí thông minh, mà chỉ là trí giả trá, sự lém lỉnh, thói láu cá mà thôi. Trí thông minh thật sự chỉ có được khi ta làm điều tốt.

043.- Một người vợ điêu ngoa.

Một người nội trợ kia thường hay thông dâm với tên đầy tớ trai. Một hôm người chồng bắt gặp vợ đang hôn hít đứa ở. Biết chồng đã thấy rõ cử chỉ bỉ ổi của mình, bà ta liền đến bên cạnh, thỏ thẻ: ‘Nầy anh yêu dấu, thằng nhỏ nầy bất lương; nó đã lén ăn mất phần bánh ngọt em dành cho anh. Em tra hỏi nó, nó chối bây bẩy, em mới ngửi vào miệng nó, mùi bánh còn ràng ràng đó. Mình phải đưổi nó ra khỏi nhà mới được."

Ghi chú: Trong câu chuyện, hành động hôn hít tên đầy tớ là một sự tội lỗi nặng nề. Ý tưởng gian ngoa đột nhiên khởi lên để lừa phỉnh và che đậy việc làm bậy bạ đó nào có phải gì khác hơn là sự phú tàng Chẳng những chỉ có phụ nữ mới che đậy, đàn ông cũng thường có tâm sở đó, khi lập mưu mẹo để phỉnh phờ.

044.- Sự phú tàng của một kẻ ẩn tu.

Tại một làng nọ, có một tu sĩ ẩn cư được sự sùng bái của một thí chủ trong xóm. Ông nầy vì sợ trộm cắp nên đem một trăm đồng tiền vàng chôn dưới đất gần cái am của ẩn sĩ và nói: "Thưa Ngài, xin Ngài hãy trông chừng giùm tôi" Vị ẩn tu liền đáp: "Nầy tín chủ! Đó chẳng phải là điều mà ông nên nhờ một kẻ tu hành làm."

Một ý tưởng đen tối khởi lên trong tâm kẻ ẩn tu: "Một trăm đồng tiền vàng cũng quá đủ cho ta sống trọn đời đầy đủ tiện nghi." Liền đào lên và đem dấu đi ở chỗ khác, trên một con đường mòn kín đáo.

Sáng hôm sau, ăn lót lòng xong, ẩn sĩ đến nói: ‘Nầy thí chủ, tôi đã sống ở đây khá lâu, sanh lòng quá quyến luyến thí chủ, nên tôi cần phải dời đi nơi khác."

Người thí chủ năn nỉ nhiều lần xin ông đừng đi, nhưng lời thỉnh cầu chẳng có hiệu quả; giờ đây, chỉ còn có cách là đi tiển nhà tu hành đến tận cổng làng.

Sau khi đi được một đỗi đường, vị ẩn tu liền quay trở lại và nói:"Nầy thí chủ hảo tâm, đây là một cọng rơm còn dính trên tóc tôi, tôi xin gởi trả lại. Một kẻ tu hành ẩn cư đâu nên cầm giữ những gì chẳng được cho mà lấy." Người thí chủ chất phác tin tưởng vào đức hạnh của ẩn sĩ, nên càng sùng kính hơn lên.

Tuy nhiên, lúc ấy, có một người khách rất thông minh đến nhà thăm, và hỏi: "Bạn có nhờ vị ẩn sĩ ấy giữ chừng một vật gì không? Nếu có, nên xem lại ngay." Khi soát lại chỗ chôn vàng thấy mất, người thí chủ cùng với người khách vội rượt theo và bắt được quả tang tên trộm.

Ghi chú: Trong câu chuyện, người ẩn tu trả lại cọng rơm, để che đậy tội trộm của mình; điều gian trá đó là sự phú tàng. Như thế, mưu mẹo gian xảo cũng được các người ẩn tu thi hành, mà ngay cả các vị sa môn (samanas, tu sĩ Phật giáo) cũng có phạm đến nữa; còn trong hàng các người chưa tập theo đạo pháp, sự lừa đảo, dối gạt ngày nay càng thấy nhan nhản.

Số người đáng được tin cẩn hoàn toàn thật rất khó mà tìm thấy; nếu trong các đời trước ta có làm nhiều việc thiện lành thì trong đời nầy, ta mới mong được hợp tác với người chân thật, ngay thẳng.

045.- Các hình thức phú tàng nhiều đến vô số.

Ngoài các sự che dấu lỗi lầm của mình được kể trong các câu chuyện vừa qua, còn có rất nhiều mưu mẹo gian xảo khác nữa; chẳng hạn thình thịch giậm chơn xuống đất giả bộ bực tức, ấm ức, để chứng tỏ mình trong trắng, vô tội; hoặc dùng lời đe dọa cay đắng hay giọng tâng bốc ngọt ngào nào khác.

Những kẻ giảo quyệt thường được gặp trong các cộng đồng, các trú sở nơi mà nhiều người chung sống với nhau. Nếu có một kẻ phóng uế ban đêm tại một chỗ khuất, sáng ra làm gì mà y lại chịu nhận mình là tác giả. Nếu lỡ xì hơi thối, có kẻ lại chà mạnh lên tấm thảm để cho âm thanh của sự cọ xát phát ra lấn át được cái tiếng chẳng thơm tho gì của y. Đấy chỉ là một vài hình thức phú tàng thông thường; chẳng thể kể ra hết được, vì còn nhiều đến vô số.

khoa trương

046.- Sự khoa trương (Satheyya).

Song song với sự phú tàng (maya), sự khoa trương cũng cần nên cứu xét cẩn thận. Khi một kẻ tự khoe khoang rằng mình có được những đức tánh tốt và khiến cho người khác phải kính nễ mình, sự tham lam (lobha) đó được gọi là sự khoa trương (satheyya).

Trong khi sự phú tàng che dấu các lỗi lầm và tự nhận mình chẳng có khuyết điểm nào, thì sự khoa trương (satheyya) lại tự gán cho mình những đức tánh tốt mà thật sự mình chẳng có được. Cả hai, phú tàng và khoa trương đều là mưu mô xảo quyệt gạt gẫm.

047.- Sự khoa trương nơi tu sĩ là sự tăng thượng mạn.

Giả cách là người đức hạnh, mặc dầu thật sự chẳng có đức hạnh; chưa thông hiểu mà tự cho là mình đã thuần thục; chưa chứng đắc mà tự hào rằng mình đã đạt được quả vị; các sự giả dối khoe khoang đó được gọi là sự khoa trương (satheyya), nhưng nếu ứng dụng vào trường hợp các người tu hành thì có tĩnh từ tăng thượng mạn. (Tăng thượng mạn = tăng (hơn lên) + thượng (cao) + mạn (kiêu kỳ)). Cho đến khi nào sự khoa trương giả dối còn chưa bị các tín đồ khám phá ra, tu sĩ tăng thượng mạn vẫn còn cảm thấy an toàn để thọ nhận sự cúng dường của các người ngoan đạo. Ngay cả khi họ có nhìn thấy phần nào sự lừa dối, họ cũng tặc lưỡi bỏ qua: "Đấy chẳng phải là mối quan tâm của chúng ta, cho dầu vị ấy có dối gạt hay không!"

048.- Sự khoa trương nơi người thế tục là sự tự tôn.

Nơi các người còn lăn lộn trong cuộc sống trần tục, sự khoa trương (Satheyya) khoác hình thức của sự tự tôn: chẳng có một tánh tốt nào mà tự nhận mình là người chơn thiện; chẳng tu tập đàng hoàng mà tự cho mình đã chứng được thiền định; còn dở dang trong việc học mà lại khoe chếm được bằng Cử nhơn, Cao học; chẳng môt đồng dính túi mà chưng diện theo đúng thời trang, v.v. đấy là các hình thức thường thấy của sự khoa trương nơi người đời

049.- Các tai hại của sự khoa trương giả dối.

Phú tàng (Maya) và khoa trương (Satheyya) tác hại còn nhiều hơn cả sự tham lam (Lobha) nữa. Các điểm sau đây chứng minh điều đó.

Các tu sĩ chẳng có giới đức, chẳng có định tâm, chẳng có trí huệ mà tự nhận bừa là mình đang có đầy đủ đức hạnh, đang chứng đắc thiền định, hay đang được thượng trí, sẽ phải chịu trầm luân mãi trong vòng Luân hồi (samsara). Các tín đồ, đã lỡ quy y nơi các tu sĩ đó, sẽ chẳng có tiến bộ trên đường tu học; các lễ vật cúng dường cho họ chẳng đem lại nhiều phước báu về cho thí chủ. Lại cũng có lắm kẻ giảo quyệt phô trương giả dối nào giới đức, nào thiền định, đã khiến cho nhiều thiếu nữ nhẹ dạ phải u sầu nuốt hận vì họ. Và cũng vì lối sống bất chánh cùng các hành vi bất thiện của họ, đã khiến cho dân chúng trong vùng chẳng thiết tha chi đến Chánh pháp.

Chẳng những các người được "gọi là cấp lãnh đạo", chẳng đủ sức chỉ huy mà tự nhận mình có tài lãnh đạo, đã phung phí tài sản và sanh mạng của dân chúng, họ lại còn có thể làm cho quốc gia bị nguy vong, đến mất cả chủ quyền.

Trong phạm vi gia đình, nhiều thiếu nữ quá tin vào sự phô trương khoác lác về tiền tài, về điạ vị của các chàng trai lừa dối, khiến cho các cuộc hôn nhơn chẳng đem lại hạnh phúc và thường chấm dứt trong sầu khổ.

Hơn nữa, nếu hai bên vì sự phú tàng (maya) mà che dấu các khuyết điểm của mình, vì sự khoa trương (satheyya) mà mạo xưng là giàu có, họ sẽ bị lộ liễu ngay sau một thời gian sống chung. Làm sao họ có thể yêu thương nhau đậm đà với một người hôn phối đã gạt gẫm? Làm sao họ có thể sống trong hạnh phúc bên nhau nếu chẳng có tình yêu thành thật? Muốn trở thành một cặp vợ chồng hạnh phúc, đâu chỉ thú vui xác thịt, lại còn rất cần tình yêu chơn thành nữa.

Hôn nhơn giữa hai người Phật tử chẳng phải chỉ có nghiã là sự phối hợp trong một đời hiện tại thôi đâu. Nếu họ sống hoà hợp, cùng nhau đến chùa làm lễ, cúng dường, làm việc lành, họ còn được hưởng phước báu do các thiện pháp mang đến cho họ cả trong các đời sau nữa. Nếu hôn nhơn bị hoen ố vì sự phú tàng và khoa trương giả dối, việc hành thiện của họ chỉ có bề ngoài, chẳng chút thành tâm bên trong, làm sao mang lại cho họ được sự an lạc chẳng riêng trong đời nầy mà cả những kiếp về sau trong vòng Luân hồi (samsara). Do đó, nếu muốn sống trong hạnh phúc hôn nhơn, con người cần phải dẹp bỏ các tâm sở phú tàng và khoa trương, mới có thể thọ hưởng được đầy đủ và bền lâu các lạc thú gia đình.


Như thế, vì sự phú tàng và sự khoa trương hay lừa gạt một người hay nhiều người, có khi cả một nước như trường hợp các đạo nhơn cầm đầu các môn phái tà giáo tự xưng là Phật sống các tâm sở đó phải được xếp vào hạng bất thiện pháp hết sức xấu ác. Đối với bậc tu hành tự xem mình là người đức hạnh đang thực thi các hạnh Ba-la-mật (Paramis, sự toàn thiện), tưởng cũng nên thường thường quán chiếu tâm thức mình, đừng để cho cõi lòng bị các tâm sở xấu ác và giả dối đó làm hoen ố, nơi mình cũng như nơi những người có liên hệ với mình; và cố tập sao cho có được một tâm hồn luôn luôn thanh khiết, sáng suốt, hoạt bát, chơn thành và cao thượng.
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:




<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng



Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ



</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm

Forum:

Tán loạn: 6 - Nam Mô A Di Đà Phật - www.NiệmPhậtVãngSanh.com

Tham:

Phú tàng:

Khoa trương:
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Chương 2: Tâm sở và các Tâm sở bất thiện

Tâm sở.
016 - Các Tâm sở xác định Tâm thức.
017 - Mười bốn tâm sở bất thiện.

1.- Vô minh (Moha)
018 - Hai loại Vô minh
019 - Loại vô minh thứ nhứt: Căn bản Vô minh.
020 - Loại vô minh thứ hai: Chi mạt Vô minh.
021 - Một vị hiền giả bị Vô minh áp đảo.
022 - ‘‘Chẳng biết’’ đâu phải luôn luôn là Vô minh.
023 - Vô minh thô và tế.

2.- Vô tàm (Ahirika)
024 - Thế nào là Vô tàm?
025 - Ghi chú thêm về câu chuyện của ẩn sĩ Haritaca.

3.- Vô quí (Anottappa).
026 - Thế nào là Vô quí?
027 - Lại ghi chú thêm về câu chuyện ẩn sĩ Haritaca.

4.- Tán loạn (Uddhacca).
028 - Thế nào là Tán loạn?
029 - Khi Tôn giả Nan đà chẳng định tâm được.
030 - Năng lực yếu ớt của sự tán loạn.

5.- Tham (Lobha)
031 - Tham lam khác với Ham muốn.
032 - Các tên khác của sự tham lam.
033 - Sự tham lam chỉ có tăng mà chẳng có giảm.
034 - Uống nước mặn.
035 - Tham dẫn ta đến bốn nẻo ác bằng cách nào?
036 - Tham chẳng đưa ta đến bốn nẻo ác, nếu đã có sẵn thiện pháp.
037 - Điểm cần suy gẫm
038 - Giải quyết sự phân vân.
039 - Nakulapita và Nakulamata.
040 - Ghi chú về câu chuyện Nakulapita và vợ.
041 - Sự phú tàng (Maya).
042 - Sự che dấu của một người đàn bà.
043 - Một người vợ điêu ngoa.
044 - Sự phú tàng của một kẻ ẩn tu.
045 - Các hình thức phú tàng nhiều đến vô số.
046 - Sự khoa trương (Satheyya).
047 - Sự khoa trương nơi tu sĩ là sự tăng thượng mạn.
048 - Sự khoa trương nơi người thế tục là sự tự tôn.
049 - Các tai hại của sự khoa trương giả dối.

6.- Tà kiến (Ditthi).
050 - Tà kiến là gì?

7.- Kiêu mạn (Mana)
051 - Kiêu mạn là gì?
052 - Các hình thức kiêu mạn và cách dẹp bỏ.
053 - Hai cách tu học.
054 - Kiêu mạn về sắc đẹp.

8.- Sân hận (Dosa)
055 - Thế nào là sân hận?
056 - Câu chuyện một người thiếu nữ.
057 - Sự vô ơn (Makkha)
058 - Chuyện người con có hiếu với mẹ.
059 - Ác ý (Palasa)
060 - Sự ưu sầu (Soka)
061 - Ưu sầu và lo âu có đem lợi ích gì chăng?
062 - Sự than khóc (Parideva)
063 - Khóc than có ích lợi gì chăng?
064 - Sự điềm nhiên của Bồ-tát, tiền thân Đức Phật.
065 - Bà Mallika, phu nhơn vị tướng lãnh Bandhula.
066 - Đau khổ vật chất (Dukkha) và thống khổ tinh thần (Domanassa)
067 - Lợi (Labha) và Suy (Alabha)
068 - Có đông quyến thuộc (Yasa) và cô độc (Ayasa).
069 - Tán tụng (Ninda) và chê trách (Pasamsa)
070 - Sự uất hận (Upayasa)

9.- Sự Ganh tị (Issa)
071 - Thế nào là sự ganh tị?
072 - Bầy heo rừng và động ngọc bích.
073 - Đề cao (Attukkamsana) và vu báng (Paravambhana).
074 - Phô trương khoác lác.
075 - Tuyên bố đúng thời.
076 - Chê trách.

10.- Sự Tật đố (Macchariya).
077 - Các hình thức của tâm sở tật đố.
078 - Các điểm cần cứu xét về tâm sở tật đố.

11.- Hối tiếc (Kukkucca)
079 - Thế nào là Hối tiếc?
080 - Sự hối tiếc của bốn chàng thanh niên giàu có.
081 - Đừng để phải hối tiếc về sau.
082 - Hãy nỗ lực tinh tấn hành thiện khi còn đủ thời giờ.
083 - Câu chuyện người đao phủ thủ.

12 và 13.- Giải đãi (Thina) và Hôn trầm (Middha).
084 - Thế nào là giải đãi và hôn trầm?

14.- Nghi ngờ (Vicikiccha)
085 - Nghi ngờ, chẳng tin vào Tam Bảo.
086 - Các sự phân vân chẳng thuộc về tâm sở nghi ngờ.
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:
<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng

Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ






</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
056.- Câu chuyện một người thiếu nữ.

Câu chuyện xa xưa nầy, xảy ra ở Ấn độ, kể lại cuộc đời của một thiếu nữ khổ đau vì sân hận, chẳng những nhắm vào mục đích giải thích rõ ý niệm về sự sân hận mà còn muốn cảnh cáo các bậc làm cha mẹ đã ép buộc con cái trong các cuộc hôn nhơn thiếu sự ưng thuận và tình yêu giữa nàng dâu và chàng rể.

Đôi thanh niên và thiếu nữ trẻ trung trong câu chuyện nầy chưa hề quen biết nhau. Họ được cha mẹ hai bên sắp đặt và giàn xếp để buộc họ phải kết hôn cùng nhau. Mặc dầu cô thiếu nữ là một người con gái gia đình rất đàng hoàng, chu tất mọi bổn phận của người nội trợ một cách hoàn hảo, nhưng chàng thanh niên lại chẳng biết ngợi khen và chẳng hề tỏ chút tình yêu thành thật nào với vợ.

Nàng bắt đầu thất vọng vì chàng đoái hoài gì đến sự chăm sóc âu yếm của nàng. Lòng nàng phiền muộn và lắm khi rất chán chường. Chồng nàng đã chẳng yêu nàng, thấy vẻ nàng ủ dột, lại càng thêm ghét và càng trở nên hung bạo hơn. Mặc dầu bất mãn với thái độ của chồng, nàng vẫn tiếp tục làm tròn bổn phận người vợ đảm đang.

Tuy nhiên, lòng nàng đâu phải là gỗ đá trơ trơ, cũng có tình cảm như mọi người, cho nên đã nhiều lần nàng định quyên sinh. Nhưng dầu phải thất vọng mà cam chịu sự bất nhã, sự thiếu hạnh phúc và sự lo sợ, nàng vẫn kéo dài cuộc đời cho đến khi sanh ra được hai đứa con. Rồi sau cùng, đến khi chẳng còn kham nhẫn nổi gánh nặng khổ tâm ngày càng đè trĩu trong lòng, nàng mới viết một bức thơ gởi cho chồng, bấy giờ còn đang bận việc làm ăn ở xa. Lời thơ như vầy:


"Hởi đấng trượng phu! Mặc dầu đã tuân lịnh mẹ cha mà về làm vợ chàng, em cũng đã cố gắng hết lòng để mến thương chàng và để chinh phục tình yêu của chàng. Nhưng mọi việc đều thất bại. Em luôn luôn bị buộc tội là đã lừa gạt và che dấu lỗi lầm của mình.

Tuyệt vọng, nhiều lần em đã quyết định quyên sinh, nhưng cũng vì hai đứa con, nên mới còn sống đến ngày nay. Nhưng bây giờ có sống thêm nữa cũng chẳng ích lợi gì. Sau khi viết xong thơ nầy, em sẽ bỏ thuốc độc vào thức ăn để chấm dứt cuộc đời của ba mẹ con em."


Đọc qua bức thơ, người chồng nghĩ lại thiện tâm, thiện chí của nàng, vội quay trở về, để nhìn thấy ba thi thể nằm bất động. Quá hối hận, chàng cũng tự sát theo.

Trong câu chuyện, sự oán hờn nhau rất là rõ rệt. Khi một người đàn ông lâm vào tình trạng ấy, tưởng cũng nên tỏ ra có tấm lòng cởi mở, và biết đối xử thật tình và tử tế với vợ mình.
========================================================

058.- Chuyện người con có hiếu với mẹ.

Tại một thị xã kia, có một chàng thanh niên nghèo siêng năng làm mướn để nuôi người mẹ goá bụa. Mẹ chàng là một người đàn bà trắc nết, dan díu thầm lén với tình nhơn. Bạn bè chàng trai hay được chuyện đó, thấy tội nghiệp cho chàng, nên mới mách việc gian dâm đó cho chàng biết. Tuy nhiên, chàng thanh niên nói: "Hãy cứ để mẹ ta được vui thú; dầu bà có làm gì đi nữa, ta cũng vẫn luôn luôn chăm sóc đến bà." (Con trai, con gái mà biết hiếu thảo với mẹ cha như thế thật là hiếm có, cũng như khó thấy được các bực phụ huynh hoàn toàn đứng đắn.)

Ghi chú: Trong câu chuyện nầy, sự vô luân của người mẹ là gánh nặng của riêng bà. Bổn phận phải phụng dưỡng mẹ là nghiã vụ của người con. Khi chăm sóc một người mẹ goá, con cái chẳng có quyền tự xem mình như đang lo lắng cho em cháu vậy; trái lại, người con phải luôn luôn tưởng nghĩ là mình đang đền đáp lại một công ơn to tát mà mình đã nhận từ lúc được sanh ra.

Bởi thế cho nên, thiện nam, tín nữ nào muốn được phước báo trong đời nầy và cả các đời sau nữa trong cảnh Luân hồi (samsara), phải cố gắng lo báo đáp món nợ sâu dầy sanh thành và dưỡng dục đó. Trong lịch sử Tiền kiếp của đức Phật, khi Bồ-tát còn là một con bạch tượng trong một kiếp sống thật xa xưa, cũng đã biết cách báo ơn cho voi mẹ. Số là voi mẹ bị mù, voi con lo chăm sóc mẹ, lại rủi bị vua bắt. Chú voi trắng nhứt định chẳng chịu ăn uống gì, sau cùng vua phải thả ra, cho về với voi mẹ.
========================================================


064.- Sự điềm nhiên của vị Bồ-tát, tiền thân của Đức Phật.

Trong một kiếp sống xa xưa của Đức Phật khi còn là vị Bồ-tát (Bodhisatta), đôi vợ chồng Ngài đã từ bỏ sản nghiệp to lớn để trở thành hai kẻ ẩn tu sống trong rừng. Bà là một trang tuyệt sắc, hiền đức, ai trông thấy cũng tỏ lòng mến phục.

Sau một thời gian cư trú trong rừng, bà lâm bịnh nặng, vì phải dùng hoa quả còn sống và vật thực cúng dường, thay vì các món sơn hào hải vị đã quen được cung phụng ngày trước. Bà mắc chứng kiết lỵ và gần kiệt sức.
Bồ-tát dìu vợ quay trở về và dừng lại ngoài cổng thành. Bà được đặt nằm bên vệ đường, trong khi Bồ-tát cầm bình bát đi khất thực. Bà trút hơi thở cuối cùng trước khi Bồ-tát quay lại. Dân chúng trong thành trông thấy thi thể, ngậm ngùi khóc than thương tiếc, mặc dầu họ chẳng phải là thân thuộc của bà. Họ lại sửa soạn làm lễ an táng cho bà.

Vào lúc ấy, vị Bồ-tát đã khất thực xong về đến nơi, chứng kiến cảnh mất mát bất ngờ và to tát của mình. Thay vì để lộ vẻ đau buồn cùng tột và cất tiếng khóc to, Bồ-tát lặng lẽ ngồi bên thi thể vợ, lấy cơm ra ăn sáng. Ngài điềm nhiên ngồi ăn trong khi các người chung quanh khóc than rền rĩ. Sau khi ăn xong, Bồ-tát liền giảng một bài pháp khuyến dạy các người nghe cách dập tắt ngọn lửa của sự u sầu khóc than (parideva) đang nung cháy cõi lòng của họ.

065.- Bà Mallika, phu nhơn vị tướng lãnh Bandhula.

Một câu chuyện lý thú khác, liên quan đến bà Mallika, phu nhơn của Tướng Bandhula. Tướng Bandhula phục vụ dưới triều vua xứ Câu tát la (Kosala); hai ông bà có được mười sáu đôi con trai song sanh (ba mươi hai người con). Các vị công tử nầy thường cùng với tôi tớ, đến hoàng cung để yết kiến vua.

Thấy gia đình đông con hùng mạnh nầy, vài quan đại thần tỏ lòng ghen tị và bịa chuyện ra sàm tấu với vua. Họ tâu gian rằng tướng Bandhula cùng các con đang bầy mưu phản nghịch. Trong một lúc bất minh, thiếu sáng suốt, vua tin lời tâu gian và ra lịnh bao vây nhà vị tướng lãnh Bandhula, bắt hết cả cha và các con đem thiêu sống, rồi lại đốt cả dinh thự.

Ngày hôm sau, khi bà Mallika sắp dâng cúng lễ vật lên Tôn giả Xá-lợi-phất (Sariputta), bà mới nhận được tin sét đánh đó. Tuy nhiên, bà Mallika vẫn giữ thái độ trầm tĩnh, chẳng để lộ vẻ đau buồn khổ sở. Sự mất mát thật là to tát, thế mà bà vẫn chẳng chút khóc than, bình tĩnh hoàn tất công việc tạo phước cúng dường.

Ghi chú: Trong hai thí dụ vừa kể, trường hợp vị Bồ-tát ẩn tu, ta chẳng lấy làm ngạc nhiên chi cho lắm, vì Ngài đã thi hành các pháp Ba-la-mật (Paramis, sự toàn thiện) qua nhiều kiếp sống rồi. Tâm tư Ngài đã được đào luyện kỹ càng và già dặn đến mức tuyệt kỹ, cho nên Ngài giữ được thái độ điềm nhiên cũng chẳng quá khó.

Nhưng đối với cảnh bà Mallika, ta phải nên thán phục và noi theo gương bà. Bà là người phái yếu, dễ xúc động, thế mà biết giữ được sự bình tĩnh với ý tưởng cần phải hoàn tất việc cúng dường còn đang diễn tiến.

Trong cuộc đời, chúng ta phải đối phó với hàng trăm ngàn việc khó khăn, dầu cho sống hơn trăm tuổi cũng chẳng giải quyết hết được. Bởi thế cho nên, ta phải cố gắng, bằng mọi cách, vượt lên trên nổi thống khổ, niềm ưu sầu cùng sự khóc than kể lể.

Trong những phút đau buồn sầu khổ, ta nên quán chiếu như vầy: "Sự tập luyện về hạnh Ba-la-mật (Paramis) của tôi đã đầy đủ đến mức nào rồi?". Một nghịch cảnh khổ đau chính là một cơ hội để mình trắc nghiệm lại sức nhẫn nhục Ba-la-mật của mình.
========================================================


083.- Câu chuyện người đao phủ thủ.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một người đao phủ thủ lãnh nhiệm vụ thi hành các lịnh của vua chém đầu các tội nhơn bị xử tử. Ông ta đã phục vụ cho đến lúc tuổi già, chẳng còn đủ sức để làm tròn phận sự nữa nên mới xin về hưu.

Tôn giả Xá-lợi-phất (Sariputta) có dịp đến thăm ông ta vào lúc hấp hối và đem Chánh pháp (Dhamma) ra giảng cho ông nghe bên giường bịnh. Nhưng cụ già chẳng thể nào chú tâm nghe nổi, vì bấy giờ trong tâm ông chỉ thấy sự trái ngược giữa những hành vi bất thiện khi chém đầu tử tội của ông và lời giảng trong Chánh pháp.

Tôn giả Xá-lợi-phất thấy rõ tình thế, biết tâm tư của cụ già lúc ấy, nên mới hỏi cụ rằng:

"Cụ chém đầu tử tội là theo ý riêng của cụ hay là cụ đã phải làm theo lịnh Vua?"

Cụ già đáp: "Tôi chỉ tuân lịnh Vua mà chém; chớ tôi chẳng giết họ theo ý muốn của tôi."

Tôn giả liền nói: "Nếu thế, thì chỗ nào là tội ác?", rồi Tôn giả tiếp tục giảng tiếp. Cụ già bắt đầu suy nghĩ và xét thấy mình thoát khỏi tội trạng, tâm thức liền trở nên bình thản. Trong khi lắng nghe Chánh pháp, cụ già chứng được quả Tu-đà-huờn sơ cấp (Culasotapanna, quả Dự lưu sơ cấp) rồi được tái sanh lên cõi Trời (Deva Loka), sau khi mất.

(Chiếu theo kinh sách trong Chánh pháp, cả cụ già lẫn nhà vua đều có tội sát sanh, mặc dầu cụ chỉ thi hành theo mạng linh của vua. Nhưng Tôn giả Xá-lợi-phất muốn giải toả mối thắc mắc trong đầu cụ già để tâm tư cụ trở nên bình thản mà lắng nghe Chánh pháp, mới dùng một phương tiện khéo, đặt ra câu hỏi có vẻ làm cho cụ thấy mình vô tội.)

Ghi chú: Cụ đao phủ thủ già rõ ràng đã kết liễu đời sống của nhiều người. Nhưng Tôn giả Xá-lợi-phất đã dùng câu hỏi khéo léo giúp cụ giải toả được tâm sở hối tiếc (kukkucca) nơi cụ.
Khi sự hối tiếc đã biến mất khỏi tâm thức, cụ mới có thể định tâm lại mà chăm chú nghe giảng Chánh pháp, nhờ đó mà cụ được sanh lên cõi Trời.

Rút lấy bài học về câu chuyện nầy, ta chẳng nên quá tiếc rẻ về việc đã trót làm hành vi bất thiện và quên mất chẳng làm điều lành; nhưng ta phải cố gắng làm sao cho ác nghiệp (kamma) mới, chẳng khởi lên được; rồi tinh tấn thi hành các thiện pháp kể từ đó về sau.
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:


<center><table style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id="AutoNumber1" border="0" bordercolor="#111111" cellpadding="0" cellspacing="0" width="449"><tbody><tr><td width="128">
</td><td width="321">
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng

Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ

</td></tr></tbody></table></center>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Chương 3: Các tâm sở thiện.
087 - Các tâm sở thiện (Kusala Cetasikas).

1.- Tâm sở Tín (Saddha)
088 - Tâm sở tín, hay tín tâm, hoặc lòng tin tưởng.

...sự thật về Nhứt thiết chủng trí (= chánh biến tri = trí huệ hiểu biết sự sự, vật vật cùng khắp) của Đức Phật, một bực trong cõi người đã biết tất cả mọi sự thật; về giáo lý của Phật, tức là Chánh pháp (Dhamma); và về các đệ tử của Ngài, tức là giáo hội Tăng-già (Sangha).


Sự trong sáng của tâm thức.- Đặc tánh thứ hai của tín tâm (saddha) là sự trong sáng của tâm thức. Trong khi bố thí cúng dường, hay giữ gìn giới luật, hoặc đang tu tập quán tưởng, tâm thức ta tràn đầy niềm tin và trở nên trong sáng.
Cũng tựa như viên minh châu của vua Chuyển Luân Thánh Vương, khi được ngâm trong nước bùn cặn cáu, khiến cho các cặn bã, các chất ô uế từ từ lắng chìm xuống đáy và nước trở nên trong veo, cùng thế ấy, tín tâm (saddha) sẽ vẹt sạch mọi sự nghi ngờ, mọi phân vân, cùng các lậu hoặc khác (= các sự nhiễm ô về tâm linh), và thanh lọc tâm thức cho trở nên trong sáng. Đó là đặc tánh trong sáng của tín tâm.

089 - Các sự tin tưởng sai lầm

Ví dụ như: Những người tin tưởng vào các tu sĩ diện mạo thanh tú, khả ái, giọng trong trẻo, hùng hồn, nói năng lưu loát, lại có thể làm các phép lạ mê hoặc lòng người, cho thuốc, trị bịnh v.v. cũng đều chẳng phải là những người có tín tâm chơn thật. Các sự tin tưởng sai lầm vừa kể được các sách luận sắp xếp vào loại mê tín (muddhappassana), vì si mê mà tin theo.

090 - Cần lưu ý đề phòng.

091 - Cần phân biết: lòng tin khác với tình yêu.

Ngày nay vẫn còn nhiều người đức hạnh lầm lẫn giữa sự tín phục và tình thương quyến luyến. Nhiều người mộ đạo rất nễ trọng các vị pháp sư có giọng nói khả ái, đạo đức cao sâu, đã giảng dạy rất thấu đáo về Chánh pháp. Khi người tu học quí mến và kính nễ thầy dạy pháp cho mình, chỉ về phương diện đạo đức, đó là sự tín phục (saddha).

Nhưng nếu họ trở nên quá quyến luyến vị giảng sư cũng như họ đang trìu mến người thân của họ, thì có sự pha trộn giưã lòng tin tưởng và tình thương yêu.

2.- Sự tỉnh giác (Sati)

092 - Thế nào là tâm sở tỉnh giác?

093 - ‘‘Nhớ lại’’, ‘‘nghĩ đến’’ chưa đủ để được gọi đó là tỉnh giác.

Khi một người nhớ đến người thân, khi một kẻ khát khao trông đợi người yêu, khi bạn bè nhớ đến các buổi hẹn, khi một người nhớ lại các giây phút ngất ngây quí báu, v.v., tất cả các sự hồi tưởng nầy đều có tính cách luyến ái (tanha), với sự ràng buộc trìu mến.

Khi một người nhớ đến sự báo thù vì mình bị tổn thương; khi một người ghi nhớ mãi trong tâm các kế hoạch bạo ác; khi một người lưu tâm đến các nguy hiểm có thể xảy ra cho mình dọc đường, tất cả các trường hợp nhớ, nghĩ đó đều hàm chứa bên trong sự sân hận (dosa).

Bất cứ hình thức nào của các tâm sở vừa kể, vì có sẵn bên trong, hoặc được kèm theo, sự luyến ái hay sự sân hận, đều chẳng được sắp xếp vào loại tâm sở tỉnh giác (sati).

Các tâm sở nêu trên đều thuộc về ký ức (sanna), sực nhớ lại, hay về tưởng nghĩ (vitakka), cố nghĩ đến việc gì; chẳng nên lẫn lộn chúng với tâm sở tỉnh giác (sati). Bản thể của các tâm sở: sanna (nhớ) và vitakka (tưởng), sẽ được cứu xét trong các Chương sắp đến.

3.- Tàm (Hiri) và 4.- Quí (Ottappa)

094 - Thế nào là Tàm và Quí.
Biết hổ thẹn khi làm điều quấy, đó là có tâm sở tàm (hiri). Biết sợ hãi khi làm việc ác, đó là có tâm sở quí (ottappa). Tâm sở tàm hiện khởi rõ ràng nơi người biết quí trọng danh dự và nhơn cách. Tâm sở quí phát sanh rõ ràng nơi người biết kính trọng cha mẹ, thầy học, bạn bè và người thân.

095 - Tàm và Quí giả hiệu.
Mặc dầu tàm quí là hai tâm sở thiện (kusala cetasikas) nhưng cũng có những trường hợp giả hiệu của tàm quí. Sự hổ thẹn, sự sợ hãi các lỗi lầm, sự tránh xa các hành vi bất thiện (duccarita) là những hình thức chơn thật của tàm quí.

Nhưng nếu có sự hổ thẹn hay sợ hãi khi phải tuân theo các giới luật trong lễ Bố tát (Uposatha) (lễ tụng đọc giới luật vào đầu tháng và giữa tháng);
khi phải đến viếng đền, chùa;
khi phải nghe giảng Chánh pháp (Dhamma);
khi phải nói chuyện trước công chúng;
khi phải làm các việc chơn tay cực nhọc và dơ dáy;
hoặc khi có sự gặp gỡ giữa trai, gái, v.v. các trường hợp nầy là sự hổ thẹn, sợ hãi, giả hiệu, chẳng phải phát sanh từ hai tâm sở tàm quí, mà chính là sự trá hình của việc tự phụ rởm.
Theo Luận A tỳ đạt ma (Abhidhamma, Luận Tạng), các trường hợp đó được gọi chung lại dưới danh từ tanha làsự ái dục.

096 - Bốn trường hợp cần dẹp bỏ sự hổ thẹn qua một bên.

Trong các sách luận, ta thường thấy nêu lên bốn trường hợp mà ta chẳng cần phải quá hổ thẹn:
(1) trong việc kinh doanh hay thương mãi;
(2) trong khi theo học với một minh sư;
(3) khi lãnh phần lương thực và
(4) trong khi "làm tình"

Bốn trường hợp đó được nêu ra để nói lên đến mức nào, con người phải tỏ ra bạo dạn, khi biết việc mình đang làm một việc chẳng phải là bất thiện, bất lợi.

Lại còn có các trường hợp, như sợ hãi khi ra pháp đình hầu thẩm phán,
như ngại ngùng đi tiểu tiện lúc ngồi xe đi xa,
như sợ chó, sợ ma, sợ các nơi xa lạ, sợ người khác phái, sợ người già cả, sợ hầu chuyện với bực trưởng thượng, đều chẳng phải do tâm sở tàm hay quí khởi lên.

Mà do sự rụt rè, sự thiếu tự tín, nói chung đều do tâm sở bất thiện domanassa (sự khổ sở tâm linh) từ bên trong thúc đẩy.

097 - Con đường ở giữa.

Các trường hợp nêu trong tiểu mục trước đã chứng minh cho sự cần thiết phải đào luyện cho mình có được đầy đủ hai tâm sở chính hiệu tàm quí. Chẳng hề phải nên sợ hãi hay hổ thẹn khi ta biết ta đang làm một hành vi thiện.

Nhưng nói như thế chẳng hề có nghiã là ta lúc nào cũng phải liều lĩnh, quá bạo dạn trong mọi trường hợp. Sự liều lĩnh thường đưa đến sự thiếu kính trọng đối với các bực trưởng thượng, cùng sự sân hận và sự kiêu mạn.
Nếu sự can đảm tinh thần cùng sự vô uý (vô= chẳng; úy = sợ hãi; vô uý = chẳng lo lắng sợ hãi) đáng được ngợi khen, thì sự liều lĩnh, sự bất kính lại đáng chê trách.

Sự liều lĩnh vô ích, sự can đảm rởm cùng với sự bất kính đều bất hảo cả; con người chỉ nên bạo dạn, cang trường khi đang làm điều phải mà thôi. Hổ thẹn hay sợ hãi quá mức cũng chẳng tốt. Thế cho nên, ta phải biết chọn con đường ở giữa mà theo, chẳng nên quá liều lĩnh trong các trường hợp cần phải sợ hãi, và phải biết sợ hãi trước các điều bất thiện.

Đức Phật dạy: "Abhayitabbe bhayanti, bhayitabbe na bhayare.", nghiã là: "Nhiều người quá sợ hãi những điều chẳng đáng sợ hãi và lại chẳng biết sợ hãi những điều đáng sợ."
****************************
(Còn tiếp...)
****************************
5.- Sự vô tham (Alobha)
098 - Thế nào là Vô tham?
099 - Vị tỳ-kheo tham lam.
100 - Một kẻ tham lam.
101 - Vị tỳ-kheo vô tham.
102 - Một người vô tham.

6.- Vô sân (Adosa)
103 - Thế nào là Vô sân?
104 - Tâm vô tham và vô sân của Bồ-tát.
105 - Nhận định.
106 - Nhơn và quả

7.- Vô si (Amoha) và Trí huệ (Panna)
107 - Thế nào là Vô si và Trí huệ.
108 - Trí huệ hay Bát nhã (Panna)
109 - Sự thông minh giả hiệu.
110 - Căn bản trí và Hậu đắc trí.
111 - Làm thế nào để đào luyện căn bản trí?
112 - Sự khác biệt giữa niềm tin (Saddha) và trí huệ (Panna).
113 - Lời kêu gọi.

8.- Tâm từ (Metta)
114 - Tâm từ chẳng phải là một tâm sở riêng biệt.
115 - Tình yêu chưa hẳn là tâm từ.
116 - Tình yêu giữa bò mẹ và bò con.
117 - Tâm từ của Hoàng hậu Samavati.
118 - Bài học đạo đức của mẩu chuyện.

9.- Tâm bi (Karuna)
119 - Sự thương hại chưa hẳn là tâm bi.
120 - Tâm thức của người đức hạnh.

10.- Tâm hỉ (Mudita)
121 - Thế nào là Tâm hỉ (Mudita)
122 - Hoan hỉ quá mức.

11.- Tâm xả (Upekkha)
123 - Thế nào là Tâm xả?
124 - Bốn Tâm vô lượng (Brahmaviharas).
125 - Phát triển và trao chuyển Tâm từ.
126 - Làm cách nào trao chuyển Tâm bi?
127 - Làm cách nào trao chuyển Tâm hỉ?
128 - Làm cách nào trao chuyển Tâm xả?
129 - Ghi chú thêm về bốn tâm trạng thánh thiện.

12., 13., 14.- Ba Tâm sở tiết chế (Virati cetasika): Chánh ngữ (Sammamavaca); Chánh nghiệp (Sammakammanta); Chánh mạng (Samma avija)
130 - Mười điều tệ hại được chia ra làm hai loại.
131 - Các tâm sở tiết chế (Viratis)
132 - Các hành động lành khác chẳng thuộc về nhóm tiết chế.
133 - Ba hình thức của các tâm sở tiết chế.
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:


<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng



Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ









</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Chương 3: Các tâm sở thiện.
5.- Sự vô tham (Alobha)
098 - Thế nào là Vô tham?
099 - Vị tỳ-kheo tham lam.
100 - Một kẻ tham lam.
101 - Vị tỳ-kheo vô tham.
102 - Một người vô tham.

6.- Vô sân (Adosa)
103 - Thế nào là Vô sân?
104 - Tâm vô tham và vô sân của Bồ-tát.
105 - Nhận định.
106 - Nhơn và quả

7.- Vô si (Amoha) và Trí huệ (Panna)
107 - Thế nào là Vô si và Trí huệ.

108.- Trí huệ hay Bát nhã (Panna).

Sự thông minh có hai loại: trí huệ chơn chánh và sự thông minh giả hiệu, chẳng chơn chánh.
Trí huệ Bát nhã (Panna), thuộc về loại thứ nhứ nhứt, là sự hiểu biết rõ ràng về hành động gây ra nghiệp (kamma) và các hậu quả (vipaka) tiếp theo. Trí huệ Bát nhã là sự thông suốt kinh luận trong Chánh pháp (Dhamma), sự thuần thục về tỉnh giác minh sát (*** nana), sự thấu triệt cả về đạo (magga nana), quả (phala nana), cùng Nhứt thiết chủng trí của Phật.
Tất cả những hình thức hiểu biết chẳng nhiễm ô, chẳng hề lầm lẫn đó được gọi là Trí huệ Bát nhã.

(Danh từ Trí huệ Bát nhã vốn được Bắc tông dùng để chỉ vào chữ Panna trong tiếng Ba-li; sở dĩ dùng cả tiếng Phạn Prajna = Panna [phiên âm là Bát nhã] và tiếng Hán Trí huệ, là vì ngại có sự lẫn lộn giữa trí thông minh thông thường của người đời với trí huệ của người tu hành).

109.- Sự thông minh giả hiệu.
Thường có kẻ được người đời khen là khôn lanh, bặt thiệp, khéo nói ..., rất thiện xảo trong việc thuyết phục người khác, nói đã hay mà dối gạt cũng giỏi, lừa đảo đã tài tình mà giả nhơn giả nghiã cũng tột bực.

Hạng người ấy có trí thông minh giả hiệu, vancana panna, có nghiã là cái trí khôn giảo hoạt gạt gẫm người. Tâm thức họ bị tâm sở ái dục (tanha) bất thiện làm tràn ngập.
Cũng có một số người rất giỏi về tranh chiến, thạo nghề sử dụng võ khí tối tân. Nhưng đấy là do sự thúc đẩy của vitakka, tâm sở tầm, xét cho kỹ cũng chẳng qua là một tâm sở bất thiện của trí năng.
(Xin đừng lầm tâm sở tầm với tâm sở tàm; tâm sở tầm là tiến trình suy tư nhằm đưa tâm thức tiếp xúc riêng với đề mục đang quán chiếu và gạt bỏ các việc khác qua một bên).

Tuy nhiên, tưởng cũng nên lưu ý là trí khôn giả hiệu chẳng thể có ở nơi người ngu ngơ, ngốc ngác, với hệ số thông minh thấp (hệ số thông minh được dùng để tạm dịch một tiếng chuyên môn trong Tâm lý học hiện đại là IQ, intelligence quotient).
Trí khôn ấy chỉ thường thấy ở những người thông minh có học thức cao. Nói cách khác, có sự tương quan hỗ thuộc giữa hai loại trí, trí thông minh chính hiệu có sẵn, làm căn bản, giúp điều kiện cho trí thông minh giảo hoạt nầy nở, chiếu theo định luật về tương quan giữa các pháp(Pakatupanissaya Paccaya) được dạy trong Quyển Khảo luận Patthana, là quyển chót của Luận tạng A tỳ đạt ma (Abhidhamma).

Vì lẽ đó, các người được phú sẵn trí thông minh, nếu theo con đường chánh đạo để làm việc thiện (kusala) thì tạo được nhiều công đức; còn nếu họ theo tà đạo, làm việc bất thiện thì các tội ác của họ sẽ gây tai hại chẳng ít vậy.

110.- Căn bản trí và hậu đắc trí.
Trí huệ chơn chánh được phân biệt ra hai thứ: (1) căn bản trí, Jati panna và (2) hậu đắc trí, Pavatti panna. Những người khi sanh ra được phú sẵn đầy đủ các tâm sở vô tham (alobha), vô sân (adosa) vô si (amoha) được gọi là Tihetuka puggulas, nghiã là những chúng sanh sẵn đầy đủ ba thiện căn. (Tihetuka = ba căn lành [căn = gốc rễ]; puggala = chúng sanh, sanh linh). Do đó, tâm sở vô si (amoha) bắt đầu phát triển kể từ lúc mới sanh, đã khiến cho họ học hỏi, hiểu biết rất mau chóng và có thể suy nghĩ sâu xa, mặc dầu còn trẻ. Trí thông minh nầy được gọi là căn bản trí (jati panna).

Hậu đắc trí (pavatti panna) là trí thông minh thủ đắc khi lớn lên nhờ sự học tập và huấn luyện. Họ thưa hỏi, tham dự các buổi diễn giảng và cố ghi nhớ mọi kiến thức. Người thiếu căn bản trí (kati panna) có thể phát triển hậu đắc trí (Pavatti panna) bằng cách tinh tấn học hành với một vị thầy giỏi. Những người được phú sẵn căn bản trí, nếu tập luyện thêm để được hậu đắc trí, về sau sẽ thành công về mọi mặt trong đời

111 - Làm thế nào để đào luyện căn bản trí?
112 - Sự khác biệt giữa niềm tin (Saddha) và trí huệ (Panna).
113 - Lời kêu gọi.

8.- Tâm từ (Metta)

114.- Tâm từ chẳng phải là một tâm sở riêng biệt.
Chẳng có một tâm sở nào riêng biệt được gọi là tâm sở từ (metta). Chính tâm sở vô sân (adosa cetasika), khi nó bao hàm ý nghiã ước mong cho kẻ khác được an lạc, thanh bình và tiến bộ, thì đó là tâm từ (metta).
Do đó, ta phải ghi chú rằng tâm từ là ý chí thành thật muốn giúp đỡ kẻ khác khiến cho họ được thành tựu và an vui.

115.- Tình yêu chưa hẳn là tâm từ.
Có một hình thức của tâm từ (metta) phát sanh giữa những người thân yêu nhau, giữa các tình nhơn, giữa chồng với vợ. Tâm từ nầy cũng hiển lộ ra sự ước mong và hành động giúp đỡ lẫn nhau. Họ được xem như đang "yêu" nhau.

Họ dùng danh từ metta (tâm từ) để nói đến sự quyến luyến nầy. Nhưng thật ra, đó chỉ là một sự trìu mến mà ta nên dùng danh từ tình thương trong gia đình (gehasita pema) để nói đến thì mới thích hợp hơn.
Đây chẳng phải là tâm từ (metta) thực sự và thành thật. (Về tình thương yêu nhau trong gia đình, chúng ta đã xét qua dưới tiểu mục "Tham" (Lobha).

116 - Tình yêu giữa bò mẹ và bò con.
117 - Tâm từ của Hoàng hậu Samavati.
118 - Bài học đạo đức của mẩu chuyện.

9.- Tâm bi (Karuna)
119 - Sự thương hại chưa hẳn là tâm bi.
120 - Tâm thức của người đức hạnh.

10.- Tâm hỉ (Mudita)
121 - Thế nào là Tâm hỉ (Mudita)
122 - Hoan hỉ quá mức.

11.- Tâm xả (Upekkha)
123 - Thế nào là Tâm xả?
124 - Bốn Tâm vô lượng (Brahmaviharas).
125 - Phát triển và trao chuyển Tâm từ.
126 - Làm cách nào trao chuyển Tâm bi?
127 - Làm cách nào trao chuyển Tâm hỉ?
128 - Làm cách nào trao chuyển Tâm xả?
129 - Ghi chú thêm về bốn tâm trạng thánh thiện.

12., 13., 14.- Ba Tâm sở tiết chế (Virati cetasika): Chánh ngữ (Sammamavaca); Chánh nghiệp (Sammakammanta); Chánh mạng (Samma avija)

130 - Mười điều tệ hại được chia ra làm hai loại.
Mười điều tệ hại liên quan đến các hành vi về hạnh kiểm của con người, có thể được phân ra làm hai loại:

- những điều tệ hại liên quan đến sự mưu sanh;
- những điều tệ hại chẳng liên quan đến việc mưu sanh.

Thí dụ như, giết người để cướp của, ám sát người để được trả tiền công mướn giết, hoặc làm nghề săn bắn, chài lưới, đó là những điều tệ hại có liên quan đến việc mưu sanh, được dùng làm phương tiện sanh sống.

Nhưng vì tức giận, oán thù mà giết người là một điều tệ hại chẳng có liên quan đến sanh kế.

Làm chứng gian trước Toà, hô hào nhiều người ủng hộ một tà thuyết, kể chuyện hoang đường, thần tiên, ngụ ngôn, ma qủi để lấy tiền người nghe, v.v.... đó là những điều tệ hại có liên quan đến việc mưu sanh.

Còn nói dối, nói thô cộc, đặt điều vu khống, v.v. mà chẳng có ý muốn được lợi về vật chất, đó là các điều tệ hại vaci duccarita (vaci = lời nói), tệ hại về lời nói, chẳng liên quan đến sanh kế.

131 - Các tâm sở tiết chế (Viratis)
132 - Các hành động lành khác chẳng thuộc về nhóm tiết chế.

133 - Ba hình thức của các tâm sở tiết chế.

Ba tâm sở tiết chế được xét trước đây, thường thể hiện ra dưới ba hình thức, (1) samadana virati, (2) sampatta virati, (3) samuccheda virati.

A) Hình thức thứ nhứt: samadana virati. Đây là sự tiết chế, do vì biết tuân giữ theo giới luật (sila). Nếu ta có dịp để giết một con bò, nhưng lại chẳng giết vì phải tuân giữ theo giới cấm sát sanh; nhờ biết giữ giới mà chịu tự tiết chế nhu thế, ta sẽ có được một công đức gọi là công đức về samadana virati.

Xưa kia, có một người nông phu, thọ giáo một vị tỳ-kheo và được truyền dạy giữ giới. Một hôm anh kiếm con bò đi lạc, phải lên ngọn đồi, bỗng bị một con rắn lớn quấn chơn. Anh rút dao, định chém con rắn, nhưng sực nhớ lời dạy chẳng nên sát sanh, nên chẳng giết con rắn. Nhờ sức mạnh của giới đức, con rắn liền bò đi, chẳng phạm đến anh nông phu. Đây là mẩu chuyện cho thấy rõ, tâm sở tiết chế chẳng sát sanh của người nông phu đã phát khởi lên nhờ đã biết trì giới đàng hoàng. Đó là samadana virati [samadana = tuân giữ giới luật; virati = sự tự tiết chế, tự kềm giữ chẳng phạm điều ác.]

B) Hình thức thứ hai: sampatta virati. Đây là trường hợp tâm sở tiết chế khởi sanh lên do một chuyện ngẫu nhiên. Xưa kia, ở nước Tích-lan (ngày nay gọi là Sri Lamka), có một người tên là Cakana săn sóc mẹ già đang lâm bịnh. Vị thầy thuốc bảo phải tìm thịt sống một con thỏ mới trị lành. Anh liền đi tìm, bắt được một con thỏ nhỏ, định giết. Nhưng khi nhìn lại thấy con thú hiền lành, anh có lòng thương hại, nên thả nó ra.

Về nhà, anh kể lại chuyện cho mẹ nghe và thốt lên rằng: "Kể từ ngày con biết phân biện được điều lành với việc ác, con chẳng bao giờ cướp lấy sanh mạng của một sanh vật, với ý muốn giết hại." Nhờ ý tưởng cao thượng đó, mẹ anh đã khỏi bịnh. Trong mẩu chuyện, việc ngẫu nhiên nhìn thấy con thú hiền lành đã khiến anh phát khởi tâm sở tiết chế chẳng giết hại,; đó chẳng phải do anh đã biết giới luật trước, cho nên sự tiết chế nầy được gọi là sampatta virati . [Sampatta = dongẫu nhiên làm ác; virati = sự tiết chế].

C) Hình thức thứ ba: samuccheda virati . Đây là trường hợp sự tiết chế có liên quan đến Đạo tâm (Magga citta), để cắt đứt tận gốc rễ các lậu hoặc còn tiềm phục trong tâm (lậu hoặc = các tật xấu gây nên phiền não; tiềm phục = nằm im chờ sẵn đó). Khi bực tu hành đã đắc được Đạo tâm (Magga citta), sự tiết chế, sự tự kềm giữ xảy ra vì hành giả muốn tận diệt hết mọi lậu hoặc còn dây dưa trong tâm. [Samuccheda = do sự tận diệt các lậu hoặc còn ngấm ngầm; virati = sự tiết chế].
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:

<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng

Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ

</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm
 

Cầu Pháp

Registered
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2012
Bài viết
729
Điểm tương tác
100
Điểm
43
Chương 4: Về các tâm sở phụ hợp với tâm thức thiện và bất thiện.
134 - Các loại tâm sở phụ hợp với tâm thức thiện và bất thiện.

1.- Tâm sở Xúc (Phassa)

135 - Thế nào là Tâm sở Xúc?
...Hãy nói rõ thêm. Khi một người vừa khỏi bịnh, thấy một đứa bé trai đang ăn một quả chanh (*), miệng ông ta liền chảy nước dãi.
Một người nhát gan, khi thấy hai kẻ dữ dằn đánh nhau, liền run sợ lên.
Khi một cô gái đến tuổi dậy thì nghe đâu đây tìếng nói cậu trai cùng tuổi, cô cảm thấy một sự rung động khác thường trong trái tim của cô. Điều nầy cũng xảy ra với các chàng trai.

Trong các thí dụ nầy, tâm thức đã "xúc chạm" đến trái chanh, v.v. khiến cho sự chảy nước dãi, sự run sơ, v.v.đã xảy ra. Hình thức tiếp xúc như vậy chính là bản thể của tâm sở xúc (phassa).

[Tâm sở xúc (phassa cetasika) cũng có mặt nơi các loại tâm thức đang tác động (Kiriya cittas)(Functional Types of Consciousness), và cả nơi các loại tâm thức đang bị tác động (Vipaka cittas)(Resultant Types of Consciousness), các loại tâm thức nầy chẳng thiện mà cũng chẳng bất thiện.]

2.- Tâm sở Thọ (Vedana)
136 - Tâm sở Thọ và các đối tượng của giác quan.
137 - Năm loại cảm thọ.

3.- Tâm sở Tri giác (Sanna)
138 - Thế nào là tâm sở Tri giác?
...Tâm sở tri giác (sanna)khác với tâm sở trí huệ) . Sự nhận thức của tâm sở trí huệ chỉ liên quan đến những gì đúng đắn, chơn chánh; trong khi đó thì tâm sở tri giác ghi nhận cả đúng và sai. Vì tâm sở tri giác sai lầm cho nên vào ban đêm, một người mới nhìn gốc cây làm con quỷ.Những kẻ lấy điều sai lầm mà làm điều đúng đắn, lấy điều xấu ác mà làm điều đạo đức là những người đã bị lừa dối bởi tâm sở tà kiến (ditthi cetasika) được sự phụ hợp của tâm sở tri giác (sanna) trợ giúp vào. Những kẻ có tâm sở tri giác (sanna) nghiêng quá nặng về phiá các việc sai lầm, rất khó mà cải thiện được.

139 - Tầm hoạt động của tâm sở Tri giác rất rộng.

140 - Đừng lầm lẫn tâm sở Tri giác (Sanna) với sự Tỉnh giác (Sati).

Ghi nhớ lại được các hành động thiện lành của mình, đó là do sự tỉnh giác (Sati) mà cũng do cả tâm sở tri giác (sanna)phụ vào nữa. Nhưng sự tỉnh giác chơn chánh chỉ xảy ra trong điạ hạt các thiện pháp (kusala). Tuy nhiên, lại có sự tri giác giả hiệu, cũng như có sự tỉnh giác giả hiệu nữa.
Hồi tưởng lại mối tình đầu, sau bao năm tháng, đó chỉ là một bất thiện pháp (akusala), chẳng phải là sự tỉnh giác (sati) chính hiệu; đó chỉ là một chức năng của tâm sở tri giác (sanna) đang đội lốt sự tỉnh giác (sati) mà thôi. Xin hãy xem lại các đoạn nói về các hình thức giả hiệu của sự tỉnh giác, trong Chương3 vừa qua.

4.- Tâm sở Ý hành (Cetana)
141 - Nhiệm vụ của tâm sở Ý hành.
142 - Tâm sở Ý hành tạo nên Nghiệp (Kamma)
5.- Tâm sở Định (Ekaggata)
143 - Tâm sở Định còn được gọi là Tam-ma-đề (Samadhi)

6.- Tâm sở Mạng căn (Jivitindriya)
144 - Thế nào là Mạng căn?
Tất cả mọi tâm thức (cittas) và mọi tâm sở (cetasikas) được phân loại và xếp vào hàng danh (nama) (trong khi đó, các sự vật có hình thể cụ thể được xếp vào hàng sắc [rupa] và danh từ danh sắc [nama rupa]được dùng để chỉ tất cả sự sự, vật vật trong vũ trụ.). Nguyên lý sinh lực hay sức sống của danh được gọi là jivitindriya, hay là mạng căn (tức là sức sống động, sẵn có bên trong, đã khiến cho tâm thức và các tâm sở khởi lên và hoạt động được.)

Tất cả tâm thức (cittas) và các tâm sở (cetasikas) sở dĩ hoạt động điều hoà và tích cực được chính nhờ vào mạng căn. Nếu sự vắng mặt của mạng căn xảy ra, thì tâm thức và các tâm sở chẳng còn hoạt động được nữa. Nói cách vắn tắt, chính mạng căn (jivitindriya) đã thúc đẩy tâm thức và các tâm sở tiếp tục khởi phát lên, tùy theo Nghiệp (Kamma) dẫn dắt.

Nơi các yếu tố vật chất cũng có sức sống, được gọi là rupa jivitindriya, sắc mạng căn. Do đó, cái nguyên lý tạo nên sức sống nơi vật chất và nơi tâm linh, được lần lượt gọi là sắc mạng căn (rupa jivitindriya) và danh mạng căn (nama jivitindriya).

Cả hai mạng căn nầy phối hợp lại thành ra sự "sống" của một chúng sanh. Ngoài hai mạng căn nầy ra, chẳng hề có một vật gì hay một việc gì được gọi là "linh hồn bất diệt" hay "tự thể" nào hết cả. Chẳng hề có cái "tự ngã" (atta) nào ở đâu cả.

7.- Tâm sở Chú tâm (Manasikara)
145 - Sự chú ý.
146 - Bảy tâm sở thường hiện diện khi tâm thức khởi lên.
8.- Tâm sở Tác ý (Vitaka).
147 - Các hình thức của tâm sở Tác ý.
9.- Tâm sở Nhiếp ý (Vicara).
148 - Nhiếp ý là thế nào?
10.- Tâm sở Quyết ý (Adhimokkha)
149 - Thế nào là tâm sở Quyết ý?
11.- Tâm sở Nỗ lực (Viriya)
150 - Thế nào là tâm sở Nỗ lực?
151 - Các ích lợi do sự nỗ lực mang đến.
152 - Chúng ta hãy tự cải thiện.
12.- Tâm sở Toại ý (Piti).
153 - Toại ý nghiã là sao?

13.- Tâm sở Ý chí (Chanda).
154 - Từ sự mong muốn (asa) đến tâm sở ý chí (chanda).
...Những người đã lên tột đỉnh của bức thang xã hội ngày nay, chẳng kể là tại gia hay xuất gia, đâu phải là những vị từ trên trời xuống đây với sẵn đầy đủ khả năng và quyền lực.

Họ cũng là những người thường thôi, nhưng ý chí (chanda) của họ đã được nỗ lực (viriya) kiên trì hoàn thành viên mãn. Bởi thế cho nên, nếu con người chẳng có ý muốn tự cải thiện mà cứ giữ thái độ lười biếng, lãnh đạm và "vô tích sự"’ thì nào có khác chi loài cầm thú.

Ý chí (chanda) dõng mãnh là chiếc chìa khoá mở rộng cánh cửa thịnh vượng, phát đạt cho cuộc đời nầy và cũng là ngọn đuốc chỉ nẻo cho ta trên con đường đi tới Niết-bàn (Nibbana). Vì vậy, ta cần bồi dưỡng hằng ngày cả ý mong muốn (asa) lẫn ý chí (chanda) mới có thể đạt đến các thành quả cao quí nhứt.
========================================================
Nguồn kinh sách trích dẫn:



<CENTER><TABLE style="BORDER-COLLAPSE: collapse" id=AutoNumber1 border=0 cellSpacing=0 borderColor=#111111 cellPadding=0 width=449><TBODY><TR><TD width=128>
vdpnd-bia.jpg
</TD><TD width=321>
Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng



Hòa thượng Janakabhivamsa
U Ko Lay dịch sang Anh ngữ
Cư sĩ Thiện Nhựt dịch sang Việt ngữ



</TD></TR></TBODY></TABLE></CENTER>http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vdp-nd/vdpnd01.htm
[MOVLLEFT]Xin mời quí bạn đồng tu đóng góp các bài liên kết và cho thêm ý kiến, thật cảm ơn. cp. <!-- BEGIN TEMPLATE: level_postbit_info --><!-- Level & Class System v3.0 - Show EXP & SP gained -->[/MOVLLEFT]
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên