Thập Độ Ba La Mật Phật Tu

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
23472815_1964806873733240_3029131709324714098_n.jpg


Bấy giờ, đại Bồ Tát Pháp Giới Phổ Âm, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.

Lúc đó, vị đại Bồ Tát Pháp Giới Phổ Âm, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi dùng mười một bài kệ để giải thích nói đạo lý ở trước chưa nói hết.
Bài kệ thứ nhất trong mười một bài kệ là tổng, đại khái tổng lại nói ý nghĩa mười Ba la mật, còn mười bài kệ sau là biệt, phân biệt để nói. Phải nhận chân tu mười Ba la mật này, thì mới đến được bờ kia. Mười Ba la mật tức cũng là mười độ :

1). Bố thí độ.
2). Trì giới độ.
3). Nhẫn nhục độ.
4). Tinh tấn độ.
5). Thiền định độ.
6). Bát nhã độ.
7). Phương tiện độ.
8). Nguyện độ.
9). Lực độ.
10). Trí độ.


Ðộ tức là độ bạn đến cứu kính Niết Bàn, tức cũng là chiếc thuyền, chiếc thuyền qua khỏi biển khổ sinh tử. Ðây là mười chiếc thuyền, đều có thể đến bờ kia.

Thần lực của Phật khắp mười phương
Thị hiện rộng lớn chẳng phân biệt
Hạnh đại bồ đề Ba la mật
Thuở xưa đầy đủ đều khiến hiện.

‘’Thần lực của Phật khắp mười phương.’’ Ðại oai đức, đại thần thông, đại lực của Phật, đầy khắp mười phương, tận hư không khắp pháp giới.
‘’Thị hiện rộng lớn chẳng phân biệt.’’ Oai thần lực của Phật rộng lớn bình đẳng, thị hiện đến khắp các nơi, chẳng có phân biệt cao thấp.
‘’Hạnh đại bồ đề Ba la mật.’’ Phật tu hạnh môn đại bồ đề, cũng phát đại tâm giác ngộ, tu đại Ba la mật. Khó hành mà hành được, khó nhẫn mà nhẫn được, tất cả pháp môn đến bờ kia, đều dũng mãnh tinh tấn tu hành.
‘’Thuở xưa đầy đủ đều khiến thấy.’’ Thuở xưa Phật tu mười độ vạn hạnh đều viên mãn đầy đủ, khiến cho đại chúng trong pháp hội đều thấy được cảnh giới này.

Xưa khởi đại bi với chúng sinh
Tu hành bố thí Ba la mật
Nhờ đó thân Phật thù diệu nhất
Đều khiến người thấy sinh hoan hỷ.

Bốn câu kệ này, là nói về bố thí Ba la mật. Ba la mật dịch là "đến bờ kia". Phàm là việc gì làm xong, hoặc là thành công, đều gọi là đến bờ kia, đây là từ ngữ thời xưa của Ấn Ðộ.
Tại sao phải bố thí ? Vì chúng sinh có sáu thứ che đậy, che đậy đường bồ đề của chính mình.

1). Keo kiệt che đậy : Tức là xả bỏ chẳng đặng, dù một đồng cũng chẳng bố thí cho người, do đó có câu : ‘’Xả tiền như lóc thịt.’’ Bất cứ việc gì cũng tính toán kỹ lưỡng, việc đối với mình có lợi thì làm; còn nếu việc mình chẳng có lợi, thì chẳng bao giờ làm, tính toán rất kỹ càng, đây là tư tưởng keo kiệt.
Thuở xưa, có một người rất tham lam keo kiệt, bạn của ông ta mời dự sinh nhật, thì phải mang quà đến biếu, ông ta nghĩ, bất cứ mang thứ gì đến tặng cũng phải chi tiền ra mua, thật là uổng tiền lại chẳng kỷ niệm giá trị gì. Chi bằng vẽ một cái bánh thật lớn lên giấy, vừa chẳng tốn tiền vừa làm kỷ niệm. Do đó, ông ta bèn vẽ một cái bánh mừng sinh nhật, mang đến nhà bạn chúc mừng. Thấy bạn bè thì chúc mừng nói : ‘’Chúc mừng ! Chúc mừng ! Chúc bạn sinh nhật vui vẻ, vạn thọ vô cương ! Tôi chẳng có lễ vật đặc biệt để tặng, chỉ mang đến cái bánh này làm lễ chúc mừng.’’
Người bạn của ông ta còn keo kiệt hơn, thấy bánh mừng sinh nhật vẽ trên giấy, bèn nói với ông ta rằng : ‘’Khi nào đến ngày sinh nhật của anh, thì tôi mang đến cái bánh lớn như vầy (ông ta dùng tay vẽ một cái vòng tròn lớn ở trong hư không), đến mừng sinh nhật của anh và làm quà kỷ niệm.’’ Người này cho đến một trang giấy cũng xả bỏ chẳng đặng, một đồng cũng chẳng tốn, đây là chuyện tiếu về keo kiệt.
2). Phạm giới che đậy : Người tin Phật thọ giới rồi, mà chẳng giữ gìn giới báu kim cang, luôn luôn sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, phạm năm giới căn bản này.
3). Sân hận che đậy : Bất cứ gặp việc gì vô duyên vô cớ nổi nóng, lửa vô minh cao ba trượng mà mình vẫn không biết.
4). Giải đãi che đậy : Cảm thấy làm gì cũng chẳng có ý nghĩa, chi bằng ngủ là sung sướng nhất, đó là biểu hiện sự giải đãi.
5). Tán loạn che đậy : Suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, tinh thần chẳng tập trung, tâm chẳng tu hành. Một khi giải đãi thì tán loạn, tán loạn thì chẳng có trí huệ, chẳng có trí huệ thì chẳng được giải thoát.
6). Ác huệ che đậy : Trí huệ cũng có phân ra thiện và ác. Dùng chỗ chánh đáng là thiện trí huệ, dùng chỗ chẳng chánh đáng là ác trí huệ, giống như thiếu niên bất lương, chúng là ác trí huệ, làm việc gì cũng thông minh, song ngược lại bị thông minh lừa.
Có thứ che đậy này, thì không thể hành bố thí. Họ nghĩ rằng : ‘’Tại sao tôi phải bố thí cho bạn ? Sao bạn không bố thí cho tôi‘’ ? Giống như người xuất gia chẳng nghĩ bố thí cho người khác, chuyên nghĩ người khác bố thí cho mình. Suốt ngày đến tối chỉ chú ý về cư sĩ, rằng vị cư sĩ này có bao nhiêu tiền ? Vị kia có bao nhiêu tiền ? Tính toán rất là rõ ràng, cứ khởi những vọng tưởng này.
‘’Xưa khởi đại bi với chúng sinh.’’ Thuở xưa khi Phật tu hành tại nhân địa, thì khởi tâm đại bi đối với chúng sinh, bi hay cứu khổ, chúng sinh có khổ thì bố thí niềm vui, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
‘’Tu hành bố thí Ba la mật.’’ Phật tu pháp môn bố thí, phát tâm cứu khổ chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được chân chính khoái lạc.
Tu bố thí phải liên tục không gián đoạn, bất cứ bố thí nhiều hoặc bố thí ít, đều phải bố thí, phải có tư tưởng "tam luân thể không" (bố thí ba không) :
1). Không thấy người bố thí.
2). Không thấy vật bố thí.
3). Không thấy gười nhận.

Ba thứ này phải không, tức là chẳng chấp trước. Nếu chấp trước thì chẳng có công đức, đó là bố thí cầu danh cầu lợi, có sở xí đồ.

Bố thí có ba thứ :
1). Tài thí : Tài thí gồm có hai thứ : Nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu mắt tủy não; ngoại tài là đất nước vợ con. Ngoại tài dễ bố thí, có thể đem đất nước thành thị bố thí cho người, và có thể đem vợ con đều bố thí cho người. Song, nội tài chẳng dễ gì bố thí, song người hành Bồ Tát đạo, vì có tâm từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, thì xả được bố thí.
2). Pháp thí : Tức là giảng kinh thuyết pháp, đây là dùng pháp cúng dường, do đó có câu :

‘’Trong các sự bố thí,
Cúng dường pháp là hơn hết’’.

Do đó, pháp thù thắng hơn tài thí. Tài thí là bố thí có hình tướng, pháp thí là bố thí vô hình. Nếu có người chẳng có tiền của, hoặc pháp để bố thí, thì có thể bố thí sức lực, đem thân hiến cho Phật, vì Phật giáo mà làm việc, chỉ cần kiền thành chẳng có sở cầu, hoặc quét đất, hoặc lau chùi nhà cầu cho sạch sẽ, cũng có công đức. Trang nghiêm đạo tràng, làm đẹp hoàn cảnh cũng là bố thí, bố thí sức lực.
3). Vô úy thí : Khiến cho người chẳng sinh tâm sợ hãi, luôn luôn cảm giác rất bình an. Giống như có người gặp tai nạn, phải dùng lời lẽ an ủi họ, phải dùng hành động để trợ giúp, khiến cho kẻ gặp nạn được an toàn, đây là tinh thần từ bi đại vô úy của Phật giáo.
‘’Nhờ đó thân Phật thù diệu nhất.’’ Vì Phật tu hành bố thí Ba la mật, cho nên thân Phật tướng tốt trang nghiêm, có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, có tướng thân vi diệu thù thắng như thế.

Khi Phật tu hành bố thí, thì bất cứ vật gì, cũng bố thí cho chúng sinh, chúng sinh cần gì, thì bố thí cho chúng sinh thứ đó, thậm chí thân tâm tính mạng của mình, cũng đều có thể bố thí. Tinh thần từ bi hỷ xả như thế, thật là vĩ đại ! Chẳng như chúng ta người ngu si, cho rằng bố thí là thiệt thòi. Tại sao phải đem tiền của mình ra bố thí cho kẻ khác ? Không nên có tư tưởng như thế, phải biết bố thí có vô lượng công đức, do đó có câu :

‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’

Sáng thì thiệt thòi, tối thì tiện nghi. Cảnh giới này chỉ có người bố thí mới thể hội được chân lý của nó.
‘’Ðều khiến người thấy sinh hoan hỷ.’’ Hay khiến cho hết thảy chúng sinh thấy được Phật, đều sinh tâm đại hoan hỷ ! Vì khi Phật tu hành tại nhân địa rộng kết duyên lành, cho nên ai ai thấy Phật cũng đều hoan hỷ, cung kính cúng dường, luyến ái chẳng xả bỏ.

Xưa trong vô biên biển đại kiếp
Tu trì tịnh giới Ba la mật
Nên chứng tịnh thân khắp mười phương
Diệt các khổ nặng của thế gian.

Bốn câu kệ này, nói về trì giới Ba la mật. Giới là gì ? Tức là không làm các điều ác, phòng ngừa việc quấy, tức cũng là:

‘’Không làm các điều ác,
Làm các điều lành.’’

Ðừng làm các điều ác, tức là thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh. Thân chẳng phạm: Giết hại, trộm cắp, tà dâm, ba điều ác; miệng thì không phạm: Nói dối, nói thêu dệt, chửi mắng, hai lưỡi; ý thì không tham, sân, si, ba điều ác. Không phạm mười điều ác này, thì ba nghiệp mới thanh tịnh. Làm các điều lành, tức là làm việc có lợi ích cho chúng sinh, tức cũng là siêng tu giới định huệ.

Vua Ðường Tuyên Tôn (từng xuất gia làm Sa di) hỏi thiền sư Tiến Phước Biện rằng: ‘’Thế nào là giới định huệ‘’?
- Thiền sư đáp : ‘’Ngừa điều quấy không làm các điều ác là giới. Sáu căn tiếp súc với sáu cảnh mà không tùy theo duyên là định. Tâm cảnh đều không, chiếu soi là huệ.’’ Ðây là nói rõ về giới định huệ.

Giới luật là phòng ngừa phạm tội, giới luật của Phật giáo và pháp luật của thế gian chẳng giống nhau. Pháp luật của thế gian, là trừng phạt người đã phạm tội, mà chẳng phòng ngừa phạm lỗi công hiệu. Có giới tức không làm các điều ác, có sự giữ gìn tức làm các điều lành, cho nên Phật pháp trợ giúp cho pháp luật, khiến cho người hiểu thấu được đạo lý nhân quả báo ứng, mà chẳng tạo nghiệp ác trái với lương tâm. Tóm lại, siêng tu giới định huệ, tức là làm các điều lành; diệt trừ tham sân si, tức là đừng làm các điều ác.
Vào đời Ðường ông Thái thú Bạch Cư Dị hỏi vị Thiền sư Ô Sào rằng : ‘’Phật pháp là gì‘’?
- Thiền sư nói :

‘’Ðừng làm các điều ác,
Hãy làm các điều lành.’’

- Ông Bạch Cư Dị nói : ‘’Ðạo lý này, con nít ba tuổi đều biết.’’
- Thiền sư nói : ‘’Tuy con nít ba tuổi đều biết, song ông già tám mươi làm chưa xong.’’
Thật là như vậy, cho nên Phật giáo chú trọng về hiểu và làm phải tương ưng, biết mà không làm cũng như không biết.
‘’Xưa trong vô biên biển đại kiếp.’’ Thuở xưa, Phật trải qua đại kiếp số nhiều vô lượng vô biên như biển cả, cho nên gọi là biển đại kiếp.
‘’Tu trì tịnh giới Ba la mật.’’ Tu hành giới báu kim cang quang minh rất thanh tịnh. Giới có năm giới, tức là chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu. Lại có tám giới, tức cũng là Bát quan trai giới. Hai thứ giới này là giới người tại gia thọ trì. Lại có mười giới, đây là giới của Sa Di và Sa Di Ni thọ trì. Tỳ Kheo có hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám giới, đây là giới của người xuất gia thọ trì. Còn có giới Bồ Tát, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh, đây là giới của người tại gia và xuất gia đều có thể thọ trì. Ðủ thứ giới tướng, đều phải thân tâm thọ trì tịnh giới Ba la mật này, thì mới đạt đến Niết Bàn thanh tịnh bờ bên kia.
‘’Nên chứng tịnh thân khắp mười phương.’’ Vì Phật tu hành tất cả giới luật, tu hành đủ thứ pháp lành, giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên chứng được pháp thân thanh tịnh, mới đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Diệt các khổ nặng của thế gian.’’ Phật bình đẳng tiệu diệt hết thảy khổ nặng của thế gian, khiến tất cả chúng sinh thế gian đều được an lạc.

Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh
Tin hiểu chân thật chẳng phân biệt
Cho nên sắc tướng đều viên mãn
Khắp phóng quang minh chiếu mười phương.

Bốn câu kệ này, nói về nhẫn nhục Ba la mật, tức là bị người nhiễu loạn khinh khi, phải nhẫn thọ chẳng phát tác. Nhẫn những việc mà người khác nhẫn không được, không nhẫn được cũng phải nhẫn, đây là hạnh môn quan trọng nhất của người tu hành. Muốn minh bạch Phật pháp, thì không thể quên pháp nhẫn nhục. Có người mắng bạn, bạn phải nhẫn, có người đánh bạn, bạn cũng phải nhẫn, thậm chí có người giết bạn, bạn càng phải nhẫn thọ, không sinh tâm sợ hãi, đây là sức nhẫn lớn nhất, người chẳng có công phu sâu dày thì làm chẳng được. Chẳng những thân phải nhẫn, mà tâm cũng phải nhẫn. Có người mắng bạn, chẳng những miệng không nói lại, mà tâm cũng chẳng sân hận. Có người đánh bạn, chẳng những không đánh lại, mà trong tâm cũng chẳng sinh tâm báo thù. Bạn nhẫn được như thế, thì có vô lượng công đức. Tôi thường nói :

‘’Nhẫn là báu vô giá
Mọi người xử không tốt
Nếu nhẫn chịu đựng được
Mọi sự đều tốt đẹp’’.

Ðây là nhẫn nhục Ba la mật, tức là báu vô giá, nếu mọi người đối xử không tốt, mà nhẫn chịu đựng được, thì bất cứ làm gì, chắc chắn đều thành công viên mãn.
Bồ Tát Di Lặc có nói :

‘’Lão Tăng mặc áo vá
Cơm hẩm no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tùy duyên.’’

Lão Tăng tôi chỉ mặc áo rách vá lại, tôi chỉ ăn cơm đạm bạc, chẳng có mùi vị gì, ăn no thì thôi. Áo vá của tôi mặc để che rét lạnh. Bất cứ việc gì đều phải tùy duyên, không chấp trước.
Lại nói :

‘’Có người mắng lão quê,
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê,
Lão quê nằm lăn ra.’’

Nếu như có người đến mắng tôi, thì tôi nói tốt; nếu có người muốn đánh tôi, thì tôi nằm lăn ra, giống như ngủ chẳng biết gì.
Lại nói :

‘’Khạc nhổ vào mặt lão
Để nó tự khô lấy
Tôi cũng chẳng nhọc sức
Họ cũng chẳng phiền não.’’

Nếu có người nhổ nước bọt vào mặt tôi, thì tôi cũng chẳng lấy tay chùi, để nó khô tự nhiên, như thế thì tôi cũng chẳng nhọc sức, họ cũng chẳng có phiền não.
Lại nói :

‘’Ðó là Ba la mật,
Châu báu ở trong diệu
Nếu làm được như thế
Lo gì đạo chẳng thành.’’

Nhục Ba la mật là bảo bối ở trong diệu, nếu làm được những gì Ngài nói, lo gì đạo nghiệp chẳng thành tựu !

Các vị ! Ai tu được nhẫn nhục Ba la mật, thì người đó độ lượng rất lớn, các bạn thấy đó. Tại sao bụng của Bồ Tát Di Lặc lớn như thế ? Vì Ngài nhẫn được việc thiên hạ chẳng nhẫn được. Khoan hồng đại lượng, thì nhẫn thọ được tất cả mọi việc. Bụng của Bồ Tát Di Lặc dung nạp được tất cả, chẳng giống như bụng của chúng ta, chẳng dung nạp được chuyện nhỏ như hạt mè. Người ta nói một câu thì chịu không được, hoặc thấy được cảnh giới gì đó, thì dung chẳng được. Người đó đối với tôi ra sao ? Người đó đối với tôi như thế nào ? Suốt ngày đến tối, chất chứa những việc đó đầy dẫy trong bụng.

Còn có một bài kệ khen ngợi Bồ Tát Di Lặc :

‘’Mở miệng cười, ít nói chuyện.
Bao lớn chẳng to bằng bụng,
Trước mắt phước báo thường bay đến,
Vì Ngài vạn vật dung chứa được.’’

Bồ Tát Di Lặc luôn luôn đều cười, rất ít nói chuyện, Ngài mang trên vai túi vải lớn (sau này gọi Ngài là Bố Ðại Hòa Thượng), chưa lớn bằng bụng của Ngài. Ngài luôn luôn có phước báo lớn, thường bay đến trước mặt Ngài. Vì sao Ngài có phước báo lớn như thế ? Vì Ngài có công phu nhẫn nhục, bất cứ việc gì đều chẳng tranh luận với ai, nên Ngài chứng được vô tranh tam muội. Tất cả mọi sự đều bao dung ở trong bụng. Có câu đối liễn rằng :

Mở miệng thường cười,
Cười kẻ thiên hạ đáng cười.
Bụng lớn dung chứa,
Chứa việc thiên hạ khó nhẫn.’’

Do đó, có câu : ‘’Tâm rộng thể mập‘’, phàm là người lạc quan, hầu như đều mập mạp. Bồ Tát Di Lặc đại biểu tượng trưng cho "lạc thiên phái", Ngài là vị giáo chủ ở đời vị lai, tương lai sẽ đến nhân gian hoằng dương chánh pháp, bây giờ đang ở trên nội viện cung trời Ðâu Suất, giảng kinh thuyết pháp.
‘’Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh.’’ Thuở xưa khi Phật tại nhân địa, thì tu hành pháp môn nhẫn nhục thanh tịnh.
‘’Tin hiểu chân thật chẳng phân biệt.’’ Phật tin hiểu chân thật chẳng có phân biệt, đối đãi với chúng sinh đều bình đẳng, xem tất cả chúng sinh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong tương lai. Tức nhiên là cha mẹ trong quá khứ, thì không thể không hiếu thảo với cha mẹ, tức nhiên là chư Phật ở đời vị lai, thì không thể nào không cung kính chư Phật, cho nên phải tu hạnh môn nhẫn nhục.
‘’Cho nên sắc tướng đều viên mãn.’’ Bởi nhân duyên đó, cho nên khi Phật thành Phật, thân thể đặc biệt rất viên mãn, tướng mạo đặc biệt trang nghiêm.
‘’Khắp phóng quang minh chiếu mười phương.’’ Quang minh nhẫn nhục của Phật chiếu sáng khắp mười phương, khiến cho tất cả chúng sinh tu nhẫn nhục, sớm thành Phật đạo.

Thuở xưa siêng tu nhiều biển kiếp
Chuyển được chướng nặng của chúng sinh
Nên phân thân được khắp mười phương
Đều hiện dưới bồ đề thụ vương.

Bốn câu kệ này là nói về tinh tấn Ba la mật, tinh tấn có ba ý nghĩa :
1). Bị giáp.
2). Nhiếp thiện.
3). Lợi lạc.

1). Bị giáp : Giống như quân nhân tác chiến thời xưa, đều mặc áo giáp phòng vệ vũ khí của kẻ địch. Bị giáp nói ở đây là áo giáp tinh tấn, chỉ hướng về trước chứ không thối lùi, cũng giống như tác chiến, nhất định phải thắng lợi, không thể bại được.
Tin niệm thắng lợi ở đây dùng gì để chi trì ? Tức là phát đại thệ nguyện, dùng đại thệ nguyện để chi trì, giống như người xuất gia, nhất định phải phát đại thệ nguyện, chỉ có tiến về trước, không thể lùi về sau. Không thể hằng ngày khởi vọng tưởng hoàn tục, bằng không thì chẳng có áo giáp tinh tấn. Bất cứ gặp cảnh giới gì, không nên sinh tâm thối chuyển, phải vì Phật giáo nỗ lực, vì Phật giáo chí nguyện hy sinh. Tóm lại, tất cả đều vì Phật giáo, đây là áo giáp tinh tấn phát đại thệ nguyện.
2). Nhiếp thiện : Tức là dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để hướng về đạo bồ đề phía trước. Chẳng những mình đi trên con đường đạo bồ đề, mà cũng dạy chúng sinh đi trên con đường đạo bồ đề, mọi người cùng nhau tiến về trước, mọi người cùng nhau đến tu hành. Ðây là nhiếp trì căn lành của chúng sinh, đều thành Phật đạo.
3). Lợi lạc : Tức là lợi ích khoái lạc tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô thượng chánh đẳng chánh giác.
‘’Thuở xưa siêng tu nhiều biển kiếp.’’ Phật thuở xưa siêng tu hạnh môn tinh tấn, càng ngày càng tinh tấn, càng ngày càng dụng công, trải qua nhiều biển kiếp mới tu thành công, chứng được quả vị Phật.
‘’Chuyển được chướng nặng của chúng sinh.’’ Phật có thể chuyển nghiệp chướng sâu nặng, chướng ngại đạo bồ đề của chúng sinh, tức cũng là chuyển phiền não thành bồ đề, chuyển sinh tử thành Niết Bàn.
‘’Nên phân thân được khắp mười phương.’’ Cho nên, Phật phân thân đầy khắp mười phương pháp giới.
‘’Ðều hiện dưới bồ đề thụ vương.’’ Hết thảy phân thân hoàn toàn, hiện nơi Ðạo tràng bồ đề thụ vương.

Phật tu lâu xa vô lượng kiếp
Thiền định biển lớn khắp thanh tịnh
Nên khiến người thấy tâm hoan hỷ
Phiền não chướng cấu đều trừ diệt.

Bốn câu kệ này, là nói về thiền định Ba la mật, hai chữ thiền định là danh từ Trung, Ấn hợp lại. Thiền là tiếng Ấn Ðộ, đáng lẽ đọc là thiền na, dịch là "tĩnh lự", ngừng bặt tư lự, không khởi vọng tưởng. Ðịnh là tiếng Trung Quốc, nghĩa là "định lực", không lệch không tà là chánh, không suy không nghĩ là định. Khi nào chẳng có vọng tưởng, thì lúc đó chứng được cảnh giới khai ngộ.
Thiền tông là Phật giáo chân chánh của Trung Quốc, vào thời Ðông Tấn, Pháp sư Ðạo Sinh đề ra lý luận đốn ngộ, trồng xuống hạt giống bồ đề, đến đời Ðường, thời Lục tổ Huệ Năng, mới khai hoa kết trái. Ðây có thể nói là cách mạng của Phật giáo, chẳng nặng về hình thức, chuyên tu tâm. Từ đó về sau, lập ra bốn tiêu chuẩn là :
1). Giáo ngoại biệt truyền (truyền ngoài giáo lý).
2). Bất lập văn tự (chẳng cứ chữ nghĩa).
3). Trực chỉ nhân tâm (chỉ thẳng tâm người)
4). Kiến tánh thành Phật (thấy tánh thành Phật).

Thiền có nhiều thứ, phần lớn chỉ nói về Như Lai thiền và Tổ Sư thiền. Như Lai thiền là thiền nguyên thủy ở Ấn Ðộ, tức cũng là thiền tiểu thừa, ngồi thì chú ý điều tâm và điều hơi thở, tay chân tư thế đều có quy định. Tổ Sư thiền là trải qua sự cải cách của các vị Tổ Sư, hình thức tự do hơn, tức là tại núi rừng, động, cốc, đều là nơi tham thiền, không nhất định là tại thiền đường, hoặc tịnh thất; chỉ cần nhất tâm bất loạn, một bụi trần cũng không nhiễm, thì sẽ khai ngộ. Không chú trọng về nghi thức, mà chuyên chú về tâm, cho nên vào thời Ðường Võ Tông phá hoại Phật pháp, thì các tông phái khác của Phật giáo đều ngã quật, chẳng chấn chỉnh được, chỉ có thiền tông vẫn đứng vững, vì chẳng cần có hình thức chùa chiền, cũng chẳng cần có hình thức kinh điển, cho nên chẳng ảnh hưởng thọ pháp nạn. Do đó, Phật pháp ở Trung Quốc, bảo tồn đến nay mà chẳng bị hủy diệt, có thể nói là ‘’tục Phật huệ mạng‘’, nếu không thì thật không thể tưởng tượng được.
‘’Phật tu lâu xa vô lượng kiếp.’’ Phật luôn luôn đều tu hành, trải qua thời gian lâu dài vô lượng đại kiếp, chưa từng giải đãi mà siêng tinh tấn.
‘’Thiền định biển lớn khắp thanh tịnh.’’ Phật tu pháp môn thiền định, trải qua thời gian dài như biển kiếp, thảy đều thanh tịnh, diệt sạch hết vọng tưởng thì trí huệ sinh ra, tức cũng là trí huệ giải thoát.
‘’Nên khiến người thấy tâm hoan hỷ.’’ Cho nên, mới khiến cho chúng sinh thấy được Phật, đều sinh tâm hoan hỷ luyến mộ.
‘’Phiền não chướng cấu đều diệt trừ.’’ Vì hoan hỷ, cho nên phiền não chướng cấu đều tiêu trừ sạch hết, trí huệ cũng hiện tiền.

Xưa Như Lai tu các biển hạnh
Đầy đủ Bát nhã Ba la mật
Cho nên quang minh chiếu sáng khắp
Khắc phục tất cả tối ngu si.

Bốn câu kệ này nói về Bát nhã Ba la mật, Bát nhã dịch là "trí huệ", vì trí huệ này là trí huệ xuất thế gian, chẳng phải là trí huệ thế gian. Trí huệ thế gian có thể là thiện, lại có thể là ác. Trí huệ xuất thế gian là thiện, chẳng phải ác; vì tôn trọng ý của nó, cho nên gọi là Bát nhã. Bát nhã có ba thứ :
1). Văn tự Bát nhã : Tức là dùng văn tự để nói rõ chân lý như tam tạng, mười hai bộ, tất cả kinh điển.
2). Quán chiếu Bát nhã : Tức là phải quán sát, phải chiếu rõ tất cả kinh điển, mới có thể thấu hiểu chân lý. Giống như dùng ánh đuốc chiếu soi đạo lý.
3). Thật tướng Bát nhã : Thật tướng là vô tướng, do đó có câu :

‘’Bát nhã phá hết các tướng.’’

Bất cứ vật gì, hình ảnh gì, cũng đều chẳng có hình tướng. Vô tướng là gì ? Tức là trí huệ tự có, tức cũng là tự tâm. Tự tâm này thanh tịnh tức là Bồ Tát, tự tâm này mê hoặc tức là chúng sinh.
‘’Xưa Như Lai tu các biển hạnh.’’ Thuở xưa Phật tu tất cả hạnh môn nhiều như biển, tức cũng là tu hạnh môn Bát nhã trí huệ.
‘’Ðầy đủ Bát nhã Ba la mật.’’ Tại sao phải tu các biển hạnh ? Vì muốn đắc được Bát nhã Ba la mật. Nếu tu hành đầy đủ rồi, thì sẽ qua được biển phiền não ngu si một cách an toàn, đạt đến bờ bên kia trí huệ.
‘’Cho nên quang minh chiếu sáng khắp.’’ Vì tu hạnh môn Bát nhã, cho nên phát ra ánh sáng trí tuệ, chiếu khắp mười phương pháp giới.
‘’Khắc phục tất cả tối ngu si.’’ Phật khắc phục được tất cả ngu si và vọng tưởng, phá sạch tất cả ngu si đen tối, chỉ có tồn tại trí huệ quang minh, khiến cho tất cả chúng sinh cũng hiện ra trí huệ vốn có. Trí huệ vốn có hiện ra như thế nào ? Chỉ có một biện pháp tức là ngồi thiền. Ðây là phương pháp căn bản tu trí huệ. Ngồi đến lúc "Hà xứ nhạ trần ai" (bụi bám ở chỗ nào) ? Tức cũng là lúc khai ngộ.

Đủ thứ phương tiện độ chúng sinh
Khiến sự tu hành đều thành tựu
Tất cả mười phương đều đến khắp
Vô biên tế kiếp chẳng nghỉ ngơi.

Bốn bài kệ này nói về phương tiện Ba la mật. Phương là phương pháp, tiện là tiện lợi, tức cũng là thiện xảo. Phương tiện có hai thứ, tức là hồi hướng phương tiện và bạt tế phương tiện. Do đại trí mà hồi tiền lục độ, hướng đại bồ đề, đây là hồi hướng phương tiện. Do đại bi mà hồi tiền lục độ, cứu tế hữu tình, đây là bạt tế phương tiện. Trong câu kệ có nói : ‘’Ðủ thứ phương tiện độ chúng sinh’’ là cứu tế phương tiện. ‘’Khiến sự tu hành đều thành tựu’’ là hồi hướng phương tiện. Tóm lại, đây là độ về điều phục tất cả, cứu tế tất cả, phương pháp hành hóa.
‘’Ðủ thứ phương tiện độ chúng sinh.’’ Phật dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, trước hết do pháp phương tiện, sau đó đắc được pháp chân thật.
‘’Khiến sự tu hành đều thành tựu.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh, đối với những hạnh môn tu hành, thảy đều hoàn toàn thành tựu.
‘’Tất cả mười phương đều đến khắp.’’ Phật đến khắp hết thảy cõi Phật trong mười phương, để diễn nói diệu pháp; tức cũng là diễn nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này.
‘’Vô biên tế kiếp chẳng nghỉ ngơi.’’ Phật ở trong đại kiếp nhiều chẳng có bờ mé, đều đi giáo hóa chúng sinh, vĩnh viễn chẳng nghỉ ngơi. Phật chẳng phải vì mình, mà là vì tất cả chúng sinh, cho nên mới đến độ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khỏi sự khổ, đắc được an vui. Chúng ta nên học tu Phật như thế, mới có thể báo được ân của Phật.

Xưa Phật tu hành biển đại kiếp
Tịnh trị các nguyện Ba la mật
Cho nên xuất hiện khắp thế gian
Suốt kiếp vị lai cứu chúng sinh.

Bốn câu kệ này nói về nguyện Ba la mật, nguyện giống như chiếc thuyền, chẳng những độ mình mà còn độ người, là đại nguyện đồng sinh về tịnh độ. Nguyện có hai thứ :
1). Bồ đề nguyện, tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, tức cũng là:

‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’

2). Nguyện lợi lạc kẻ khác, tức cũng là từ bi hỷ xả, bốn tâm vô lượng. Ðem sự lợi ích, an vui cho kẻ khác, đó là tinh thần Bồ Tát. Ðối tượng của Kinh Hoa Nghiêmnói pháp, là pháp thân Đại sĩ, nơi nơi đều dùng Bồ Tát làm mục tiêu, lấy lục độ vạn hạnh làm hạnh môn, do đó có câu :

‘’Tu hành không phát nguyện,
Nở hoa chẳng kết trái.’’

‘’Xưa Phật tu hành biển đại kiếp.’’ Thuở xưa Phật tu hành, trải qua thời gian lâu dài biển đại kiếp.
‘’Tịnh trị các nguyện Ba la mật.’’ Phật tu hành tất cả đại nguyện, chiếu theo nguyện đã phát ra mà tu hành, mỗi lời nguyện đều tịnh trị thanh tịnh, chẳng có chút bụi bặm. Mỗi người tu đạo đều phải phát đại nguyện, ai ai cũng chiếu theo lời nguyện mà tu hành. Phát nguyện gì, thì phải y theo nguyện đó mà tu hành. Không nên ngày nay phát nguyện, ngày mai quên mất. Phải luôn luôn y theo lời nguyện mình đã phát ra mà tu hành, một chút cũng không thể giải đãi. Như thế thì không nên khởi nhiều vọng tưởng, cũng không nên không giữ quy cụ, cho nên ai ai cũng phải phát nguyện. Tại sao Phật thành Phật ? Vì thuở xưa Phật đã từng phát nguyện, cho nên đặng thành Phật. Chúng ta cũng phải phát nguyện, thì tương lai cũng sẽ thành Phật.

Chúng ta phát nguyện, phải luôn luôn giáo hóa chúng sinh, vĩnh viễn chẳng nghỉ ngơi. Ví như phát nguyện ngủ ngồi không nằm, thì phải luôn luôn ngủ ngồi không nằm; phát nguyện ngày ăn một bữa, thì phải hằng ngày ăn một bữa; phát nguyện chẳng cất giữ tiền bạc, thì phải luôn luôn chú ý, đừng coi trọng tiền bạc; phát nguyện đời đời kiếp kiếp, muốn xuất gia tu học Phật pháp, hoằngdương Phật pháp, thì đừng khởi vọng tưởng, cứ muốn hoàn tục; phát nguyện hộ trì Phật pháp, thì phải luôn luôn hộ trì Tam Bảo, trang nghiêm Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo. Phải y chiếu lời nguyện của mình mà tu hành, đó mới là tịnh trị.
‘’Cho nên xuất hiện khắp thế gian.’’ Vì Phật tu hành nguyện Ba la mật, cho nên xuất hiện trong hết thảy thế gian.
‘’Suốt kiếp vị lai cứu chúng sinh.’’ Ðại nguyện của Phật phát ra, là đời đời suốt kiếp vị lai, đều cứu độ tất cả chúng sinh.

Phật vô lượng kiếp rộng tu trị
Tất cả pháp lực Ba la mật
Do đó thành tựu tự nhiên lực
Hiện khắp mười phương các cõi nước.

Bốn câu này nói về lực Ba la mật, lực là sức lực, không thể khuất phục, tiêu diệt sạch tất cả phiền não, tức cũng là pháp lực, suy nghĩ lựa chọn các pháp mà tu tập, thứ lực này có thể đến thẳng bờ bên kia.
‘’Phật vô lượng kiếp rộng tu trị.’’ Phật ở trong vô lượng kiếp rộng tu hành. Trong lúc tu hành, có khi sinh ra các thứ phiền não, thì luôn luôn có ma chướng đến khảo nghiệm định lực của bạn. Lúc đó ‘’Tâm không động‘’, là pháp bảo dùng nó để trị ma chướng, thì tự nhiên bình an vô sự.

Bây giờ xin đưa ra ví dụ : Ví như chúng ta muốn tu bố thí Ba la mật, lúc đang muốn thực hành bố thí, thì đột nhiên ý niệm thứ hai sinh ra : ‘’Ta không thể bố thí, nếu bố thí thì chẳng còn tiền để ăn uống, hoặc chẳng còn tiền để đi xe .v.v...’’ Do đó, chẳng tu bố thí Ba la mật. Lúc đó, phải dùng trị để xử lý. Ví như có người bị bệnh, nhất định muốn trị khỏi bệnh. Nếu nghĩ như thế này : ‘’Ôi ! Người này rất là khổ, ta hãy bố thí cho họ ! Ta ăn bớt lại một chút cũng chẳng sao, không có tiền đi xe, đi bộ cũng được.’’ Nghĩ như thế, thì sẽ chữa khỏi bệnh san tham, chẳng những một việc là như thế, mà hết thảy mọi việc đều như thế, đó tức là rộng tu trị.
‘’Tất cả pháp lực Ba la mật.’’ Phật tu hành tất cả các pháp, và hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều là dùng sức lực của các pháp đến bờ bên kia.
‘’Do đó thành tựu tự nhiên lực.’’ Vì tu hành đủ thứ pháp, đắc được đủ thứ pháp lực đến bờ bên kia, nên thành tựu tự nhiên trí huệ lực.
‘’Hiện khắp mười phương các cõi nước.’’ Pháp thân trí huệ quang minh, hiện khắp nơi các nước chư Phật trong mười phương, để vì chúng sinh hiện thân thuyết pháp, đó là Phật lực.

Xưa Phật tu trị trí phổ môn
Tất cả trí tánh như hư không
Cho nên thành tựu vô ngại lực
Quang minh chiếu khắp mười phương cõi.

Bốn câu kệ này nói về trí Ba la mật. Trí này do sáu Ba la mật ở trước thành tựu (từ bố thí đến Bát nhã), về sau đắc được trí huệ. Lại do trí này, mà thành lập sáu Ba la mật ở trước, tức cũng là thành tựu tất cả trí năng, do đó trí ‘’Thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình.’’
‘’Xưa Phật tu trị trí phổ môn.’’ Thuở xưa, khi Phật tu hành tại nhân địa, tu trị trí huệ phổ môn thị hiện, tức cũng là bình đẳng trí.
‘’Tất cả trí tánh như hư không.’’ Bổn thể của trí là gì ? Giống như hư không chẳng có hình tướng.
‘’Cho nên thành tựu lực vô ngại.’’ Vì nó như hư không, cho nên thành tựu trí huệ lực vô ngại. Vô sở chướng ngại tức là bao quát hết thảy Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí.
‘’Quang minh chiếu khắp mười phương cõi.’’ Trí huệ quang minh của Phật phóng ra, chiếu sáng khắp tất cả thế giới đen tối trong mười phương, giáo hóa tất cả chúng sinh trong sáu nẻo, khiến cho họ sớm thoát khỏi luân hồi, khai mở trí huệ, thành tựu quả vị Phật.

Có người hỏi : ‘’Tu trị và tịnh trị có gì khác nhau‘’? Ý nghĩa tu trị là lúc ban đầu nghĩ muốn làm việc gì, chẳng được tự nhiên, về sau dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để đối trị, trị tốt những mao bệnh này, đó gọi là tu trị. Ý nghĩa tịnh trị là có rất nhiều vọng tưởng, tìm cách làm cho thanh tịnh; có rất nhiều nhiễm ô, làm cho nó thanh tịnh. Ý nghĩa tu trị và tịnh trị chẳng khác gì mấy, bất quá tu trị là trị lý tiêu cực, còn tịnh trị là trị tích cực, đây là điểm khác nhau.

Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Giảng Giải
Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Thập Địa

23755200_169522800452206_3809303923198003556_n.jpg


Bấy giờ, đại Bồ Tát Vân Âm Tịnh Nguyệt, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội trong đạo tràng, rồi nói bài kệ rằng.

Lúc đó, vị đại Bồ Tát Vân Âm Tịnh Nguyệt, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả đại chúng hải hội ở trong đạo tràng, rồi lập tức nói ra mười một bài kệ này.
Bài kệ đầu tiên trong mười một bài kệ này, là tổng quát ý nghĩa, còn mười bài kệ kia là phân biệt giải thích đạo lý Thập địa. Thập địa tức là:
1). Hoan hỷ địa.
2). Ly cấu địa.
3). Phát quang địa.
4). Diễm huệ địa.
5). Nan thắng địa.
6). Hiện tiền địa.
7). Viễn hành địa.
8). Bất động địa.
9). Thiện huệ địa.
10). Pháp vân địa.


Cảnh giới thần thông đồng hư không
Mười phương chúng sinh đâu chẳng thấy
Như xưa tu hành thành các địa
Trong quả ma ni đều nói đủ.


‘’Cảnh giới thần thông đồng hư không.’’ Cảnh giới thần thông của Phật như hư không, chẳng có bờ mé.
‘’Mười phương chúng sinh đâu chẳng thấy.’’ Vì cảnh giới rộng lớn như hư không, cho nên chúng sinh trong mười phương, thảy đều nhìn thấy được.
‘’Như xưa tu hành thành các địa.’’ Giống như thuở xưa tu hành thành tựu các quả vị, tức cũng là quả vị thập địa.
‘’Trong quả ma ni đều nói đủ.’’ Phật ở trong quả ma ni, đều hoàn toàn diễn nói ra đầy đủ, tất cả cảnh giới thần thông diệu dụng, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được, đều biết thần thông diệu dụng này không thể nghĩ bàn.

Thanh tịnh siêng tu vô lượng kiếp
Vào nơi sơ địa rất hoan hỷ
Sinh trí rộng lớn như pháp giới
Thấy khắp mười phương vô lượng Phật.

Bốn câu kệ này, là nói về cảnh giới Sơ địa, gọi là Hoan hỷ địa. Tại sao hoan hỷ ? Vì đã phá được kiến, tư, hai hoặc (hai hoặc về thấy và suy nghĩ), chứng được lý người và pháp đều không, đắc được thọ dụng pháp hỷ sung mãn, thấu hiểu cảnh giới của chư Phật, cho nên hoan hỷ, do đó gọi là Hoan hỷ địa.
‘’Thanh tịnh siêng tu vô lượng kiếp.’’ Thanh tịnh là chẳng có pháp ô nhiễm nào, pháp ô nhiễm có hai thứ.
1). Pháp ô nhiễm có hình tướng, tức là cảnh giới bên ngoài.
2). Pháp ô nhiễm vô hình, tức là trong tâm ý của mình.

Lúc có hình tướng mà thực hành hạnh môn bất tịnh, thì tạo ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng thanh tịnh. Lúc vô hình mà khởi tư tưởng không tịnh, thì tạo ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng thanh tịnh. Khi Phật tu hành tại nhân địa, thì luôn luôn giữ giới, cho nên được thanh tịnh. Thanh tịnh rồi lại siêng năng tu hành hơn nữa.
Siêng tu thì không lười biếng phóng dật. Lười biếng tức là không tinh tấn, phóng dật tức là không giữ quy cụ. Siêng tu tức là tinh tấn, tinh tấn chẳng phải chỉ dụng công một ngày hai ngày, cũng chẳng phải một năm hai năm, càng chẳng phải một đời hai đời, mà là dụng công siêng tu giới định huệ mãi mãi không ngừng, trải qua thời gian lâu dài vô lượng biển kiếp.
‘’Vào nơi sơ địa rất hoan hỷ.’’ Vì ở trong vô lượng kiếp, siêng tu giới định huệ; ở trong vô lượng kiếp tiêu diệt tham sân si, như thế mới vào được nơi sơ địa, chứng được quả vị Bồ Tát. Lúc đó, tâm giác và tự tánh thông đạt, pháp hỷ sung mãn, thiền duyệt vi thực, hoan hỷ vô cùng, cho nên gọi là hoan hỷ địa.
‘’Sinh trí rộng lớn như pháp giới.’’ Chứng được sơ địa Bồ Tát, thì có trí huệ rộng lớn như pháp giới.
‘’Thấy khắp mười phương vô lượng Phật.’’ Có trí huệ rộng lớn rồi, thì lúc đó mới thấy khắp vô lượng vô số chư Phật trong mười phương, bèn cung kính cúng dường, gần gũi vô lượng chư Phật trong mười phương.

Trong tất cả pháp Ly cấu địa
Đồng số chúng sinh giữ tịnh giới
Ở trong nhiều kiếp rộng tu hành
Cúng dường vô biên biển chư Phật.

Bốn câu kệ này, là nói về cảnh giới Nhị địa, gọi là Ly cấu địa. Tại sao gọi là Ly cấu địa ? Vì đã lìa khỏi mọi pháp nhiễm ô, khiến cho thân tâm thanh tịnh. Làm thế nào lìa cấu bẩn được ? Phải nhận chân tu hành mới có sự cảm ứng, mới lìa khỏi cấu bẩn được. Nếu không nhận chân tu hành, thì không thể có sự cảm ứng, càng không thể lìa khỏi được phiền não cấu bẩn. Do đó, có câu:

‘’Bậc Sơ địa chẳng biết cảnh giới của bậc Nhị địa,
Bậc Thập địa chẳng biết cảnh giới của bậc Ðẳng giác.’’

Ở trong Phật pháp, sai một ly đi ngàn dặm. Cảm thấy sai không nhiều, kết quả càng đi càng xa nhà, càng xa càng chẳng biết quay đầu lại.
Lìa cấu bẩn chẳng dễ gì làm được, cấu bẩn tức là pháp nhiễm ô, lìa khỏi cấu bẩn tức là được thanh tịnh. Pháp nhiễm ô này khắp nơi đều có. Các vị ! Các bạn hằng ngày đến nghe kinh, đến nghiên cứu Phật pháp, cảm thấy rất bình thường, song biết đâu có những người muốn nghe kinh, muốn nghiên cứu Phật pháp mà không thể được.

Lúc trước, tôi giảng kinh thì có chuyện này phát sinh: Có vợ chồng đồng đến nghe kinh, hoặc có người chồng chẳng cho vợ đến nghe kinh, hoặc có người vợ chẳng cho chồng đến nghe kinh. Có một vị phụ nữ rất kiền thành tin Phật, thích nghe kinh, song chồng của bà ta cản trở, chẳng cho bà ta đến chùa thắp hương lễ Phật, càng không cho bà ta đến chùa để nghe kinh, nghe pháp, thường dùng hai chữ ‘’ly dị‘’ để uy hiếp vợ. Một ngày nọ, ông ta nói với vợ : ‘’Nếu bà mà đi nghe kinh nữa, thì chúng ta sẽ ly dị.’’ Song, bà vợ chẳng sợ sự uy hiếp ly dị, vẫn cứ đi. Ông ta chẳng có cách gì hơn, đã hơn bảy mươi tuổi mà còn ly dị sao ? Mới lấy tấm hình kết hôn, dùng kéo cắt làm hai ném xuống nền nhà, đó là biểu thị ly dị. Khi bà vợ trở về nhà thấy vậy thì buồn cười. Ðó là ma chướng, trở ngại bà này tăng trưởng căn lành.
Người trên thế gian có rất nhiều trường hợp như thế, đều ở trong xấu có tốt, trong tốt có xấu. Muốn thật sự lìa khỏi cấu bẩn được giải thoát, thật là việc chẳng dễ dàng. Nghĩ muốn đắc được tự do tự tại, cũng là việc hết sức khó khăn.
‘’Trong tất cả pháp Ly cấu địa.’’ Ly cấu địa tức là lìa khỏi pháp ô nhiễm, buông xả pháp nhiễm ô, thành tựu pháp thanh tịnh.
‘’Ðồng số chúng sinh giữ tịnh giới.’’ Tu đến Nhị địa (địa thứ hai), thì dùng số kiếp nhiều như số chúng sinh, để tu trì giới pháp thanh tịnh. Có người sau khi thọ năm giới, chẳng những chẳng giữ giới, mà mình còn chẳng biết sửa đổi lỗi lầm, chẳng nghe sự khuyên bảo, cho nên nhất định phải biết sửa đổi lỗi, thì chẳng có việc thiện nào lớn bằng.
‘’Ở trong nhiều kiếp rộng tu hành.’’ Chứng được Bồ Tát Nhị địa, thì phải trải qua nhiều đại kiếp rộng tu hành, chẳng giải đãi, chẳng lười biếng, chẳng phóng dật. Chỉ có tinh tấn hướng về trước, chẳng lùi về sau.
‘’Cúng dường vô biên biển chư Phật.’’ Nhị địa Bồ Tát tu hành tại nhân địa, thì phải rộng tu hạnh môn cúng dường. Cho nên, cúng dường vô biên vô tận các Ðức Phật như biển cả, mới chứng được địa vị này. Do đó, Bồ Tát tu hành ở trong các pháp môn, thì chuyên tu pháp môn cúng dường vô biên biển chư Phật.

Tích tập phước đức Phát quang địa
Xa ma tha tạng nhẫn kiên cố
Mây pháp rộng lớn đều đã nghe
Trong quả ma ni nói như thế.

Bốn câu kệ này, nói về cảnh giới Phát quang địa thứ ba. Tại sao gọi là Phát quang địa ? Vì khi còn ở Nhị địa, thì tích tập công đức vô lượng, lúc đó nội tâm thanh tịnh đến cực điểm, tự tánh quang minh bèn phát ra.
Chúng ta tu hành Phật pháp, phải tích tập phước đức, đừng cho rằng công đức nhỏ mà không làm. Nên biết, công đức nhỏ mà làm nhiều, thì thành công đức lớn, công đức lớn là do công đức nhỏ tích tụ mà thành. Người thời xưa thì ăn ít mặc ít, dùng bớt tài vật lại để làm công đức. Công đức tuy nhỏ, xong vẫn phải làm mới có công đức. Không làm thì chẳng có công đức. Tại sao chúng ta gặp hoàn cảnh khó khăn ? Vì chúng ta thuở xưa chẳng làm công đức, cho nên cuộc sống đời này khó khăn, hoàn cảnh khốn khổ, tất cả đều chẳng thuận lợi. Nếu làm nhiều công đức thì có quang minh, đó là biểu hiện của phước đức.
‘’Tích tập phước đức Phát quang địa.’’ Tích tập là do nhỏ thành lớn, do ít thành nhiều, nghĩa là tụ lại với nhau. Phước đức tích tập càng nhiều, thì quang minh tỏa ra càng lớn. Thứ quang minh này là biểu hiện của phước đức, cho nên gọi là Phát quang địa.
‘’Xa ma tha tạng nhẫn kiên cố.’’ Xa ma tha nghĩa là "tịch tĩnh", muốn tịch tĩnh thì phải có nhẫn kiên cố. Làm thế nào để có nhẫn kiên cố ? Thì phải tu pháp tịch tĩnh, pháp tĩnh lự, tức cũng là tu chỉ, tu định. Chẳng có vọng tưởng, chỉ ư chí thiện, thì phải có sức nhẫn kiên cố.
‘’Mây pháp rộng lớn đều đã nghe.’’ Thứ mây pháp này rộng lớn vô biên, cho nên tất cả chúng sinh đều đã nghe được.
‘’Trong quả ma ni nói như thế.’’ Trong quả ma ni trên cây bồ đề nói pháp như thế, giống như đạo lý vừa nói ở trên.

Diễm hải huệ minh vô đẳng địa
Khéo rõ cảnh giới khởi từ bi
Tất cả cõi hiện thân bình đẳng
Như chỗ Phật tu đều diễn xướng.

Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Diễm huệ địa. Vì địa này trí huệ rất cao, hay khiến cho huệ tánh mãnh liệt. Lúc đó, tự tánh quang minh đã đạt đến cực điểm, chánh giác đã viên mãn.
‘’Diễm hải huệ minh vô đẳng địa.’’ Trí huệ quang minh của Bồ Tát địa thứ tư như biển cả, cho nên gọi là vô đẳng địa.
‘’Khéo rõ cảnh giới khởi từ bi.’’ Khéo thấu rõ tất cả cảnh giới thế pháp. Tất cả cảnh giới thanh tịnh cũng minh bạch, tất cả cảnh giới nhiễm ô cũng biết rõ, đối với tất cả chúng sinh ngu si đen tối, đều phát tâm từ bi mà cứu hộ những chúng sinh này, gặp người có căn lành thì khiến cho căn lành tăng trưởng.
‘’Tất cả cõi hiện thân bình đẳng.’’ Trong tất cả cõi nước trong mười phương, đều hiện thân bình đẳng để giáo hóa tất cả chúng sinh.
‘’Như Phật sở tu đều diễn xướng.’’ Giống như pháp môn của Phật tu, diệu pháp của Phật nói. Ngài cũng đến diễn nói, hoan hỷ nói pháp gì thì nói pháp đó. Muốn nói đạo lý gì, thì nói đạo lý đó, chẳng có câu thúc, chẳng có hạn chế, tức cũng tùy cơ thuyết pháp, tùy duyên thuyết pháp. Thấy người gì thì nói pháp đó, tức cũng là vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc.

Phổ tạng đẳng môn Nan thắng địa
Động tĩnh thuận nhau chẳng trái nghịch
Cảnh giới Phật pháp đều bình đẳng
Như chỗ Phật tịnh đều nói được.

Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ năm, gọi là Nan thắng địa. Tại sao gọi là Nan thắng địa ? Vì chân, tục, hai trí trái nhau, khiến cho hợp lại, khiến cho thuận nhau. Lại có thể nói, đồng dị của tất cả các pháp đều bất khả đắc.
‘’Phổ tạng đẳng môn Nan thắng địa.’’ Tạng pháp giới bình đẳng khắp hết thảy, chẳng có gì hơn được, cho nên gọi là Nan thắng địa.
‘’Ðộng tĩnh thuận nhau chẳng trái nghịch.’’ Tại sao nói là nan thắng ? Vì động chẳng ngại tĩnh, tĩnh cũng là động. Ðộng tĩnh tùy thuận với nhau chẳng trái nghịch. Tại phàm phu mà nhìn, thì động tức là động, tĩnh tức là tĩnh, chẳng biết đạo lý chẳng tương phản. Ðến bậc Nan thắng địa thì động tĩnh nhất như, động tĩnh chẳng hai, trong động và tĩnh như nhau chẳng có phân biệt.
‘’Cảnh giới Phật pháp đều bình đẳng.’’ Tất cả Phật pháp, tất cả cảnh giới đều bình đẳng.
‘’Như Phật sở tịnh đều nói được.’’ Giống như pháp môn của Phật tu hành, Bồ Tát địa này đều nói ra được, đều có thể đại biểu cho Phật để nói pháp, giáo hóa chúng sinh.

Tu hành rộng lớn huệ hải địa
Tất cả pháp môn đều biết rõ
Hiện khắp cõi nước như hư không
Trong cây diễn nói pháp âm này.

Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ sáu gọi là Hiện tiền địa. Tại sao gọi là Hiện tiền địa ? Vì phát ra trí huệ thù thắng nhất, hiện tiền chẳng có phân biệt tịnh và nhiễm. Lại gọi là Huệ hải địa, trí huệ của Bồ Tát này như biển cả.
‘’Tu hành rộng lớn huệ hải địa.’’ Rộng lớn mà tinh tế, tu hành hết thảy tất cả pháp môn, đắc được trí huệ như biển, cho nên gọi là Huệ hải địa.
‘’Tất cả pháp môn đều biết rõ.’’ Vì tu hành rộng lớn, cho nên đều biết rõ tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều tu hành thành công.
‘’Trong cây diễn nói pháp môn này.’’ Trong cây bồ đề thụ vương, hết thảy cõi nước mười phương, đều diễn nói tất cả pháp âm, để giáo hóa tất cả chúng sinh.

Khắp cùng pháp giới thân hư không
Chiếu khắp chúng sinh đèn trí huệ
Tất cả phương tiện đều thanh tịnh
Xưa tu Viễn hành nay nói đủ.

Bốn câu kệ này nói về Địa thứ bảy, gọi là Viễn hành địa. Tại sao gọi là Viễn hành địa ? Vì cùng tận chân như tự tánh viên tế, phát tâm đại bi, lìa khỏi nhị thừa độ.
‘’Khắp cùng pháp giới thân hư không‘’. Ðến được Viễn hành địa, thì pháp thân sở hiện có thể khắp cùng pháp giới, đồng như hư không.
‘’Chiếu khắp chúng sinh đèn trí huệ.’’ Tức nhiên chiếu khắp pháp giới được, thì chiếu khắp chúng sinh được. Ðèn trí huệ của Bồ Tát viễn hành địa, phóng ra ánh sáng chiếu soi khắp tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh chuyển nhiễm thành tịnh.
‘’Tất cả phương tiện đều thanh tịnh.’’ Hết thảy tất cả pháp môn phương tiện, đều khiến cho tất cả chúng sinh, từ nhiễm ô chuyển thành thanh tịnh, đắc được diệu pháp thân thanh tịnh.
‘’Xưa tu Viễn hành nay nói đủ.’’ Thuở xưa tu Viễn hành địa, bây giờ nói ra diệu pháp này, cho tất cả chúng sinh nghe.

Tất cả hạnh nguyện thảy trang nghiêm
Vô lượng cõi nước đều thanh tịnh
Hết thảy phân biệt chẳng lay động
Đây vô đẳng địa đều diễn nói.

Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ tám, gọi là Bất động địa. Tại sao gọi là Bất động địa ? Vì do tất cả nguyện lực thành tựu. Ðến được Bồ Tát địa này, thì như như bất động, liễu liễu thường minh, cho nên gọi là Bất động địa. Chúng ta tu hành phải phát nguyện kiên cố, và nguyện lâu dài, phải đời đời kiếp kiếp, chiếu theo lời nguyện của mình mà tu hành, mới từng bước từng bước tiến đến Bất động địa.
‘’Tất cả hạnh nguyện thảy trang nghiêm.’’ Chư Phật quá khứ và tất cả Bồ Tát, đều do tất cả lời nguyện trang nghiêm mà thành tựu. Nguyện chỉ tăng thêm chứ đừng thối lùi. Nguyện thối lùi là biểu hiện giải đãi. Bổn lai vốn sớm thành Phật, song vì nguyện thối lùi mà mất công phu, không thể có sự thành tựu.
Các bạn ! Phải nhận rõ mục đích, phát nguyện rồi không nên sửa đổi lại. Nếu sửa đổi lời nguyện lại, thì giống như tự đọa vào địa ngục, đó là trong kinh Phật có nói. Các bạn xem ! Chư Phật và Bồ Tát đều giữ theo lời nguyện của mình mà đi thực hành. Bồ Tát Ðịa Tạng có phát nguyện rằng :

‘’Ðịa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.’’

‘’Vô lượng cõi nước đều thanh tịnh.’’ Nguyện lực của Phật phát ra phước đức trang nghiêm, trải qua vô lượng cõi nước đều thanh tịnh chẳng nhiễm.
‘’Hết thảy phân biệt chẳng lay động.’’ Hết thảy tất cả tâm phân biệt cũng chẳng lay động, kiên cố như kim cang, chẳng có cách chi phá hoại được.
‘’Ðây vô đẳng địa đều diễn nói.’’ Bất động địa này diệu chẳng có gì sánh bằng, cho nên nói ra hết hoàn toàn.

Vô lượng cảnh giới sức thần thông
Khéo vào giáo pháp sức quang minh
Đây là thanh tịnh Thiện huệ địa
Biển kiếp tu hành đều nói đủ.

Bốn câu này nói về Địa thứ chín, gọi là Thiện huệ địa. Tại sao gọi là Thiện huệ địa ? Vì có đầy đủ mười trí huệ lực, cầu khắp mọi nơi, biết chúng sinh có thể độ, không thể độ, vì họ thuyết pháp, cho nên gọi là Thiện huệ địa.
‘’Vô lượng cảnh giới sức thần thông.’’ Cảnh giới của Phật như biển cả, cho nên nói là vô lượng. Cảnh giới này do sức thần thông biến hóa.
‘’Khéo vào giáo pháp sức quang minh.’’ Sức thần thông này, khéo diễn nói tất cả giáo lý và tất cả các pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh minh bạch giáo lý và pháp này, đắc được sức trí huệ quang minh.
‘’Ðây là thanh tịnh Thiện huệ địa.’’ Ðây là thanh tịnh Thiện huệ địa, đắc được bổn thể tự tánh.
‘’Biển kiếp tu hành đều nói đủ.’’ Muốn đắc được cảnh giới Thiện huệ địa này, phải tu hành thời gian lâu dài mới thành tựu được. Hiện tại đều hoàn toàn diễn nói ra hết, khiến cho tất cả chúng sinh, biết hạnh môn của chư Phật tu trong quá khứ.

Pháp vân rộng lớn Địa thứ mười
Hàm tàng tất cả khắp hư không
Cảnh giới chư Phật diễn trong âm
Âm này là thần lực của Phật.

Bốn câu kệ này nói về cảnh giới Địa thứ mười, gọi là Pháp vân địa. Tại sao gọi là Pháp vân địa ? Vì thành tựu trí Ba la mật, sinh ra nước pháp công đức, giống như vầng mây lớn, mưa xuống nước thanh tịnh như cam lồ, khiến cho người nghe pháp thân tâm mát mẻ.
‘’Pháp vân rộng lớn Địa thứ mười.’’ Thứ pháp vân này rộng lớn khắp mười phương. Ðây là địa (bậc) Bồ Tát cuối cùng, tức là Pháp vân địa, lúc tu tập hạnh Bồ Tát, công đức đã viên mãn.
‘’Hàm tàng tất cả khắp hư không.’’ Pháp vân khắp hư không, ở trong hư không lại hàm tàng tất cả, tất cả cũng bao hàm ở trong hư không.
‘’Cảnh giới chư Phật diễn trong âm.’’ Hết thảy cảnh giới của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, đều ở trong pháp âm không thể nghĩ bàn của Pháp vân địa diễn nói ra.
‘’Âm này là thần lực của Phật.’’ Thứ pháp âm này, là đại oai thần lực của chư Phật mười phương ba đời, đều cùng diễn nói ra diệu âm.
Ðây là cảnh giới của mười địa (bậc) Bồ Tát, do tu mười Ba la mật mà thành tựu. Ví như tu bố thí Ba la mật mà thành tựu Sơ địa, cho đến tu trí Ba la mật mà thành tựu Thập địa.

Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Giảng Giải
Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
22289645_861707860673118_8715564072698278539_o.jpg


PHƯỚC HUỆ SONG TU

Có loại chúng sinh thấy tướng trăm phước trang nghiêm của Phật, song chẳng biết phước này từ đâu đến ? Phước này do sự tu hành trung đạo mà đến. Cho nên phải tu phước, tu huệ, phước huệ song tu. Giống như chiếc xe hai bánh, một lớn một nhỏ thì tuyệt đối chẳng tiến về trước được, phải phát triển đồng đều mới có hiệu quả. Do đó có câu :

‘’Tu phước không tu huệ,
Làm voi mang anh lạc;
Tu huệ chẳng tu phước,
La Hán ôm bát không.’’

Tu phước như thế nào ? Tức là lợi ích chúng sinh, làm nhiều công đức. Tu huệ như thế nào ? Tức là giảng kinh thuyết pháp, siêng tụng kinh điển. Lợi ích chúng sinh thì tăng trưởng phước báo, trì tụng kinh điển thì khai mở trí huệ.

Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 6 2009
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
27973243_2024262697897087_7031047720635140705_n.jpg


Bố thí đối trị xan tham. Trì giới đối trị hủy phạm. Nhẫn nhục đối trị sân hận. Tinh tấn đối trị giải đãi. Thiền định đối trị tán loạn. Trí huệ đối trị ngu si. Bồ Tát đối trị với chúng sinh, trước hết phải hành bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Và dùng từ, bi, hỷ, xả, bốn tâm vô lượng để làm căn bản, mới lợi lạc chúng sinh.
‘’Ðạo cầu nơi chỗ thấp‘’, câu nầy rất là triết lý. Người tu đạo, đừng háo cao vụ viễn, muốn đến trên trời mà tìm đạo, như vậy thì tìm chẳng được. Nay lược giải lục độ, nếu có ai nghe qua rồi, thì đừng ngại nghe lần nữa. Người chưa nghe qua thì phải chú ý nghe. Lục độ tức là pháp căn bản hành Bồ Tát đạo.
1. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn bố thí Ba la mật? Bố thí tiếng Phạn là Đàn, dịch ra là bố thí. Ba la mật là đến bờ kia, từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Bố thí có ba :
A. Tài thí : Tức là dùng tài vật để cứu giúp những người cần, chẳng phải nói bỏ tiền làm chùa mới có công đức. Bố thí phải ba luân thể không, mới gọi là thật bố thí. Ba luân thể không tức là:
- Chẳng có người thí.
- Chẳng có vật thí.
- Chẳng có người nhận.

Tóm lại, bố thí chẳng phải vì danh lợi, chẳng có xí đồ, mới có công đức. Chư Phật Bồ Tát bố thí thì ngoài xả bỏ đất nước vợ con, trong thì xả bỏ đầu não tủy mắt, bố thí hết thảy. Tuy bố thí mà chẳng có tướng bố thí, hành sở vô sự. Ðây là bố thí căn bản, cũng là biểu hiện khó làm mà làm được, khó xả mà xả được. Do đó, có câu :

‘’Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thường
Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt‘’.

Nghĩa là :

‘’Làm thiện muốn người thấy,
Chẳng phải là chân thiện.
Làm ác sợ người biết,
Thật là đại ác‘’.

‘’Làm thiện chẳng mong đền đáp,
Tự nhiên mộng ẩn thần thanh‘’.

Ðây là những câu khắc vào đá của người tu hành. Ðức Phật xả bỏ vinh hoa phú quý, vợ đẹp con xinh, vào núi tuyết tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, cuối cùng chứng quả thành Phật. Hành vi như thế mới là đại Trượng Phu, đại anh hùng, đại hào kiệt ! Ðây là hành vi hơn người, thành tựu đạo nghiệp, trở thành giáo chủ của Phật giáo.
Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, tất cả đều xem là không, là giả, cho nên mới bố thí cho người. Có người cần cái đầu, thì có thể cắt xuống; có người cần con mắt, thì có thể móc ra.
B. Pháp thí : Tức là giảng Kinh thuyết pháp. Do đó:

‘’Trong các sự cúng dường.
Cúng dường pháp là hơn hết‘’.

Nếu có người muốn minh bạch Phật pháp, muốn tu hành Phật pháp, thì hãy đem hết sự hiểu biết của mình để chỉ dẫn họ, trợ giúp họ, khiến cho họ y pháp tu hành, cho đến thành Phật. Người nầy thành Phật là bạn trợ giúp họ thành Phật. Bạn trợ giúp người khác thành Phật, thì người khác cũng sẽ trợ giúp bạn thành Phật.
Ðây là tự lợi lợi tha, nhưng đừng có tâm niệm như thế, phải phát đại bồ đề tâm, nguyện người người thành Phật.

Tôi ở nước Mỹ đã từng nói : ‘’Tôi đào tạo Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống. Ai muốn làm Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống ? Thì mời đến công xưởng của tôi (chùa Kim Sơn). Chẳng màn quá khứ như thế nào ? Ðến chùa Kim Sơn, đừng sợ khổ, đừng sợ gian nan. Chỉ cần cước đạp thật địa, chân thật tu hành, thì nhất định sẽ thành tựu. Ở trong lò đúc lớn, trải qua một phen rèn luyện, thử nhìn xem cứu kính là vật liệu gì, thì tạo thành Phật, Bồ Tát, Tổ Sư đó‘’.
C. Vô úy thí : Tức là bố thí vô sở úy. Có người phát sinh sợ hãi, như lầm vào vực sâu núi thẳm, như đi trên băng mỏng, trên dưới chẳng yên, cần thiện tri thức để an ủi họ, khuyên họ một lòng một dạ niệm ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát‘’, như vậy sẽ khiến cho tinh thần tập trung, một lòng mong cầu Bồ Tát bảo hộ, thì chẳng bị cảnh giới sợ hãi làm lay chuyển. Hoặc giảng cho họ nghe nhân quả của Phật giáo, nói về công lý xã hội. Hoặc dạy cho họ ngồi thiền tĩnh tọa, an định tâm của họ, như thế thì họ chẳng có sợ hãi nữa.
2. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn giới Ba la mật ? Lúc Ðức Phật sắp vào Niết Bàn thì Tôn giả A Nan hỏi Ðức Phật bốn câu hỏi. Trong đó có một câu : ‘’Khi Phật còn ở đời, chúng con nương Phật làm thầy. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, chúng con nương ai làm thầy‘’? Phật nói : ‘’Hãy lấy giới làm thầy‘’. Cho nên người xuất gia phải thọ giới, phải giữ giới. Giới là ngừa ác phòng quấy, do đó ‘’Ác không ngừng thì thiện không sinh‘’. Tức cũng là đừng làm các điều ác, siêng làm các điều thiện. Pháp môn giữ giới là quan trọng nhất, bất cứ người nào không thể không giữ giới luật. Trừ khi đến được cảnh giới không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì miễn luận bàn. Nên nhớ! Phạm giới thì nhật định đọa địa ngục.
Ở trong Lục Tổ Ðàn Kinh có nói : ‘’Thiền Sư Huệ Minh thỉnh pháp Lục Tổ Ðại Sư. Lục Tổ nói : Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó bản lai diện mục của thượng tọa như thế nào ? Ông biết chăng‘’ ! Huệ Minh Ðại Sư nghe rồi liền khai ngộ.
3. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn nhẫn nhục Ba la mật ? Người tu hành phải học nhẫn nhục. Nhẫn khổ, nhẫn vui, nhẫn gió, nhẫn mưa, nhẫn nóng, nhẫn lạnh, tất cả phải nhẫn chịu; không nhẫn được cũng phải nhẫn. Tôi thường nói :

‘’Nhẫn là báu vô giá
Người người xử không tốt.
Nếu hay dùng được nó
Mọi việc đều tốt đẹp‘’.

Câu nầy tuy nông cạn nhưng ý nghĩa rất thâm sâu. Chúng ta đối với pháp cũng phải nhẫn, nghiên cứu Phật pháp, phải có tâm nhẫn nại. Phật pháp thâm sâu như biển cả. Do đó:

‘’Thiên hạ chẳng việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền‘’.

Nếu chuyên tâm nghiên cứu, thì sẽ thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như biển, đây là sự thuyết minh tốt nhất.
Nhẫn có nhiều thứ, một số nói, có sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn, ba thứ. Thọ nhẫn những gì họ khi nhục là sinh nhẫn. Chịu đựng cảnh thiên nhiên là pháp nhẫn. Bồ Tát mới tu đến vô sinh pháp nhẫn, tứ là đoạn, thường, hai kiến chẳng còn; ngã, pháp, hai chấp chẳng sinh. Không thấy chút pháp sinh, không thấy chút pháp diệt, là vô sinh pháp nhẫn.
Trong Kinh Kim Cang có nói : Thuở xưa lúc Ðức Phật làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn, bị vua Ca Lợi chặt thân thể mà chẳng sinh tâm sân hận. Phật là người quá khứ để lại cho chúng ta pháp môn nhẫn nhục vô thượng, chúng ta nên y pháp tu hành. Nhẫn nhục là pháp môn diệu nhất. Ðừng cảm thấy còn khổ hơn là huỳnh liên, phải cảm thấy ngọt hơn là cam lồ, như thế mới có sự thọ dụng. có câu người ta nói :

‘’Một câu nhịn chín câu lành‘’.

Hoặc :

‘’Nhẫn một thời, trăm ngày yên‘’.

Ðây là những kinh nghiệm. Chúng ta hay cung hành thực tiễn, tu chữ nhẫn thì sẽ thành tựu lớn. Trong Kinh Kim Cang có nói :

‘’Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy nên quán như thế‘’.

Tất cả pháp tức là tất cả sự việc, tức cũng là tất cả cảnh giới. Mỗi ngày thường gặp, đều gọi là tất cả pháp. Lúc đó đối diện với hiện thực, thì sẽ nhận thức sự thật. Cần người để biện việc, chứ không cần việc để biện người. Nhìn xuyên thủng, buông xả được, thì đắc được tự tại. Tôi có một câu diệu pháp, xử dụng ở nước Mỹ, tức là : ‘’Tất cả đều OK‘’, (Everything Is OK) thế nào cũng được, gì cũng đều chẳng có vấn đề, đây tức là nhẫn. Tất cả mọi sự việc trong trời đất đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như hình bóng, như sương, như điện. Nên quán tưởng như thế, thì chẳng còn chấp trước nữa.
Tại sao hay khởi phiền não ? Tức là vì ngu si. Nếu có trí huệ, thì tuyệt đối chẳng khởi phiền não. Phiền não từ trong vô minh, làm thế nào mới không có vô minh ? Thì phải tu giới định huệ, có trí huệ quang minh rồi, thì chiếu phá vô minh đen tối.
Phiền não tức bồ đề, chuyển phiền não qua, tức là bồ đề. Hay dùng được tức là bồ đề, chẳng dùng được tức là phiền não. Ðừng có riêng ngoài phiền não đi tìm bồ đề, bồ đề tức là phiền não. Có người chủ trương đoạn phiền não, tôi chủ trương chẳng cần đoạn phiền não. Tại sao ? Vì phiền não tức bồ đề. Nếu đoạn phiền não thì chẳng phải là đoạn bồ đề chăng ? Ðoạn cái gì ? Có gì để đoạn ? Vốn chẳng cần hướng bên ngoài truy cầu, hồi đầu là bờ. Chỉ cần giác, tức là bồ đề. Nếu mê tức là phiền não.
Phiền não bao quát bồ đề. Bồ đề chẳng biết dùng tức phiền não. Biết dùng phiền não tức bồ đề, dễ như trở bàn tay, đừng có đầu lại thêm đầu, lìa khỏi phiền não đi tìm bồ đề, đó là sai. Phải biết phát bồ đề tâm cũng là người nầy, sinh phiền não cũng là người nầy; thành Phật cũng là người nầy, làm quỷ cũng là người nầy, chứ chẳng phải riêng ngoài đi tìm người. Do đó :

‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả duy tâm tạo‘’.

Nếu như có người muốn minh bạch hết thảy tất cả chư Phật ba đời, thì hãy quán sát tình hình pháp giới, hết thảy tất cả sự vật, đều do tâm của mình tạo ra.
Tâm mình có thể thành Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Tâm mình cũng có thể làm người trời, làm người đời, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Chúng sinh mười pháp giới nầy đều do tâm tạo ra. Có người nói : ‘’Tôi chẳng tin có quỷ‘’, vậy bạn tin có Phật chăng ? Họ nói: ‘’Ðương nhiên là tin có Phật‘’. Nói cho bạn hay, Phật là do quỷ tu mà thành. Cho nên nói tâm mình có thể làm Phật, lại có thể làm quỷ. Cho nên nói: ‘’Tất cả do tâm tạo‘’.
Tại sao Phật phải nói pháp? Vì muốn độ tất cả chúng sinh. Do đó:

‘’Phật nói tất cả pháp
Vì độ tất cả chúng sinh
Nếu chẳng có tất cả chúng sinh
Chẳng dùng tất cả pháp. ’’

Cổ đức có nói : ‘’Vô tâm tức là đạo‘’. Cảnh giới chân chánh vô tâm, là:

‘’Trong quán tâm, tâm chẳng có
Ngoài quán hình, hình chẳng có
Xa quán vật, vật chẳng có.

Cả ba đều không, chỉ thấy không; quán không cũng không, không chẳng chỗ không. Lúc đó hoàn toàn vắng lặng (nhập định), dục niệm có sinh chăng ? Dục niệm chẳng sinh, tức là thật vắng lặng. Ðây bất quá là một cảnh giới nhỏ trong quá trình tu hành mà thôi. Dần dần mới có thể đắc được cảnh giới nhĩ căn viên thông, sáu căn dụng với nhau, tức là sáu căn mỗi căn đều có sáu thứ tác dụng.
Nhẫn nhục được thì trợ giúp cho tinh tấn, thiền định, trí huệ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói : Bồ Tát Thường Bất Khinh thấy người thì lễ lạy, miệng còn nói : Tôi không dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Tuy nhiên lễ lạy người, song, Tỳ Kheo tăng thượng mạn đánh Ngài, mắng Ngài, Ngài cũng chẳng thay đổi. Ở nơi xa xa đảnh lễ họ, còn nói : Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Tỳ Kheo tăng thượng mạn muốn đánh Ngài thì Ngài đứng dậy chạy‘’. Chúng ta tu hành pháp môn nhẫn nhục, thì phải học Ðức Phật bị chặt thân thể, mà chẳng sinh tâm sân hận. Bồ Tát Thường Bất Khinh bị đánh, bị mắng, cũng chẳng sinh tâm sân hận, đó đều là mô phạm tốt nhất.
4. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn tinh tấn Ba la mật ? Tinh tấn tức là chẳng giải đãi. Có người biết tinh tấn là tốt mà vẫn giải đãi. Biết thời gian quý báu nhưng chẳng thương tiếc, đây là biết rõ mà cố phạm. Người xưa nói :

‘’Một tấc thời gian một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua tấc thời gian‘’.

Lại nói :

‘’Mất đi tấc vàng dễ được lại
Thời gian qua rồi khó tìm lại‘’.

Ðây là những lời nói khuyên chúng ta khắc phục sự giải đãi. Lại nói :

’’Một tấc thời gian, một mạng sống‘’.

Ðể một tấc thời gian trôi qua lãng phí, thì giảm đi một tấc mạng sống. Thơ xưa có nói :

‘’Ðừng đợi đến già mới học đạo
Mồ hoang đầy dẫy bọn trẻ măng‘’.

Ðừng đợi đến già mới học Phật, các bạn hãy nhìn xem những người ở ngoài nghĩa địa đều là những trẻ con. Ðời người vô thường, chẳng biết lúc nào thì sẽ kết thúc mạng sống, cho nên phải kịp thời học Phật. Hôm nay biết Phật pháp, thì hôm nay học Phật Pháp, không thể đợi đến ngày mai. Ngày mai ! Ngày mai ! Vĩnh viễn có ngày mai. Ðợi đến lúc chết thì cũng không thể học Phật pháp, thật đáng thương xót !
Tinh tấn phải thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm sáu thời thường tinh tấn. Ðức Phật trong quá khứ đứng ở trước Phật bảy ngày bảy đêm, mắt chẳng tạm rời, chiêm ngưỡng Phật, đó mới là chân tinh tấn. Bồ Tát Dược Vương đốt cánh tay để cúng dường Phật, biểu thị sự thành tâm, đó mới là chân tinh tấn. Chư Phật Bồ Tát quá khứ vì cầu đạo nghiệp mà bố thí tánh mạng, đó là biểu hiện sự tinh tấn. Ai ai cũng có tánh lười biếng, cho nên phải dùng tinh tấn để khắc phục, dũng mãnh hướng về trước, không thể thối lùi về sau. Học Phật pháp như thuyền đi ngược dòng, chẳng tiến thì lùi. Trước kia quy cụ trong tùng lâm là: ‘’Ðông tham hạ học‘’. Nghĩa là: ‘’Mùa đông tham thiền, mùa hè thì học‘’. Vì mùa đông trời lạnh, cho nên phải ngồi thiền, vì quá lạnh nên không thể ngủ nhiều. Vì hè trời nóng, cho nên phải giảng Kinh thuyết pháp. Chùa Kim Sơn ở nước Mỹ, bất cứ xuân hạ thu đông bốn mùa đều phải tinh tấn, chẳng có nghỉ ngơi.
5. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn thiền na Ba la mật ? Thiền na dịch là tư duy tu, lại dịch là tĩnh lự. Do đó có câu :

‘’Vọng tưởng không sinh là thiền
Ngồi thấy bản tánh là định‘’.

Ngồi thiền là đuổi vọng tưởng đi, ngồi lâu dần thì mới có thiền. Cổ đức nói : ‘’Ngồi lâu có thiền ! Ngồi thiền chẳng sợ lưng ê, chẳng sợ chân đau, bất cứ đau như thế nào cũng phải nhẫn; đập phá cửa ải đau, thì chẳng còn đau nữa.
Ngồi thiền sẽ có đủ thứ cảnh giới đến nhiễu loạn, nhưng đừng sợ cảnh giới, phải hàng phục cảnh giới. Ví như đang ngồi thiền, thì có con cọp muốn ăn thịt người sống, làm cho bạn hồn bay phách tán lên chín tầng mây, đứng dậy chạy. Kết quả chẳng biết con cọp đi về đâu. Tất cả do tâm tạo, tâm định thì tự nhiên chẳng có cảnh giới. Cọp đến cũng đừng chạy. Nó sẽ không ăn bạn. Tại sao ? Vì cảnh giới này là khảo nghiệm định lực của bạn có đủ hay chăng. Ðến thử nghiệm công phu tham thiền của bạn đến trình độ nào ? Tóm lại, bất cứ cảnh giới gì, tốt cũng mặc kệ, xấu cũng mặc kệ, đừng động tâm thì tất cả ma chướng sẽ biến mất, sẽ hàng phục được tất cả trận ma.
Phương pháp ngồi thiền, nay lược nói sơ qua. Kỳ thật ngồi thiền chẳng có diệu pháp gì, tức là ngồi ngay ngắn, ngồi kiết già. Tư thế nầy chẳng dễ gì hôn trầm, trạo cử, còn có thể hàng ma, cho nên gọi là tư thế ngồi kim cang. Vì kiên cố cho nên chẳng dễ gì nghiêng ngã. Lúc ngồi thì mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm. Lúc nầy lưỡi uống lên phía trên, có nước dãi thì nuốt vào, sẽ rất bổ ích cho cơ thể. Tại sao phải dùng phương pháp nầy ? Vì có thể điều hơi điều máu. Khí huyết điều hòa thì trăm bệnh chẳng sinh.
Công năng ngồi thiền có thể giảm bớt thời gian ngủ, ngủ bình thường cần tám tiếng, ngồi thiền chỉ cần bốn tiếng là đủ, mà tinh lực sung mãn, tinh thần sản khoái. Ngồi thiền có sự lợi ích không thể nghĩ bàn, cho nên tại xứ Mỹ tôi cực lực đề xướng pháp môn nầy.
Tổ thứ mười ở Ấn Ðộ tôn giả Hiếp, Ngài một đời lưng chẳng đụng chiếu, tức cũng là ngủ ngồi chứ không nằm. Lịch đại Tổ Sư đều ngủ ngồi, cho nên có đại thành tựu. Ngủ ngồi lâu dần sẽ thành tập quán, chẳng còn cảm thấy khổ sở nữa, ngược lại cảm thấy sản khoái. Do đó : ‘’Tập quán thành tự nhiên‘’. Nếu như tâm chẳng thường hằng, một ngày nóng, mười ngày lạnh, thì đương nhiên chẳng có sự thành tựu. Phải có tâm nhẫn nại, mới có sự thành tựu.
6. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn Bát Nhã Ba la mật ? Bát Nhã dịch là trí huệ. Tại sao chẳng dịch ra ? vì có năm quy định chẳng dịch :
A. Tôn trọng không dịch: Như Bát Nhã, Bồ Ðề v.v…
B. Ða hàm không dịch: Như Bát Nhã, Tỳ Kheo v.v...
C. Thuận cổ không dịch : Như A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề .v.v...
D. Bí Mật không dịch : Như Chú ngữ.
E. Thử phương vô không dịch : Như Cây Diêm Phù Ðề, quả Am ma la .v.v...
Bát Nhã có ba nghĩa :
a. Bát Nhã văn tự : Tức là văn tự Kinh điển. Dùng văn tự để nói rõ đạo lý quán chiếu và thực tướng.
b. Quán chiếu Bát Nhã : Có văn tự Kinh điển rồi, phải quán sát phải chiếu rõ, mới thấu hiểu chân thật nghĩa.
c. Thật tướng Bát Nhã : Thấu hiểu chân lý rồi mới biết các pháp thật tướng, tức cũng là vô tướng, vô tướng vô sở bất tướng. Tóm lại, vì có văn tự nên khởi quán chiếu, có quán chiếu rồi mới chứng nhập thật tướng. Cho nên nói văn tự là công cụ, quán chiếu là thủ đoạn, thật tướng là mục đích. Cả ba hợp lại làm một thể.
Có bộ Kinh Ðại Bát Nhã, có sáu trăm quyển. Bộ Kinh nầy do Ðại Sư Ðường Huyền Trang mang từ Ấn Ðộ về. Ðại sư Huyền Trang vào lúc 59 tuổi thì bắt đầu phiên dịch bộ Kinh nầy, trải qua bốn năm mới dịch xong. Vào ngày 5 tháng 2 vào lúc nửa đêm Ðại Sư viên tịch thọ 63 tuổi, bộ Kinh nầy là bộ Kinh Ngài dịch cuối cùng. Ngài dịch khoảng 74 bộ, tổng cộng có 1335 quyển, trở thành một trong bốn nhà dịch Kinh lớn của Trung Quốc.
7. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn từ ? Từ là ban vui cho tất cả chúng sinh. Vì chúng sinh mà mưu phước lợi, tức là vô duyên đại từ. Chúng sinh chẳng có duyên cũng ban vui cho họ.
8. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn bi ? Là cứu những thống khổ của chúng sinh. Phải vì chúng sinh giải quyết khó khăn, tức là đồng thể đại bi, chẳng có kẻ oán người thân, xem như nhau. Phải có tư tưởng đồng cam cộng khổ với chúng sinh.
9. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn hỉ ? Thấy chúng sinh có được may mắn và vui vẻ thì sinh tâm hoan hỉ, chẳng có vui tai mừng họa, cũng chẳng có tâm đố kị, chỉ có tâm vui vẻ, đó mới là hành vi của Bồ Tát.
10. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn xả ? Xả bỏ từ, bi, hỉ, ba tâm, chẳng có tâm oán thân bình đẳng, cũng chẳng có tình cảm thương ghét. Tất cả đều chẳng chấp trước tướng, chẳng có tư tưởng xí đồ, do đó : ‘’Thi ân bất cầu báo‘’. Ðây đều là biểu hiện của xả.

Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Giác Ngộ Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
 
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên