Tiểu sử NI TRƯỞNG THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG.

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
Tham gia
12 Thg 7 2007
Bài viết
651
Điểm tương tác
579
Điểm
93
* TIỂU SỬ

Ni trưởng THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

1_4.jpg



- Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Ủy viên Thường trực Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên Huế.
- Trú trì chùa Hồng Ân - Huế.


I. THÂN THẾ VÀ THIẾU THỜI

Ni trưởng thế danh Hồ thị Hạnh, húy thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh, sinh năm 1905, là con gái út của quan Đông Các Đại học sĩ Hồ Đắc Trung và Bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Xuất thân từ một danh gia vọng tộc, gặp buổi giao thời giữa hai nền văn hóa cũ và mới, nên từ tấm bé Sư đã được hấp thụ một nền giáo dục dung hòa cả hai truyền thống Đông Tây. Thân phụ muốn cho du học ở Pháp, nhưng Sư không đi. Chí hướng của Sư là khôi phục truyền thống Á Đông và nâng cao tinh thần phụ nữ. Bản hoài cao rộng đó thật khó mà thực hiện nếu không thoát ly đời sống gia đình nhỏ hẹp, bởi thế Sư đã nhiều lần xin cha mẹ xuất gia. Nhưng vào thập niên 1920, ở Huế chưa có chùa Ni, chỉ có các bà lớn tuổi mới được vào chùa Tăng làm dì vải nấu bếp. Sư lại là con gái út của một vị đại thần đương thời, được nâng niu như cành vàng lá ngọc, cha mẹ không bao giờ cho phép. Trước trở ngại lớn lao đó, Sư đành ở nhà cho trọn hiếu, chờ dịp thuận tiện. Song thân mong Người yên bề gia thất, cứ khuyến khích tham dự các tiệc tùng, dạ hội, nhưng Người một mực nuôi chí xuất trần. Thế rồi năm 23 tuổi (1928), vì cảm từ tâm của song thân, Người phát bi nguyện độ sinh, bằng lòng kết duyên với cụ Cao Xuân Xang để nuôi đàn con dại bơ vơ vừa mất mẹ. Thời gian không lâu ông qua đời. Từ đây duyên trần nhẹ gánh, Người vừa nuôi đàn con côi, vừa làm Phật sự đắc lực.

II. XUẤT GIA
Năm 1932 (27) tuổi, Sư được Hòa thượng Giác Tiên trụ trì Tổ đình Trúc Lâm truyền thập giới làm Sa di ni với pháp tự Diệu Không, nhưng vẫn đễ tóc để làm Phật sự. Lúc bấy giờ, Sư thường xuyên giao dịch với người Pháp trong chính quyền Bảo hộ với tư cách đại diện hội An Nam Phật Học mà Sư là một sáng lập viên. Sau khi thọ thập giới 12 năm, vào mùa thu năm Giáp Thân (1944), Sư được thọ tam đàn cụ túc tại đại giới đàn Thuyền Tôn do Hòa thượng Giác Nhiên đệ nhị Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất làm đàn đầu.

III. CÔNG HẠNH

Sau khi thọ giới Sa-di-ni, Sư bán tư trang và vay mượn thêm để xây cất Ni viện đầu tiên cho nữ giới có chỗ tu học, đó là Ni viện Diệu Đức. Sư còn góp phần sáng lập và trùng tu nhiều chùa Ni và tịnh viện khác tại Thừa Thiên Huế như Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân, Kiều Đàm, Định Huệ, Đông Thuyền, Hồng Đức, Liên Trì, Liên Hoa; Bảo Thắng - Hội An, Bảo Quang – Đà Nẵng, Tịnh Nghiệm - Quảng Ngãi, Ni viện Diệu Quang – Nha Trang. Tại miền Nam, Sư là người góp công thành lập Ni trường đầu tiên ở Sa Đéc, Ni viện Từ Nghiêm, Dược Sư, Diệu Giác, Diệu Tràng, Diệu Pháp tại Hố Nai, Long Thành. Sư còn góp công rất nhiều trong việc xây dựng viện Đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam là Đại Học Vạn Hạnh, cùng với Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Minh Châu, Hòa thượng Nhất Hạnh và cư sĩ Ngô Trọng Anh … là những vị khai sáng đầu tiên. Ngoài ra, cơ sở Kiều Đàm tại đường Công Lý (ngày nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) cũng do Sư cổ động xây cất. Ngoài các cơ sở văn hóa và Chùa, Sư còn góp công đắc lực khai sáng cô nhi viện Tây Lộc Huế, và các cô nhi viện trên khắp thành thị thôn quê miền Trung từ 1964 trở đi. Năm 1952, Sư góp phần đắc lực trong việc sáng lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách Phật giáo và nguyệt san Liên Hoa, do Hòa thượng Đôn Hậu làm Chủ nhiệm, Hòa thượng Đức Tâm làm Chủ bút, Sư làm Quản lý và Biên tập viên, là tờ báo Phật giáo sống lâu nhất tại miền Trung. Ngoài công tác hộ trì chánh pháp và làm từ thiện xã hội, Sư còn dịch thuật trước tác và cộng tác với nhiều tạp chí Phật giáo như Viên Âm, Giác Ngộ, Từ Quang, Liên Hoa… Các bộ kinh luận quan trọng do Sư dịch gồm có Thành Duy-Thức-Luận, Du-Già Sư-Địa-Luận, Lăng-Già Tâm-Ấn, Di-Lặc Hạ Sinh kinh, Đại- Trí Độ-Luận, Trung-Quán-Luận Lược-Giải (của Long Thụ Bồ Tát), Hiện-Thật-Luận (của Thái Hư Đại sư) v.v… Ngoài ra, Sư còn sáng tác rất nhiều tập thơ văn khuyến tu và giáo dục phụ nữ, như câu chuyện đạo lý, v.v…

Mặc dù Phật sự đa đoan, Sư luôn luôn học hỏi, tham cứu kinh sách Đại Tiểu thừa, và thường nhập thất tham thiền tại chùa Khải Ân, núi Châu Ê. Tuy mang thân nữ, Sư gần như không có thói nhi nữ thường tình mà Phật thường thống trách. Nguyện của Sư là đời đời mang thân nữ để độ cho nữ giới và không cầu sinh Tịnh độ: “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi Ta Bà”. Có lẽ do hạnh nguyện ấy mà đến đâu Sư cũng được phụ nữ đoanh vây, già trẻ lớn bé đều yêu mến. Và cũng có lẽ nhờ Sư am hiểu nhân tình, tùy cơ giáo hóa, có biện tài vô ngại. Nhưng trên tất cả, chính nhờ tâm hồn Sư bao dung quảng đại, bình đẳng đối với người thân cũng như sơ, xa cũng như gần. Câu thơ Sư làm “lưới trời bao phủ một tình thương” đủ nói lên chính xác tâm hồn Sư vậy.

Mặc dù là vị hộ trì đắc lực cho chư Tăng tu học, mặc dù được đặc cách học chung với chư Tăng trong các lớp giảng đầu tiên tại Huế, Sư không vì vậy mà xao lãng Bát kỉnh pháp. Ngược lại, đối với chư Tăng Sư luôn luôn kính nể, dù là một vị Tỳ kheo tân thọ giới hay chỉ một chú tiểu, Sư cũng đối xử lễ độ và hết lòng nâng đỡ. Đối với Ni chúng, Sư là bạn của tất cả mọi người, ai gần Sư cũng kính mến như bậc Thầy do bởi bản tánh bình dị, uy nghi khả kính. Tính bình dị của Sư quả là một tấm gương cho Ni giới: xuất thân từ nơi phú quý, mà khi vào chùa, Sư đã sống một cuộc đời hoàn toàn buông xả, đối với bốn vật cần dùng là ẩm thực, y phục, sàng tòa và dược phẩm Sư không chú trọng, có gì tốt đẹp đều đem cúng dường bố thí. Trước khi ngọa bệnh, nơi thường trú của Sư tại chùa Hồng Ân chỉ là một gian nhà thấp u tối, nhưng Sư không hề quan tâm sửa chữa, vì tâm hồn Sư luôn luôn để vào những chương trình rộng lớn hộ trì Tam Bảo, phục vụ chúng sinh đương thời và mai hậu.

IV. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Năm 1978 sau một cơn bệnh Sư đã tắt thở, được chư Tăng vây quanh tiếp dẫn. Nhưng khi thời kinh hộ niệm chấm dứt, Sư cô Bảo Châu đau đớn khóc thét lên, Sư bèn giật mình tỉnh dậy vì bi nguyện độ sinh. Kể từ đấy, Sư thường dạy: “Khi đã thấy cảnh Tịnh độ rồi thì tôi xem cảnh đời này toàn là giả”. Có lẽ nhờ thấy giả mà Sư kham nhẫn được mọi sự. Gần 5 năm già yếu ngọa bệnh, Sư luôn luôn hoan hỷ với mọi người, đón nhận sự săn sóc chu đáo của tất cả các đệ tử, sự chữa trị tận tình của các bác sĩ Tây y như thầy Hải Ấn, Bác sĩ Lê Văn Bách, và quý vị bác sĩ, y tá Bệnh viện Trung ương Huế; Đông y như Sư Tuệ Tâm và quý vị Y Bác sĩ tại Tuệ Tĩnh Đường Diệu Đế v.v…

Mặc dù già bệnh, tinh thần Sư luôn minh mẫn cho đến giây phút cuối, mỗi khi ai có việc quan trọng đến thỉnh ý, Sư đều dạy những lời khuyên hết sức sáng suốt. Cách 2 tháng trước khi qua đời, Sư còn phát tâm cúng dường cơ sở Hồng Đức cho Giáo hội để sử dụng trong việc đào tạo Tăng tài.

Như một trái cây chín mùi, như đi cuộc hành trình đã đến đích, Sư an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 2 giờ khuya ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu tức 23 tháng 9 năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp.


Trích KỶ YẾU

TANG LỄ NI TRƯỞNG THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên