Tịnh Độ A Di Đà Tông ( Theo trạch pháp nhãn của Bốn Tuần)

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Thường Tịch, Thật Báo Trang Nghiêm độ;
Phương Tiện Hữu Dư, Phàm Thánh đồng.
Tín - Nguyện đầy đủ, siêu Tam Giới;
10 Niệm lâm chung, Phật lai nghinh.

Chân thật, bất hư, bất tư nghì;
Thập Địa trở xuống còn lờ mờ.
Chúng sanh, phàm phu chớ nghi hoặc;
Tin Phật, tin mình, quyết định sinh !


<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/01/tay-phuong-cuc-lac.jpg" alt="tay-phuong-cuc-lac.jpg" width="600" height="500" border="0" />
<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/01/thanhchungtiepdanvangsanh1.jpg" alt="thanhchungtiepdanvangsanh1.jpg" width= "600" height="600" border="0">​
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT.

NAM MÔ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG, 9 PHẨM 4 CÕI, TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC A DI ĐÀ PHẬT !


<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/TZJ-DrCyoqw" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>​

Lưu ý: Chủ để này không dùng để bàn luận !
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Giáo có thông, Tông mới thịnh;
Một sợi chỉ đỏ xuyên suốt ngàn năm.
Tín - Nguyện - Hành, Tịnh thân tâm;
Vãng sanh Cực Lạc, chắc phần tự do !



TỨ TỔ TỊNH ĐỘ A DI ĐÀ TÔNG

<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/02/ThienDao.jpg" alt="ThienDao.jpg" width="450" height="450" border="0">

Sơ Tổ Thiện Đạo Đại sư.
(613-681 SCN)




<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/02/PhapNhienNguyenKhong.jpg" alt="PhapNhienNguyenKhong.jpg" width="450" height="450" border="0">

Nhị Tổ Pháp Nhiên Nguyên Không.
(1133-1212)




<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/02/ChauHoangLienTri.jpg" alt="ChauHoangLienTri.jpg" width="450" height="450" border="0">

Tam Tổ Liên Trì Châu Hoằng.
(1532-1612)




<img src="http://www.upsieutoc.com/images/2016/09/02/NguIchTriHuc.jpg" alt="NguIchTriHuc.jpg" width="450" height="450" border="0">

Tứ Tổ Ngẫu Ích Trí Húc.
(1599-1655)


Nay y cứ Kinh, Luận, Luật, Hạnh, Chứng, Giáo, Thời mà giả lập xếp thứ vị chư Tổ Tịnh Độ A Di Đà Tông.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Ba Kinh, một Luận Tịnh Độ Tông;
Hết thảy giáo nghĩa đều viên thông.
Siêu việt suy lường, lòng chư Phật,
Nương tựa, tin vào, chớ mông lung !

Hết thảy Kinh khác đều chẳng y,
Duy chỉ y chỉ những Kinh gì ?
Di Đà, Vô Lượng, Quán Vô Lượng.
Tam Kinh, Tam Bảo, Tam Ấn ghi !


10 PHƯƠNG BA ĐỜI TẤT CẢ CHƯ PHẬT CHỨNG MINH BA KINH NÀY.
10 PHƯƠNG BA ĐỜI TẤT CẢ CHƯ PHẬT HỘ TRÌ BA KINH NÀY.
10 PHƯƠNG BA ĐỜI HẾT THẢY CHƯ PHẬT NƯƠNG GIÁO NGHĨA BA KINH NÀY MÀ ĐỘ TẬN TẤT CẢ CHÚNG SANH !

Tịnh Độ A Di Đà Tông, lấy Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác làm gốc, lấy Kinh Phật thuyết A Di Đà làm thân, lấy Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật làm hoa, lấy Luận Vãng Sinh Tịnh Độ làm lá !

1. Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. [ Link sách (Hán); (Việt).]

2. Kinh Phật thuyết A Di Đà. [ Link sách (Hán); (Việt).]

3. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. [ Link sách (Hán); (Việt).]

4. Luận Vãng Sinh Tịnh Độ (Ngài Thế Thân). [ Link sách (Hán); (Việt).]



Trước tác của chư Tổ Tịnh Độ về Ba Kinh:

1. Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ - Tổ Thiện Đạo. [ Link sách: (Hán);(Việt) ]

2. Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật tập - Tổ Pháp Nhiên. [ Link sách: (Hán);(Việt) ]

3. Kinh A Di Đà Sớ Sao - Tổ Liên Trì. [ Link sách: (Hán);(Việt) ]

4. Kinh A Di Đà Yếu Giải
- Tổ Ngẫu Ích.
[ Link sách: (Hán);(Việt) ]



Hết thảy lời dạy của bất cứ ai đều chẳng y cứ nếu:

1. Trái nghĩa 3 Kinh, 1 Luận.

2. Trái bổn ý xuất thế của hai Phật Thích Ca, Di Đà.

3. Trái bổn nguyện độ tận chúng sinh của hai Phật Thích Ca, Di Đà.

4. Trái nghĩa 4 Trước tác của chư Tổ Tịnh Độ A Di Đà Tông.

5. Trái lời giáo huấn phương tiện của chư Tổ.

6. Phá hoại tín tâm của chính mình.

7. Phá hoại bổn nguyện vãng sinh của chính mình.

8. Phá hoại chánh hạnh niệm Phật vãng sanh của chính mình.

9. Khiến giải đãi, tham đắm cõi Ta Bà.

10. Khiến lo lắng, nghi ngờ cõi Cực Lạc.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Khoan Tịnh Pháp Sư - Cực Lạc Du Lãm Ký (trích)

Kiếp trước vãng sanh đã được duyên,
Vì muốn cứu đời, độ cửu huyền.
Cho nên nay phải hoàn tâm nguyện,
Sau sẽ đồng về Cửu phẩm liên.

Sau khi nghe kệ của Phật A Di Đà, toàn thân tôi rung động, liền nhớ lại tình cảnh sắp vãng sanh đời trước như hiện trước mắt, tự nhiên im lặng không nói lời chi được.

Đức A Di Đà bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: " Ông mau đem Sa môn này đi tham quan các nơi !"

Tôi đảnh lễ tạ ân Phật rồi cùng Bồ Tát bước lui ra.

Tòa đại điện kim bích huy hoàng nơi Phật ngự, rộng lớn không gì so sánh được, có đến mấy muôn vạn Bồ Tát: hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc ở trong hay ngoài điện. Toàn thể chư vị đều thân kim sắc đẹp sáng, chiều cao so với Phật chỉ kém một chút.

Do sự giới thiệu của đức Quán Thế Âm, tôi được biết nhiều vị Bồ Tát như: Đại Thế Chí, Mạn Thù, Phổ Hiền, Thường Tin Tấn, Vô Tấn Ý, Bảo Đàn Hoa...

Đức Quán Thế Âm lại bảo: " Như thế cũng đã tạm đủ, hiện thời ta lần lượt đưa ngươi đi thăm quan từ Hạ Phẩm qua Trung Phẩm rồi đến Thượng Phẩm.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ.
[ Hạ Phẩm: Hạ sanh, Trung sanh, Thượng sanh. ]

Tôi tiến bước theo chân Bồ Tát, bỗng phát giác thân mình lần lần thu nhỏ lại, tôi lấy làm lạ liền hỏi Đức Quán Thế Âm:

- Tại sao thân con lần lần rút nhỏ lại thế ?

Ngài đáp:

- Nơi cõi Cực Lạc, chúng sanh thuộc các phẩm, nhân vì cảnh giới không đồng, nên chiều cao thấp lớn nhỏ có sai khác. Hàng thiện nhân ở Thượng phẩm cao lớn hơn Trung phẩm, nhưng so với Hạ phẩm lại cao lớn hơn. Như thân chư Thiên nơi cõi Trời, tầng thấp kém hơn tầng cao, các Thiên giới càng cao, thân lượng lại càng vượt hơn gấp bội. Hiện tại chúng ta đang đi từ Thượng phẩm đến Hạ Phẩm, nên thân thể phải lần sút giảm cho đồng cao độ với chúng sanh phẩm đó.

Vừa đi vừa nói, bất giác đã tới Hạ phẩm Liên trì. Nhìn kỹ, tôi thấy mặt đất nơi đây đều do kim quý pha bảo chất tạo thành, nên vừa phát ánh sáng, vừa trong suốt. Đi thêm quãng đường nữa, trước mắt hiện ra một quảng trường rộng lớn, có nhiều nữ nhân đang dạo chơi. Đây là những nữ hài tử độ mười ba, đầu kết hai búi tóc, cài các thứ hoa tím, đỏ, vàng trắng, thân mặc quần sắc hồng đào, áo màu thanh đạm, lưng thắt đai vàng. Tất cả đồng một loại trang phục, dung nhan đều tươi đẹp khác thường !

Lòng tôi nảy một mối nghi ngờ hỏi Bồ Tát: " Theo trong Kinh, ở thế giới Cực Lạc không có nam nữ phân biệt, tại sao nơi đây lại hiển hiện nhiều nữ hài tử ?"

Ngài đáp:

- Đúng như thế, ở đây không phân tướng nam nữ; ngươi hãy tự nhìn kỹ lại, xem mình như thế nào ?

Bị Bồ Tát cảnh giác, tôi kinh lạ chợt phát hiện ra mình cũng biến thành thân nữ hài mười ba tuổi, trang phục đồng một dạng thức như các nữ chúng kia.

Tôi tiếp tục hỏi với giọng đầy kinh ngạc:

- Tại sao lại như thế này ?

Đức Quán Thế Âm lộ vẻ Từ Bi mỉm cười bảo:

- Nơi đây có một vị Bồ Tát chủ trì, muốn biến nam thì toàn chúng đều hóa thành nam, muốn biến nữ thì toàn thể đều hóa thành nữ. Kỳ thực, chẳng luận biến nam hay nữ, khi đã hóa sanh trong hoa sen, tức không còn thân huyết nhục; thể chất đều là ngọc báu trong suốt, bên ngoài chỉ có tướng người, thật ra không phân nam nữ.

Tôi quan sát lại thân thể mình, quả đúng như lời Bồ Tát nói, không thấy da thịt xương gân tủy não, chỉ là chất ngọc thủy tinh trong trắng. Tôi hỏi Bồ Tát:

- Tại sao chúng hữu tình sanh đến đây, đều đồng tướng trạng, tuổi tác như thế ?

Ngài đáp:

- Đó là bởi Phật tánh bình đẳng, do nguyện lực của Đức A Di Đà, nên người nào đã sanh về nơi đây, đều được đãi ngộ như nhau. Cũng như ở nhân gian, trai hay gái khi mới sinh đều đồng một dạng, không mấy sai khác.

- Nợi Hạ phẩm, mỗi ngày sáu thời, có một thời được nghe diễn giảng do một vị Đại Bồ Tát chủ trì. Đến lúc giảng Kinh, khi tiếng chuông reo vang, chúng thiện nhân ở trong lầu các nơi hoa sen đều một loạt biến thành nam hay nữ hài tử, đồng một trang phục xanh, vàng, đỏ hoặc trắng như nhau, cùng vân tập hội họp đến nghe pháp âm. Chúng sanh đó ban ngày thì ra khỏi lầu các du ngoạn, khiêu vũ, ca hát, hoặc ngồi thiền, niệm Phật, tụng Kinh... Đến thời yên nghỉ, tất cả đều trở về hoa sen riêng của mình. Có người không nghỉ ngơi lại tiếp tục tu trì. Ở đây khi hoa nở, chim kêu là ban ngày; hoa khép, chim yên là ban đêm. Ngoài ra, cảnh trí đều luôn luôn sáng suốt huy hoàng, không có ngày đêm phân biệt.

- Bây giờ ta đưa ngươi đến quảng đường gần nơi điện và ao báu để được thêm phần nhận thức.

Tôi vâng lời, theo Bồ Tát đến cửa một đại điện trong vùng kim địa thật rộng rãi, có lan can đẹp bao quanh giáp vòng. Lúc đầu chỉ thấy độ mấy mươi nữ hài, trong giây phút lần lượt kéo đến cả hàng trăm ngàn muôn vị đồng sắc phục, vân tập đầy chật trong đại điện như để cho tôi chiêm quan được rõ ràng hơn. Đối với họ thì đây là việc rất dễ, nhưng ở nhân thế, muốn tập trung số người đông đảo như vậy, tất phải khó khăn, mất nhiều thời gian.

Xem khắp nơi xong, tôi lại được đưa đến một ao báo rộng lớn như biển, nước ở đây trong sáng dường như vô hình, nhiệm mầu khó tả, không giống chất nước ở Ta Bà.

Ngài Quán Thế Âm bảo:


- Ngươi nên xuống tắm gội qua giây phút.

Tôi thưa:

- Như thế y phục bị ướt hết ?

Ngài đáp:

- Không ướt, vì là ma ni bảo thủy !

Tôi vâng lời bước xuống tắm với vẻ rụt rè e ngại, nhưng quả nhiên y phục chẳng ướt. Điều rất lạ là, tôi vốn không biết bơi, sợ mình bị chìm xuống đáy ao, nào ngờ khi đã xuống: muốn thân thể chìm, nổi, qua lại đều tùy ý; lúc ngồi yên, muốn nước dâng đến đâu, cũng tùy theo tâm niệm mà nước lên tới đó, thật đúng là như ý thủy. Tôi thử uống một hớp, cảm thấy rất thơm mát ngon ngọt, lòng thích thú liền uống no. Càng uống càng thấy tinh thần tươi khỏe, toàn thân phơi phới nhẹ nhàng như muốn bay bổng lên. Thật quả là nước bát công đức.

Tôi thử sờ vào y phục, rất lạ, không có điểm nào bị thâm ướt. Đang lúc tôi lướt nhẹ trong nước đến giữa ao, thấy rõ có nhiều hoa sen to đẹp nở tươi sáng rỡ, mỗi đài hoa đều có người ngồi kiết già niệm Phật. Hoa sen Hạ phẩm nơi cõi Cực Lạc, không đồng với hoa sen ở nhân gian, mà đường kính rộng lớn từ một dặm đến ba dặm. Trên đài hoa có lầu các cao ba bốn tầng, toàn thể hoa và lầu đều tuôn ra các thứ ánh sáng tùy theo màu sáng của hoa sen. Như: hoa xanh thì anh sáng xanh, hoa vàng thì ánh sáng vàng...Chúng sanh ở lầu các nơi đài sen, nếu khởi các thứ vọng tưởng thì hoa trở nên ảm đạm không sáng suốt; trái lại như quả không vọng tưởng, trong tâm thanh tịnh thì toàn thể đều phát ra tia sáng chói rực huy hoàng.

Đức Quán Thế Âm bảo: " Chúng hữu tình vì nhiều kiếp tạo các nghiệp không đồng, nên sau khi đới nghiệp vãng sanh, sự phản ảnh của vọng nghiệp cũng sai khác. Phẩm Hạ chia thành ba bậc: Hạ phẩm Hạ sanh, hạ phẩm Trung sanh, hạ phẩm Thượng sanh; tùy theo sức nghiệp nặng nhẹ của loài hàm linh nơi này - phần lớn là nghiệp ân ái và tham luyến lợi lộc quyền danh - mà biến hiện các cảnh giới khác nhau. Khi sức nghiệp đó phản ảnh ra, cảnh giới giống như người đời nằm mộng. Nay ta đưa ngươi đi xem vài trường hợp như đã nói."
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Tôi theo Bồ Tát qua vài đoạn đường quanh, liền thấy một hoa sen màu sắc ảm đạm. Lần bước tới gần, trên đài, lộ hiện ra lầu cao nhà rộng, phòng ốc tráng lệ sang trọng như Hoàng cung, vườn hoa xung quanh mười phần tươi đẹp. Trong nhà, các trân bảo và cổ vật đều có giá trị liên thành, cách bài trí phi thường trang nhã. Trong nhà già trẻ trai gái độ vài mươi vị, y trang đồng với cõi người, rất là sang đẹp. Gia nhân ra vào náo nhiệt, dường như đang sắp bày yến tiệc vui.

Tôi hỏi đức Quán Thế Âm:

- Tại sao ở cõi Cực Lạc lại có hình thức sinh hoạt của gia đình nhân gian ?

Ngài đáp:

- Đương sự đây tuy lúc lâm chung mười phần thanh tịnh, được đới nghiệp vãng sanh, song vọng niệm tích chưa còn nhiều, tâm tham luyến hồng trần chưa dứt. Vài người trong nhà đó đều là cha mẹ, huynh đệ, thê thiếp, dâu con cho đến thân thích. Mỗi ngày khi chúng sanh này về tới lầu các trong hoa sen để yên nghỉ, thường vọng tưởng đến những nhân vật đó, nên huyễn cảnh lại hiện ra.

- Ở Cực Lạc chẳng có sự khổ "cầu không như ý"; nên khi tưởng tới cha mẹ, thê nhi, lầu đài cho đến sơn hào hải vị, thì những ảnh tượng đó liền xuất hiện. Cũng như người ở Ta Bà khi nằm mộng thì buồn vui đủ cả, lúc tỉnh ra mọi việc thảy hoàn không.

- Thật ra người vãng sanh đến chốn này, vọng tưởng còn nhiều hơn nhân gian, bởi nơi đây cách xa Ta Bà, duyên cũ mong gì tái ngộ; nhưng cõi Cực Lạc có sức mầu nhiệm, tưởng gì đều được thỏa nguyện, thọ dụng không cùng. Cõi Tịnh Độ thuộc về Chân không như ý bảo chất, do nguyện lực phước đức của Phật, từ nơi không hiện ra sắc đầy khắp mọi nơi. Cõi Trời thuộc về thần chất, nhưng sức thần còn hữu hạn, kẻ chứng ngũ thông đôi khi sở cầu cũng chẳng toại ý. Cõi người thuộc về vật chất, bị ngăn cách nhiều lớp, sở cầu khó thực hiện.

Tôi lại hỏi:

- Vọng cảnh với thanh tịnh thật cảnh của Phật khác nhau thế nào ?

Bồ Tát khai thị:

- Thật cảnh thuộc về thường trú, hằng lặng lẽ chiếu sáng khắp nơi. Vọng cảnh vô thường, huyễn hóa tùy duyên dữ lành thay đổi.

- Chúng sanh Ta Bà đem hết tinh lực một đời tranh danh đoạt lợi, chỉ nghĩ mình sống, mặc cho người chết, không kể thiện ác. Họ đâu biết khi thọ số mãn, theo nghiệp luân hồi sa đọa, chịu khổ vô hạn, kể nói sao cùng !

- Cho nên muốn được thoát ly, phải sớm giác ngộ.

- Chủ nhân của của cảnh tượng này cũng là người đồng hương của ngươi, ngươi nên vào nơi đó xem thử !

Tôi y lời dạy, bước vào tòa lầu các, liền thấy ngay nhiều bàn đầy những sơn hảo hải vị, độ sáu bảy mươi thực khách đang ngồi dự đại yến, ăn to uống lớn, nói chuyện ồn ào. Chủ nhân là một lão trượng, tuổi ngoài bảy mươi, có khí phách tay đại phú hào. Ông thấy tôi vào, liền bước ra chào hỏi:

- Quý khách từ phương nào đến ?

Tôi dùng tiếng bản xứ đáp:

- Đệ tử người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến đến.

Nghe tôi nói, chủ nhân nhận là người đồng hương, mặt đầy vẻ hoan hỷ, vội gật đầu đưa tay mời:

- Tốt lắm, rất hân hạnh ! Xin mời ngồi dự tiệc !

Tôi hỏi tiếp:

- Ngài có hỷ sự gì, mà bày đại yến hội như thế ?

Ông cười hỏi lại:

- Quý khách có duyên gì, lại đến trùng hợp vào lúc này ?

Tôi chỉ ra ngoài cửa đáp:

- Bồ Tát Quán Thế Âm đưa tôi đến đây để tham quan.

Chủ nhân vừa nghe câu đó, toàn thân liền rung động, mặt lộ vẻ hổ thẹn. Cảnh náo nhiệt trước mắt, như tòa đại hạ cùng thực khách đột nhiên ẩn mất. Lão nhân bỗng biến thành nam hài tử mười ba tuổi, thân thể lưu ly trong suốt, ngồi trên hoa sen, mười phần tươi đẹp. Tình huống này như Đức Quán Âm vừa nói: " Đều do vọng tưởng mà sanh, vọng tưởng diệt cảnh cũng diệt theo".

Sau đó nam hài tử lại nói:

- Kiếp trước ở Ta Bà, tôi là một đại phú thương thuộc hàng vọng tộc, người huyện Bồ Điền, tỉnh Phước Kiến, cư ngụ tại Hàm Giang, Đa Đầu thôn, tên Lâm Nhất Đạo. Khi lâm chung được Thiện trí thức khuyên nhắc, nên tôi nhiếp tâm trong mười niệm mà được vãng sanh.

- Điều đáng thẹn là vọng nghiệp cùng niệm ân ái của tôi còn quá nhiều, nên mới hiện ra huyễn cảnh đó. Quán Thế Âm Bồ Tát từng điểm danh nhắc nhở hai lần, bảo tôi phải sửa đổi, bây giờ bệnh cũ lại tái phát, dứt bỏ chưa xong.

Trò chuyện giây lát rồi từ biệt, tôi tiếp tục theo Bồ Tát thăm quan, tôi hỏi Ngài:

- Tại sao trong ao báu lại có hoa sen khô, tươi, suy, thạnh như thế ?

Bồ Tát đáp:

- Các đóa hoa suy khô là những người ở Ta Bà, ban sơ phát lòng thành tín, siêng năng niệm Phật, gieo nhân sen lành, nên khiến trong Ao Thất Bảo hóa sanh hoa sen lần lần to lớn, tròn tươi sáng đẹp. Nhưng các chúng sanh đó chỉ tinh tấn được một thời gian, rồi công phu lần hồi biếng trễ. Khi lòng tin không còn bền vững, thì chẳng những sự niệm Phật lơ là bỏ phế, mà có khi còn tạo nhiều điều ác nữa; do đó hoa sen dần dần khô héo, cọng sen gãy đổ rồi biến mất.

- Phải biết chí tâm niệm Phật tuy sanh vô lượng phước lành, song chí tâm làm ác cũng sanh vô lượng tội chướng. Niệm Phật rồi tạo tội, đem công trừ tội, tất phước cũng không còn !

- Nếu kẻ niệm Phật lỡ tạo tội nghiệp, biết ăn năn sám hối quay đầu hướng thiện, thề không dám tái phạm, phát lòng tinh tấn niệm Phật như xưa, thì tội chướng dần tiêu, phước huệ dần lớn, trong ao bát công đức, hoa sen lại đâm chồi nở cánh tốt tươi, cuối cùng vẫn được đới nghiệp vãng sanh, tiến lên quả Vô thượng Bồ Đề, không còn thoái chuyển.

- Lại nữa, có kẻ miệng tuy niệm Phật, song trong lòng còn ô nhiễm đắm sắc tham tài, đôi khi nảy sinh tâm ganh tị, giận hờn tranh chấp, thầm lén hại người. Kẻ ấy dù còn chút công đức, song bị các chướng nghiệp đó, không được vãng sanh Tịnh Độ, chỉ gieo nhân sen đắc độ về sau mà thôi !

- Cho nên, tất cả thế gian, bất luận giàu nghèo sang hèn, trí ngu lành dữ, già trẻ gái trai; nếu biến phát lòng tín thành, dứt dữ làm lành, trai giới niệm Phật, trong ngoài như một, giữ công tu bền lâu suốt đời, tất hoa sen nơi cõi tịnh hóa hiện lớn đẹp sáng tươi, khi lâm chung sẽ được tiếp dẫn về Cực Lạc.

- Nếu như chí nguyện không bền, lúc trễ lúc siêng, hoa báu tuy phát sanh, song chẳng thể lớn mạnh tốt đẹp; lại còn làm ác thì hoa sen phải héo tàn, đã không được vãng sanh, mà còn bị đọa luân hồi nữa !
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Vừa lúc ấy, bỗng có tiếng hồng chung trầm bổng rền vang. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bảo:

- Giờ thuyết pháp đã đến !

Khi đó, thấy hàng ngàn muôn nam hài kéo đến như dòng nước chảy, các nam hài tuổi độ mười ba, đồng y phục sắc hồng đào, thắt lưng đai vàng, đầu kết hai búi tóc, toàn thân đều là chất bạch ngọc trong suốt, trang phục thống nhất, hàng ngũ chỉnh tề. Đại chúng đều tụ họp dưới một Liên đài cực to, sau khi cùng nhau làm lễ, lại chắp tay đồng thanh niệm Phật.

Bấy giờ Thiên nhạc trổi lên, dìu dắt thanh tao. Trên hư không, các thứ trân cầm bay đến, đậu nơi những hàng cây báu, chớp cánh múa ca, cùng hòa thanh niệm Phật. Tiếp theo, xuất hiện một vị Bồ Tát thân như tòa núi vàng, phóng ra muôn ngàn ánh quang minh mầu khác lạ, hiện ra ngồi nơi hoa sen. Cảnh tượng thật mầu nhiệm, trang nghiêm cùng cực. !

Đức Quán Thế Âm giới thiệu:

- Đây là Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát, hôm nay tới phiên Ngài trực ban, thuyết pháp. Ngươi mau tới đảnh lễ Ngài và mười phương Phật Thánh.

Tôi vâng lời đến quy lễ, vừa xong thì trên Trời rơi xuống như mưa nhiều loại hoa màu sắc tươi đẹp, cùng các báu vật lạ. Kế lại khắp hư không muôn ức quang sắc túa ra như điện chớp, xoay vần thành những tướng như đài mây, lầu các, bảo cái, tràng phan trông vô cùng đẹp mắt.

Nơi khu vực Hạ Phẩm, có ngôi điện đường tên gọi Ngữ Ngôn Đà Ra Ni, do thần lực chư Thánh và sức linh thông của tòa nhà này, mỗi khi Bồ Tát thuyết pháp, chỉ dùng một ngữ âm mà chúng sanh ở thế giới nào, cõi nào, xứ nào, tỉnh nào...đều nghe thành tiếng của nơi mình đã ở và đều hiểu được rõ ràng thông suốt. Dù loài hữu tình ở thế giới Ta Bà, Diệu Hỷ hay Tu Ha...; thuộc cõi Trời, người hay Atula...

Ở đây còn có một tòa báu tháp cao rất nhiều tầng tên gọi là Tịnh Quán Tháp. Chúng sanh nơi đây khi muốn lên hay xuống tầng thứ mấy của tháp, vừa khởi niệm liền được lên xuống, chẳng phải cần dùng thang máy như cõi nhân gian ở Ta Bà. Tịnh Quán Tháp chẳng những cao mà còn rộng lớn phi thường, trong đây ảnh hiện ra cảnh mười phương thế giới. Nếu muốn nhìn quả Địa cầu, Mặt trời hay Mặt trăng nơi cõi Ta Bà thì toàn thể cảnh ấy đều hiện ra, Địa cầu cùng Mặt trời chỉ to bằng hạt cát. Nhưng nếu muốn nhìn cho kỹ, cảnh ấy liền mở rộng tùy ý mình, cho đến có thể thấy rõ Châu Á, Châu Mỹ, tỉnh Vân Nam, Vạn Lý Trường Thành...thậm chí là ngôi nhà xưa mình đã ở, các cảnh ấy liền khuếch trương hiện rõ ràng trước mắt. Tịnh Quán Tháp giống như làm một tổng đài quan sát cảnh vật của toàn thể vũ trụ.

Các vị được vãng sanh Hạ Phẩm Trung Sanh là những người bình thời ở Ta Bà, vừa niệm Phật, vừa tập hạnh lành, gieo nhân phước huệ.

Các vị được vãng sanh Hạ Phẩm Thượng Sanh là những người kiếp trước công hạnh tiến vượt một tầng nữa: hoặc giữ thêm Ngũ giới, Bát quan trai giới, gắng sức bố thí làm lành, siêng tu nghiêm cẩn. Thân thể và cảnh giới của hai phẩm Trung, Thượng đều cao đẹp hơn phẩm Hạ Hạ.

Sau khi thăm quan lướt qua các vùng ấy, Đức Quán Thế Âm bảo:

- Thời gian hữu hạn, bây giờ ta đưa ngươi đi du lãm hoa sen ở Bảo trì thuộc Trung Phẩm !
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ.
[ Trung Phẩm: Hạ sanh, Trung sanh, Thượng sanh. ]

Tôi theo Bồ Tát rời khỏi khu vực này, lại tiếp tục trì chú. Hoa sen liền hiện ra đỡ chân tôi bay vút lên hư không, vượt đi như chớp. Chỉ thấy vô số lầu các, chóp tháp lướt qua bên mình rồi lui nhanh ra sau. Lúc ấy, tôi chợt cảm biết thân thể dần dần cao lớn thêm ra.

Đài sen của bậc Trung Phẩm to rộng độ bảy tám trăm dặm, như một tỉnh của Trung Quốc, nên sắc thân những vị ở đây cũng phải tương xứng. Hoa sen đã như thế, thì lầu các và phòng xá tất nhiên cũng cao rộng, mới có thể dung nạp chư vị nơi đây.

Đức Quán Thế Âm bảo:

- Bậc sinh về Trung Phẩm, phần lớn là hàng Phàm Thánh Đồng Cư, đủ cả bốn chúng, có chư Tăng Ni xuất gia cùng các nam nữ Phật tử tại gia ở Ta Bà. Người đã sanh về đây, sánh với người Hạ Phẩm lại cao hơn một bậc.

- Những vị này đời trước đều có ý niệm thoát sinh ba cõi, nên khi ở nơi uế độ luôn siêng cần tu tập. Ngoài điểm tự tu lại còn tích cực làm Phật sự như: xây cất chùa am, ấn tống Kinh điển, giảng giải Phật Pháp, bố thí làm lành, cúng dường trai giới....Bên trong lại giữ lòng từ, nhẫn, trung thứ; dứt niệm tật đố, tham sân. Do đó, khi lâm chung được Tây Phương Tam Thánh tiếp dẫn sanh về đài sen Trung Phẩm.

- Nhưng sự tu trì của các vị ấy có sâu cạn khác nhau, nên Trung Phẩm có ba bậc là : Thượng, Trung, Hạ.

Vừa đi vừa nghe lời chỉ dạy, giây phút đã tới một đại bảo điện. Tôi vào trong tham quan, đảnh lễ chư vị Bồ Tát. Sau đó, đức Quán Thế Âm liền đưa tôi đi đến một ao báu rộng lớn, hoa sen nơi đây so với Hạ Phẩm Liên trì lại tươi đẹp trang nghiêm gấp bội. Ao báu và lan can bao vòng xung quanh đều do thất bảo tạo thành. Hoa sen trong ao, làn nét xinh đẹp tuyệt vời, phóng ra nhiều quang sắc giao chiếu lẫn nhau. Cảnh trí thật huy hoàng diễm lệ, khó nỗi hình dung.

Điểm hay lạ là hoa tòa có nhiều tầng cánh, giữa mỗi lớp tầng cánh đều có đình đài, bảo tháp, lầu các, phóng ra vô số tia sáng màu sắc khác nhau, khiến cho người ngắm nhìn phải rung động. Chư vị ngồi trên đài hoa, thân sắc lẫn màu hoàng kim hồng đào sáng đẹp trong suốt, lại phóng ra ánh sáng. Phục sức của chư vị nơi đây đồng một dạng thức, tuổi đều độ trên dưới hai mươi, không có người già cùng kẻ hài tử.

Tôi nhìn lại chính mình, không biết đã biến dạng và tỏa ánh sáng giống như chư vị nơi đây từ lúc nào, duy đức Quán Thế Âm vẫn còn giữ nguyên tướng cũ. Tôi lấy làm lạ hỏi, Bồ Tát liền giải đáp:

- Tất cả đều do thần thông nguyện lực của đức A Di Đà khiến cho như thế. Phật phóng ra vô lượng quang minh chiếu đến nơi đây, nên mọi vật đồng phản ánh tỏa sáng nhiều màu. Sự biến thể cùng trang phục của ngươi cũng vậy, trừ phi tự mình có sức thần thông hóa ra các tướng khác. Nếu không thì tất cả đều thống nhất.

Bồ Tát lại bảo:

- Chín phẩm hoa sen, mỗi phẩm từ thấp lần lượt đến cao, Hạ phẩm tu thành công lại tiến lên Trung Phẩm. Trung Phẩm hoàn mãn thì sanh lên Thượng Phẩm, cũng giống như người tu môn Thế Gian Thiền, từ ngôi vị đáo định dẫn đến Sơ thiền, Nhị thiền; rồi từ Nhị thiền tiến vào Tam Thiền, Tứ Thiền. Tình hình diễn tiến của cửu phẩm Liên đài, lý cũng như thế.


Tôi đang lắng nghe ngắm nhìn xung quanh thì bỗng thấy từ hư không hiện ra nhiều nữ tử, mặc vân y xanh biếc, tay áo dài phơi phới, bay xuống xuyên tường báu vượt qua đại điện như đi trong không khí chẳng bị trở ngại. Tôi ngạc nhiên thưa hỏi, Đức Quán Thế Âm đáp:

- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Phật A Di Đà hình thành, tánh thể chẳng phải là vật chất, nên không trở ngại. Vì thế chẳng luận là đình đài, lầu các, cung điện, bảo tháp, hoa quả, cây cối đều thông suốt, đều có thể tự do vượt qua. Không tin ngươi hãy thử xem !

Tôi vâng lời, rảo bước đến mấy chỗ như: bức tường bao quanh đại điện, các cột trụ to, lan can...vỗ mạnh vào rồi rút tay ra, đi xuyên qua, lùi mình lại, quả nhiên không thấy ngăn ngại. Duy một điểm hơi khác là khi xúc chạm đến, dường như có thể trạng vật chất, nhưng chỉ có điều là không trở ngại mà thôi; hiện tượng này giống như lúc khua tay vào nước, quả thật có cảm giác chạm đến vật thể, song tùy ý vẫn dễ dàng đưa tay qua lại, khuấy xuống cạn sâu như thường.

Sau đó, Bồ Tát bảo tôi nối bước theo Ngài đi xem hai nơi kỳ quan là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Giới Triển Lãm Quán.

 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Bậc vãng sanh về Trung Phẩm Hạ Sanh: hoặc không vọng tâm, hoặc chỉ có vọng niệm chút ít. Dáng bề ngoài của những vị này đều ở tuổi từ mười sáu đến hai mươi, y phục đồng màu, không phân nam nữ. Hoạt động của những vị này đều là tập thể, như buổi sớm cùng nhau đem hoa và các thứ báu lạ cúng dường chư Phật mười phương.

Hoa sen ở đây tầng cánh nhiều hơn phẩm dưới, vẻ mầu cũng đẹp hơn, có đủ các sắc đơn hoặc tạp, tùy màu nào phóng ánh sáng sắc ấy. Nơi đây lại có Bát Đại Cảnh Sơn tiêu biểu cho tám thức: Nhãn (mắt), Nhĩ (tai), Tỷ (mũi), Thiệt (lưỡi), Thân, Ý, Mạt Na và A Lại Da. Đức Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là muốn cho chúng hữu tình khi sanh về đây, đem toàn bộ tám thức căn của mình tu luyện đến mức sạch không.

Cảnh thứ nhất gọi là Quan Minh Cảnh Sơn, đại biểu cho Nhãn thức. Lên núi này, có thể dùng mắt thấy rõ tất cả cảnh trong mười phương thế giới. Chẳng hạn muốn thấy hình thể và tình trạng đời này cùng đời trước của một chúng sanh nào ở cõi Ta Bà, tất sẽ thấy biết, cho đến tình hình nơi cõi Phật đó cũng nhìn trông thấu suốt.

Cảnh thứ hai gọi là Thanh Văn Cảnh Sơn, đại biểu cho Nhĩ thức. Đến núi này, có thể nghe tất cả âm thanh của mười phương thế giới. Dù là tiếng tăm loại nào chỉ cần trải qua tay, liền có thể nhận biết ngay. Cho đến đức Phật nơi cõi đó giảng diễn những Kinh pháp gì, đều có thể nghe và thông hiểu.

Cảnh thứ ba gọi là Hương Khí Cảnh Sơn, đại biểu cho Tỷ thức. Ở núi này, có thể ngửi biết tất cả mùi hương trong mười phương thế giới. Hương khí nào đã trải qua mũi, liền ngửi biết một cách tường tận. Như nghe hơi kim loại, liền biết đó là vàng, bạc, chì, thau...

Cảnh thứ tư gọi là Âm Vị Cảnh Sơn, đại biểu cho Thiệt thức. Mười phương thế giới, tất cả những chất vị: chua, cay, ngọt, mặn, lạt, đắng...khi hơi vị chạm đến miệng lười, đều có thể cảm biết. Ngay cả những âm thanh từ miệng lưỡi chư Phật Thánh, cho tận đến chúng sanh ở Địa Ngục, toàn bộ đều cảm biết rõ ràng.

Cảnh thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn, đại biểu cho Thân thức. Nơi núi này, có thể nương tựa vào xúc giác, phân biệt nhân ra tất cả sự vật, cho đến Kim Thân của chư Phật ở uế độ, tịnh độ, đều nhận biết rõ ràng.

Cảnh thứ sáu gọi là Pháp Thức Cảnh Sơn, đại biểu cho Ý thức. Ở núi này, có thể thấy biết tất cả chư Phật, toàn bộ những kiếp tu trong vô số đời trước đều bày hiện rõ trong ý thức. Cho đến những tiền sanh của chính mình, từ một đời dẫn đến trăm ngàn đời, đều ảnh hiện tỏ tường.

Cảnh thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn, đại biểu cho Mạt Na thức. Đây là cảnh giới khác lạ khác thường, có công năng đem sáu cảnh đã thuật ở trước tập trung lại rồi hiện ra. Nơi Cảnh Sơn này, nếu tưởng thấy, nghe, vị, xúc, pháp đều đồng thời hiện rõ.

Cảnh thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh Sơn, đại diện cho A Lại Da thức. Cảnh giới này đầy khắp mọi nơi, từ thời gian như: quá khứ, hiện tại, vị lai; đến không gian như: mười phương pháp giới; tất cả đều ảnh hiện.

Trên đây chỉ trình thuật một cách khái quát về công năng của Bát Đại Cảnh Sơn mà thôi, nếu nói tường tận phần vi tế, thì không thể cùng tận.

Nơi khu vực này có một tòa lầu các tên là Hoa Tạng Thế Giới Triển Lãm Quán, vào đây có thể thấy biết vô lượng pháp môn tu hành của chư Phật, chư Bồ Tát ở cõi Hoa Tạng khắp mười phương.

Hoa Tạng Triển Lãm Quán gồm nhiều tầng, mỗi tầng đều bày hiện quá trình của một vị Bồ Tát tu hành từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật. Tỷ như Đức Phật A Di Đà tiền kiếp là vua Vô Tránh Niệm, xuất gia làm Pháp Tạng Tỳ Kheo, thầy là Thế Tự Tại Vương Như Lai, phát 48 điều nguyện lớn tu thành cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm mầu đẹp. Từ đó về sau gắng công tu trong vô lượng kiếp, nếu muốn thấy sự thực hành trong mỗi đời, thì nơi đây bây hiện không thiếu sót.

Nói tóm lại, muốn xem quá trình của chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương, bất cứ một vị nào, đều có thể thấy nơi Hoa Tạng Triển Lãm linh kỳ mầu nhiệm này.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ.
[ Thượng Phẩm: Hạ sanh, Trung sanh, Thượng sanh. ]

Rời khỏi khu vực Trung Phẩm, tôi tiếp tục trì chú, chân đạp hoa sen bay vượt lên hư không, rồi lướt theo Đức Quán Thế Âm. Bấy giờ, tôi cảm biết thân mình lại dần dần cao lớn, cho đến lúc thân lượng to như khi mới thấy đức Phật A Di Đà.

Bồ Tát bảo tôi:

- Bậc sanh về Thượng Phẩm Thượng Sanh, đời trước tinh thông Phật Điển hoặc ngộ Đệ nhất nghĩa đế, giới hạnh tròn sáng như minh châu, mạnh mẽ tinh tấn, dứt thập ác, hành thập thiện; gót đạo vững chắc, đem hết sức hành trì dù mấy mươi năm vẫn bền giữ y như một ngày, tu cho đến lúc thọ chung.

- Ngoài ra trong sáu độ muôn hạnh, cũng tạo nhiều công đức lớn, nên mới được hóa sanh nơi đây.

- Bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh, sáu căn thanh tịnh, vọng tưởng không còn. Trong hạng này, có vị đã chứng đạt cảnh giới Bồ Tát, thần thông rộng lớn, biến hóa tự do. Chẳng hạn như muốn biến Bảo Liên Trì, toàn thể đều biến thành ao sen báu. Muốn biến cảnh điện tháp, hàng bảo thọ, thành quách, núi non, các loại trân cầm đều có thể tùy niệm biến hiện.

- Hiện tại ta đưa ngươi đi xem ao hoa bậc Thượng Phẩm.

Tôi liền theo chân Ngài, không bao lâu đã đến Bảo trì. Liên trì ở Cực Lạc tuy nói là ao, thật ra diện tích rộng lớn hơn biển cả, không thấy ngằn mé. Bờ ao nơi đây so với các Phẩm Trung, Hạ nghiêm đẹp hơn nhiều.

Quanh bờ ao có mấy lớp lan can bao bọc, phóng ra các sắc quang minh. Từ hoa sen phóng ra tiết hương sen mầu lạ, nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi. Trong ao có những tòa đại bảo tháp lớn như non cao, trình bày nhiều hình: hoặc tròn, hoặc vòng góc, hoặc cánh sen tuôn ra muôn ức tia sáng...Ngoài ra lại có những chiếc cầu báu nối liền cong vòng sáng đẹp. Mặt ao chẳng những có vô số hoa nở, mà còn gồm muôn cảnh trí hiện bày. Trên hư không có các lọng báu treo rủ châu hoa sáng ngời, liên tục chớp lấp lánh. Mỗi đóa hoa tính không kể xiết bao nhiêu tầng lớp cánh, trong mỗi tầng đều có tháp báu, đình đài, lầu các xinh đẹp...Những vị ở trên đài sen thân tướng đều cao lớn trang nghiêm, sắc chân kim thấu suốt, y phục phi thường diễm lệ, tuôn ra các ánh sáng nhiệm màu.

Sau đó Bồ Tát đưa tôi sang Hoa đài, đến một lầu các lớn; trên lối đi, các loại trân cầm đậu nơi những cành vàng lá ngọc, cất giọng xướng ca hòa với tiếng Thiên nhạc, đôi khi lại thảnh thót niệm Phật du dương. Đến đâu cũng thấy kỳ hoa diễm lệ đua nhau khoe sắc, lan tỏa hương mầu thanh nhẹ. Lại có những hàng đèn trân châu, đèn lưu ly, đèn mã não giăng bày; các dị bảo trong đèn đủ kiểu, tuôn ra nhiều ánh sáng màu chớp động, đẹp không thể tả, song tôi không rảnh rỗi để nhìn xem cho kỹ.

Tiến vào lầu các, cảnh lại càng thắng diệu. Ánh vàng lấp lánh chớp động, đất báu tỏa ra nhiều sắc hào quang, mọi vật trước mắt đều phát ra ánh màu minh diệu. Bồ Tát đưa tôi lên lầu, nơi đây có nhiều tấm gương thủy tinh, chính giữa là mặt gương tròn cực to rộng.

Đức Quán Thế Âm dẫn giải:

- Gương này có thể soi nguyên hình của mọi chúng sanh, đại thể như: tâm tánh thanh tịnh hay vọng tưởng, phiền não nhiều hay ít, hoặc còn nghiệp chướng gì...

Trên lầu bài trí mấy hàng ghế thất bảo, bát pha lê và những đồ vật lạ mà tôi không được rõ.

Bồ Tát bảo:

- Ta biết ngươi đã đói, vậy có muốn thọ thực chăng ?

Tôi thú nhận và hỏi món chi dùng được.

Ngài nói:

- Nơi đây sự ăn uống cùng với Phẩm Hạ đồng nhau, ngươi muốn thứ gì sẽ hiện ra thứ đó. Khi dùng vào thức ăn tự bổ, làm cho thân tâm tươi tỉnh, rồi tan thành mùi thơm, không còn cặn bã.

Tôi xin cơm trắng với một ít canh rau. Vừa nói xong, thì món ấy liền hiện ra trong bát pha lê nơi bàn trước mặt.

Bồ Tát lại trấn an:

- Ngươi cứ tự nhiên ăn, chúng ta không thọ dụng chi cả.

Theo chỗ tôi biết:

- Những bậc vãng sanh về phẩm Thượng Thượng, phần đông đã lên quả vị Bồ Tát, không cần ăn uống và cũng chẳng nghĩ tưởng đến sự ăn uống.

- Xét lại mình tự cảm thấy hổ thẹn !

Sau khi dùng bữa xong, vừa để bát đũa nơi bàn, thì những thứ ấy chợt biến mất. Tôi ngạc nhiên hỏi, đức Quán Thế Âm đáp:

- Bởi ngươi có vọng tưởng đến ăn nên mới cảm thấy đói.

- Sau khi ăn xong, vọng tâm đã thỏa mãn, không còn nghĩ đến nữa, nên tất nhiên các thứ ấy tự ẩn đi.

- Sự vật nơi đây đều tùy ý hiện thành. Ví như trong giấc mộng, cảnh giới vọng tưởng dường như có thật, lúc tỉnh ra chẳng còn chi cả !

Bồ Tát liền đọc kệ:

Vọng tựa sương mù, mộng ảnh đồng;
Cảnh duyên huyễn hữu, sắc là không.
Ý này, tâm tịnh liền khai ngộ;
Huệ Nhật vô cùng, hải tạng thông.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Da mồi tóc bạc lần lần,
Lụm khụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà,
Vẫn khổ suy già bệnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,
Đâu khỏi vô thường chết mất.
Duy có đường tắt thoát ly
Thường niệm A Di Đà Phật.

Ðức Phật là Bậc đầy đủ tâm đại bi, là Bậc nói lời thật.

Từ Phật trở xuống, tất cả phàm Thánh khác, trí hạnh chưa đầy đủ, vẫn còn trong giai đoạn học tập, chưa trừ sạch phiền não chướng và sở tri chướng, nguyện hạnh chưa tròn, những người như vậy, giả sử muốn suy lường trí của Phật, cũng chưa chắc suy lường nổi; tuy có bình luận, phán đoán, nhưng phải qua sự ấn chứng của Phật mới trở thành định án.

Nếu như xứng ý của Phật, Ngài sẽ ấn khả: "Ðúng vậy! Ðúng vậy!", nếu không xứng ý Phật, Ngài sẽ bảo: "Lời của ông nói, ý nghĩa không phải như vậy!"

Không được ấn khả thì bị xem như lời nói không đáng ghi chép, hoàn toàn không lợi ích.

Những điều Phật ấn khả, tức là tùy thuận chánh giáo của Phật, còn những lời Phật nói, thì tức là chánh giáo, chánh nghĩa, chánh hành, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí, dù ít dù nhiều, cũng không cần hỏi Bồ tát, Trời người là đúng hay sai!

Nếu những lời Phật nói là liễu nghĩa, thì những lời của chư Bồ tát nói đều không liễu nghĩa. Phải nên biết như vậy!

Hiện nay ngưỡng mong quí vị có duyên với pháp Vãng sinh, chỉ nên tin sâu lời Phật, chuyên chú phụng hành, không nên tin những lời dạy không tương ưng của chư vị Bồ tát, khởi tâm nghi ngờ, tự làm chướng ngại, cố chấp mê mờ, mà đánh mất sự lợi ích lớn lao của sự vãng sinh.

Người có lòng tin sâu thiết, quyết định kiến lập tự tâm, thuận theo giáo pháp tu hành, vĩnh viễn dứt trừ nghi hoặc, lầm lẫn; quyết không vì tất cả giải ngộ khác biệt, hành trì khác biệt, sở học khác biệt, kiến giải khác biệt, sở thích khác biệt, mà làm cho mình thoái thất dao động.

Tất cả hành giả, một lòng chỉ tin lời Phật, không luyến tiếc thân mạng, quyết định phụng hành:

- Phật bảo xả bỏ, nhất định phải xả bỏ;
- Phật bảo hành trì, nhất định phải hành trì;
- Phật bảo vãng sinh, nhất định phải vãng sinh,

đây gọi là tùy thuận lời Phật dạy, tùy thuận ý muốn của Phật, tùy thuận bổn nguyện của Phật. Ðây gọi là Phật tử chân thực.

...

Hành giả nên biết, nếu muốn học tập giải môn, thì từ phàm phu đến bậc Thánh, nhẫn đến thành Phật, tất cả pháp môn đều phải học, còn nếu muốn tu tập hành môn, cần phải nương vào pháp môn mà mình có duyên, ít dùng sức, ít lao nhọc, mà được nhiều sự lợi ích.

Nếu như tạo một nghiệp, thì sẽ tự đem đến cho mình một phiền não, nếu như tu một pháp môn, thì sẽ bước vào một cửa trí tuệ giải thoát. Mọi người đều tùy theo nhân duyên của mình mà khởi hạnh tu tập, cầu mong sự giải thoát... Mỗi người tùy theo ý thích của mình mà tu tập, ắt sẽ mau gặt được quả giải thoát.

( Tổ Thiện Đạo - Quán Kinh Tứ Thiếp sớ. )


Cực Lạc Du Lãm Ký - Pháp sư Khoan Tịnh. (Trích) đã viết:
Hỏi:

- Ở cõi Ta Bà, có rất nhiều chúng hữu tình niệm Phật, tại sao ít ai trông thấy cảnh giới Cực Lạc ?

Bồ Tát Quán Thế Âm dạy:


"Nếu quả một lòng niệm Phật KHÔNG CÒN VỌNG TƯỞNG thì tự nhiên SẼ THẤY thế giới Cực Lạc bày hiện rõ ràng."

Lại hỏi:

- Niệm Phật thế nào để được nhất tâm ?

Đáp:

- Lắng nghe từng tiếng thật rành rẽ, rõ ràng.

- Không nhanh, không chậm.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Có ba hạng hữu tình được sanh về Cực Lạc:

Một là hạng có lòng xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh.

Hai là hạng đọc tụng Kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa.

Ba là hạng tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về Cực Lạc.

Nếu đủ các công đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:

1. Thượng phẩm thượng sanh là thế nào? Nếu chúng sanh muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh.

Do kẻ ấy tinh tấn dõng mãnh, nên lúc vãng sanh Phật A Di Đà cùng hai Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo đại chúng, vô lượng chư thiên và cung điện thất bảo đều hiện đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài kim cang, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đưa tay tiếp dẫn. Hai vị Đại thánh Quán Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn.

Hành giả mục kích cảnh ấy rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim cang, theo sau Phật và Thánh Chúng, trong khoảng khảy ngón tay, sanh về Cực Lạc.

Khi đã sanh về cõi kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ Tát sắc tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng trăm ngàn môn Đà La Ni.

2. Thượng phẩm trung sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với Đệ nhất nghĩa tâm không kinh động, tin sâu lý nhân quả, không phỉ báng pháp Đại thừa. Nếu hành giả đem công đức này niệm Phật hồi hướng cầu sanh Cực Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương Tam Thánh cùng vô lượng đại chúng quyến thuộc bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen rằng:

“Pháp tử! Ngươi tu Đại thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, nên nay ta đến tiếp nghinh."


Liền đó đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn cùng với một ngàn Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bấy giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, rồi trong khoảng một niệm liền sanh về nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc.

Đài tử kim ấy như hoa báu lớn, trải một đêm liền nở. Bấy giờ hành giả thân sắc tử kim, dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do túc tập trước kia, lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần là pháp Đệ Nhất Nghĩa Đế rất thâm mầu. Nghe xong, liền bước xuống kim đài lễ Phật và chắp tay khen ngợi đức Thế Tôn.

Trải qua bảy ngày, liền được không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam muội. Như thế qua một tiểu kiếp, chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn và mong chư Phật thọ ký.

3. Thượng phẩm hạ sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Đại thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy niệm Phật nguyện về Cực Lạc.

Hành giả ấy khi lâm chung được Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng:

“Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước ngươi.”

Khi hành giả mục kích cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa sen vàng, ngồi xong cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn sanh về ao thất bảo. Như thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mới được thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đối với các tướng hảo tâm còn chưa rõ ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh bạch. Bấy giờ người vãng sanh nghe các âm thanh đều diễn pháp mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe pháp thậm thâm trước các đức Thế Tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế, được bách pháp minh môn, trụ Sơ Hoan Hỷ địa.

4. Trung phẩm thượng sanh là thế nào? Nếu chúng sanh thọ trì ngũ giới, giữ bát quan trai, hoặc tu các giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây.

Chúng sanh đó khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các Tỳ khưu quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình ngồi trên đài sen, vội quỳ gối chắp tay cúi xuống lễ Phật. Lúc chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc.

Sau khi vãng sanh, vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp Tứ đế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và bát giải thoát.

5. Trung phẩm trung sanh là thế nào? Nếu chúng sanh giữ chín chắn giới bát quan trai hoặc giới Sa Di hay giới Cu Túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc.

Khi lâm chung, hành giả này thấy Phật A Di Đà cùng quyến thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt mình. Bấy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng:

“Lành thay thiện nhơn! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay ta đến rước ngươi."

Khi đó hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc.

Qua bảy ngày hoa sen nở ra, hành giả chắp tay khen ngợi Phật, được nghe pháp diệu, sanh tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và nửa kiếp sau mới chứng quả A La Hán.

6. Trung phẩm hạ sanh là thế nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám đại nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về Tây Phương Cực Lạc thế giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.

Qua bảy ngày sau, hành giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp nhiệm mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn, sau một tiểu kiếp mới chứng quả A La Hán.

7. Hạ phẩm thượng sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh ngu tối, tuy không phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng tạo nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh đại thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp. Bậc tri thức lại bảo phải chắp tay niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật, nên tiêu trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử.

Ngay lúc ấy đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Âm và Hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả khen rằng:

“Lành thay thiện nhơn! Người đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ngươi.”

Bấy giờ hành giả thấy ánh sáng của Hóa Phật đầy khắp nhà mình, trong lòng vui mừng, liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo Hóa Phật sanh về ao thất bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Đại Bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí phóng ánh sáng lớn, trụ trước người ấy, giảng thuyết cho nghe nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh. Đương nhơn nghe rồi tin hiểu, phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, trải qua mười hai tiểu kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ địa.

8. Hạ phẩm trung sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới, giới cụ túc, trộm của Tăng kỳ và vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải bị đọa vào địa ngục, nên lúc lâm chung các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra. Nhưng người này may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho nghe về oai đức Thập Lực, sức thần thông quang minh của Phật A Di Đà, cùng những pháp: Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.

Đương nhơn nghe xong sanh lòng tín trọng nên trừ diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ địa ngục hóa thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có Hóa Phật và Hóa Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa sen nơi ao thất bảo.

Sau khi vãng sanh, trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến, dùng tiếng phạm âm an ủi và vì giảng thuyết pháp thậm thâm của Đại thừa. Hành giả nghe xong, liền phát đạo tâm vô thượng.

9. Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức bách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: “Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia, thì nên chí thành xưng “Nam Mô A Di Đà Phật” tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm.”

Hành giả vâng lời, và do nhờ xưng danh hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Như thế mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng Vô Thượng Bồ Đề.

Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát. Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sanh và sau khi sanh về tịnh độ đều chứng Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội. Vô lượng chư thiên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Khi ấy Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật và thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì? Chúng con phải thọ trì pháp yếu này như thế nào?”

Đức Phật bảo: “Kinh này tên “Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát”, cũng gọi là “Tịnh Trừ Nghiệp Chướng, Sanh Chư Phật Tiền.”

Ông nên như thế mà thọ trì, chớ để quên mất. Người tu môn tam muội này, hiện đời sẽ được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Đại sĩ.

Nếu thiện nam thiện nữ nào chỉ nghe danh hiệu của đức Phật và hai vị Đại sĩ kia, còn trừ được tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống chi là tưởng niệm! Như có người nào niệm Phật, nên biết kẻ ấy chính là hoa Phân Đà Lợi trong loài người. Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí sẽ là thắng hữu của người ấy. Kẻ ấy sẽ ngồi nơi đạo tràng, sanh vào nhà chư Phật.

Này A Nan! Ông nên ghi nhớ lời này, thọ trì lời này chính là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ.”


(Trích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Ht Thiền Tâm dịch Hán Việt )


Quán Kinh Tứ Thiếp sớ - Huyền Nghĩa đã viết:
“Yếu môn” của pháp tu trong Quán Kinh, tức là hai môn “định thiện” và “tán thiện”.

Định, tức là ngừng nghỉ vọng niệm, làm tâm an định;

Tán, là bỏ ác làm thiện.

Đem hai hạnh này hồi hướng cầu vãng sanh...

Sanh về cõi ấy rồi, không còn sợ hãi gì nữa. Tiếp tục tu tập lâu dài, cho đến khi chứng được quả Phật, chứng được Pháp thân thường trụ, rộng lớn như hư không.

Quán Kinh Tứ Thiếp sớ đã viết:
Hỏi: Thế nào gọi là định thiện? Thế nào gọi là tán thiện?

Đáp: Từ pháp quán thứ nhất (quán Mặt trời) đến pháp quán thứ mười ba (quán Phật và Bồ tát) gọi là định thiện, còn phần ba phước, chín phẩm gọi là tán thiện.

Quán Kinh Tứ Thiếp sớ - Quyển 2. đã viết:
Tất cả chúng sanh, có hai loại căn cơ: một là định, hai là tán.

Nếu chỉ dạy pháp định thiện, thì sẽ không thể thu nhiếp tất cả, do đó đức Như Lai mở bày phương tiện, khai pháp tu ba phước để thích ứng với những chúng sanh tâm tưởng phù tán động loạn.

Quán Kinh Tứ Thiếp sơ - Huyền Nghĩa đã viết:
Lại nữa, nếu xem những đoạn Kinh trong phần “định thiện” và chín phẩm vãng sanh, thì sẽ thấy bổn ý của Phật là:

Sau khi ngài diệt độ, các phàm phu trong đời ác ngũ trược, do nhân duyên khác nhau mà đưa đến chín phẩm khác biệt. Vì sao?

Các bậc vãng sanh ba phẩm thượng là các phàm phu gặp được Đại thừa, các bậc vãng sanh ba phẩm trung là các phàm phu gặp Tiểu thừa, còn các bậc vãng sanh ba phẩm hạ là các phàm phu gặp bạn ác.

Dù tạo nghiệp ác, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức,nhờ nguyện lực của Phât mà được vãng sanh Cực Lạc.

Đến lúc hoa nở mới phát tâm (Bồ đề), làm sao có thể cho rằng bọn họ là những người Đại thừa sơ học?

Nếu cố chấp vào kiến giải này, tự mình lầm lẫn, lại còn làm cho nhiều người khác lầm lẫn, quả thật là một điều nguy hại vô cùng.

Hiện nay, chúng ta sẽ đem Kinh văn ra chứng minh bổn ý của đức Bổn Sư, đồng thời cũng giúp cho các phàm phu thiện ác hiện đời được cao đăng chín phẩm, sanh khởi lòng tin sâu đậm, nhờ nguyện lực của Phật, đều được vãng sanh Cực Lạc.

Quán Kinh Tứ Thiếp sớ. đã viết:
Không biết vì lý do gì mà các hành giả đời nay lại tin nhận những lời dạy của các bộ luận do phàm phu và Tiểu thừa sáng tác, còn đối với những lời dạy của chư Phật, ngược lại, lại cho là “vọng ngữ”. Khổ thay!

Tại sao bọn họ có thể thốt ra những lời bất nhẫn như vậy? Tuy thế, ngưỡng mong các vị hành giả đang cầu vãng sanh, phải nên khéo léo suy ngẫm. Chẳng thà đời này tin lầm lời Phật, còn hơn là lấy những lời dạy trong các sớ giải của phàm phu làm chỉ nam. Nếu như chấp vào những lời dạy đó, ắt sẽ tự mình lầm lạc, và cũng khiến cho nhiều người lầm lạc theo mình.

Quán Kinh Tứ Thiếp sơ - Huyền Nghĩa đã viết:
Hỏi: Khởi hạnh như thế nào, mà nói là không được vãng sanh?

Đáp: Nếu muốn vãng sanh, cần phải đầy đủ hạnh, nguyện mới được vãng sanh.

Hỏi: Nguyện và hạnh khác nhau thế nào?

Đáp: Như trong Kinh có nói: Nếu chỉ hành trì, thì sự hành trì đó không định hướng, chẳng đạt đến mục đích nào. Còn nếu chỉ phát nguyện, thì nguyện đó chỉ là hư giả, cũng không đạt đến mục tiêu.

Nếu như hạnh, nguyện bổ túc cho nhau, thì sẽ đạt đến mục tiêu mong muốn.

Quán Kinh Tứ Thiếp sơ - Huyền Nghĩa. đã viết:
Hỏi: Ý nghĩa của phát nguyện thế nào mà nói không được vãng sanh?

Đáp: Nghe có người nói sự khoái lạc ở Tây phương bất khả tư nghì, liền nguyện rằng “Tôi cũng nguyện sanh.” Sau khi phát nguyện xong, chẳng làm gì thêm, cho nên gọi là “phát nguyện [suông].”

Theo trong Quán Kinh, xưng danh hiệu Phật mười tiếng, tức là đầy đủ mười nguyện mười hạnh.

Thế nào là “đầy đủ”?

Xưng “Nam mô”, tức là quy mạng, cũng có nghĩa là “phát nguyện hồi hướng”.

Xưng “A Di Đà Phật”, tức là hành.

Do đầy đủ ý nghĩa này, nên quyết định được vãng sanh.

Quán Kinh Tứ Thiếp sơ - Quyển 3. đã viết:
Hỏi: Trong phần Bốn mươi tám nguyện nói: “Duy trừ tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là không được vãng sanh." Hiện nay trong Quán Kinh, phần Hạ phẩm hạ sanh, chỉ loại bỏ báng pháp, nhưng thu nhiếp người tạo tội ngũ nghịch. Đây là ý gì?

Đáp: Ý nghĩa này phải dựa vào “ức chỉ môn” để giải thích.

Như trong phần Bốn mươi tám nguyện nói “duy trừ tạo ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp”, là vì hai nghiệp này, tội chướng rất sâu nặng, chúng sanh nếu tạo, ắt sẽ bị đọa thẳng vào địa ngục A tỳ, trải qua thời kiếp lâu xa, khó mà ra khỏi. Chỉ vì đức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai nghiệp này, cho nên phương tiện nói lời ngăn trở, bảo rằng không được vãng sanh, chứ không phải là không thâu nhiếp bọn họ.

Lại nữa, trong phần Hạ phẩm hạ sanh, nhiếp kẻ ngũ nghịch, gạt kẻ báng pháp, bởi vì đối với kẻ đã tạo ngũ nghịch, không thể bỏ mặc, để cho họ trôi lăn trong sanh tử, cho nên khởi lòng đại bi, nhiếp thủ để cho họ vãng sanh.

Còn đối với những người chưa tạo tội báng pháp, thì ngăn trở họ, nói rằng: “nếu báng chánh pháp thì không được vãng sanh”, đây là đối với những người chưa tạo tội báng pháp mà giải thích.

Còn đối với những người đã tạo nghiệp báng pháp, vẫn nhiếp thủ họ vãng sanh. Tuy được vãng sanh, phải ở trong hoa sen nhiều kiếp.

Những người tạo hai tội này, lúc ở trong hoa sen, có ba điều chướng ngại:

(a) không được thấy Phật và chư vị thánh chúng;

(b) không được nghe chánh pháp;

(c) không được du hành thập phương cúng dường chư Phật.

Trừ những điều này ra, không còn sự khổ nào khác. Kinh nói: “Giống như tỳ kheo được sự vui của cõi Tam thiền”. Nên biết như thế.

Tuy ở trong hoa sen nhiều kiếp, còn hơn bị đọa A tỳ địa ngục, chịu sự thống khổ triền miên.

Quán Kinh Tứ Thiếp sớ - Quyển 4. đã viết:
Kinh văn:" Này A Nan! Ông nên ghi nhớ lời này, thọ trì lời này chính là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ."

Sớ văn: Trên đây, tuy nói hai môn Định thiện, Tán thiện, nhưng Bổn Nguyện của đức Bổn Sư, là muốn chúng sanh nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật.

Quán Kinh Tứ Thiếp sơ - Quyển 4 đã viết:

Kính bạch tất cả thiện tri thức hữu duyên,

Tôi là một phàm phu sanh tử, trí huệ hạn hẹp. Đối với những lời Phật dạy thâm sâu, tôi nào dám đưa ra những lời giải đáp cá nhân sai lạc. Do đó tôi đã khởi tâm lập nguyện, thỉnh cầu sự linh nghiệm, sau đó mới dám phát tâm làm sớ giải này.

Nam mô quy mạng tận hư không khắp pháp giới tất cả Tam bảo, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, chư Bồ tát Thanh tịnh đại chúng cõi Cực Lạc, cùng tất cả cảnh tướng trang nghiêm, v.v...

Con nay dự định soạn phần Yếu Nghĩa của quyển Quán Kinh, khải định cổ kim. Nếu như xứng với Bổn Nguyện Đại Bi của chư Phật ba đời, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, nguyện con được thấy tất cả cảnh tướng đã nguyện cầu.

Sau khi kết nguyện trước tượng Phật, ngày hôm sau tôi tụng kinh A Di Đà ba biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến, chí tâm phát nguyện. Ngay đêm hôm đó, tôi thấy trong hư không phương tây, những cảnh tướng như được mô tả trong kinh hiện ra rõ ràng trước mắt. Những núi báu đủ màu, trùng trùng điệp điệp. Vô số quang minh chiếu xuống mặt đất, đất biến thành màu vàng kim. Trong ánh quang minh, chư Phật Bồ tát hiện thân, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nói năng hoặc im lặng, hoặc di chuyển thân hình, hoặc đứng yên không động.

Sau khi thấy cảnh tướng ấy, tôi bèn chắp tay đứng yên quán tưởng, một lúc lâu sau mới ngưng. Tôi cảm thấy vô cùng hân hoan, bèn bắt tay vào việc soạn sớ giải.

Từ hôm đó, mỗi đêm trong mộng, thường thấy có một vị tăng đến, chỉ dẫn cho tôi soạn phần Huyền Nghĩa. Sau khi hoàn tất thì không thấy ngài hiện đến nữa.

Sau khi biên soạn hoàn tất quyển sớ giải, tôi lại chí thành phát tâm, lập định thời hạn bảy ngày, mỗi ngày tụng Kinh A Di Đà mười biến, niệm danh hiệu Phật A Di Đà ba vạn biến. Đầu đêm cuối đêm đều thành tâm quy mạng quán tưởng cảnh tướng trang nghiêm của cõi Cực Lạc.

Đêm đầu tiên, tôi thấy ba bánh xe đang tự chuyển động bên vệ đường, bỗng nhiên có một người cưỡi lạc đà trắng đến trước mặt tôi khuyến tấn: “Thầy hãy nỗ lực, nhất định sẽ được vãng sanh, đừng nên thoái thất, cõi này trược uế khổ đau, không có gì phải luyến tiếc.” Tôi bèn trả lời: “Rất hân hạnh được hiền giả khuyên nhắc, tôi thề trọn một đời, quyết sẽ không bao giờ sanh một niệm giải đãi.”, v.v...

Đêm thứ hai,
thấy đức Phật A Di Đà, thân chân kim sắc, ngồi trên đài sen vàng, dưới gốc cây bảy báu. Có mười vị tăng ngồi vòng quanh ngài. Trên cây báu có vô số thiên y treo quanh phất phới. Tôi ngồi quay mặt hướng tây, chắp tay quán sát.

Đêm thứ ba, thấy hai bảo tràng, cao lớn sáng rực, treo phan ngũ sắc. Đường xá ngang dọc, bát ngát bao la. Sau khi thấy được những cảnh tướng như vậy, tôi bèn đình chỉ, không tiếp tục việc tụng niệm nữa.

Tôi thuật lại những điều linh ứng vừa kể, là vì muốn lợi lạc chúng sanh, chứ không phải vì chính mình. Thấy được những cảnh tướng như vậy, không dám dấu diếm, mà rất cẩn trọng trình bày cho người đời sau, để họ được nghe biết. Nguyện cho những người thấy nghe, sanh lòng tin tưởng, phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.

Nguyện đem công đức này, hồi hướng cho tất cả chúng sanh, đều phát tâm Bồ đề, khởi lòng thương yêu lẫn nhau, nhìn nhau bằng cặp mắt từ bi, nguyện cùng nhau làm quyến thuộc Bồ đề, làm thiện tri thức chân thực, đều vãng sanh Cực Lạc, đều thành Phật đạo.

Ý nghĩa trong quyển sớ giải này, tôi đã cung thỉnh chư Phật chứng minh xác định, một câu một chữ, không thể thêm bớt. Nếu muốn ghi chép lại, xin phải y theo quy tắc chép Kinh.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Trong sự phán định giáo pháp của Đức Thế Tôn, lập trường của các tông phái không giống nhau.

Chẳng hạn như:


- Hữu Tướng Tông (Duy Thức Tông) lập ba thời giáo là Hữu tông, Không tông và Trung đạo tông;

- Vô Tướng Tông (Tam Luận Tông) lập hai thời giáo là Bồ tát giáo và Thanh văn giáo;

- Hoa Nghiêm Tông (Hiền Thủ Tông) lập năm thời giáo là Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo;

- Pháp Hoa Tông (Thiên Thai Tông) thiết lập bốn thời giáo là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo và năm mùi vị là Nhũ, Lạc, Sinh tô, Thục tô và Đề hồ;

- Chân Ngôn Tông thiết lập hai thời giáo là Hiển giáo và Mật giáo.

Hiện nay, Tịnh Độ Tông, theo bổn ý của Đạo Xước Thiền Sư, sẽ thiết lập hai môn: Thánh Đạo và Tịnh Độ, để phán định giáo pháp của Phật.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
1. Thánh Đạo: có hai phần, một là Tiểu thừa, hai là Đại thừa.

- Trong Đại thừa, có: Hiển Giáo, Mật Giáo, Quyền Giáo, Thực Giáo khác nhau.

+ Đại thừa Hiển Giáo và Đại thừa Quyền giáo, trên nguyên tắc, tu tập những công hạnh dài lâu để thành Phật.

+ Còn như chủ trương có thể tu tập trong một đời thành tựu, thì chỉ có Đại thừa Mật giáo và Đại thừa Thực giáo (Viên giáo).

- Trong Tiểu Thừa, tất cả Kinh Luật Luận đều nói về con đường tu tập để đoạn trừ phiền não, thấu rõ chân lý, chứng đắc Thánh quả. Theo đây luận đoán, giáo lý Tiểu Thừa chỉ có thể bao hàm các tông phái như Luật Tông, Câu Xá và Thành Thực.

Một cách khái quát, bổn ý của Thánh Đạo Môn, bất luận Đại thừa hay Tiểu thừa, đều là ở tại thế giới Ta Bà này tu tập để chứng đắc đạo quả của bốn Thừa. Bốn Thừa, nghĩa là ngoài ba Thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát), còn thêm Phật Thừa.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
2. Tịnh Độ: có hai phần, nói trực tiếp giáo nghĩa Tịnh độ và nói gián tiếp giáo nghĩa Tịnh độ.

- Nói trực tiếp giáo nghĩa Tịnh độ: có ba bộ Kinh và một bộ Luận, đó là:

+ Kinh Vô Lượng Thọ
+ Kinh Quán Vô Lượng Thọ
+ Kinh A Di Đà.
+ Luận Vãng Sinh của Ngài Thế Thân.

- Nói gián tiếp giáo nghĩa Tịnh Độ:

+ Kinh Hoa Nghiêm.
+ Kinh Pháp Hoa...
+ Luận Đại Thừa Khởi Tín của Ngài Mã Minh.
+ Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa của Ngài Long Thọ.
+ Luận Nhiếp Đại Thừa của Ngài Vô Trước...

Tất cả đều nêu rõ công hạnh Vãng sinh Tịnh Độ.

Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa ghi:

- Bồ tát cầu A bệ bạt trí, có hai con đường, một là Đường khó đi ( nan hành đạo), hai là Đường dễ đi (dị hành đạo).

+ Đường khó đi, nghĩa là ở trong đời ác năm trược, lúc không có Phật, cầu A bệ bạt trí là khó, sự khó khăn này có nhiều phương diện:

1/ Pháp thiện của ngoại đạo làm loạn pháp tu của Bồ tát,

2/ Sự tự lợi của hàng Thanh văn làm chướng ngại tâm Đại từ bi,

3/ Những kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác,

4/ Quả báo thiện điên đảo, có thể phá hoại phạm hạnh,

5/ Chỉ có tự lực, không có tha lực hộ trì.

Những việc như vậy, chỗ nào cũng có, ví như đường lộ, lội bộ ắt là khổ nhọc.

+ Đường dễ đi, nghĩa là chỉ cần nhờ nhân duyên Niệm Phật, nguyện sinh Tịnh Độ, nhờ nguyện lực của Phật, sẽ được vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. Nhờ Phật lực gia trì, sẽ tiến nhập vào giai bậc chính định tụ, chính định tức là A bệ bạt trí, ví như đường thủy, đi thuyền ắt là vui sướng.

Ở đây, "Đường khó đi" tức là Thánh Đạo Môn, còn "Đường dễ đi" tức là Tịnh Độ Môn.

Kinh A Di Đà đã viết:
Xá Lợi Phất ! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thực hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói Kinh pháp khó tin này, đó là rất khó !

Xá Lợi Phất ! Trong cõi Cực Lạc...có rất nhiều vị bậc Nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên A Tăng Kỳ để nói thôi.

Xá Lợi Phất ! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, phải nên phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao ? Vì được cùng với các bậc Thượng thiện nhân như thế, câu hội một chỗ.

Xá Lợi Phất ! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
 
H

hoiquangphanchieu

Guest
Dạ! hôm nay tôi được mở rộng tầm mắt nhậm và dốt của mình.
Thật không ngờ ông bạn BA TUẦN lại rành kinh điển đến thế.

Thật tình đó tới giờ Tôi chỉ nghĩ TỊNH ĐỘ thật đơn giản, chỉ gói gọn trong 6 chữ lục tự!: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! cứ thế mà niệmđọc thầm trong tâm, hay đọc ra miệng, đọc ngày đọc đêm, niệm đến chết mới thôi! giống như chuột cắn hủ nếp cắn chừng nào lũng hủ mới thôi!!! hi hi hi.

Niệm niệm niệm, đi đứng nằm ngồi, nhức răng đau đầu, buồn buồn vui vui, coi ti vi niệm luôn, khi đọc kinh văn niệm luôn được chứ? (hình như không được...vì không thể có 1 cái miệng mà đọc một lượt tới 2 câu (dù đọc trong tâm, hay đọc ra miệng): câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và câu NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ), khi vọng tâm khở lên niệm luôn được chứ?...dạ chắc được. Lấy cái trí nhớ nhớ câu lục tự mà đuổi cái trí nhớ nhớ cái khác : cái nhớ phiền não, nhớ tiền, tài, tình, danh, vọng...Lấy 1 địch muôn! lấy ít thắng nhiều...Rồi đến một lúc nào đó cái 1 này cũng biến thành số 0 luôn! và số 0 cũng biến mất luôn...
Có phải vậy không ông bạn BA TUẦN!

Ấy vậy mà hôm nay được nghe được thấy có nhiều tông, nhiều đường trực tiếp gián tiếp, nhiều thừa đến thế.

Tôi thật là dốt nát, dốt nát.

Cảm ơn ông bạn rất nhiều!
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Công hạnh vãng sinh tuy nhiều, gom lại có hai: một là “niệm Phật vãng sinh”, hai là “vạn hạnh vãng sinh”.

+ Trong "vạn hạnh vãng sinh" chia ra làm hai loại: một là chánh hạnh, hai là tạp hạnh; mỗi loại đều có năm thứ:

1/ Đọc tụng.

2/ Lễ bái.

3/ Quán sát.

4/ Xưng danh.

5/ Tán thán - cúng dường.

- Chỉ đọc tụng Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà gọi là chánh hạnh đọc tụng.

- Chuyên tâm quán sát y báo, chánh báo cõi Cực Lạc gọi là chánh hạnh quán sát.

- Chỉ lễ lạy đức Phật A Di Đà gọi là chánh hạnh lễ bái.

- Chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà gọi là chánh hạnh xưng danh.

- Chỉ tán thán cúng dường đức Phật A Di Đà gọi là chánh hạnh tán thán cúng dường.

Ngoài ra, tất cả các hạnh khác đều là hạnh nghiệp chung cho Trời người, ba Thừa và sự vãng sinh các cõi Tịnh Độ ở mười phương, cho nên gọi là tạp hạnh.


+ Trong đó chánh hạnh xưng danh gọi là nghiệp chánh, bốn chánh hạnh còn lại gọi là nghiệp trợ; bởi vì:

1/ Xưng danh niệm Phật là thuận theo bổn nguyện của đức Phật A Di Đà.
2/ Xưng danh niệm Phật chính là bổn nguyện của đức Phật A Di Đà.
3/ Người tu nương vào bổn nguyện của đức Phật A Di Đà, ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc.

Vãng Sinh Lễ Tán - Ngài Thiện Đạo:

Nếu như trong đời này, đã có thể phát nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì trong mọi lúc, đi đứng nằm ngồi, đều nên tự khuyến tấn, ngày đêm không xao lãng, trọn suốt một đời hành trì chánh hạnh.

Trong đời này, dường như phải chịu chút khổ, thế nhưng, giây phút trước vừa mệnh chung, giây phút sau ắt vãng sinh Cực Lạc, từ đó thọ mệnh vô cùng, vĩnh viễn hưởng thọ sự vui sướng, nhẫn đến khi thành Phật, không còn phải chịu sự khổ sinh tử, đây không phải là điều vui thú hay sao ?

Hỏi: Tại sao không dạy tu quán mà chỉ dạy chuyên xưng danh hiệu, đây là có ý gì ?

Đáp: Đây là vì nghiệp chướng của chúng sinh quá sâu nặng, cảnh quán quá vi tế, mà tâm quán lại thô thiển, vọng tưởng phù động, cho nên tu quán khó thành. Bởi thế Đức Như Lai thương xót, chỉ khuyên chúng sinh chuyên xưng danh hiệu, chính vì xưng danh dễ dàng, cho nên niệm Phật tương tục, ắt được vãng sinh !

Hỏi: Tất cả nghiệp lành đều có lợi ích, đều được vãng sinh, vì sao chỉ khuyên xưng danh hiệu Phật ?

Đáp: Hiện nay, khuyến khích Niệm Phật, không phải là bài xích các công hạnh khác, mà chỉ là pháp tu niệm Phật, bất luận nam, nữ, sang, hèn, bất luận lúc đi, đứng, nằm, ngồi, bất luận thời gian, nơi chốn, cảnh duyên, tu tập đều dễ dàng; nhẫn đến khi lâm chung, nguyện cầu vãng sinh, không có pháp tu nào tiện lợi hơn pháp Niệm Phật!.
 

Tào Tháo

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
23 Thg 11 2016
Bài viết
254
Điểm tương tác
67
Điểm
28
Dạ! hôm nay tôi được mở rộng tầm mắt nhậm và dốt của mình.
Thật không ngờ ông bạn BA TUẦN lại rành kinh điển đến thế.

Thật tình đó tới giờ Tôi chỉ nghĩ TỊNH ĐỘ thật đơn giản, chỉ gói gọn trong 6 chữ lục tự!: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! cứ thế mà niệmđọc thầm trong tâm, hay đọc ra miệng, đọc ngày đọc đêm, niệm đến chết mới thôi! giống như chuột cắn hủ nếp cắn chừng nào lũng hủ mới thôi!!! hi hi hi.

Niệm niệm niệm, đi đứng nằm ngồi, nhức răng đau đầu, buồn buồn vui vui, coi ti vi niệm luôn, khi đọc kinh văn niệm luôn được chứ? (hình như không được...vì không thể có 1 cái miệng mà đọc một lượt tới 2 câu (dù đọc trong tâm, hay đọc ra miệng): câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và câu NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ), khi vọng tâm khở lên niệm luôn được chứ?...dạ chắc được. Lấy cái trí nhớ nhớ câu lục tự mà đuổi cái trí nhớ nhớ cái khác : cái nhớ phiền não, nhớ tiền, tài, tình, danh, vọng...Lấy 1 địch muôn! lấy ít thắng nhiều...Rồi đến một lúc nào đó cái 1 này cũng biến thành số 0 luôn! và số 0 cũng biến mất luôn...
Có phải vậy không ông bạn BA TUẦN!

Ấy vậy mà hôm nay được nghe được thấy có nhiều tông, nhiều đường trực tiếp gián tiếp, nhiều thừa đến thế.

Tôi thật là dốt nát, dốt nát.

Cảm ơn ông bạn rất nhiều!

http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?108265-Thánh-Đạo-Môn-Tịnh-Độ-Môn
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Tâm tánh của chúng ta nó tràn đầy khắp cả vũ trụ, khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận; tâm tánh của chư Phật và tất cả chúng sinh cũng tràn đầy khắp.

Thế giới Ta Bà, thế giới Cực Lạc, vô lượng thế giới đều ở trong tâm tánh của chúng ta.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
28 Thg 7 2016
Bài viết
1,713
Điểm tương tác
783
Điểm
113
Nói Tánh có hai phần:

- Gồm trong phần vô tình [vật không sống] gọi là Pháp tánh.

- Riêng trong phần hữu tình [vật sống] gọi là Phật tánh.

+ Nói "Tự tánh", tức là chỉ Phật tánh mà nói.

- "Tự" là pháp bản nhiên như thế vì không do tạo tác mới có; vì chính cái của ta sẵn có chứ không phải thuộc về kẻ khác.

- "Tự tánh" có nhiều tên: còn gọi là "Bổn tâm", "Bổn giác", "Chân trí", "Chân thức", "Chân như"...; tùy theo tác dụng mà đặt tên.

+ Nói "Chân" là bởi không có cái gì có thể phá hoại được nó.

Kinh Di Giáo đã viết:
Đối với năm căn [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân], tâm làm chủ chúng. Do đó, các vị nên khéo chế phục tâm !

Tâm rất đáng sợ, sợ hơn rắn độc, ác thú, oán tặc; và ngay như lửa cháy bừng bừng cũng chưa đủ làm ví dụ về chúng !

Ví như có người tay cầm bát mật, di động hấp tấp, chỉ ngó bát mật, không thấy hố sâu. Ví như voi cuồng không có móc câu, con khỉ, con vượn, kiếm được rừng cây, leo, trèo, nhẩy nhót, khó ngăn cấm, chế phục được chúng !

Nên gấp bẻ gẫy tâm niệm ấy, đừng để cho chúng buông lung. Buông lung tâm ấy, làm mất những việc tốt của người.

Chế phục nó vào một chỗ, không việc gì là không xong.
Tham Thiền Phổ Thuyết đã viết:

Tâm thiện thì chiêu cảm sinh nơi đất thiện, tâm ác thì chiêu cảm sinh nơi đất ác, do đó thiện ác chia thành lối tẻ; chúng sanh trường kỳ qua lại trong đó mà chẳng tự biết.

Vì người thế gian đem tâm để làm vui cho mình, nên tạo mê - luôn bị lưu chuyển - chẳng thể trở về tự tánh, cái lỗi lầm lớn này là lỗi tại tâm.

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)

    TOP 5 Tài Thí

    Bên trên