*Đức Phật nói: Khi kiếp hoại đến cõi trời Tam Thiền còn tiêu tùng, chẳng sót lại một thứ gì, huống hồ những pháp do duyên sinh. Lân vi trần tồn tại vĩnh cửu hay không tùy mỗi phái, như phái Tiểu thừa Nhất Thiết Hữu Bộ, hay còn gọi là Hữu Bộ tông họ cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn ở mọi hư không.
Nhưng ngài Long Thọ đấng chiến thắng thứ hai sau Phật, và các đệ tử Ngài không cho rằng: là vi trần hay lân vi trần không hề tồn tại vĩnh viễn. Như đức Phật nói trong kinh Bát Nhã: Phàm những gì có hình tướng đều vô thường sinh diệt hư vọng, tan hợp, hợp tan. Cho dù là vi trần cũng chẳng mãi mãi tồn tại.
Nó từ đâu ra có vi trần? Bạn chỉ từ A hay từ B ra đều không thấy khởi điểm của nó, bởi thế Kinh Hoa Nghiêm là đạo lý "trùng trùng điệp điệp duyên khởi" nên không thể tìm ra pháp nào là thật có. Nhưng mỗi duyên nó lại có năng lực khác nhau, như vi trần này kết hợp thành 2-3 vi trần này, kết hợp 4-5 vi trần lại cho ra cái khác.
Bởi thế đức Phật các pháp y duyên sinh "đều không thật có", không thật có, không phải là nó không, nó vẫn có từ vô thủy vô chung rồi!
*Như cõi Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ của chư Bồ Tát ở đó trải qua 3 đại A Tăng Kỳ Kiếp vẫn biến mất rồi trở về Thường Tịch Quang, thanh tịnh sáng suốt tường tận quang minh. Bất kể pháp nào có hình tướng vẫn phải mất.
Như Phật thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh (hội tập) và lời nguyện của đức Phật A Mi Đà giả sử 10 phương chúng sinh đều chứng quả Bích Chi Phật (độc giác, trên hàng thanh văn La Hán), mỗi mỗi vị thọ vạn ức năm, đều có thần thông như ngài Đại Mục Kiền Liên đứng đầu đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng thể tính nổi thọ lượng của đức Phật A Mi Đà cùng cư dân nước Ngài.
Nguyện 15:
Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười lăm: Thọ mạng vô lượng; nguyện mười sáu: Thanh Văn vô số)
*Vô lượng thọ không thể tính nhưng vẫn là hữu lượng vẫn có ngày hết, nhưng quá dài đủ để thời gian chứng quả vị Phật, ngay cả đức Thích Ca Mâu Ni Phật thời gian tính ra vẫn là 3 đại A Tăng Kỳ vẫn có thể tính, còn thời gian vô lượng này là bất khả tư nghị công đức của đức A Mi Đà Phật.
*Các pháp vốn chẳng có thật sinh diệt, cõi Cực Lạc cũng vậy, do bi tâm của đức Phật A Mi Đà hiện ra khi hết duyên rồi lại mất, giống như huyễn thuật, lại giống thành Càn Thát Bà, chỉ trình hiện chẳng hề thấy dấu vết sinh diệt của pháp. Nên cõi Tịnh Độ không nó chỉ biến chuyển nhờ thần lực thôi, nói là chuyển là chính xác nhất.
Vì mỗi kinh đức Phật tùy mỗi căn tánh, nên đức Phật sẽ có cách nói khác nhau, phù hợp căn cơ dễ tiếp nhận. Nếu bạn hiểu khi chư Phật đã viên mãn vô thượng bồ đề, dù có thể kéo dài vô lượng vô lượng vô vô vô lượng lượng lượng vẫn có thể.
*Cho dù tất cả chư vị Phật ra đời vẫn phải xưng tán cõi Tịnh Độ, của đức Phật A Mi Đà. Còn việc Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành Phật ở cõi Cực Lạc là tùy theo căn cơ thôi. Ngài Quán Thế Âm vốn đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai lâu xa kể cả trước Thích Ca Mâu Ni Phật rất là lâu, Ngài muốn ủng hộ các học trò sau này nên biến thành Bồ Tát do nguyện lực chẳng vào Niết Bàn, ngài Quán Thế Âm Bồ Tát cũng có Tịnh Độ của ngài trang nghiêm không kém Phật A Mi Đà. Vì thế, sợ chúng sinh tán loạn tâm nên mười phương chư Phật, chỉ nói đi nói lại Tịnh Độ duy nhất của Phật A Mi Đà là đệ nhất. Chứ chớ nên tưởng rằng Quán Âm Bồ Tát sau này mới thành Phật.
Trong giáo lý Đại thừa nói Thiên Bách Ức Hóa Thân Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, thân các Ngài vô lượng thân, không có giới hạn, không có địa vị nhất định nào.
Nguyện 17:
Lúc tôi thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước trong mười phương thế giới nếu chẳng cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, thuật sự tốt lành của cõi nước và công đức của tôi thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi)
*Vì thế bạn cứ yên tâm mà tu, sau này dù Phật nào ra đời cũng nói chừng đó kinh điển, cũng xưng tán nhất định về đức từ phụ A Mi Đà. Như Đại thừa Vô Lượng Thọ ngài Di Lặc nghe vâng lãnh thọ.