Kính thưa quý đạo hữu
Lịch sử truyền thừa Phật giáo nói chung và Mật tông nói riêng , vào Tây tạng ,có nhiều thư liệu nói đến , nhưng có quyển "Mật Tông Phật Giáo" của tác giả Nguyễn Tuệ Chân trình bày khá đầy đủ và xác thực. Tôi xin mượn nội dung trong quyển này để thuật lại về sự truyền thừa Mật Tông Phật giáo vào Tây Tạng.
Theo tác giả Nguyễn Tuệ Chân , thì vào thế kỷ thứ 5 đã có hai vị sư Mật Giáo từ Ấn Độ vào Tây Tạng mang theo một số pháp khí của Mật Giáo để cúng dường Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Nhưng vua Tây Tạng thời ấy không biết Phạn Văn , và cả dân chúng cũng vậy , nên đối với các pháp khí ,người Tây Tạng chỉ biết xem là "thánh vật huyền bí" mà không có một khái niệm gì . Mật giáo không thâm nhập vào dòng đời ở Tây Tạng.
Mãi đến năm 630 , khi vua Songten Gampo ( Tùng Tán Cương Bố )lên ngôi rồi sau đó có hai vị công chúa - một của Nepal Ấn Độ ,tên Bhruti (Xích Tôn ) , và một của nhà Đường Trung Hoa , tên Kim Thành , lần lượt kết hôn với vua , thì hai vị công chúa này mỗi vị đều có đem theo kinh Phật , tượng Phật vào Tây Tạng. Được sự hỗ trợ của nhà vua Songten Gampo, hai vị công chúa đã cho xây hai ngôi chùa ở Lhasa ( Lạp Tát ) là chùa Ramoche và chùa Jokhang . Nhà vua Songten Gampo đã cho phiên dịch kinh điển Phật giáo sang tiếng Tây Tạng , vua đã thỉnh các luận sư ở Ấn Độ đến Tây Tạng và nhờ sự hợp tác của người Hán và người Tây Tạng . Các kinh điển được phiên dịch bao gồm cả kinh điển của Mật tông . Tuy nhiên Phật giáo trong gian đoạn bấy giờ chỉ có ảnh hưởng trong Vương triều hoặc chỉ trong tư thất của Vua mà chưa truyền bá sâu rộng vào quần chúng dân gian .
Sau khi vua Songten Gampo băng hà năm 649 , hai vương triều của hai vị vua kế tiêp không có phát triển Phật giáo . Đến khi vua Tride Tsuktsen ( Xích Đức Tổ Tán ) lên ngôi năm 704, vua tuy có ý muốn tiến hành công cuộc phục hưng và phát triển Phật giáo nhưng gặp sự chống đối của Bôn Giáo ( tôn giáo cho đến bấy giờ là quốc giáo của Tây Tạng) . Sau khi vua Tride Tsuktsen mất vào năm 755, con ông lên kế vị mới 12 tuổi . Khi vua Trisong Detsen ( Xích Tùng Đức Tán ) đến tuổi trưởng thành mới có năng lực phục hưng và phát triển Phật giáo . Vua Trisong Detsen đã cho thỉnh đại sư Tịch Hộ ( Tĩnh Mệnh ) từ Nepal tới Tây Tạng . Tịch hộ giảng Phật pháp Hiển giáo cho vua và dân Tây Tạng , nhưng bị Bôn Giáo khiêu chiến . Tịch Hộ xin về Nepal để thỉnh Đạo sư Liên Hoa Sanh của Mật giáo sang để đối phó với sự khiêu chiến của ngoại đạo . Liên Hoa Sanh sau khi đến Tây Tạng thực hiện pháp thuật cầu mưa , khiến được mùa ... nên có uy tín .Và Đạo sư Liên Hoa Sanh đã giao đấu với Vu sư Bôn giáo , bằng mật pháp , và đã hàng phục được Vu sư và vị thần của Bôn giáo .. Sau đó vua Trisong Detsen nhờ sự hỗ trợ của hai đại sư Liên Hoa Sanh và Tịch Hộ để xây ngôi chùa Samye ( Tang Da ) , chùa hoàn thành năm 766. Kế đến có hai việc quan trọng , một là có bảy người Tây Tạng đầu tiên xuất gia làm tăng trong chùa , hai là Kinh điển Phật giáo hiển , mật được phiên dịch rộng rãi .Liên Hoa Sanh truyền Mật pháp Kim Cương thừa cả bốn Tantra ( Đát đặc la )hay bốn cấp bộ mật pháp :Tát Đát đặc la, Hành Đát đặc la, Du Già Đát Đặc la , Vô Thương Du Già Đát đặc la . Tây Tạng lúc ấy nhận cả bốn bộ Tantra này.
Mật tông Phật giáo đã thật sự du nhập vào Tây Tạng ở hậu bán thế kỷ thứ 8.Đây là công trình của vị vua trước là Songten Gampo, và Trisong Detsen tiếp nối công trình này . Vua Trisong Detsen đã phải đương đầu với những khó khăn và phải tìm cách loại bỏ những nhân vật chống lại ảnh hưởng và sự phát triển của đạo Phật , đến từ những nhân vật của đạo Bôn .Thiết tưởng cũng cần nói qua về đạo này.
Bôn giáo của Tây Tạng thờ các Linh Khí như Thiên , Địa , Nhật, Nguyệt , Tinh Tú , Sông núi, Cây Cỏ , Sấm sét ...Đạo Bôn xem các Vô Tình đó là các Linh Thể và được gọi là đạo thờ Linh Khí của vũ trụ . Đạo này cho rằng vị vua đầu tiên của Vương triều là con của Thiên , sau khi chết leo thang về trời .Mọi hoạt động tôn giáo như cúng tế , hôn nhân , tang lễ , trồng trọt, giao binh , xây lăng cho vua ...đều do chức sắc của đạo là Vu Sư quyết định . Vu sư phần nhiều do giới quý tộc ( quan chức theo vua ) đưa ra trong giới của họ , nên luôn luôn ủng hộ giới quý tộc , vốn chi phối hành động của vua , nên quyền lực của vua hạn chế bởi sự chi phối này .
Sau đó một thời gian, lúc ấy vào thời vua Khritsu Detsan ( Xích Tổ Đức Tán ,tại vị 815-mất 838)nhóm chống phá Phật giáo do một số Đại thần chủ mưu đã giết vua Khritsu Detsan và đưa Langdarma ( Lãng Đạt Ma ) lên ngôi năm 838.
Cuộc tiêu diệt Phật giáo lại nổi lên dữ dội .Chùa chiền bị đóng cửa hay phá hủy , tượng Phật bị đập vỡ , vứt xuống sông , kinh Phật bị thiêu hủy . Một số tu sĩ đã phải chôn giấu kinh điển trong hang động , một bộ phận tu sĩ phải trốn sang Ấn Độ . Cuối cùng có một vị tăng đã phải giết chết vua Langdarma thì mới chấm dứt được sự tiêu diệt đạo Phật, vào năm 842.Thời kỳ tiền truyền tiếp diễn . Thời kỳ này không cho truyền bá Du Già Vô Thượng và gọi là Cựu Phái Mật tông.
Vào thời kỳ hậu truyền được xem như bắt đầu năm 978 có truyền bá Vô Thương Du Già , được gọi là Tân Phái Mật tông .Vào thời kỳ này có nhiều trường phái Mật giáo . Phái có mặt sớm nhất là phái Nyingma-pa ( Ninh Mã ), sau có thêm nhiều phái mà ba phái chính là phái Sakya-pa, phái Kagyu-pa, và phái Gelug-pa.
Đường lối tu tập chính của từng phái là gì chúng ta sẽ tìm hiểu .
Lịch sử truyền thừa Phật giáo nói chung và Mật tông nói riêng , vào Tây tạng ,có nhiều thư liệu nói đến , nhưng có quyển "Mật Tông Phật Giáo" của tác giả Nguyễn Tuệ Chân trình bày khá đầy đủ và xác thực. Tôi xin mượn nội dung trong quyển này để thuật lại về sự truyền thừa Mật Tông Phật giáo vào Tây Tạng.
Theo tác giả Nguyễn Tuệ Chân , thì vào thế kỷ thứ 5 đã có hai vị sư Mật Giáo từ Ấn Độ vào Tây Tạng mang theo một số pháp khí của Mật Giáo để cúng dường Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn. Nhưng vua Tây Tạng thời ấy không biết Phạn Văn , và cả dân chúng cũng vậy , nên đối với các pháp khí ,người Tây Tạng chỉ biết xem là "thánh vật huyền bí" mà không có một khái niệm gì . Mật giáo không thâm nhập vào dòng đời ở Tây Tạng.
Mãi đến năm 630 , khi vua Songten Gampo ( Tùng Tán Cương Bố )lên ngôi rồi sau đó có hai vị công chúa - một của Nepal Ấn Độ ,tên Bhruti (Xích Tôn ) , và một của nhà Đường Trung Hoa , tên Kim Thành , lần lượt kết hôn với vua , thì hai vị công chúa này mỗi vị đều có đem theo kinh Phật , tượng Phật vào Tây Tạng. Được sự hỗ trợ của nhà vua Songten Gampo, hai vị công chúa đã cho xây hai ngôi chùa ở Lhasa ( Lạp Tát ) là chùa Ramoche và chùa Jokhang . Nhà vua Songten Gampo đã cho phiên dịch kinh điển Phật giáo sang tiếng Tây Tạng , vua đã thỉnh các luận sư ở Ấn Độ đến Tây Tạng và nhờ sự hợp tác của người Hán và người Tây Tạng . Các kinh điển được phiên dịch bao gồm cả kinh điển của Mật tông . Tuy nhiên Phật giáo trong gian đoạn bấy giờ chỉ có ảnh hưởng trong Vương triều hoặc chỉ trong tư thất của Vua mà chưa truyền bá sâu rộng vào quần chúng dân gian .
Sau khi vua Songten Gampo băng hà năm 649 , hai vương triều của hai vị vua kế tiêp không có phát triển Phật giáo . Đến khi vua Tride Tsuktsen ( Xích Đức Tổ Tán ) lên ngôi năm 704, vua tuy có ý muốn tiến hành công cuộc phục hưng và phát triển Phật giáo nhưng gặp sự chống đối của Bôn Giáo ( tôn giáo cho đến bấy giờ là quốc giáo của Tây Tạng) . Sau khi vua Tride Tsuktsen mất vào năm 755, con ông lên kế vị mới 12 tuổi . Khi vua Trisong Detsen ( Xích Tùng Đức Tán ) đến tuổi trưởng thành mới có năng lực phục hưng và phát triển Phật giáo . Vua Trisong Detsen đã cho thỉnh đại sư Tịch Hộ ( Tĩnh Mệnh ) từ Nepal tới Tây Tạng . Tịch hộ giảng Phật pháp Hiển giáo cho vua và dân Tây Tạng , nhưng bị Bôn Giáo khiêu chiến . Tịch Hộ xin về Nepal để thỉnh Đạo sư Liên Hoa Sanh của Mật giáo sang để đối phó với sự khiêu chiến của ngoại đạo . Liên Hoa Sanh sau khi đến Tây Tạng thực hiện pháp thuật cầu mưa , khiến được mùa ... nên có uy tín .Và Đạo sư Liên Hoa Sanh đã giao đấu với Vu sư Bôn giáo , bằng mật pháp , và đã hàng phục được Vu sư và vị thần của Bôn giáo .. Sau đó vua Trisong Detsen nhờ sự hỗ trợ của hai đại sư Liên Hoa Sanh và Tịch Hộ để xây ngôi chùa Samye ( Tang Da ) , chùa hoàn thành năm 766. Kế đến có hai việc quan trọng , một là có bảy người Tây Tạng đầu tiên xuất gia làm tăng trong chùa , hai là Kinh điển Phật giáo hiển , mật được phiên dịch rộng rãi .Liên Hoa Sanh truyền Mật pháp Kim Cương thừa cả bốn Tantra ( Đát đặc la )hay bốn cấp bộ mật pháp :Tát Đát đặc la, Hành Đát đặc la, Du Già Đát Đặc la , Vô Thương Du Già Đát đặc la . Tây Tạng lúc ấy nhận cả bốn bộ Tantra này.
Mật tông Phật giáo đã thật sự du nhập vào Tây Tạng ở hậu bán thế kỷ thứ 8.Đây là công trình của vị vua trước là Songten Gampo, và Trisong Detsen tiếp nối công trình này . Vua Trisong Detsen đã phải đương đầu với những khó khăn và phải tìm cách loại bỏ những nhân vật chống lại ảnh hưởng và sự phát triển của đạo Phật , đến từ những nhân vật của đạo Bôn .Thiết tưởng cũng cần nói qua về đạo này.
Bôn giáo của Tây Tạng thờ các Linh Khí như Thiên , Địa , Nhật, Nguyệt , Tinh Tú , Sông núi, Cây Cỏ , Sấm sét ...Đạo Bôn xem các Vô Tình đó là các Linh Thể và được gọi là đạo thờ Linh Khí của vũ trụ . Đạo này cho rằng vị vua đầu tiên của Vương triều là con của Thiên , sau khi chết leo thang về trời .Mọi hoạt động tôn giáo như cúng tế , hôn nhân , tang lễ , trồng trọt, giao binh , xây lăng cho vua ...đều do chức sắc của đạo là Vu Sư quyết định . Vu sư phần nhiều do giới quý tộc ( quan chức theo vua ) đưa ra trong giới của họ , nên luôn luôn ủng hộ giới quý tộc , vốn chi phối hành động của vua , nên quyền lực của vua hạn chế bởi sự chi phối này .
Sau đó một thời gian, lúc ấy vào thời vua Khritsu Detsan ( Xích Tổ Đức Tán ,tại vị 815-mất 838)nhóm chống phá Phật giáo do một số Đại thần chủ mưu đã giết vua Khritsu Detsan và đưa Langdarma ( Lãng Đạt Ma ) lên ngôi năm 838.
Cuộc tiêu diệt Phật giáo lại nổi lên dữ dội .Chùa chiền bị đóng cửa hay phá hủy , tượng Phật bị đập vỡ , vứt xuống sông , kinh Phật bị thiêu hủy . Một số tu sĩ đã phải chôn giấu kinh điển trong hang động , một bộ phận tu sĩ phải trốn sang Ấn Độ . Cuối cùng có một vị tăng đã phải giết chết vua Langdarma thì mới chấm dứt được sự tiêu diệt đạo Phật, vào năm 842.Thời kỳ tiền truyền tiếp diễn . Thời kỳ này không cho truyền bá Du Già Vô Thượng và gọi là Cựu Phái Mật tông.
Vào thời kỳ hậu truyền được xem như bắt đầu năm 978 có truyền bá Vô Thương Du Già , được gọi là Tân Phái Mật tông .Vào thời kỳ này có nhiều trường phái Mật giáo . Phái có mặt sớm nhất là phái Nyingma-pa ( Ninh Mã ), sau có thêm nhiều phái mà ba phái chính là phái Sakya-pa, phái Kagyu-pa, và phái Gelug-pa.
Đường lối tu tập chính của từng phái là gì chúng ta sẽ tìm hiểu .