ha ha ha [smile]
nếu chỉ đọc lời giải thích quá cô đọng về những tâm siêu thế này .. chắc chẳng mí người có TƯ LƯƠNG hiểu nổi đâu [smile]
--> nhưng nếu đọc những lời này ... cộng với "những giáo lý thực hành" trong KINH NGUYÊN THỦY thì dễ hiểu hơn nhiều ... [smile]
(1) Tâm Sơ Đạo --> Tâm Nhị Đạo --> Tâm Tam Đạo
vốn chỉ là 2 những mặt ứng dụng khác nhau của ĐỊNH GIÁC CHI [smile]
(a) Định Giác Chi: trước tiên .. phải cố định là định này dẫn tới vô vi luôn nhé [smile] ... trong cả 3 mặc ứng dụng khác nhau khi: có TẦM + TỨ, không TẦM
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi?
Ðịnh có tầm có tứ --> này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến vô vi... (như trên)...
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi?
Ðịnh không tầm, chỉ có tứ --> này các Tỷkheo, đây là con đường đưa đến vô vi. - Tương Ưng Bộ
Định Giác Chi [smile]
26) Cái gì là định có tầm, có tứ, này các Tỷ-kheo --> cái ấy là định giác chi.
Cái gì là định không tầm, không tứ --> cái ấy là định giác chi.
Gọi là định giác chi là có ý nghĩa này. Chính do pháp môn này nên thành hai.
Tương Ưng Bộ nói tới hai mặt ứng dụng của Thất Giác Chi với Tầm và Tứ .. cho nên .. Định Giác Chi là 1 --> thành 2 .... thất giác chi là 7 --> thành 14 [smile]
(b) hai mặt ứng dụng có Tầm có Tứ .. Không Tầm chỉ có Tứ ...
(1) Mặt Ứng Dụng có Tầm có Tứ
Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vị ấy trú,
quán thân trên thân, hoặc thân sở duyên (kàyàrammano) khởi lên, hoặc thân nhiệt não (kàyasmin parilàho), hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại (bahiddha va cittam vikkhipati);
--> do vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín (pasàdaniyenimitta).
Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan (pàmujjam: Thắng hỷ) sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có tâm khinh an, lạc thọ sanh. Người có tâm lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. - Tương Ưng Bộ
đối với Thọ .. thì hướng dẫn của Định có Tầm Tứ cũng tương tự như vậy [smile]
8-9) Lại nữa, này Ananda, Tỷ-kheo sống, quán thọ trên các thọ... sống, quán tâm trên tâm... 10) Vị ấy sống, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, hoặc thân sở duyên khởi lên, hoặc thân nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại; do vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan sanh. Người có hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân khinh an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. - Tương Ưng Bộ
Tầm và Tứ vốn là hai TÂM SỞ --> đều thuộc về Tư Sát ..
- nghĩa của Tầm là tư sát, suy tư, suy nghĩ ở DẠNG THÔ ..
- và nghĩa của TỨ là tư sát, suy tư, suy nghĩ ở dạng tinh tế, tỉ mỉ hơn ...
như vậy là 2 mức quán THÔ và TẾ về "AN TỊNH" khác nhau
(2) khi đã có sự thành thục thì mặt thô không còn là vấn đề ngăn ngại nữa .. mà chỉ còn cái VI TẾ là cái chỗ QUÁN ... phải suy tư, suy nghĩ, ở dạng tinh tế hơn vẫn còn .. và còn cần thiết
cho nên ...
Ðịnh không tầm, chỉ có tứ --> này các Tỷkheo, đây là con đường đưa đến vô vi. - Tương Ưng Bộ
Nếu chúng ta để ý kỹ thì không có Thiền mà chẳng có sự quán chiếu, tư sát .. bởi vì .. TẦM TỨ vốn là hai tâm sở thuộc về tư sát [smile]... cho nên .. thiền hỏng đúng cách vì thiếu khả năng tư sát nên không có hiệu quả thường là vấn đề xảy ra [smile]
(3) Tâm Tam Đạo
Không Tầm Không Tứ .. Tâm Tam Đạo nói tới 1 vấn đề quán sát thực tướng khác hơn [smile]
Chúng ta để ý hai lời chỉ dẫn khác nhau về Tứ Niệm Xứ đối với Định Giác Chi .. Tâm Sơ Đạo và Nhị Đạo ở phần cuối có thêm 1 đoạn khác .... [smile]
Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được.
--> Nay ta rút lui (patisamharàmi) (khỏi đối tượng tịnh tín)".
Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. (khéo cắt đứt ... smile)
Vị ấy rõ biết: "Không tầm, không tứ, - nội tâm chánh niệm, ta được an lạc". - Tương Ưng Bộ
Vị ấy tư sát như sau: "Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được.
Nay ta rút lui (khỏi đối tượng tướng tịnh tín)".
Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. (khéo cắt đứt ... smile)
Vị ấy rõ biết: "Không tầm, không tứ, nội tâm chánh niệm, ta được an lạc".
Không Tầm, Không Tứ --> và vẫn có TÂM CHÁNH NIỆM, AN LẠC tồn tại [smile]
Vì vậy ... cũng có thêm nhiều đoạn khác nói tới sự thực hành tương tự ... điển hình như:
Ngài Tu Bồ Ðề (Sudhùti), tu định không tầm (avitakkam samàdhim) và được Thế Tôn tán thán và nói lời cảm hứng :
"Với ai tâm quét sạch,
Nội tâm khéo cắt đứt, Không còn chút dư tàn,
Vượt qua ái nhiễm ấy.
Ðạt được tưởng vô sắc, Vượt khỏi bốn ách nạn, - Tiểu Bộ Kinh
Do đó .. kinh điển Nguyên Thủy nêu ra rất nhiều trường hợp thực hành "KHÉO CẮT ĐỨT" Thân Kiến, Hoài Nghi, Giới Cấm Thủ ... muội lược dục ái, sân hận bằng an tịnh chỉ ... nhất tâm [smile] .... chỗ khéo SỬ DỤNG do TẦM và TỨ đem lại .. do CHÁNH NIỆM CHÁNH TRI ...
Chính niệm chính tri
“Ma-nạp, Tỳ-kheo như vậy thành tựu Thánh giới, được các căn của Thánh, ăn biết vừa đủ; bấy giờ, đầu hôm cuối hôm, tinh tấn tỉnh giác.
Lại vào lúc ban ngày, hoặc đi hoặc dừng, ---> thường niệm nhất tâm, --> trừ các ấm cái.
Vị ấy, vào khoảng đầu hôm, hoặc [85a] đi hoặc ngồi, --> thường niệm nhất tâm --> trừ các ấm cái.
Cho đến giữa đêm, nằm nghiêng hông phải, tưởng niệm sẽ trỗi dậy, --> đặt ý tưởng vào ánh sáng, tâm không loạn tưởng.
Đến lúc cuối đêm, liền dậy tư duy, hoặc đi hoặc ngồi, trừ các ấm cái. Tỳ-kheo có Thánh giới như vậy đầy đủ, được các căn bậc Thánh, ăn uống biết đủ, đầu hôm cuối hôm, tinh cần tỉnh giác, thường niệm nhất tâm, không có loạn tưởng.
ờ mà đúng hông ? [smile]