TỨ PHẦN LUẬT 四分律 (Chương 7 và 8)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 52
[73]

aaaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có nhóm sáu tỳ-kheo nói pháp cho người vén ngược y không cung kính.

Các tỳ-kheo nghe, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo rồi, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch đầy đủ lên đức Thế tôn.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trước, cho đến câu «Từ nay về sau ta vì các Tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được nói pháp cho người vén ngược y không cung kính, thức-xoa-ca-la-ni*.

Bấy giờ các tỳ-kheo nghi không dám nói pháp cho người bệnh mà họ vén ngược y. Đức Phật dạy:

«Người bệnh thì không phạm.»

Từ nay trở đi nên nói giới như vầy:

Không được nói pháp cho người vén ngược y không cung kính, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo cố ý nói pháp cho người lật ngược y không cung kính, không bệnh, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la, đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc bị chứng bệnh thế nào đó, hoặc vì nhà Vua hay Đại thần của nhà Vua mà nói thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 53


Không được nói pháp cho người quấn y nơi cổ, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 54
[74]

Không được nói pháp cho người trùm đầu,[75] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni *.

(như trên)

ĐiỀU 55
[76]

Không được nói pháp cho người quấn đầu,[77] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 56
[78]

Không được nói pháp cho người chống nạnh, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 57[79]

Không được nói pháp cho người mang dép da,[80] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 58
[81]

Không được nói pháp cho người mang guốc gỗ,[82] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 59
[83]

Không được nói pháp cho người cởi xe cộ,[84] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 60


aaaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhóm sáu tỳ-kheo ngủ nghỉ trong tháp Phật.

Các tỳ-kheo thấy, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo: «Sao ngủ nghỉ trong tháp Phật?»

Các tỳ-kheo đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch đầy đủ lên đức Thế tôn.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trước, cho đến câu «Từ nay về sau Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không đươc ngủ nghỉ trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy, có tỳ-kheo nghi, vì để giữ tháp vẫn không dám ngủ trong tháp Phật. Đức Phật dạy:

Vì bảo vệ tháp thì không phạm. Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ vì canh giữ, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố ý ngủ nghỉ trong tháp Phật, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la, Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc vì mắc chứng bệnh thế nào đó, hoặc vì bảo vệ mà ngủ nghỉ, hoặc vì sức mạnh bắt, hoặc vì mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải ngủ nghỉ; không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 61


aaaaaMột thời đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có nhóm sáu tỳ-kheo cất dấu tài vật trong tháp Phật.

Các tỳ-kheo biết, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết tàm quý, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo rồi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch đầy đủ lên đức Thế tôn.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trên, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vậy:

Không được cất dấu tài vật của cải trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Bấy giờ có tỳ-kheo nghi, vì để bền chắc vẫn không dám chứa cất của cải trong tháp Phật. Đức Phật dạy:

«Vì bảo đảm thì không phạm.»

Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được chôn dấu tài vật trong tháp Phật, trừ để cho bền chắc , thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo cố ý đem của chôn dấu trong tháp Phật, trừ vì muốn chắc chắn, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó, hay vì bảo đảm chắc chắn nên đem của cải chôn cất trong tháp Phật, hoặc vì cường lực bắt, hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn; không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 62


aaaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo mang guốc dép vào trong tháp Phật.

Các tỳ-kheo thấy, trong đó có vị thiểu dưc tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo: «Tại sao các thầy mang guốc dép vào trong tháp Phật?»

Các tỳ-kheo quở trách rồi, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trên, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được mang dép da vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo cố ý mang dép da vào trong tháp Phật, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm [711a1] đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 63


Không được tay cầm giày dép da vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 64.


Không được mang giày dép da đi quanh tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 65.

Không được mang giày phú-la[85] vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 66.

Không được xách giày phú la vào trong tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 67.


aaaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo ngồi ăn dưới tháp, ăn xong lưu lại thức ăn thừa và cỏ rác, làm dơ đất, rồi bỏ đi.

Các tỳ-kheo thấy, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo rồi đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trước, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được ngồi ăn dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Bấy giờ các tỳ-kheo làm tháp rồi thí thực, làm phòng rồi thí thực, hoặc thí ao giếng, nhiều người tập hợp, chỗ ngồi chật hẹp không dám ngồi dưới tháp ăn vì chưa được đức Phật cho phép, đến bạch. Phật dạy:

«Cho phép ngồi ăn, nhưng không được bỏ cỏ rác, và thức ăn dư làm dơ đất.»

Bấy giờ có một tỳ-kheo nhất tọa thực, hoặc tỳ-kheo tác pháp dư thực không ăn, hay có tỳ-kheo bệnh không dám lưu lại thức ăn dư và cỏ làm dơ đất, đức Phật cho phép dồn lại một bên chân rồi đem ra ngoài bỏ. Phật dạy:

Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được ngồi ăn dưới tháp lưu lại cỏ và thức ăn dư làm dơ đất, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố ý ngồi dưới tháp ăn, rồi bỏ lại đồ ăn dư làm dơ đất, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc có chứng bệnh thế nào đó, hoặc gom lại một chỗ rồi đem ra ngoài bỏ thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 68


aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo khiêng tử thi đi qua dưới tháp làm cho thần bảo vệ tháp giận.

Các tỳ-kheo biết, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết tàm quý, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo: «Tại sao các thầy khiêng tử thi đi qua dưới tháp Phật?»

Quở trách rồi, tỳ-kheo thiểu dục đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trước, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được khiêng tử thi đi qua dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố tâm khiêng tử thi đi qua dưới tháp, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố tâm làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố tâm làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc có chứng bệnh thế nào đó, hoặc khi cần phải đi qua con đường này, hoặc bị cường lực dẫn đi thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 69.


Không được chôn tử thi dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 70

Không được thiêu tử thi dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 71

Không được đối diện tháp thiêu tử thi, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 72

Không được thiêu tử thi quanh bốn phía tháp, làm mùi hôi xông vào, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 73

aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo mang áo và giường của người chết đi qua dưới tháp, làm cho vị thần nơi trú xứ đó giận.

Các tỳ-kheo biết, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết tàm quý, hiềm trách, rồi đến chỗ đức Thế tôn đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… như trước, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được mang áo và giường của tử thi đi qua dưới tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Bấy giờ, có các tỳ-kheo mặc y phấn tảo, nghi không dám mang loại y như vậy đi ngang qua dưới tháp. Tỳ-kheo bạch Phật, đức Phật dạy:

«Cho phép giặt, nhuộm, xông mùi hương rồi mang qua.»

Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được mang áo và giường của người chết đi ngang qua dưới tháp, trừ khi đã giặt, nhuộm và xông hương, thức-xoa-ca-la-ni.

Nếu tỳ-kheo cố ý mang y phấn tảo của người chết, không giặt, không nhuộm, không xông hương, đi ngang qua dưới tháp, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố tâm làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố tâm làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc là có chứng bệnh thế nào đó, hoặc đã giặt nhuộm xong thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 74


Không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 75

Không được đại tiểu tiện trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 76

Không được đại tiểu tiện quanh bốn phía tháp Phật khiến mùi hôi xông vào, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 77

Không được đem tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

Có 3 trường hợp sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó, hoặc trên đường phải [712a1] đi ngang qua đó, hay bị cường lực bắt đi; không phạm.

ĐiỀU 78

Không được nhăm nhành dương[86] dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 79

Không được nhăm nhành dương trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 80

Không được nhăm nhành dương xung quanh bốn phía tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 81

Không được khạc nhổ dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 82

Không được khạc nhổ trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni*.

ĐiỀU 83

aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp Phật.

Các tỳ-kheo thấy, cơ hiềm: «Tại sao các thầy khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp?»

Các tỳ-kheo đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được khạc nhổ quanh bốn phía tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố ý khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó, hoặc do chim quạ ngậm đến bên tháp, hoặc là gió thổi đến thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 84


aaaaMột thời, đức Một thời đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo ngồi duỗi chân về phía tháp.

Các tỳ-kheo thấy, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách, liền đến chỗ đức Thế tôn đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được ngồi duỗi chân về phía tháp, thức-xoa-ca-la-ni*.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Có tỳ-kheo nghi, cách xa tháp không dám ngồi duỗi chân, đức Phật dạy:

«Trung gian có khoảng cách thì cho phép.»

Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được ngồi duỗi chân về phía tháp, trừ có khoảng cách, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố ý ngồi duỗi chân về phía tháp, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó, hoặc trung gian có khoảng cách, hay bị cường lực bắt thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 85


aaaaMột thời, đức Phật ở nước Câu-tát-la, trên đường du hành đến thôn Đô tử bà-la-môn. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo an trí tháp Phật nơi phòng dưới, mình ở phòng trên.

Các tỳ-kheo biết, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết tàm quý, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo rồi, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch đầy đủ lên đức Thế tôn.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được an trí tháp Phật nơi tầng dưới, mình ở tầng trên, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo cố ý để tháp Phật nơi tầng dưới, mình ở tầng trên, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di ni đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh thế nào đó. Hoặc vì mạng nạn, phạm hạnh nạn, thỉnh tháp Phật để nơi phòng dưới, mình ở nơi phòng trên thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 86
[87]

Không được nói pháp cho người ngồi mình đứng, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)[88]

Có người nghi không dám vì người bệnh nói pháp. Đức Phật dạy:

«Từ nay về sau nên nói giới như vầy»:

Không được nói pháp cho người ngồi mà mình đứng, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo nào người ngồi mình đứng, cố ý vì họ nói pháp phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi, đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: Hoặc mắc chứng bệnh thế nào đó, hoặc Vua, Đại thần của Vua bắt nói thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.


ĐiỀU 87[89]

Không được nói pháp cho người nằm mà mình ngồi, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 88

Không được nói pháp cho người ngồi chính giữa, còn mình ngồi một bên, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 89[90]

Không được nói pháp cho người ngồi chỗ cao, còn mình ngồi chỗ thấp, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 90 [91]

Không được nói pháp cho người đi trước, còn mình đi phía sau, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 91[92]

Không được nói pháp cho người ở chỗ kinh hành cao, còn mình ở chỗ kinh hành thấp, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)



ĐiỀU 92[93]

Không được nói pháp cho người ở giữa đường, còn mình ở bên đường, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni.

(như trên)

ĐiỀU 93

aaaaMột thời, đức Phật ở vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo nắm tay nhau đi ngoài đường, hoặc ngăn chận những nam nữ khác. Các cư sĩ thấy, cơ hiềm nói: «Sa-môn Thích tử không biết tàm quý, bên ngoài tự xưng là tôi biết chánh pháp, mà đi ngoài lộ nắm tay nhau như nhà Vua, Đại thần của Vua, hào quý trưởng giả. Như vậy có gì là Chánh pháp?»

Các tỳ-kheo nghe, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách nhóm sáu tỳ-kheo rồi, đến chỗ đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi qua một bên, đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế tôn một cách đầy đủ.

Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách nhóm sáu tỳ-kheo… cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không nên nắm tay nhau khi đi đường, thức-xoa-ca-la-ni.

Tỳ-kheo cố ý làm, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di-ni, đột-kiết-la.

Sự không phạm: hoặc mắc chứng bệnh thế nào đó, hoặc có vị tỳ-kheo mắt bị mờ, cần dìu để đi thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 94
[94]

aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một tỳ-kheo nhập hạ an cư ở trên một cây đại thọ. Từ trên cây đại thọ đại tiểu tiện xuống, khiến vị thọ thần nổi giận, muốn đoạn mạng căn vị tỳ-kheo kia.

Các tỳ-kheo nghe, hiềm trách rồi đến bạch đức Thế tôn. Đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách vị tỳ-kheo này:

«Việc các ông làm là sai quấy, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải tịnh hạnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm ĐiỀU không nên làm. Tại sao lại từ trên cây đại tiểu tiện xuống?»

Quở trách rồi, Phật bảo các tỳ-kheo:

«Từ nay về sau, không được an cư trên cây. Không được đại tiểu tiện xung quanh cây. Nếu chỗ đã có sẵn thì đại tiểu tiện không phạm.»

Dùng vô số phương tiện quở trách rồi, đức Phật bảo các tỳ-kheo:

«Kẻ ngu si này, là nơi trồng nhiều giống hữu lậu, là kẻ phạm giới này đầu tiên. Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được leo lên cây cao quá đầu người, thức-xoa-ca-la-ni.

Thế tôn vì các tỳ-kheo kiết giới như vậy. Bấy giờ có các tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la du hành, trên đường đi gặp phải ác thú khủng bố, leo cao lên cây ngang người với ý nghĩ: «Đức Thế tôn chế giới không được leo cây cao quá đầu người.» Do đó không dám leo lên, nên họ bị ác thú hại. Các tỳ-kheo đem nhơn duyên này bạch Phật, Phật dạy:

«Từ nay về sau cho phép các tỳ-kheo vì mạng nạn, phạm hạnh nạn, được phép leo lên cây cao quá đầu người.»

Từ nay về sau nên nói giới như vầy:

Không được leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo cố ý leo lên cây cao quá đầu người, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố tâm làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc có chứng bệnh như thế nào đó, hay vì mạng nạn, phạm hạnh nạn, leo lên cây cao quá đầu người thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới, si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 95


aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nan-đà bỏ bình bát vào trong đãy, xỏ vào đầu gậy vác trên vai mà đi. Các Cư sĩ thấy, tưởng là người của nhà quan, đứng tránh bên đường, tìm chỗ vắng núp để xem. Thì ra, khi đến mới biết đó là Bạt-nan-đà. Các cư sĩ cơ hiềm: «Sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, tại sao bỏ bình bát vào đãy, xỏ vào gậy, vác trên vai mà đi giống như người của nhà quan khiến chúng ta phải tránh bên lề đường?»

Các tỳ-kheo nghe, quở trách rồi đến bạch lên đức Thế tôn, đức Thế tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, quở trách Bạt-nan-đà:

«Việc ông làm là sai quấy, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải tịnh hạnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm ĐiỀU không nên làm. Tại sao ông bỏ bình bát vào trong đãy, xỏ vào đầu gậy, vác trên vai đi, khiến cho các cư sĩ phải tránh bên lề đường?»

Dùng vô số phương tiện quở trách rồi, Phật bảo các tỳ-kheo:

«Kẻ ngu si này, là nơi trồng nhiều giống hữu lậu, là kẻ phạm giới này ban đầu. Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được bỏ bình bát vào đãy, xỏ vào đầu gậy quẩy trên vai mà đi, thức-xoa-ca-la-ni*.

Nếu tỳ-kheo cố ý làm phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc mắc phải chứng bệnh như thế nào đó, hoặc bị cường lực bắt ép hoặc bị trói, hay vì mạng nạn, phạm hạnh nạn thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.
 
K

kequaduong

Guest

ĐiỀU 96
[95]

aaaaMột thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có vị trong nhóm sáu tỳ-kheo vì người cầm gậy, không cung kính mà nói pháp.

Các tỳ-kheo biết, quở trách như trên rồi, đến bạch đức Thế tôn. Đức Thế tôn cũng quở trách… như trên, cho đến câu «Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo kiết giới gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp tồn tại lâu dài.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Không được nói pháp cho người cầm gậy, thức-xoa-ca-la-ni*.

Có vị nghi, không dám vì người bệnh cầm gậy nói pháp, đức Phật dạy:

Vì người bệnh thì không phạm. Từ nay về sau ta vì các tỳ-kheo kiết giới:

Không được nói pháp cho ngươì cầm gậy, không cung kính, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

Tỳ-kheo nào cố ý vì người cầm gậy mà nói pháp, phạm đột-kiết-la cần phải sám. Do bởi cố ý làm nên phạm phi oai nghi đột-kiết-la. Nếu không cố ý làm, phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo-ni cho đến sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: hoặc bị chứng bệnh thế nào đó, hay vì nhà Vua, Đại thần của Vua nói thì không phạm.

Người không phạm: phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; si cuồng, loạn tâm, thống não, bức bách.


ĐiỀU 97[96]

Không được nói pháp cho người cầm kiếm, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 98[97]

Không được nói pháp cho người cầm mâu,[98] trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 99[99]

Không được nói pháp cho người cầm dao, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)

ĐiỀU 100[100]

Không được nói pháp cho người cầm dù, trừ người bệnh, thức-xoa-ca-la-ni*.

(như trên)
 
K

kequaduong

Guest

CHÚ THÍCH
:

[1] Lời chua nhỏ trong bản Hán: «Tiếng của người Hồ (chỉ Ấn độ) chính xác phải nói là thức-xoa-ca-la-ni . Những chỗ nào đọc và viết, nên theo từ này. Vì không thể nhất nhất đều theo văn mà sửa, do đó mà cứ để nguyên như vậy. Đan bản gọi Trăm pháp Chúng học.» - Thức-xoa-ca-la-ni, phiên âm Phạn: śikṣā karaṇīyā, «ĐiỀU cần phải học.» Căn bản: Chúng đa học pháp 眾多學法. Các bộ khác: Chúng học pháp 眾學法. Pali: sekhiyā dhammā (sikkhā karaṇīyā). Bản Skt. saṃbahulāḥ śaikṣā dharmāḥ (śikṣā karaṇīyā). Cf. Ngũ phần 10 (T22n1421, tr.73c27); Tăng kỳ 21 (T22n1425, tr.399b07); Thập tụng 19 (T23n1435, tr.133b14); Căn bản 50 (T23n1442, tr.901b17). Pali, Vin. iv. 185.

[2] Tăng kỳ, ĐiỀU 1; Thập tụng, ĐiỀU 12.

[3] Xem Ch.v, Ba-dật-đề 88 & cht.461.

[4] Pali: puratopi pacchatopi olambentā, quấn nội y để phía trước, phía sau thòng xuống.

[5] Pali, Sik. 1: parimaṇḍalaṃ nivāsessāmi, tôi sẽ quấn nội y tròn trịa.

[6] Thức-xoa-ca-la-ni 式叉迦羅尼. Tứ phần tỳ-kheo giới bản (No 1429) và Tứ phần Tăng giới bản (No 1430) đều nói «ưng đương học 應當學.» Pali: sikhkā karaṇīyā.

[7] Hán: ưng sám đột-kiết-la 應懺突吉羅. Tứ phần phân biệt hai loại đột-kiết-la: nếu cố ý, phạm đột-kiết-la cần phải sám hối. Nếu không cố ý, phạm đột-kiết-la chỉ phải tự trách tâm. Xem thêm cht. 8 dưới.

[8] Ngũ phần (T22n1421, tr.74a13): «Nếu không hiểu, không hỏi mà làm như vậy, phạm đột-kiết-la. Hiểu, nhưng không cẩn thận, làm như vậy phạm đột-kiết-la. Hiểu, nhưng khinh giới, khinh người mà làm như vậy, phạm ba-dật-đề.» Tăng kỳ: việt học pháp 越學法, không phân biệt hiểu hay không hiểu, cố ý hay không cố ý. Pali: anādariyaṃ paṭicca ...āpatti dukkaṭassa. anāpatti asañcicca, «...vì thiếu cung kính, phạm đột-kiết-la. Không cố ý, không phạm.»

[9] Tăng kỳ, ĐiỀU 2. Thập tụng, ĐiỀU 16; Căn bản, ĐiỀU 8. Pali, Sikkhā 2.

[10] Hán: trước y 著衣. Pali: pārupanti, quấn (thượng) y, phân biệt với nivāsenti, quấn nội y.

[11] Pali, Sikkhā. 2: parimaṇḍalaṃ pārupissāmi, tôi sẽ quấn (thượng) y cho tròn trịa. Thập tụng (T23n1435, tr.134a23): châu tề bị y ưng đương học 周齊被衣應當學.

[12] Ngũ phần, ĐiỀU 15; Tăng kỳ, ĐiỀU 8; Thập tụng, ĐiỀU 41; Căn bản, ĐiỀU 16.

[13] Pali, Sikkhā. 9, ukkhittakāya antaraghare gacchati, vén y lên mà đi vào nhà thế tục. Sớ giải, VA 891: ekato vā ubhato vā ukkhittacīvaro hutvā ti attho, y được vén lên ở một bên, hay cả hai bên. Cf. Ngũ phần (T22n1421, tr.74a22): «...hoặc vắt ngược y lên vai phải... hoặc vắt ngược y lên vai trái... hoặc vắt ngược y lên cả hai vai...» Thập tụng (T23n1435, tr.136b04): «Lấy y trùm vai phải vắt cả lên vai trái.»

[14] Cf. Thập tụng, ĐiỀU 37-38: tả hữu phản sao y 左右反抄衣, vắt ngược y hai bên; ĐiỀU 39-40: thiên sao y 偏抄衣, vắt ngược y một bên.

[15] Pali, Sikkhā 10

[16] Ngũ phần, ĐiỀU 43; Tăng kỳ, ĐiỀU 7; Thập tụng, ĐiỀU 30; Căn bản, ĐiỀU15. Pali, Sikkhā 23.

[17] Thập tụng ĐiỀU 29-30: phú đầu 覆頭; ĐiỀU 31-32: bộc đầu 襆頭.

[18] Pali, Sikkhā 24, Bản Hán, hết quyển 19.

[19] Khiêu hành 跳行.

[20] Khiêu hành 跳行. Cf. Căn bản 50 (T23n1442, tr.902a11).

[21] Ngũ phần 10 (T22n1421, tr.74b01), ĐiỀU 40: tốn hành 蹲行, đi chồm hỗm (?). Cf. Cản bản 50 (T23n1442, tr.902a06). Thập tụng (T23n1435, tr.135b16), ĐiỀU 27. Pali: ukkuṭikāya.

[22] Ngũ phần 10 (T22n1421, tr.74a26), ĐiỀU 29. Tăng kỳ 21 (T22n1425, tr.401a14), ĐiỀU 10. Thập tụng 19 (T23n1435, tr.136a01), ĐiỀU 35. Căn bản 50 (T23n1442, tr.901c28), ĐiỀU18. Pali, Sikkhā 21.

[23] Ngũ phần, ĐiỀU 19; Tăng kỳ, ĐiỀU11; Căn bản, ĐiỀU 25; Thập tụng, ĐiỀU 53. Pali, Sikkhā 15.

[24] Dao thân hành 搖身行. Pali: kāyappacālaka, dao động thân.

[25] Pali, Sikkhā 17; Ngũ phần, ĐiỀU 33; Tăng kỳ, ĐiỀU 13; Thập tụng, ĐiỀU 47; Căn bản, ĐiỀU 26.

[26] Trạo tý hành 掉臂行; vừa đi vừa vung tay, đánh đòng xa. Pali: bāhuppacalakaṃ.

[27] Pali: Sikkhā 3; Ngũ phần, ĐiỀU 11; Tăng kỳ, ĐiỀU 3; Thập tụng, ĐiỀU 17; Căn bản, ĐiỀU 12.

[28] Pali, Sikkhā 7; Ngũ phần ĐiỀU 37; Tăng kỳ, ĐiỀU 4; Thập tụng, ĐiỀU 21.

[29] Ngũ phần, ĐiỀU 47; Tăng kỳ, ĐiỀU 5; Căn bản, ĐiỀU 13; Thập tụng, ĐiỀU 27; Pali, Sikkhā 13.

[30] Hán: tĩnh mặc 靜默.

[31] Pali. Sikkhā 11.

[32] Pali, Sikkhā 27; Ngũ phần, ĐiỀU 51; Tăng kỳ, ĐiỀU 24; Thập tụng, ĐiỀU 62; Căn bản, ĐiỀU 43.

[33] Pali, Sikkhā 30; Ngũ phần, ĐiỀU 52; Căn bản, ĐiỀU 40; Thập tụng, diều 64.

[34] Pali, Sikkhā 29. Thập tụng, ĐiỀU 60.

[35] Pali, samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ, nhận phần canh vừa phải.

[36] Pali, Sikkhā 34; Ngũ phần, ĐiỀU 53; Tăng kỳ, ĐiỀU 25; Thập tụng, ĐiỀU 61.

[37] Pali, Sikkhā 33. Thập tụng, ĐiỀU 83.

[38] Pali: tahaṃ tahaṃ omasitvā piṇḍapātaṃ bhuñjanti, thọc chỗ này chỗ kia mà ăn.

[39] Pali, sapadānaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmi. Giải thích: sapadānanti tattha tattha odhiṃ akatvā anupṭipāṭiya, theo thứ lớp, không phân biệt lựa chọn chỗ này, chỗ kia.

[40] Pali, Sikkhā 35.

[41] Pali: thūpakato omaditvā, moi trên chóp (bát). Sớ giải: thūpakatoti matthakato vemajjhato ti attho, moi chóp bát, tức moi giữa bát.

[42] Pali, Sikkhā 37; Ngũ phần, ĐiỀU 79; Tăng kỳ, ĐiỀU 44; Thập tụng, ĐiỀU 84.

[43] Pali, Sikkhā 36; Ngũ phần, ĐiỀU 79; Tăng kỳ, ĐiỀU 44; Thập tụng, ĐiỀU 80.

[44] Pali: sūpaṃ vā vyañjanaṃ vā ... bhiyyokamyataṃ upādāyāti, để nhận thêm canh hay gia vị.

[45] Pali, Sikkhā 38; Ngũ phần, ĐiỀU 80; Tăng kỳ, ĐiỀU 42; Căn bản, ĐiỀU 65; Thập tụng, ĐiỀU 81.

[46] ujjhānasaññī paresaṃ pattaṃ olokessāmi, liếc nhìn vào bát người khác với tâm tưởng bất mãn.

[47] Pali, Sikkhā 32; Ngũ phần, ĐiỀU 58; Tăng kỳ, ĐiỀU 43; Căn bản, ĐiỀU 64; Thập tụng, ĐiỀU 82.

[48] Pali, Sikkhā 39; Ngũ phần, ĐiỀU 64; Tăng kỳ, ĐiỀU 29; Căn bản, ĐiỀU 45; Thập tụng, ĐiỀU 64.

[49] Pali, Sikkhā 41; Ngũ phần, ĐiỀU 66; Tăng kỳ, ĐiỀU30; Căn bản, ĐiỀU 47; Thập tụng, ĐiỀU 66.

[50] Pali, Sikkhā 43; Ngũ phần, ĐiỀU 68; Tăng kỳ, ĐiỀU 33; Căn bản, ĐiỀU 48; Thập tụng, ĐiỀU 67.
 
K

kequaduong

Guest
[51] Pali, Sikkhā 44.

[52] Pali, Sikkhā 48; Ngũ phần, ĐiỀU 59; Tăng kỳ, ĐiỀU 40; Căn bản, ĐiỀU 55. Thập tụng, ĐiỀU 67.

[53] Trong giới văn: làm rơi vải cơm. Xem cht. 54 dưới.

[54] Hán: di lạc 遺落. Pali: sitthāvakārakaṃ, làm rơi vải hạt cơm. Giải thích: sitthaṃ avakiritvā avakiritvā, làm rơi hạt cơm chỗ này chỗ kia. Cf. Thập tụng (T23n1435, tr.138a18): bán giảo thực 半咬食, «cắn một nữa (vắt cơm) mà ăn».

[55] Bản Hán, hết quyển 20.

[56] Pali, Sikkhā 46; Ngũ phần, ĐiỀU 69; Tăng kỳ, ĐiỀU 27; Căn bản, ĐiỀU 56; Thập tụng, ĐiỀU 71.

[57] Thập tụng (T23n1435, tr.138b13): «Bỏ cơm đầy miệng rồi mới nuốt.»

[58] Trong bản Hán: thi-xoa-kế-lại-ni 尸叉罽賴尼. Các đoạn sau đều giống như vậy.

[59] Pali, Sikkā 50 (cf. 51); Ngũ phần, ĐiỀU 62; Tăng kỳ, ĐiỀU 37; Căn bản, ĐiỀU 51; Thập tụng, ĐiỀU 70.

[60] Pali, Sikkhā 50: capucapukārakaṃ, nhai có tiềng «cháp cháp.»

[61] Pali, Sikkhā 51, cf. 50.

[62] Hán: đại hấp phạn thực 大噏飯食. Pali, Sikkhā 51: surusurukārakaṃ khīraṃ pivanti, húp sữa thành tiếng «xu-ru-xu-ru.»

[63] Pali, Sikkhā 52; Ngũ phần ĐiỀU 63; Tăng kỳ, ĐiỀU 35; Căn bản, ĐiỀU 61; Thập tụng, ĐiỀU 74.

[64] Thập tụng: để thủ thực 舐手食, liếm tay mà ăn. Pali, Sikkhā 52: hatthanillehakaṃ, liếm tay. Cf. Sikkhā 49: jivhānicchārakaṃ, le lưỡi. Sikkhā 53: pattanillehakaṃ, liếm bát.

[65] Pali, Sikkhā 47; Ngũ phần, ĐiỀU 72; Tăng kỳ, ĐiỀU 41; Căn bản, ĐiỀU 62; Thập tụng, ĐiỀU 76.

[66] Chấn thủ 振手. Thập tụng (T23n1435, tr.138c02): thức ăn dính tay, rảy cho rơi.

[67] Pali, Sikkhā 55; Ngũ phần, ĐiỀU 60; Tăng kỳ, ĐiỀU 46; Căn bản, ĐiỀU 66; Thập tụng, ĐiỀU 78.

[68] Pali, Sikkhā 56; Ngũ phần, ĐiỀU 76; Tăng kỳ ĐiỀU 47; Căn bản, ĐiỀU 67; Thập tụng, ĐiỀU 84.

[69] Pali: nước rửa bát có lẩn hạt cơm. Thập tụng (T23n1435, tr.139a20): phải gia chủ chỗ đổ.

[70] Pali, Sikkhā 74; Ngũ phần, ĐiỀU 83; Tăng kỳ, ĐiỀU 64; Căn bản, ĐiỀU 96; Thập tụng, ĐiỀU 104.

[71] Pali, Sikkhā 75; Ngũ phần, ĐiỀU 82; Tăng kỳ, ĐiỀU 65; Căn bản, ĐiỀU 97; Thập tụng, ĐiỀU 105.

[72] Pali, Sikkhā 73; Ngũ phần, ĐiỀU 81; Tăng kỳ, ĐiỀU 66; Căn bản, ĐiỀU 95; Thập tụng, ĐiỀU 106.

[73] Ngũ phần, ĐiỀU 93; Căn bản, ĐiỀU 97; Thập tụng, ĐiỀU 95, 96, 97.

[74] Thập tụng, ĐiỀU 91. Tăng kỳ, ĐiỀU 53; Căn bản, ĐiỀU 78. Pali, Sikkhā 67.

[75] Hán: phú đầu 覆頭. Pali: oguṇṭhitasīso nāma sasīsaṃ pāruto vuccati, trùm đầu, nghĩa là lấy vạt áo trùm kín đầu.

[76] Pali, Sikkhā 66; Tăng kỳ, ĐiỀU 54; Căn bản, ĐiỀU 92; Thập tụng, ĐiỀU 92.

[77] Hán: lý đầu 裹頭. Pali: veṭhitasīso nāma kesantaṃ na dassapetvā veṭhito hoti, quấn đầu, nghĩa là quấn khăn không để cho thấy chân tóc.

[78] Thập tụng, ĐiỀU 94; Căn bản, ĐiỀU 81.

[79] Pali, Sikkhā 62; Ngũ phần, ĐiỀU 85; Tăng kỳ, ĐiỀU 51; Căn bản, ĐiỀU 88; Thập tụng, ĐiỀU 98.

[80] Hán: cách tỷ 革屣. Pali: upāhana, giày hay dép (thường làm bằng da).

[81] Pali, Sikkhā 61; Ngũ phần, ĐiỀU 84; Tăng kỳ, ĐiỀU 65; Căn bản, ĐiỀU 87; Thập tụng, ĐiỀU 99.

[82] Hán: mộc kịch 木屐. Thập tụng: kịch 屐. Pali: pādukā.

[83] Pali, Sikkhā 63; Ngũ phần, ĐiỀU 96; Tăng kỳ, ĐiỀU 62; Căn bản, ĐiỀU 84; Thập tụng, ĐiỀU 85.

[84] Hán: kỵ thừa (thặng) 騎乘. Pali: yānaṃ nāma vayhaṃ ratho sakaṭaṃ sandamānikā sivikā pāṭaṅkī, xe cộ: cộ (cáng), xe ngựa kéo, xe chở hàng, chiến xa, kiệu, ghế khiêng.

[85] Phú-la; Phiên phạm ngữ (T54n2130, tr.987b13): «Phú-la, dịch là mãn 滿 (dẫn Thập tụng 9, T23n1435, tr.65a15: dùng da thuộc khâu lại làm giày phú-la).»

[86] Tức đánh (xỉa) răng, súc miệng.

[87] Pali, Sikkhā 70; Ngũ phần, ĐiỀU 87; Tăng kỳ, ĐiỀU 48; Căn bản, ĐiỀU 73; Thập tụng, ĐiỀU 88.

[88] Từ ĐiỀU 86-92, xem các ĐiỀU 52-59 trên. Có sự sắp xếp lẫn lộn trong bản Hán.

[89] Pali, Sikkhā 64; Ngũ phần, ĐiỀU 89; Tăng kỳ, ĐiỀU 49; Căn bản, ĐiỀU 74; Thập tụng, ĐiỀU 90.

[90] Pali, Sikkhā 69; Ngũ phần, ĐiỀU 88; Tăng kỳ, ĐiỀU 50; Căn bản, ĐiỀU 75; Thập tụng, ĐiỀU 89.

[91] Pali, Sikkhā 71; Ngũ phần, ĐiỀU 90; Tăng kỳ, ĐiỀU 61; Căn bản, ĐiỀU 76; Thập tụng, ĐiỀU 86

[92] Thập tụng, ĐiỀU 89.

[93] Pali, Sikkhā 92; Ngũ phần, ĐiỀU 91; Tăng kỳ, ĐiỀU 63; Căn bản, ĐiỀU 77; Thập tụng, ĐiỀU 87.

[94] Ngũ phần, ĐiỀU 84; Căn bản, ĐiỀU 98; Thập tụng, ĐiỀU 107.

[95] Pali, Sikkhā 58; Ngũ phần, ĐiỀU 97; Tăng kỳ, ĐiỀU 59; Thập tụng, ĐiỀU 100.

[96] Thập tụng, ĐiỀU 102.

[97] Pali, Sikkhā 60; Ngũ phần, ĐiỀU 99; Tăng kỳ, ĐiỀU 64; Căn bản, ĐiỀU 96; Thập tụng, ĐiỀU 103.

[98] Pali: āvudhapāṇi, cầm vũ khí. Thập tụng: cầm thuẫn, cầm cung tên.

[99] Pali, Sikkhā 59; Ngũ phần, ĐiỀU 98; Tăng kỳ, ĐiỀU 57; Thập tụng, ĐiỀU 102.

[100] Pali, Sikkhā 57; Ngũ phần, ĐiỀU 95; Tăng kỳ, ĐiỀU 60; Căn bản, ĐiỀU 94; Thập tụng, ĐiỀU 101.
 
K

kequaduong

Guest
TỨ PHẦN LUẬT 四分律 (Chương 8)


CHƯƠNG VIII

BẢY DIỆT TRÁNH[1]​

Bảy pháp hối quá như vậy nửa tháng, nửa tháng tụng một lần, chép ra từ trong giới kinh. Nếu có việc tranh cãi khởi lên, liền phải trừ diệt.

ĐIỀU 1.
Nên sử dụng pháp hiện tiền tỳ-ni thì sử dụng pháp hiện tiền tỳ-ni.

ĐIỀU 2.
Nên sử dụng pháp ức niệm tỳ-ni thì sử dụng pháp ức niệm tì-ni.

ĐIỀU 3.
Nên sử dụng pháp bất si tỳ-ni thì sử dụng pháp bất si tỳ-ni.

ĐIỀU 4.
Nên sử dụng pháp tự ngôn trị thì sử dụng pháp tư ngôn trị.

ĐIỀU 5.
Nên sử dụng pháp mích tội tướng thì sử dụng pháp đa mích tội tướng.

ĐIỀU 6.
Nên sử dụng pháp đa nhơn mích tội thì sử dụng pháp đa nhơn mích tội.

ĐIỀU 7.
Nên sử dụng pháp như thảo phú địa thì sử dụng pháp như thảo phú địa.[2]


------------------------------------------

Chú thích :

[1] Ngũ phần 10 (T22n1421, tr.77b06); Thập tụng 20 (T23n1435, tr.141b12); Căn bản 50 (T23n1442, tr.904b5). Pali: adhikaraṇasamathā, Vin. iv. 207.

[2] Bản Hán, hết quyển 21.

12247ca7cac7feab.gif
 
Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên