vienquang2

TƯ LIỆU THIỀN (tt) .- TAM THIỀN

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
III.- TAM THIỀN.

Đạo Lý Nhân Sinh
+++++++++++++++++++++++++

1.- Tam Thiền – xả niệm LẠC trú .

Tam Thiền – an trú nơi xả niệm lạc trú – là một trạng thái thiền định sâu sắc, nơi tâm buông hẳn những rung động HỶ để an trụ trong sự quân bình và sáng tỏ.

+ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trọn vẹn về Tam Thiền: ý nghĩa, nền tảng để đạt được, kinh văn giải thích, phương pháp thực hành, cũng như cách áp dụng Tam Thiền vào đời sống hiện đại.

- Bạn sẽ thấy rằng Tam Thiền không chỉ dành cho những bậc thiền sư, mà là khả năng bất cứ ai cũng có thể chạm tới khi kiên nhẫn và tỉnh thức.


+ Trong truyền thống thiền định của Phật giáo, tứ thiền được xem như bốn bậc thang dẫn tâm từ sự an tĩnh ban đầu đến trạng thái tịch tịnh tối thượng. Nếu Sơ Thiền là bước chân đầu tiên, nhị thiền là sự lắng sâu của tâm cùng hỉ lạc tròn đầy thì .- Tam Thiên chính là thời điểm hành giả buông bỏ làn sóng HỶ.- an trú trong một cảm giác LẠC thuần tịnh và quân bình.

- Kinh văn mô tả giai đoạn này bằng cụm từ giàu ý nghĩa xả niệm lạc thú, tức là buông xả, giữ chánh niệm thanh tịnh. và an trú trong niềm LẠC nhẹ nhàng thấm khắp thân tâm.

+ Ý nghĩa của tam thiền không chỉ nằm ở sự truyền đồi nội tâm mà còn ở khả năng duy trì một tâm thế an nhiên không dao động trước các biến động bên ngoài. Đây là một trạng thái mà dù mọi ồn ào đã lắng xuống, hành giả vẫn còn đó một dòng suối an lạc chảy âm thầm nuôi dưỡng từng khoảnh khắc hiện tại.

- Trong đời thường có thể so sánh tam thiền như khi bạn rời xa tiếng ồn của Phố thị, bước vào một khu vườn yên tĩnh, ngồi xuống và cảm nhận toàn thân chìm trong làn gió mát, không phấn khích như lúc mới đến, nhưng sâu lắng, bền vững và tinh tế hơn.

- Bước vào Tam Thiên, hành giả không còn tìm kiếm cảm giác mạnh của Hỉ mà quay về với sự tĩnh lặng sáng suốt. Đây chính là nền móng để tiến tới Tứ Thiền, cũng là một dấu móc quan trọng trên con đường khai mở trí tuệ và tự do nội tâm.

- Trong lộ trình tứ thiền, tam thiền là bước ngoặt tinh tế nhưng đầy ý nghĩa. Nếu ở nhị thiền, hì và lạc vẫn song hành, hì như làn sóng cảm xúc dâng trào khi tâm an trú. Lạc là sự êm dịu lan khắp thân thì ở Tam Thiên hành giả buông bỏ HỶ để ở lại với LẠC Thuần Tịnh. Đây không phải là mất mát mà là sự tinh lọc, bớt đi một tầng rung động mạnh để tâm lắng xuống sâu hơn, nhẹ hơn và vững vàng hơn.

- Vai trò của Tam Thiền nằm ở chỗ nó dạy hành giả sống với sự quân bình tâm. Khi hì đã qua, tâm không còn những dao động tinh tế của phấn khởi, thay vào đó là sự an trú nơi XẢ. một thái độ không dính mắc, không loạn động.

+ Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật mô tả người ở Tam Thiền là xả niệm lạc trú, nghĩa là vẫn duy trì chánh niệm sáng suốt, nhưng thấm trong đó là niềm LẠC thanh khiết, không cần dựa vào bất kỳ kích thích hay điều kiện bên ngoài nào.

- Trong đời sống tu tập, khả năng an trú như vậy giúp tâm ít bị lay chuyển bởi khen chê, được mất. Người Đạt Tam Thiền có thể sống giữa thế gian mà vẫn giữ được sự yên tĩnh bên trong. Giống như mặt hồ dù có gió thổi cũng chỉ gợn rất nhẹ trên bề mặt, còn độ sâu thì vẫn nguyên vẹn. - Tam thiền cũng quan trọng vì nó là nền tảng vững chắc cho tứ thiền.

+ Nếu chưa thực sự buông được hỉ, tâm sẽ khó đạt được sự tịch tịnh toàn diện của tầng định cuối cùng.- Do đó, việc nắm vững và duy trì tam thiền không chỉ mang lại lợi ích ngay lập tức như sự an lạc bền bỉ và tỉnh giác sâu mà còn mở đường cho sự tiến bộ lâu dài trên con đường thiền định dẫn tới trí tuệ giải thoát.

+ Trong kinh Trung Bộ, bài Kinh An Chú Niệm và nhiều kinh khác thuộc hệ Pali, Đức Phật đã mô tả rõ ràng trạng thái tam thiền. Nguyên văn đoạn kinh thường được trích dẫn là: " vị tỳ kheo do ly hỉ chú xà, chánh niệm tình giác, thân cảm sự lạc mà các bậc thánh gọi là xà niệm lạc chú, chứng và an trú tam thiên ".

+ Đoạn kinh này cô đọng nhưng hàm chứa ba yếu tố then chốt: Ly hỉ trú xả, niệm tịnh và thân cảm sự lạc.

- Ly hỉ chú xả, - LY HỶ.- nghĩa là rời bỏ HỶ. Niềm vui tinh thần vốn xuất hiện mạnh mẽ ở nhị thiền để an trú trong trạng thái xả.

- XẢ ở đây không phải sự rừng dưng mà là sự quân bình tâm không còn rung động theo cảm xúc lên xuống.

- NIỆM TỊNH.- NIỆM là sự ghi nhớ, biết rõ hay tránh niệm. - NIỆM TỊNH.- là chánh niệm đã được gạn lọc, trong sáng, không bị lẫn với vọng tưởng hay dao động. Đây là
nền tảng để tâm vừa an trú vừa sáng tỏ.

- Thân cảm sự lạc, lạc ở đây là niềm an tịnh của thân và tâm, không còn kích thích của hì nhưng vẫn êm dịu, dễ chịu, thấm sâu vào từng cảm giác.

- LẠC này không tùy thuộc vào ngoại cảnh mà do định sinh, một trạng thái hoàn toàn nội tại. Các bậc thánh gọi trạng thái này là "Xả Niệm Lạc Trú ", vì nó vừa có sự xả bỏ, vừa có chánh niệm thanh tịnh, vừa có LẠC làm nền.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
2.- Đức Phật nhập Tam Thiền.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Soi11010


- Trong tiến trình tứ thiền, tam thiền là nấc thang giúp hành giả rời khỏi sự phấn khích vi tế để đạt tới sự tịch tịnh thuần khiết. Khi đọc và quán chiếu đoạn kinh này, ta thấy Đức Phật không chỉ mô tả một trải nghiệm nội tâm mà còn chỉ ra phương pháp biết khi nào cần buông, giữ niệm sáng và để lạc hiện diện một cách tự nhiên. Chính điều này làm cho tam thiền vừa mang giá trị thực hành, vừa là lời nhắc nhở về hướng đi của thiền định, từ thô đến tế, từ dao động đến tịch tịnh, từ vui thích đến an lạc sâu lắng.

- Một buổi sáng thanh tịnh khi ánh mặt trời mới chỉ vừa chạm nhẹ lên những cánh hoa xa la nở rộ.- Đức Phật cùng chư Tỳ Kheo dừng chân dưới tán cây lớn bên ngoài thành Cosambi.

- Hôm ấy ngài chuẩn bị thuyết một thời pháp đặc biệt cho một nhóm cư sĩ và tỳ kheo mới xuất gia, những người còn nhiều thắc mắc về con đường thiền định.

- Trước khi bắt đầu, Đức Phật ngồi xuống trên một tấm tọa cụ đơn sơ, điều chỉnh thân ngay ngắn, hai tay trồng lên nhau trong tư thế thiền.

- Theo lời kể lại trong truyền thống, tâm ngài lúc đó đã an trú vững vàng từ nhiều ngày tu tập. Khi hơi thở trở nên nhẹ như không, ngài hướng tâm vào sự buông bỏ hì.

- Niềm phấn khởi vi tế vốn vẫn còn từ tầng định trước, giống như người lắng nghe tiếng sóng và nhận ra khi nào biển thật sự lặng. Ngài buông chọn làn sóng ấy để tâm
chìm vào một trạng thái quân bình, nơi chỉ còn sự sáng tỏ và niềm lạc thuần khiết lan tỏa khắp thân.- Đó chính là tam thiền xà niệm Lạc Trú.

Chư tỳ kheo ngồi gần có thể cảm nhận một năng lượng lặng lẽ nhưng sâu xa tỏa ra từ Đức Phật.

- Không còn ánh hỉ dạng ngời như lúc ngài giảng pháp cho những người mới bước vào định mà thay vào đó là sự trầm tĩnh vững chắc khiến ai tiếp xúc cũng như được an ổn ngay trong khoảnh khắc. Cây xala dường như cũng hòa mình vào bầu không khí ấy.- Lá ngừng lay, hoa rơi chậm và tiếng chim bặt hẳn.

- Khi rời khỏi thiền, Đức Phật mở mắt nhìn các đệ tử với ánh mắt hiền hòa. Ngài kể rằng trạng thái vừa rồi là một phần của lộ trình tứ thiền, là bước thứ ba sau khi tâm đã an trú sâu trong nhị thiền.

+ Ở tam thiền, hành giả buông bỏ sự phấn khởi, để lại chỉ còn sự quân bình và chánh niệm thanh tịnh cùng một cảm giác lạc nhẹ nhàng thấm vào từng hơi thở. Ngài nhấn mạnh rằng đây không phải là điều xa vời.

- Ai biết buông, biết giữ tâm sáng đều có thể chạm tới. Câu chuyện ấy được truyền tụng không chỉ để tán thán thiền lực của Đức Phật mà còn như một lời nhắc cho người tu. - Định càng sâu không phải để tìm cảm giác mạnh mà để tâm trở nên trong sáng, an tĩnh và tự do hơn. Và đôi khi chỉ cần một khoảnh khắc tam thiên, ta đã có thể thấy thế giới này bớt ồn ào và lòng mình thì đầy ắp một dòng an lạc không gì lây chuyển.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
3.- LẠC thuần tịnh, XÃ & chánh niệm liên tục.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Thian511


- Định càng sâu không phải để tìm cảm giác mạnh mà để tâm trở nên trong sáng, an tĩnh và tự do hơn.

- Và đôi khi chỉ cần một khoảnh khắc tam thiên, ta đã có thể thấy thế giới này bớt ồn ào và lòng mình thì đầy ắp một dòng an lạc không gì lây chuyển.

Để bước vào tam thiền, hành giả cần xuất phát từ một nền tảng nhị thiền vững chắc.

- Ở nhị thiền, tâm đã rời bỏ TẦM & TỨ.- an trú trong hỉ và lạc do định sanh cùng nhất tâm vững vàng. - Đây là một trạng thái an lạc và sáng suốt hơn hẳn sơ thiền, nhưng vẫn còn một yếu tố tinh tế, có thể trở thành chướng ngại cho sự Tiến sâu hơn.

- HỶ trong nhị thiền là niềm phấn khởi, hoan hỉ tinh thần khi tâm an định. Nó là dấu hiệu tích cực khích lệ hành giả tiếp tục con đường thiền định. Tuy nhiên, Hì vẫn là một trạng thái có dao động dù rất nhẹ. Trong nội tâm, Hì giống như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ, phản chiếu ánh sáng lung linh nhưng chưa phải là sự phẳng lặng hoàn toàn.

+ Đề vào Tam Thiền, hành giả cần buông bỏ gợn sóng ấy để đạt tới một mặt nước tĩnh tuyệt đối.

- Điều này không có nghĩa là phủ nhận hì hay chống lại HỶ. Trái lại, hỉ cần được trân trọng như một phần của quá trình, nhưng đồng thời nhận ra rằng nếu bám vào nó, tâm sẽ không thể đi sâu hơn.

- Cần một sự buông nhẹ nhàng, không ép, không vội để hì tự tan biến, nhường chỗ cho lạc thuần tịnh và xà.

+ Một điều kiện quan trọng khác là chánh niệm liên tục. - Trong nhị thiên, chánh niệm đã tương đối vững, nhưng khi buông hỉ, nếu không giữ được niệm sáng, tâm có thể rơi vào hôn trầm hoặc tán loạn.- Do đó, hành giả phải duy trì sự tỉnh giác liên tục, quan sát tâm như người đứng bên bờ nhìn dòng sông chảy, không can thiệp nhưng cũng không rời mắt.

- Ngoài ra, thân thể cần hoàn toàn thư giãn. Khi còn một chút căng cứng, dòng lạc vi tế của Tam Thiền khó có thể lan khắp toàn thân.

- Việc luyện tập oai nghi, điều hòa hơi thở và thả lỏng từng phần cơ thể là nền tảng quan trọng.

* Tóm lại,: điều kiện để tiến từ nhị thiền lên tam thiền gồm nhị thiền vững chắc, nhận biết và buông bỏ hỉ, duy trì chánh niệm sáng và giữ thân tâm thư giãn trọn vẹn.

- Khi những yếu tố này chín mồi, sự chuyển từ hỉ sang lạc thuần tịnh sẽ diễn ra tự nhiên, giống như hoa nở khi đủ nắng và nước, không thể ép buộc phờ, nhưng chắc chắn sẽ đến.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
4.- LẠC ở TAM THIỀN.

Lạc của Tam Thiền là niềm an ổn tự nhiên, không cần nguyên nhân, không bị lây động và đó chính là sự chuẩn bị cho tâm tiến tới xả thuần tịnh của Tứ Thiền.

- Hiểu rõ hỉ và lạc giúp hành giả không dừng lại ở sự phấn khởi ban đầu mà tiếp tục hành trình hướng đến chiều sâu của định, nơi an lạc và trí tuệ có thể hiền lộ trọn vẹn.

- Trong mô tả kinh điển về tam thiên, cụm từ "Xả Niệm Lạc Trú" giữ vị trí trung tâm.- Nếu LẠC là cảm thọ êm dịu, thuần tịnh lan tỏa khắp thân tâm thì XÃ chính là trạng thái tâm quân bình, không dính mắc, không bị kéo theo bất kỳ cực đoan nào của cảm xúc.

- Ở tầng thiên này, xả không phải là sự thờ ơ hay vô cảm, mà là một loại bình thản sâu sắc, xuất phát từ trí tuệ thấy rõ bản chất vô thường của mọi hiện tượng, kể cả những cảm giác an lạc đang có mặt.

+ Trong nhị thiền, tâm vẫn còn dao động vi tế, vì hì, niềm phấn khởi, dù trong sáng nhưng vẫn mang tính kích thích.

+ Khi bước sang Tam Thiền, hì được buông bỏ, chỉ còn lại lạc và xả. Xả đóng vai trò như một tấm nền vững chắc, giữ cho lạc không bị biến dạng thành sự hưởng thụ và giúp chánh niệm duy trì trong sáng.

- Nhờ xả, hành giả không còn phải nắm giữ cảm giác lạc, cũng không sợ mất nó tâm, chỉ đơn giản an trú, quan sát và để mọi thứ tự nhiên hiện hữu.

- Kinh Tăng Chi Bộ có câu: "Xả không dính mắc, không loạn động, không cao thấp". - Điều này nghĩa là tâm ở trong xả không bị lôi kéo , không khởi niệm tìm kiếm hay tránh né, cũng không dao động trước sự thay đổi của cảm thọ. Xả giống như bầu trời rộng, mây có thể đến,mây có thể đi nhưng bầu trời vẫn bao la và không bị ảnh hưởng.

- Ví dụ đời thường có thể giúp hình dung xả như khi bạn ngồi bên một dòng sông, nhìn nước trôi, bạn không cố giữ lại giọt nước nào, cũng không muốn đẩy nhanh dòng chảy chỉ đơn giản nhận biết và để nó diễn ra.

- Tương tự trong tam thiền, hành giả cảm nhận lạc nhưng không còn khởi tâm muốn kéo dài hay tăng cường nó. Và chính vì vậy lạc lại trở nên sâu và bền hơn.

* Một điều quan trọng là xả trong tam thiền khác với sự thụ động hay buông xuôi. Đây là xả của sự tình thức đi cùng với niệm tịnh, tránh niệm sáng rõ. Tâm vẫn hoàn toàn hiện diện, biết từng cảm giác vi tế nhưng không bị trói buộc bởi bất cứ thứ gì. Xà như vậy là biểu hiện của sức mạnh nội tâm, không phải của sự bỏ mặc. Chính yếu tố xả này khiến tam thiền trở thành nền tảng quan trọng cho tứ thiền.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
5.- Trong tam thiền NIỆM không hề mất đi mà ngược lại còn tinh tế và sắc bén hơn.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Thian_16

Khi tâm đã thuần thục trong xả, việc buông bỏ cả lạc để đạt tới xả thuần tịnh, nơi không còn bất kỳ dao động cảm thọ nào sẽ diễn ra tự nhiên. Như vậy có thể nói xả trong tam thiền là chiếc cầu nối đưa hành giả từ niềm an lạc thanh khiết đến tịch tịnh tuyệt đối.

- Trong cụm từ kinh điển xả niệm lạc chú.- mô tả tam thiền : NIỆM TỊNH chính là yếu tố bảo đảm cho trạng thái định này luôn sáng rõ, không rơi vào hôn trầm hay vô
ký. - Niệm ở đây không chỉ đơn thuần là sự nhớ mà là tránh niệm, khả năng biết rõ ràng những gì đang diễn ra trong thân và tâm. từng khoảnh khắc nối tiếp khoảnh khắc tịnh nghĩa là thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi vọng tưởng, dính mắc hay sao động.

- Nếu xả là nền đất vững chắc, lạc là dòng nước mát thì niệm tịnh là ánh sáng soi chiếu mọi thứ trong khu vườn tâm. Không có ánh sáng này, sự an lạc dễ biến thành trạng thái mơ hồ, ngọt ngào nhưng thiếu tỉnh thức. Ngược lại, khi niệm tịnh hiện diện, hành giả vẫn nhận biết từng hơi thở, từng cảm giác vi tế của lạc, đồng thời thấy rõ sự sinh diệt của chúng.

- Kinh điển nhiều lần nhấn mạnh rằng trong tam thiền niệm không hề mất đi mà ngược lại còn tinh tế và sắc bén hơn.

- Ở Nhị Thiên, tâm tập trung mạnh, nhưng niệm đôi khi hòa lẫn với hỉ, khiến sự quan sát bị chi phối bởi cảm xúc phấn khởi.

+ Sang Tam Thiên, khi hỉ lắng xuống, chánh niệm trở nên thuần tịnh, giống như tấm gương vừa được lau sạch, phản chiếu mọi hình ảnh rõ nét mà không méo mó.

* Một câu chuyện trong thời Đức Phật kể rằng: có vị Tỳ Kheo khi đang hành thiền bị một cơn bệnh bất ngờ ập đến, thay vì hoảng loạn hay khởi tâm sợ hãi, vị ấy an trú trong Tam Thiền, dùng niệm tịnh để quán sát từng cơn đau. Chính nhờ chánh niệm trong sáng mà vị tỳ kheo không bị cảm thọ lôi kéo, giữ được tâm quân bình cho đến hơi thở cuối cùng.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
6.- Với NIỆM TỊNH.- LẠC trở thành nền để trí tuệ quán chiếu,


9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Thien-20


Niệm tịnh cũng là yếu tố nối liền định và tuệ. Khi tâm an trú trong tam thiền, nếu niệm bị mờ đi, hành giả chỉ đang hưởng thụ cảm giác lạc. Nhưng với niệm tịnh, lạc trở
thành nền để trí tuệ quán chiếu, thấy rõ lạc là vô thường, không phải ta không thể bám giữ. Chính đây, định lực không còn là mục tiêu cuối cùng mà trở thành phương tiện để khai mở tuệ giác.

+ Đời thường cũng có thể cảm nhận phần nào NIỆM TỊNH. Đó là khi bạn đang ngồi yên bên tách trà, không chỉ thư giãn mà còn biết rõ mùi hương, nhiệt độ và sự thoáng đãng trong không gian. Tâm không mơ màng, cũng không vội vàng. NIỆM TỊNH.- trong tam thiền chính là sự hiện diện trọn vẹn ấy, nhưng ở mức sâu hơn, bền hơn và độc lập hoàn toàn với điều kiện bên ngoài. Vì thế, NIỆM TỊNH. không chỉ giữ cho tam thiền vững chắc mà còn mở cánh cửa để hành giả bước sang giai đoạn cao hơn. Nơi lạc cũng được buông bỏ. và chỉ còn xả thuần tịnh dẫn lối tới tứ thiền.

+ Trước khi bước vào tam thiền, việc chuẩn bị thân và tâm không chỉ là bước khởi động bên ngoài mà là nền tảng quyết định sự vững chắc của toàn bộ tiến trình. Nếu
coi Tam Thiền như một hồ nước tĩnh lặng giữa núi rừng thì thân và tâm chính là chiếc thuyền và mái trèo. - Nếu thuyền không vững hoặc trèo không đúng, khó mà đến được giữa hồ.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
7.- Tư thế ngồi thiền.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Ngsi_t11


+ Về thân, yếu tố đầu tiên là oai nghi và tư thế ngồi. Hành giả cần tìm một tư thế vừa ổn định vừa thoải mái, lưng thẳng nhưng không gồng, vai buông lỏng, hai tay đặt nhẹ trên đùi hoặc trồng lên nhau trước bụng, đầu hơi cúi để cổ không căng. Việc này giúp khí huyết lưu thông, hơi thở không bị ngăn trở và cơ thể có thể duy trì lâu mà không gây đau nhức quá mức. Tư thế không chỉ là hình thức, nó tác động trực tiếp đến dòng chảy năng lượng và sự định tĩnh của tâm.

- Tiếp theo là hơi thở. Hơi thở nên được điều hòa tự nhiên, không cố ép sâu hoặc giữ lại. Khi tâm bắt đầu lắng, hơi thở tự nhiên sẽ trở nên nhẹ, dài và mềm.- Nhiều thiền sư dạy rằng ở giai đoạn này, hãy thở như không thở, nghĩa là chỉ cảm nhận mà không can thiệp. Một hơi thở tự nhiên là cầu nối đưa thân và tâm vào trạng thái hòa hợp, từ đó lạc có thể sinh khởi một cách nhẹ nhàng.

- Về tâm, điều kiện tiên quyết là sự buông bỏ những lo toan đời thường. Trước khi ngồi thiền, hành giả nên dành ít phút quán chiếu để rũ bỏ các suy nghĩ chưa giải quyết, giống như đặt hành lý nặng xuống trước khi bước lên đường dốc.- Tâm cần được đưa về sự đơn giản, chỉ còn một mục tiêu duy nhất, an trú và tình biết.- Nếu tâm còn vướng mắc, hỉ trong nhị thiền sẽ dễ bị pha lẫn những động niệm và việc buông hỉ để vào tam thiền sẽ gặp khó khăn.

Một cách chuẩn bị tâm hiệu quả là thực hành tâm từ hoặc niệm ân đức Phật trước khi nhập định. Những pháp này giúp tâm trở nên ấm áp, nhẹ nhõm, dễ dàng chuyển từ trạng thái hoạt động sang trạng thái tĩnh lặng mà không bị gấp gáp.

Nhiều vị thiền sư Việt Nam khuyên hành giả trước khi hành thiền hãy làm mềm tâm bằng một lời nguyện ngắn gọn hoặc một ý niệm thiện lành.

* Ngoài ra cần lưu ý yếu tố môi trường. Một không gian yên tĩnh, thoáng khí, ánh sáng dịu là điều kiện lý tưởng. Tiếng động bất ngờ hoặc nhiệt độ quá nóng lạnh đều có thể khiến tâm dao động vi tế.

- Trong các thiền viện xưa, chỗ ngồi thiền thường hướng về thiên nhiên, gần cây cối, hồ nước, không chỉ để giảm tác động của tiếng ồn mà còn giúp tâm dễ cảm nhận sự bình an tự nhiên. Sự chuẩn bị này cũng bao gồm thời điểm. Thời điểm lý tưởng là sáng sớm hoặc tối muộn khi môi trường xung quanh ít sáo trộn và thân tâm tự nhiên dễ lắng xuống. Tuy nhiên, với người bận rộn, bất kỳ thời điểm nào có thể giữ được sự đều đặn cũng đều quý, miễn là tạo được thói quen.

* Cuối cùng cần nhấn mạnh rằng chuẩn bị thân và tâm không phải là giai đoạn tách biệt hoàn toàn với quá trình thiền mà chính là một phần của thiền.

- Ngay khi điều chỉnh tư thế, hơi thở và buông bỏ tạp niệm, hành giả đã bắt đầu bước vào con đường đưa mình tới Tam Thiền. Sự cẩn trọng và tinh tế trong khâu chuẩn bị sẽ làm giảm bớt những chướng ngại, giúp quá trình buông hỉ và an trú xả niệm lạc diễn ra một cách tự nhiên, êm ái và vững chắc.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
8.- Sự Lợi ích & Tác hại của HỶ.- Ở Tam Thiền.


Khi hành giả an trú vững vàng trong nhị thiền, hỉ là một người bạn đồng hành tuyệt vời. Nó mang lại sự phấn khởi, làm ấm áp tâm và giúp định lực thêm mạnh. Nhưng chính vì sự dễ chịu ấy, Hỉ cũng có thể trở thành một chiếc vòng hoa quá đẹp, khiến người đeo không nỡ bỏ xuống. Việc không buông được hỉ là một trong những chướng ngại chính ngăn cản bước tiến vào Tam Thiên.- nơi xả niệm lạc chú mới thật sự hiền lộ.

1.- Một chướng ngại dễ thấy là tâm phấn khích quá mức. Khi hỉ dâng trào, thân và tâm có thể trải qua những cảm giác mạnh như dòng điện ấm chạy khắp người hay cơn sóng vui lan rộng. Đây là dấu hiệu tốt ở giai đoạn đầu, nhưng nếu bám chấp vào, tâm sẽ muốn lặp lại hoặc kéo dài trạng thái này. Sự mong cầu ấy khiến tâm vi tế rung động, mất đi sự quân bình cần thiết để lạc thuần tịnh sinh khởi.

2.- Chướng ngại thứ hai là sự đồng hóa với hỉ. Hành giả có thể khởi lên suy nghĩ, đây là hỉ của tôi, tôi đang ở trong trạng thái cao quý này. Ngay khi cái tôi xen vào, hỉ mất đi tính thanh tịnh và trở thành một dạng tham vi tế. Khi đó dù định lực vẫn còn nhưng hướng đi đã đổi từ buông xả sang nắm giữ.

3.- Một chướng ngại khác là Hỉ che mở niệm tịnh.- Trong nhị thiền, hỉ và lạc cùng hiện hữu, nhưng hỉ thường nổi bật hơn, dễ thu hút sự chú ý. Nếu không tỉnh giác, hành giả sẽ để niệm bám vào cảm giác hỉ mà quên quan sát toàn thể tiến trình. Khi hỉ quá mạnh, niệm không còn trong sáng và điều này càn trở việc buông hỉ để vào trạng thái xả của tam thiền.

* cũng cần nói đến mong cầu kết quả nhanh. Có người sau khi nếm trải hỉ của Nhị Thiên liền nóng lòng muốn lên tầng mà không để tâm thật sự chín mồi. Sự vội
vàng này khiến họ hoặc ép buộc mình buông hỉ hoặc cố dựng một trạng thái giống Tam Thiên, nhưng thực chất chỉ là hôn trầm hoặc vô ký. Trong cả hai trường hợp, định đều không bền và hành giả sẽ sớm phải quay lại cùng cố nền tảng. Cuối cùng là ảnh hưởng từ đời sống thường ngày.

- Nếu ngoài thời thiền, hành giả vẫn dễ bị cảm xúc kích động, vui buồn quá mức, hăng hái hay chán nản bất thường thì trong thời thiền tâm cũng khó thoát khỏi thói quen dao động ấy.

- Hỉ vốn là cảm xúc tích cực nhưng vẫn nằm trong phạm vi dao động muốn buông nó.- Tâm phải quen với sự quân bình ngay cả ngoài thiền.

* Để vượt qua những chướng ngại này, Đức Phật và các bậc thầy thường khuyên hành giả nuôi dưỡng tuệ giác về vô thường của hỉ.- Khi thấy rõ hỉ cũng chỉ là một hiện tượng sinh diệt, không thể nắm giữ, tâm sẽ tự nhiên bớt bám chấp. Đồng thời duy trì chánh niệm liên tục và trải nghiệm hỉ như một khách trọ đến rồi đi sẽ giúp hành giả mở cánh cửa sang Tam Thiền một cách tự nhiên, không cưỡng cầu.
download.webp
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
9.- Một số kinh luận dạy Tam Thiền.

images.webp


* Trong kho tàng kinh điển Pali, Tam Thiên được nhắc đến nhiều lần với một công thức gần như bất biến, thể hiện tính nhất quán của pháp hành và cũng là lời chỉ dạy trực tiếp từ Đức Phật.

- Một trong những đoạn nổi bật nằm trong kinh Đại Niệm Xứ và kinh An Chú Niệm kinh chép diệt hỉ: " tỳ kheo trú xả niệm tịnh thân cảm sự lạc mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc chú. Vị ấy thành tựu tam thiền".

- Chỉ với một câu ngắn, Đức Phật đã mô tả trọn vẹn bản chất và trải nghiệm của tam thiền. Trước hết là diệt HỶ. - Hì ở đây là niềm phấn khởi tinh thần, vốn là một thành tố quan trọng ở nhị thiền. Khi định sâu hơn thì tự nhiên lắng xuống không còn là yếu tố chủ đạo nữa.- Tiếp đó là chú xả an trú trong sự quân bình không dính mắc vào bất kỳ cảm xúc nào, kể cả LẠC. - NIỆM TỊNH .- chỉ Chánh niệm thanh tịnh, sáng gió không bị nhiễm ô bởi vọng tưởng hay chấp thủ. - Và cuối cùng thân cảm sự LẠC mô tả trải nghiệm an lạc vi tế, nhẹ nhàng nhưng tràn đầy, thấm nhuần khắp toàn thân.

- Công thức này cũng xuất hiện trong kinh tăng chi bộ chương bốn pháp như một lời xác quyết: " Do diệt hỉ, chú xả niệm tịnh, thân cảm sự lạc mà bậc thánh gọi là xả niệm lạc chú, vị ấy chứng và an trú tam thiền ".

* Điều đáng chú ý là ở mọi bản kinh tam thiền luôn được đặt vào đúng vị trí thứ ba trong tiến trình tứ thiền, sơ thiền tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Tiếp đến là nhị thiền tức là diệt tầm, diệt,tứ sanh hì lạc do định. Sau đó là tam thiền tức là diệt hỉ, chú xả niệm tịnh,thân cảm lạc. Cuối cùng là tứ thiền, tức là xả lạc, xả khổ, diệt hỉ ưu.

- Tiến trình này giống như quá trình lọc nước ở mỗi tầng. Những tạp chất thô hơn được loại bỏ để tâm trở nên tinh khiết và vững vàng hơn.

+ Ngài Phật Minh trong Thanh Tịnh Đạo giải thích rằng diệt hỉ không phải là dập tắt một cách cưỡng ép mà là để hỉ tự nhiên tan đi khi tâm an định sâu hơn. Hì giống như những gợn sóng đẹp mắt trên mặt hồ khi không còn gió, sóng tự lặng để lộ mặt nước phẳng lặng và trong suốt.

- Đây là lúc lạc trở nên tinh tế, không còn pha lẫn sự phấn khích của tâm và xả giữ cho hành giả không rơi vào tham luyến với cảm giác ấy.

+ Từ góc nhìn thực hành, các đoạn kinh này nhấn mạnh hai điều.

1.- Thứ nhất, tam thiền không phải là một trạng thái trống rỗng trái lại. Đó là một trạng thái an lạc sâu nhưng được bao bọc bởi sự quân bình và tình giác.

2.- Thứ hai, niệm tịnh là yếu tố không thể thiếu. Nếu niệm mờ đi, hành giả có thể rơi vào hôn trầm hoặc hưởng thụ lạc một cách vô thức và đó không còn là tam thiền thực sự. Hình ảnh thân cảm sự lạc cũng rất đáng chú ý.

Đức Phật không tả tam thiền như một ý niệm triết học mà là một kinh nghiệm thân tâm thống nhất.

- Lạc ở đây thấm khắp toàn thân như dòng nước mát được rót vào một bình đất khô, từng thớ đất đều hút lấy, mềm mại và mát lành. Chính cảm giác toàn diện này giúp tâm dễ dàng an trú và cũng là nền tảng để bước sang tứ thiền, nơi cả lạc và khổ đều được buông bỏ.

- Ngoài ra, việc Đức Phật lặp lại công thức diệt hì, trú xả, niệm tịnh, thân cảm sự lạc trong nhiều kinh.- cho thấy đây không chỉ là một cách nói tùy hứng mà là một chuẩn mực tu tập rõ ràng.

- Dù hành giả theo pháp môn nào, niệm hơi thở, quán từ bi hay quán bất tịnh, nếu đi qua các tầng thiền đến tam thiền đều sẽ gặp những dấu hiệu này.

* Tóm lại, các đoạn kinh điển chính về tam thiền không chỉ cho ta một định nghĩa mà còn gợi mở một bản đồ thực hành, buông hỉ để an trú xả, giữ niệm thanh tịnh và để lạc tinh tế nuôi dưỡng toàn thân. Đây là điểm giao giữa định và tuệ, là nền tảng vững chắc để tiếp tục hành trình hướng tới giải thoát.

Hiểu rõ câu kinh diệt hỉ, chú xả, niệm tịnh, thân cảm sự lạc mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú không chỉ là một việc giải nghĩa từ ngữ mà là mở ra cả một thế giới kinh nghiệm nội tâm mà Đức Phật đã từng trực tiếp thể chứng và trao truyền lại cho chúng ta.

Câu kinh ngắn gọn ấy tưởng chừng chỉ là mô tả kỹ thuật nhưng thực ra chứa đựng cả một lộ trình tu tập từ động đến tĩnh.

Từ những cảm xúc mạnh mẽ đến sự an bình sâu lắng, từ tâm còn rung động đến tâm hoàn toàn vững trãi. Nếu đọc thoáng qua, ta chỉ thấy bốn cụm từ: diệt hỉ, chú xà, niệm tịnh, thân cảm sự lạc. Nhưng khi để tâm quán chiếu, mỗi cụm từ lại hé mở một tầng nghĩa tinh tế và liên kết chặt chẽ với nhau như bốn nhịp của một khúc nhạc đưa tâm vào vùng tĩnh lặng. Diệt hỉ là bước truyền đầu tiên và quan trọng khi từ nhị thiền tiến vào tam thiền. Hỉ ở đây là niềm phấn khởi tinh thần, niềm vui rạng rỡ xuất hiện khi định lực hội tụ ở tầng thứ hai.

- Trong nhị thiền, HỶ bùng lên như những làn sóng đẹp mắt trên mặt hồ, mạnh mẽ sống động khiến hành giả tràn đầy năng lượng. Nhưng sóng dù đẹp vẫn làm mặt nước dao động. Diệt HỶ không có nghĩa là phủ nhận hay cưỡng bức xua đi mà là để nó tự nhiên lắng xuống như khi gió dừng thổi thì sóng cũng tự tan.

- Trong thực hành, điều này xảy ra khi hành giả không còn hướng tâm tìm kiếm cảm giác hân hoan nữa mà chỉ duy trì sự định tĩnh để mọi hiện tượng cảm xúc đến và đi. - Lúc đó HỶ tan biến không để lại khoảng trống hụt hẫng mà mở ra một không gian êm dịu và bền vững hơn đó chính là Lạc Thuần Tịnh sẽ xuất hiện ở Tam Thiền.

+ Khi HỶ đã lắng xuống, Tâm bước vào trú xà, an trú trong trạng thái quân bình sâu sắc. Xà ở đây không phải là sự thờ ơ vô cảm như nhiều người lầm tưởng mà là một thế đứng vững trãi của tâm, không bị cuốn trôi bởi bất cứ cảm xúc nào dù tích cực hay tiêu cực. Người ở chú xả giống như một ngọn núi lớn giữa trời, gió bão vẫn có thể thổi, mưa nắng vẫn thay đổi, nhưng thân núi không lay động.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
10.- Tầm quan trọng của NIỆM.- Ở Tam Thiền.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Nim10

- Trú xả không phải là một kỹ thuật ta làm để giữ cân bằng mà là kết quả tự nhiên của việc buông những dao động tinh tế nhất của tâm. Chính sự quân bình này khiến cho Lạc ở Tam Thiền không còn pha tạp với phấn khích mà trở thành một dòng chảy tĩnh lặng không sao động. Song song với chú xả câu kinh nhắc đến niệm tịnh. Chánh niệm trong sáng không bị nhiễm ô bởi vọng tưởng hay sự mê mờ.

- Ở Tam Thiền, niệm không còn là sự ghi nhớ hay chú ý đơn thuần, mà là một sự tình biết liên tục, không gián đoạn, giống như ánh sáng dịu nhưng rõ ràng chiếu khắp không gian.

- Nếu ở nhị thiền, niệm giúp giữ tâm tập trung vào đối tượng thiền định, thì ở tam thiền niệm lại đóng vai trò bảo vệ sự tĩnh lặng để hành giả không rơi vào hôn trầm hoặc buông trôi trong cảm giác lạc. Đây là một yếu tố sống còn bởi nếu thiếu niệm tịnh, lạc có thể biến thành sự hưởng thụ vô thức. Và đó không còn là tam thiền chân chính. Các bậc thánh gọi đây là niệm thanh tịnh, thứ ánh sáng nội tâm soi sáng mọi hiện tượng thân tâm nhưng không phán xét, không can thiệp,chỉ đơn thuần biết. Và rồi toàn bộ sự chuyển hóa này kết tinh ở trải nghiệm thân cảm sự lạc.

- Lạc ở tam thiền không ồn ào như hỉ mà thấm nhuần và lan tỏa khắp thân từ đỉnh đầu đến đầu ngón chân, từ bề mặt da đến tận sâu trong tủy xương.

- Đó là cảm giác như dòng nước mát lành đang thấm vào từng tế bào làm mềm mọi căng thẳng, làm dịu mọi vi tế trong cơ thể.

+ Điều quan trọng là lạc này không phải do điều kiện bên ngoài, không do âm nhạc, lời khen hay một thành tựu cụ thể mà tự sinh ra từ chính sự tĩnh lặng của tâm.

- Trong các chú giải, ngài Buddha Gosa Ví Lạc ở Tam Thiền như người ngồi dưới bóng cây lớn vào trưa hè, ban đầu có thể cảm nhận sự dễ chịu, nhưng càng ngồi lâu, sự dễ chịu ấy không còn là một cảm giác nổi bật mà trở thành nền tảng tự nhiên, nhẹ như hơi thở, bền như đất dưới chân.

- Khi bốn yếu tố này kết hợp diệt hỉ, chú xả, niệm tịnh, thân cảm lạc, chúng hình thành một trạng thái mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc chú. Đây vừa là tên
gọi, vừa là định nghĩa, vừa là kinh nghiệm thực chứng.

+ XẢ giữ tâm không dao động, NIỆM giữ tâm sáng suốt, LẠC nuôi dưỡng thân tâm chú bảo đảm sự bền vững của tất cả. - Nếu thiếu một yếu tố, tam thiền không thể trọn vẹn. Chính sự hòa hợp này tạo nên một cột mốc quan trọng trên con đường thiền định, từ động sang tĩnh, từ tạp sang thuần, từ hì nổi bật sang lạc ẩn sâu. Đây là bậc thang tinh tế trước khi hành giả bước sang Tứ Thiên, nơi ngay cả lạc cũng được buông bỏ để đạt đến xả thuần tịnh.

* Điều đáng lưu ý là trong kinh điển, Đức Phật luôn trình bày tam thiên như một phần của tiến trình tuần tự chứ không phải một điểm đến độc lập. Nghĩa là muốn vào tam thiền, hành giả phải trải qua sơ thiền và nhị thiền, làm quen với việc buông bỏ từng lớp dao động. - Đầu tiên là dục và bất thiện pháp, sau đó là tầm và tứ, rồi
là hỉ. - Mỗi lần buông bỏ là một lần tâm trở nên đơn giản hơn, nhẹ hơn và chính sự đơn giản này lại mở ra một chiều sâu mới.

- Tam thiền vì thế không phải là thành quả của nỗ lực gồng mình mà là món quà tự nhiên của một quá trình tinh lọc kiên trì. Nếu ví hành trình thiền định như việc
trèo thuyền vào một hồ nước thì sơ thiền là khi bạn rời bờ treo qua những con sóng lớn của dục và bất thiện pháp.

- Nhị thiền là khi sóng đã nhỏ lại nhưng mặt nước vẫn còn gợn vì hì phấn khích.

- Tam thiền là lúc thuyền bạn đã vào giữa hồ, sóng gần như biến mất, nước phẳng lặng đến mức bạn có thể thấy rõ bóng mây trôi qua. Trong sự yên tĩnh ấy, không còn niềm vui sôi nổi vì đang đi đúng hướng, mà chỉ còn sự an lạc của việc đã ở nơi cần đến dù chưa phải là bờ bên kia.

+ Câu kinh : " diệt hỉ, chú xả niệm tịnh, thân cảm sự lạc ". Vì thế không chỉ là mô tả kỹ thuật mà còn là một lời mời gọi. Mời ta buông bỏ thêm một tầng bám víu nữa. Mời ta tin vào khả năng tự nhiên của tâm khi được giải phóng khỏi những dao động vi tế. Mời ta nếm trải một niềm an lạc không cần điều kiện. Và khi đã một lần nếm trải, hành giả sẽ nhận ra rằng tam thiền không phải là một nơi trốn xa xôi mà là trạng thái có thể trở lại bất cứ khi nào ta chịu ngồi xuống, thở sâu và để cho hỉ lắng lại, để cho xả vững vàng, để cho niệm sáng lên và để cho lạc nhẹ nhàng bao phủ toàn thân như một tấm chăn ấm giữa đêm đông tĩnh mịch. Trong lịch sử Phật giáo, những câu chuyện về chư tăng, chư tổ, thể chứng tam thiền xuất hiện khá nhiều trong kinh tạng và mỗi câu chuyện đều mang một sức gợi mở mạnh mẽ cho người tu học sau này.

 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
11.- Vị Tân Tỳ kheo đắc Tam Thiền.


Một trong những câu chuyện tiêu biểu được ghi lại trong Tạng Luật là câu chuyện về một vị tỳ kheo trẻ thời Đức Phật, người đã đạt được tam thiền chỉ nhờ một buổi nghe pháp và sự thực hành tinh cần sau đó.- Vị tỳ kheo ấy vốn là một cư sĩ trẻ, sinh ra trong một gia đình khá giả ở thành Vương Xá. Từ nhỏ anh đã nghe danh Đức Phật và các vị đệ tử lớn, nhưng mãi đến tuổi trưởng thành mới có duyên gặp được ngài Xá Lợi Phất. Trong một buổi pháp thoại, ngài Xá Lợi Phất giảng giải về tứ thiền và đặc biệt nhấn mạnh đến Tam Thiền như một trạng thái an lạc thanh khiết, không còn những dao động của Hỉ.

- Ngài mô tả rằng khi hỉ tan, tâm như một mặt hồ phẳng lặng. phản chiếu rõ từng đám mây và trong sự lặng yên ấy, hành giả cảm nhận một niềm lạc nhẹ nhàng thấm khắp thân.

- Bài giảng ấy đã đánh thức trong chàng trai một khao khát tìm hiểu sâu hơn.

- Sau buổi pháp, anh tìm đến Đức Phật xin xuất gia. Đức Phật chấp nhận và sau thời gian học giới, vị tân tỳ kheo bắt đầu thực hành thiền định theo sự hướng dẫn. Khởi đầu, tâm anh đầy nhiệt huyết và chỉ sau một thời gian ngắn, anh đạt được sơ thiền, nơi tâm rời xa dục và bất thiện pháp, đầy đủ tầm và tứ. Tiếp tục, nhờ buông tầm tứ, anh tiến vào nhị thiên trải nghiệm hì và lạc sinh từ định. Ở đây hì xuất hiện mạnh mẽ đến mức đôi khiến thân anh rung lên trong niềm phấn khởi. Và chính điều này ban đầu trở thành một chướng ngại để tiến lên.

- Nhớ lại lời dạy của ngài Xá Lợi Phất, anh bắt đầu quán sát chính cảm giác hỉ ấy. Anh nhận ra Hỉ tuy thanh tịnh hơn mọi niềm vui thế tục nhưng vẫn có tính dao động, vẫn là một làn sóng trên mặt nước Tâm. Mỗi khi hỉ khởi, anh không còn chạy theo hưởng thụ nó mà chỉ ghi nhận và buông để tâm trở về trạng thái quân bình.

- Một buổi chiều khi ngồi dưới bóng cây xa la lớn ở rìa tu viện, tâm anh dần lắng lại. Hì ban đầu vẫn xuất hiện nhưng yếu đi, tan vào một không gian tĩnh lặng mênh mông. Trong tĩnh lặng ấy, một niềm lạc nhẹ như hơi thở bắt đầu thấm vào toàn thân, không còn rộn rang mà bền bỉ sâu xa. Tâm anh đứng yên sáng rõ, không nghiêng về bất cứ đối tượng nào. Đó là lúc anh nhận ra mình đã bước vào tam thiền xả niệm lạc trú.

- Anh không còn cố gắng giữ nó, cũng không sợ mất nó chỉ ngồi yên để niềm lạc ấy lan rộng và niệm sáng duy trì liên tục. Thời gian như ngừng lại, mọi giới hạn về thân và tâm trở nên mờ nhạt. Khi xuất định, anh không nói gì, chỉ cúi đầu đành lễ hướng về tu viện, nơi ngài Xá Lợi Phất và Đức Phật đang ở. Lòng tràn đầy biết ơn.

- Câu chuyện ấy được các vị trưởng lão kể lại như một minh chứng rằng tam thiền không chỉ dành cho những vị thiền sư già dặn kinh nghiệm mà bất kỳ ai với tâm trí thành và thực hành đúng pháp đều có thể chạm tới. Quan trọng là hiểu rõ tiến trình, kiên nhẫn buông bỏ từng lớp dính mắc vi tế và không bám view ngay cả vào những cảm giác thanh tịnh. Từ câu chuyện này, người tu học hôm nay có thể rút ra một bài học sâu sắc. Tam thiền không phải là kết quả của tham muốn mạnh mẽ hay kỹ thuật phức tạp mà là hoa trái tự nhiên của sự buông xả.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Oc_c10
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,524
Điểm tương tác
1,495
Điểm
113
12.- Phương pháp 10 bước .- cầu nối giữa lý thuyết và thực chứng.

9 (cấp độ) TĐ.- TAM THIỀN Cu_ni10


Cũng giống như mặt hồ sẽ tự phẳng khi gió rừng. Tâm sẽ tự an khi ta thôi đuổi bắt mọi trạng thái kể cả hỉ an lành. Và khi tâm đã an lạc sẽ đến nhẹ như bóng mát của cây x la trong buổi chiều yên tĩnh.- Nuôi dưỡng thân tâm một cách sâu xa và bền bỉ.

- Khi nói về tam thiền, nhiều người mới thường thấy khái niệm diệt hỉ, chú xả, niệm tịnh, thân cảm sự lạc có vẻ trừu tượng và xa rời đời thường. Nhưng nếu đặt vào những hình ảnh quen thuộc, chúng ta sẽ thấy rằng trạng thái này không hề xa lạ. Mà đôi khi trong cuộc sống, ta đã thoáng chạm vào những khoảnh khắc tương tự, chỉ là chưa đủ sâu và bền để gọi là tam thiền.

- Một trong những ẩn dụ dễ hình dung nhất là hình ảnh một hồ nước. Ở sơ thiền, mặt hồ vừa thoát khỏi những con sóng lớn của dục vọng và bất thiện pháp ở nhị thiền. Sóng đã nhỏ lại nhưng vẫn còn những gợn lăn tăn từ niềm phấn khích của hỉ. Còn ở Tam Thiền, sóng đã tan, mặt hồ phẳng lặng trong veo phản chiếu trọn vẹn bầu trời. Trong sự lặng yên ấy, không còn những gợn sóng làm méo mó hình ảnh, chỉ còn sự yên bình lan tỏa khắp mặt nước.

- Một ẩn dụ khác là quá trình trèo thuyền vào giữa hồ. Khi mới rời bờ sơ thiền, ta phải dùng nhiều sức trèo, chống chọi với sóng lớn và gió mạnh. Khi vào gần giữa hồ Hơn Nhị Thiền, sóng đã nhẹ, trèo dễ hơn nhưng vẫn có những đợt gió thoảng qua khiến mặt nước rung nhẹ. Khi đã ở giữa hồ Tam Thiền, nước tĩnh lặng đến mức bạn có thể buông trèo để thuyền tự trôi trong yên bình. Sự an lạc lúc này không còn đến từ việc đang tiến về đích mà từ chính việc đang ở trong vùng yên lặng nhất.

- cũng có thể ví Tam Thiên như trạng thái của một nghệ sĩ khi bước vào phần sâu nhất của tác phẩm. Lúc mới bắt đầu, họ còn loay hoay với kỹ thuật, từng nét bút, từng giai điệu sơ thiền. Khi đã thuần thục hơn, cảm hứng bùng lên, niềm vui sáng tạo trào dâng nhị thiền.

- Nhưng khi tiến sâu hơn, cảm hứng ấy không còn là cơn sóng mạnh mẽ nữa mà trở thành một dòng chảy âm thầm liên tục. Người nghệ sĩ lúc này không còn ý thức rõ ràng mình đang sáng tác hay mình đang tận hưởng mà chỉ hoàn toàn hòa nhập vào tác phẩm, từng nét vé hay âm thanh trôi chảy tự nhiên. Đó chính là xả niệm lạc chú, không còn bám vào cảm xúc hưng phấn nhưng vẫn sáng suốt và tràn đầy an lạc.

- Đối với người chưa từng ngồi thiền, một trải nghiệm tương tự có thể xảy ra khi bạn đang ngồi dưới một tán cây lớn vào buổi chiều hè.

- Lúc đầu bạn cảm nhận ngay lập tức sự dễ chịu khi rời khỏi nắng gắt HỶ. Nhưng nếu ngồi lâu cảm giác hân hoan ấy sẽ lắng xuống. Thay vào đó là một sự mát' mẻ, thư thái lan tỏa khắp người LẠC.

- Bạn không còn chú ý đến bóng cây hay tiếng ve nữa mà chỉ an trú trong cảm giác dễ chịu và tĩnh lặng ấy. Ấn dụ cũng có thể đến từ âm nhạc. Khi mới nghe một bản nhạc hay, bạn có thể thấy hứng khởi dạo rực HỶ.- Nhưng nếu bản nhạc tiếp tục trôi, bạn bắt đầu chìm sâu vào giai điệu không còn chú ý từng nốt mà chỉ cảm nhận toàn bộ không gian âm nhạc LẠC.- Ở đây bạn không còn nghe theo cách chủ động mà gần như ở trong bản nhạc. Tâm trí và âm thanh hòa là một. Những ẩn dụ này cho thấy rằng tam thiền không phải là một trạng thái bí ẩn chỉ dành cho các bậc thiền giả lâu năm.

- Cái khác biệt là ở độ sâu và sự bền vững.

+ Trong đời sống thường nhật, chúng ta có thể chạm vào những thoáng an lạc tương tự, nhưng chúng thường ngắn ngủi và dễ 'bị cắt ngang bởi một suy nghĩ, âm thanh hay động tác.

- Trong thiền định với sự rèn luyện đúng đắn, trạng thái ấy được kéo dài, trở nên ổn định và được nâng lên một mức độ tinh tế mà đời sống bình thường hiếm khi chạm tới. Và khi dùng hình ảnh hồ nước, con thuyền, bóng cây hay âm nhạc để minh họa, người mới sẽ dễ hình dung hơn rằng diệt hỉ, chú xả, niệm tịnh, thân cảm sự lạc .

- không phải là một công thức khô khan mà là một tiến trình tự nhiên. Nơi niềm vui ban đầu dần được 'thay thế bằng sự an lạc sâu lắng, nơi tâm trí thôi tìm kiếm kích thích và bắt đầu an trú trong sự yên bình không điều 'kiện.

Khi đã hiểu điều này, bước vào con đường tu tập tam thiền sẽ không còn là một khái niệm xa vời mà là một hành trình trở về với chính sự tĩnh lặng vốn có trong mỗi người.

+ Để thực sự an trú trong Tam Thiên, trạng thái xả niệm lạc chú mà Đức Phật tán thán, hành giả cần một lộ trình thực hành rõ ràng. vừa tuần tự vừa đủ linh hoạt để thích ứng với căn cơ và hoàn cản'h của mình. Phương pháp từng bước ở đây không chỉ là một danh sách kỹ thuật mà là một dòng chảy trải nghiệm. Trong 'đó, mỗi bước là sự chuẩn bị và mở đường cho bước tiếp theo.

- Giống như những vòng tròn đồng tâm lan ra từ một điểm rơi trên mặt hồ. Nếu nóng vội, bỏ qua một bước, toàn bộ quá trình sẽ mất cân bằng nếu kiên trì. Mỗi bước làm tâm trở nên trong sáng và nhẹ nhàng hơn cho đến khi LẠC thuần tịnh hiện rõ và hành giả có thể an trú trong đó một cách vững vàng.

1.- Bước một, chuẩn bị buông gánh nặng bên ngoài và bên trong. Trước khi ngồi xuống, hãy dành vài phút để buông buông những lo toan công việc, những kế hoạch rang giờ, những cảm xúc còn sót lại từ cuộc sống. Nếu tâm vẫn quần quanh với chuyện ngoài đời, định khó thể an, có thể dùng vài hơi thở sâu hoặc một bài kệ ngắn để nhắc tâm quay về hiện tại. Thở vào, tâm tĩnh lặng thở ra, miệng mỉm cười. Oai nghi ngồi cũng cần được chuẩn bị, lưng thẳng nhưng không gồng, vai thả lỏng, hai tay đặt nhẹ, mắt khép hờ hoặc nhắm, môi khép nhẹ, toàn thân buông thư. Đây là nền tảng giúp thân không trở thành chướng ngại khi định sâu.

2.-Bước hai, nhập thiền, an trú vào hơi thở hoặc đề mục đã chọn. Hơi thở là đề mục phổ biến và phù hợp cho nhiều căn cơ.- Chỉ cần nhẹ nhàng đặt sự chú ý vào luồng hơi vào ra, không cố gắng điều khiển, chỉ nhận biết. Nếu tâm tán loạn, nhẹ các dục và bất thiện pháp. Đây là điều kiện để sơ thiền xuất hiện. Khi tâm sự hướng tâm ban đầu và tứ sự duy trì hướng tâm vận hành ổn định, hơi thở và tâm trở nên đồng điệu.

3.- .- Bước ba, từ sơ thiền sang nhị thiền, các dục và bất thiện pháp. Đây là điều kiện để sơ thiền xuất hiện. Khi tâm sự hướng tâm ban đầu và tứ sự duy trì hướng tâm vận hành ổn định, hơi thở và tâm trở nên đồng điệu. nhẹ nhàng đưa về hơi thở mà không trách móc. Lúc này mục tiêu là làm cho tâm rời xa
buông tầm và tứ. Khi đã an trú trong sơ thiền, tâm dần không còn cần nỗ lực tầm và tứ nữa. Chúng giống như đôi tay giữ xe thăng bằng lúc mới học đạp khi đã thuần, bạn có thể buông tay mà xe vẫn chạy. Khi tầm tứ lắng, Hỉ và Lạc Sinh từ định xuất hiện. - Ở Nhị Thiên, Hỉ thường đến mạnh mẽ, một làn sóng phấn khích nhẹ nhưng sâu kèm theo lạc tràn đầy thân. Đây là dấu hiệu tốt, nhưng cũng là nơi nhiều hành giả dừng lại vì bám vào Hỉ.

4.- Bước bốn, quan sát nhận diện Hỉ như sóng trên mặt hồ. Hỉ tuy thanh tịnh nhưng vẫn là động. Khi hỉ khởi, thay vì chạy theo tận hưởng, hãy quan sát nó như quan sát một đám mây trôi ngang trời. Thấy hỉ đến, thấy hỉ đi, không giữ, không đẩy. Việc này giống như để sóng tự tan khi gió ngừng thổi. Nếu hành giả cố làm hì mất, tâm sẽ căng thẳng. Nếu đắm mình trong hỉ, tâm sẽ không tiến sâu hơn. Quán sát thuần túy là chìa khóa.

5.- Bước năm, buông hỉ để xả hiền lộ. Khi hỉ tan, tâm tự nhiên rơi vào một trạng thái quân bình sâu sắc. Xả. Xả không phải là bò mặc mà là an trú không thiên lệch, không nghiêng về bất cứ cực nào của cảm xúc. Đó là sự đứng yên của tâm, vững vàng trước mọi giao động. Ở đây, hành giả cảm nhận lạc không còn lẫn với phấn khích mà trở nên tinh khiết, bền bỉ.

6.- Bước sáu, trú xả củng cố sự quân bình. Lúc này xả trở thành nền cho toàn bộ trải nghiệm. Dù lạc vẫn đang thấm vào thân, hành giả không bám vào nó, cũng không lo nó mất đi. Tâm không còn những dao động vi tế, không còn chờ đợi bất cứ trạng thái nào. Mọi thứ đang như thế và điều đó là đủ.- Việc chú xả không cần nỗ lực cưỡng ép mà là buông mọi nỗ lực không cần thiết để sự quân bình duy trì tự nhiên.

7.- Bước bảy, niệm tịnh giữ ánh sáng của chánh niệm. Niệm ở đây là sự sáng biết liên tục, không gián đoạn. Nếu thiếu niệm tịnh, hành giả dễ rơi vào hôn trầm hoặc chìm đắm vô thức trong lạc, hãy để niệm như một ngọn đèn nhỏ, không chói gắt nhưng đủ soi rõ toàn bộ không gian tâm. Niệm tịnh bảo vệ sự tĩnh lặng, giữ cho xà và lạc không bị biến dạng. Khi niệm vững, tam thiền trở thành một trạng thái ổn định, có thể duy trì lâu.

8.- Bước tám, cảm lạc. Thân cảm sự lạc. Lạc ở Tam Thiền không phải là một điểm nhấn rực rỡ, mà là một làn hương nhẹ lan khắp không gian, thấm vào từng tế bào thân thể. Hành giả chỉ cần nhận biết sự hiện diện của nó, không cần tìm kiếm hay cố gắng kéo dài. Điều kỳ diệu là khi không bám vào lạc, lạc lại bền hơn và sâu hơn. Đây là kết quả của toàn bộ tiến trình từ buồng hỉ, chú xả, dự niệm tịnh.

9.- Bước chín, thời gian thực hành và sự kiên nhẫn. Không có con số tuyệt đối cho thời gian cần để vào tam thiền. Có người mất vài tháng, có người vài năm. Quan trọng là duy trì đều đặn, mỗi ngày đều ngồi thiền dù chỉ 30 phút. Nếu có điều kiện, xen kẽ những thời gian dài hơn như 1 2 giờ để tâm có cơ hội lắng sâu. Khi thấy tiến bộ chậm, đừng nản vì vì tam thiền không phải là mục tiêu để chinh phục mà là món quà đến khi tâm đủ tĩnh lặng và trong sáng.

10.- Bước 10, xuất định và mang xà niệm lạc chú vào đời sống. Khi rời khỏi Tam Thiền, đừng vội đứng dậy hay lao ngay vào các hoạt động. Hãy để vài phút chuyển tiếp, mở mắt nhẹ, nhận biết không gian, cử động từ.

Trong ngày, khi gặp những tình huống căng thẳng, hãy nhớ lại trạng thái xả niệm lạc chú và mang tinh thần ấy vào lời nói, hành động. Lâu dần, tam thiền không chỉ là kinh nghiệm trên bồ đoàn mà trở thành chất liệu của đời sống thường nhật.

- Phương pháp từng bước này chính là cầu nối giữa lý thuyết và thực chứng. Nó nhắc ta rằng tam thiền không đến từ sự cố gắng quá mức, cũng không đến từ việc thụ động chờ đợi, mà từ sự phối hợp hài hòa giữa nỗ lực và buông xả, giữa tập trung và tình biết.

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm

TOP 5 Tài Thí

Top