- Tham gia
- 23/8/10
- Bài viết
- 4,023
- Điểm tương tác
- 806
- Điểm
- 113
1. Lời mở đầu:
Lĩnh hội được Tự Tánh (hay Phật Tánh) của chính mình đã là không phụ ơn giáo hoá của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta.
Như trong Kinh điển Phật đã nói: nếu không vì khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến cho chúng sanh thì chư Phật không xuất hiện ở đời.
Phật Tri Kiến chính là nhận thức đúng về Phật Tánh hay Tự Tánh.
Khai thị là việc của Phật khi thấy đủ nhân duyên, còn ngộ nhập là do sự tham cứu trãi nghiệm, tu trì miên mật của hành giả.
Chính vì Phật Tánh là chân lí rốt ráo, là chỗ tất cả chư Phật ba đời đồng nhau, phô bày sự thật của chính mình và vũ trụ.
Do đo, người nào nhận thức đúng về Phật Tánh thì đã chính thức đi trên con đường đưa đến quả vị cuối cùng, nhập biển Như Lai!
2. Tự Tánh hay Phật Tánh
Phật Tánh hay Tự Tánh là chung một nghĩa chính là nói cái bản chất thật sự của mỗi cá nhân (phàm hay Thánh, Phật).
Phật Tánh là ý nói ẩn sâu trong chúng sanh, cái thật sự, họ là Phật, nếu gạn bỏ tất cả sự mê muội thì họ lập tức là một vị Phật.
Phật Tánh là cái thật của mỗi cá nhân nên Phật Tánh tự nó là nó, nó là nhất thể trọn vẹn. Chính vì vậy, nhiều vị Bồ Tát còn gọi Phật Tánh là
Tự Tánh: con người thật của mình, tự mình là mình, vốn vậy, tự có, không do nhân duyên sanh.
Do đo, việc giáo hoá và tu học cũng chỉ để: nhận ra đâu là thật sự là mình? Mình từ đâu mà có? Ruốt cuộc mình sẽ đi về đâu? .....
Trả lời cho tất cả các câu hỏi chính là: Phật Tánh Mình, Tự Tánh Mình.
Do đó, ai đã nhận ra Tự Tánh mình sẽ biết:
Những điều trên không phải do VNBN chế ra, thật ra những điều này được Phật thuyết giảng ở nhiều Kinh điển. Còn như bên Thiền Tông (Tổ Sư Thiền) thì cũng cùng là sự thuyết giảng ấy với pháp môn chuyên biệt!
Các bạn có thể nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm (tìm danh từ Như Lai Tạng), Kinh Niệm Phật Ba La Mật (Danh từ Tâm thể). Tổ Sư Thiền thì có thể xem Pháp Bảo Đàn Kinh (Lục Tổ Huệ Năng).
3. Vô Tri và Hữu Tri
Thâm nhập Tự Tánh bạn sẽ hiểu dần rõ hơn về hai hiện tượng trong vũ trụ:
Nguồn cơn của hai loại hiện tượng này: Chính là Phật Tánh hay Tự Tánh.
a. Có Tự Tánh Mình và Tự Tánh Người, tức là có vôn vàn không thể kể xiết các Tự Tánh.
Cũng như trái đất này có 8 tỉ người thì cóp 8 tỉ cái Tự Tánh. Chưa kể các loài vật, loài trời,.... thì biết bao nhiêu? Mà vũ trụ pháp giới đâu chỉ có một ta bà thế giới, còn vô vàn các thế giới khác nữa,....Nhưng đó là cái số lượng mà ở trong vòng nghỉ/tưởng của chúng ta. Còn cả một tảng băng chìm mà chúng ta không hề thấy biết!
Thật ra chúng ta làm sao đếm được, vì Tự Tánh ấy không do nhân duyên sanh nên không có hình dáng, tướng mạo thì làm sao đếm được,.... Chư Phật chỉ một đại định tối tôn vô ngôn châu biến tất cả Tự Tánh mà biết, không thể dùng văn tự!
b. Vì có Tự Tánh Mình và Tự Tánh Người nên phát sanh hiện tượng Không Biết (Vô Tri) và Biết (Hữu Tri).
Thành ra tất cả Tự Tánh luôn luôn tương tác với nhau và thị hiện ra hiện tượng vô tri và hữu tri!
Lưu ý: mỗi tự tánh vốn không sanh pháp (không nằm trong chuỗi nhân duyên) nhưng trong quan hệ tương tác thì thị hiện ra các hiện tượng (pháp).
Vô Tri là trạng thái không biết hay gọi là ngủ mê của mỗi cá nhân từ vô thuỷ. Lúc này, cá nhân đóng vai trò là vật vô tình làm phuơng tiện cho hữu tình.
Hữu Tri là trạng thái có sự xuất hiện của thức (lục thức, các loại trí tuệ nhà Phật), đây là giai đoạn thức của mỗi cá nhân.
c. Mỗi cá nhân sẽ trãi qua thứ tự các giai đoạn: từ vô tri đến hữu tri.
Nghĩa là ban đầu (giai đoạn đầu) sẽ không biết gì cả. Sau một quá trì làm phương tiện cho loài hữu tình, thu thập các duyên với các loài hữu tình, đủ duyên thì phát sanh ra phản xạ, phản xạ thuần thục là công năng nhận biết đối tượng. Tức là lục căn được hình thành. Từ đấy, Tự Tánh của cá nhân đó thị hiện ra là loài hữu tình.
VNBN chỉ nói sơ lược, quá trình vận động và tiến hoá của mỗi cá nhân trong các nhân duyên tương tác còn nhiều giai đoạn nhỏ, những bước ngoặc. VNBN xin phép không trình bày vì bài viết cũng khá dài rồi. Ai có duyên thật sự muốn trao đổi thì tìm hiểu kỹ, rồi có thể đặt câu hỏi trao đổi với VNBN.
Lĩnh hội được Tự Tánh (hay Phật Tánh) của chính mình đã là không phụ ơn giáo hoá của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta.
Như trong Kinh điển Phật đã nói: nếu không vì khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến cho chúng sanh thì chư Phật không xuất hiện ở đời.
Phật Tri Kiến chính là nhận thức đúng về Phật Tánh hay Tự Tánh.
Khai thị là việc của Phật khi thấy đủ nhân duyên, còn ngộ nhập là do sự tham cứu trãi nghiệm, tu trì miên mật của hành giả.
Chính vì Phật Tánh là chân lí rốt ráo, là chỗ tất cả chư Phật ba đời đồng nhau, phô bày sự thật của chính mình và vũ trụ.
Do đo, người nào nhận thức đúng về Phật Tánh thì đã chính thức đi trên con đường đưa đến quả vị cuối cùng, nhập biển Như Lai!
2. Tự Tánh hay Phật Tánh
Phật Tánh hay Tự Tánh là chung một nghĩa chính là nói cái bản chất thật sự của mỗi cá nhân (phàm hay Thánh, Phật).
Phật Tánh là ý nói ẩn sâu trong chúng sanh, cái thật sự, họ là Phật, nếu gạn bỏ tất cả sự mê muội thì họ lập tức là một vị Phật.
Phật Tánh là cái thật của mỗi cá nhân nên Phật Tánh tự nó là nó, nó là nhất thể trọn vẹn. Chính vì vậy, nhiều vị Bồ Tát còn gọi Phật Tánh là
Tự Tánh: con người thật của mình, tự mình là mình, vốn vậy, tự có, không do nhân duyên sanh.
Do đo, việc giáo hoá và tu học cũng chỉ để: nhận ra đâu là thật sự là mình? Mình từ đâu mà có? Ruốt cuộc mình sẽ đi về đâu? .....
Trả lời cho tất cả các câu hỏi chính là: Phật Tánh Mình, Tự Tánh Mình.
Do đó, ai đã nhận ra Tự Tánh mình sẽ biết:
- Mình vốn là tự mình, tự có, không do nhân duyên nào sanh ra, vốn không nằm trong chuỗi nhân duyên nào
- . Mình không là bất kì một hiện nào trong vũ trụ pháp giới từ chúng sanh đến Phật. Tự tánh vốn vô sanh nhưng không tồn tại trong sự cô lập. Nó không do nhân duyên sanh nhưng tuỳ theo nhân duyên nó thị hiện ra các hiện tượng tương ứng.
Những điều trên không phải do VNBN chế ra, thật ra những điều này được Phật thuyết giảng ở nhiều Kinh điển. Còn như bên Thiền Tông (Tổ Sư Thiền) thì cũng cùng là sự thuyết giảng ấy với pháp môn chuyên biệt!
Các bạn có thể nghiên cứu Kinh Thủ Lăng Nghiêm (tìm danh từ Như Lai Tạng), Kinh Niệm Phật Ba La Mật (Danh từ Tâm thể). Tổ Sư Thiền thì có thể xem Pháp Bảo Đàn Kinh (Lục Tổ Huệ Năng).
3. Vô Tri và Hữu Tri
Thâm nhập Tự Tánh bạn sẽ hiểu dần rõ hơn về hai hiện tượng trong vũ trụ:
- Hiện tượng vô tri: là sự vật hiện tượng không có tri giác, còn gọi là vô tình (vật chất): đất, nước, lửa, gió, cây có, hoá chất, ánh sáng, điều kiện tự nhiên của tịnh độ, ....
- Hiện tượng hữu tri: là sự vật hiện tượng có tri giác, còn gọi là hữu tình như chúng sanh hữu tình(tinh thần) (trời, người, a tu la, súc sanh, ngã quỹ, địa ngục); các vị Thánh giải thoát luân hồi, các vị Bồ Tát, chư Phật đã thành.
Nguồn cơn của hai loại hiện tượng này: Chính là Phật Tánh hay Tự Tánh.
a. Có Tự Tánh Mình và Tự Tánh Người, tức là có vôn vàn không thể kể xiết các Tự Tánh.
Cũng như trái đất này có 8 tỉ người thì cóp 8 tỉ cái Tự Tánh. Chưa kể các loài vật, loài trời,.... thì biết bao nhiêu? Mà vũ trụ pháp giới đâu chỉ có một ta bà thế giới, còn vô vàn các thế giới khác nữa,....Nhưng đó là cái số lượng mà ở trong vòng nghỉ/tưởng của chúng ta. Còn cả một tảng băng chìm mà chúng ta không hề thấy biết!
Thật ra chúng ta làm sao đếm được, vì Tự Tánh ấy không do nhân duyên sanh nên không có hình dáng, tướng mạo thì làm sao đếm được,.... Chư Phật chỉ một đại định tối tôn vô ngôn châu biến tất cả Tự Tánh mà biết, không thể dùng văn tự!
b. Vì có Tự Tánh Mình và Tự Tánh Người nên phát sanh hiện tượng Không Biết (Vô Tri) và Biết (Hữu Tri).
Thành ra tất cả Tự Tánh luôn luôn tương tác với nhau và thị hiện ra hiện tượng vô tri và hữu tri!
Lưu ý: mỗi tự tánh vốn không sanh pháp (không nằm trong chuỗi nhân duyên) nhưng trong quan hệ tương tác thì thị hiện ra các hiện tượng (pháp).
Vô Tri là trạng thái không biết hay gọi là ngủ mê của mỗi cá nhân từ vô thuỷ. Lúc này, cá nhân đóng vai trò là vật vô tình làm phuơng tiện cho hữu tình.
Hữu Tri là trạng thái có sự xuất hiện của thức (lục thức, các loại trí tuệ nhà Phật), đây là giai đoạn thức của mỗi cá nhân.
c. Mỗi cá nhân sẽ trãi qua thứ tự các giai đoạn: từ vô tri đến hữu tri.
Nghĩa là ban đầu (giai đoạn đầu) sẽ không biết gì cả. Sau một quá trì làm phương tiện cho loài hữu tình, thu thập các duyên với các loài hữu tình, đủ duyên thì phát sanh ra phản xạ, phản xạ thuần thục là công năng nhận biết đối tượng. Tức là lục căn được hình thành. Từ đấy, Tự Tánh của cá nhân đó thị hiện ra là loài hữu tình.
VNBN chỉ nói sơ lược, quá trình vận động và tiến hoá của mỗi cá nhân trong các nhân duyên tương tác còn nhiều giai đoạn nhỏ, những bước ngoặc. VNBN xin phép không trình bày vì bài viết cũng khá dài rồi. Ai có duyên thật sự muốn trao đổi thì tìm hiểu kỹ, rồi có thể đặt câu hỏi trao đổi với VNBN.