vienquang2

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Kính Quý Tôn Đức Tăng Ni có kiến thức rộng về Kinh Điển Nikaya. và các Đạo Hữu ở diễn đàn mình.

Học và Liễu Tri về TÂM là mục tiêu Chính của người đệ tử Phật cả 2 hệ phái Nam & Bắc Truyền.

Nay nhân có ĐH Chánh Tài hỏi:

Con chào quý thầy và các đạo hữu,
Con nghe qua nhiều bài pháp nói về tâm,ý và thức quá nhiều nhưng vẫn chưa biết đâu là tâm, đâu là ý, đâu là thức và nó khác nhau như thế nào.
Nay con xin quý thầy và các đạo hữu chỉ rõ cho kẻ mù được thấy ạ
V/đ này VQ lại nhận thấy:

  • Ở kinh Luận hệ Bắc Truyền giải thích về Tâm tương đối phong phú và phổ biến.
  • Ở kinh điển Nguyên Thủy tuy diễn giải về TÂM cũng nhiều.- Nhưng văn phong và cách diễn giải làm cho Người muốn tìm học nhưng ngụ trên mãnh đất Phát triển rất khó tiếp cận.

Nay VQ mạo muội.- Cố gắng gần gủi Quý Sư ở Nguyên Thủy mà học lóm, mà bòn mót.- Để may ra thẩm thấu được Thâm Nghĩa về TÂM mà các Kinh Điển Nam Truyền.- và dùng ngôn ngữ gần gủi văn phong của học giả, hành giả trên mãnh đất Bắt truyền. Nhằm hòa quyện với tư tưởng về TÂM của Quý Sư.- Chỉ mong được phổ biến đến cành nhánh phát triển nhằm hướng đến cội nguồn cây Bồ Đề nơi Đức Phật Thành Arahan Phật Trọn Lành.

Rất mong được Quý Vị Cao Tăng, thạc đức chỉ giáo và chia sẻ.- Quý ĐH góp ý thảo luận.
ĐH Chánh Tài nếu có hứng thú thì vào đây thảo luận cho vui (Vì VQ rất dài dòng.- Trả lời nơi topic của Bạn sẽ chiếm quá nhiều không gian ạ).

-"sadhu...sadhu" Lành Thay, lành thay....

Phần I: CITTA (TÂM)

Bài 1.- Lượt khảo về TÂM qua Thắng Pháp Luận.

Abhidhamma phiên âm là A tỳ Đạt Ma.- có nghĩa là Vô thượng pháp hay Thắng pháp.


  • Dhamma : có nghĩa là giáo lý.
  • Abhidhamma: nghĩa là thắng pháp vì pháp này giúp người tự giải thoát, hay vì pháp này thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.- Như vậy, vì giáo lý dạy rất đặc biệt, vì phương pháp phân tích rất đặc biệt, nên gọi là Abhidhamma.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 2.- Danh & Sắc.

+ Danh sắc là từ phức hợp nhằm chỉ đến một hợp thể mà nó bao gồm cả hai yếu tố: tâm lý và vật lý. Danh thuộc về TÂM (mind) và sắc thuộc về cơ thể (body). Thông thường, khi nói đến danh (nāma) là nói đến các lĩnh vực thuộc tâm lý, bao gồm: thức (viňňāna), tâm vương (citta) và tâm sở (cetasika).

+ "Danh sắc" (nāmarūpa) trong triết lý Phật giáo là sự kết hợp, sự liên kết giữa hai yếu tố: "danh" (nāma) là tâm, tinh thần, các chức năng tâm lý như nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc, và "sắc" (rūpa) là vật chất, thân thể, các giác quan và các yếu tố hữu hình.

Theo Thắng Pháp Luận:

Citta, Ceta, Cittuppàda, Nàma, Mana Vinnàna đều là những chữ đồng nghĩa theo Abhidhamma, không có sự phân biệt giữa Citta và Vinnàna (tâm và Thức). Khi cái gọi là vật hữu tình được chia thành hai phần, thời dùng chữ Nàma (Danh). Khi chia thành năm uẩn, thời chữ Vinnàna (Thức) được dùng.
++++++++++++

Thảo Luận:

Như vậy.- v/đ TÂM- THỨC- Ý không nên chia tách biệt lập.- Mà sẽ do tác dụng, do nhân duyên yếu tố mà sử dụng ngôn từ thích hợp mới rõ nghĩa.
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,494
Điểm tương tác
1,130
Điểm
113
Bài 1.- Lượt khảo về TÂM qua Thắng Pháp Luận.

Abhidhamma phiên âm là A tỳ Đạt Ma.- có nghĩa là Vô thượng pháp hay Thắng pháp.


  • Dhamma : có nghĩa là giáo lý.
  • Abhidhamma: nghĩa là thắng pháp vì pháp này giúp người tự giải thoát, hay vì pháp này thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.- Như vậy, vì giáo lý dạy rất đặc biệt, vì phương pháp phân tích rất đặc biệt, nên gọi là Abhidhamma.


Kính Thầy Viên Quang,

Theo thuật ngữ từ vựng khi nói đến Pháp học/Pariyati Dhamma thì có hai thuật ngữ chỉ đến Pháp cao diệu đó là Sadhamma và Abhidhamma.
Sadhamma, là Chánh Pháp Vi Diệu do Phật thuyết hàm tàng trong cả ba tạng, Kinh - Luật - Luận.
Abhidhamma, được dịch là Thắng pháp có nghĩa là pháp kỳ diệu phi thường đưa đến quả thù thắng vượt trội về Tuệ phân tích.
Như vậy Abhidhamma chỉ là một phần của Chánh Pháp Vi Diệu, Sadhamma được gọi là Thắng pháp vì thù thắng đối với tuệ phân tích pháp.
Sự thù thắng này được chư trưởng lão Theravada giải thích như sau: "Khi Đức Phật thuyết Tạng Kinh hay Tạng Luật thì Phật trí được vì như đại kinh ngư trườn lên bở để đạt mục đích (Vì chúng sanh cang cường ác trược tịnh nhiễm bất định/trừng hải). Nhưng khi thuyết Tạng Luận thì như đại kình ngư đi vào sông lớn mà vào đại hải sâu rộng mênh mông vẫy vùng không chướng ngại."
Thêm nữa truyền thống Theravada liệt kê các pháp tu theo Tạng luật, Tạng kinh và Tạng luận đều đưa đến Thánh quả A la hán nhưng sự thù thắng thì có khác biệt:
Bậc trì Luật tạng thì chứng đắc A la hán tam minh
Bậc trị Kinh tạng thì chứng đắc A la hán lục thông
Bậc trì Luận tạng thì chứng đắc A la hán Tuệ phân tích.

Cuối cùng để kết luận Abhidhamma/Thắng Pháp chỉ là một phần của Sadhamma/Chánh Pháp Vi Diệu nên nêu ra bài kệ lễ bái của bậc Alahan kết tập Thắng Pháp Nghĩa Nhiếp (Thắng Nghĩa), ANURUDDHA:

Samma Sambhudamatulam
Sa Sadhamma ganuttamam
Abhivadiya bhasitam
Abhidammattha Sangahati

Xin đảnh lễ Đấng Chánh Giác Vô Tỷ
Bậc thuyết Diệu Pháp tối thượng
Đấng Tăng già vô song
Con xin (nương theo mà) thuyết Thắng Pháp Nghĩa Yếu.


Kính
trừng hải
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,494
Điểm tương tác
1,130
Điểm
113
Bài 2.- Danh & Sắc.

+ Danh sắc là từ phức hợp nhằm chỉ đến một hợp thể mà nó bao gồm cả hai yếu tố: tâm lý và vật lý. Danh thuộc về TÂM (mind) và sắc thuộc về cơ thể (body). Thông thường, khi nói đến danh (nāma) là nói đến các lĩnh vực thuộc tâm lý, bao gồm: thức (viňňāna), tâm vương (citta) và tâm sở (cetasika).

+ "Danh sắc" (nāmarūpa) trong triết lý Phật giáo là sự kết hợp, sự liên kết giữa hai yếu tố: "danh" (nāma) là tâm, tinh thần, các chức năng tâm lý như nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc, và "sắc" (rūpa) là vật chất, thân thể, các giác quan và các yếu tố hữu hình.

Theo Thắng Pháp Luận:

Citta, Ceta, Cittuppàda, Nàma, Mana Vinnàna đều là những chữ đồng nghĩa theo Abhidhamma, không có sự phân biệt giữa Citta và Vinnàna (tâm và Thức). Khi cái gọi là vật hữu tình được chia thành hai phần, thời dùng chữ Nàma (Danh). Khi chia thành năm uẩn, thời chữ Vinnàna (Thức) được dùng.
++++++++++++

Thảo Luận:

Như vậy.- v/đ TÂM- THỨC- Ý không nên chia tách biệt lập.- Mà sẽ do tác dụng, do nhân duyên yếu tố mà sử dụng ngôn từ thích hợp mới rõ nghĩa.

Kính Thầy Viên Quang,

Hai thuật ngữ Danh-Sắc đặc biệt cần chú ý đến trong phép tri hành. Vì vậy trừng hải xin đóng góp thêm vài ý kiến.

Danh tức Danh pháp/Nama dhamma bảo gồm các pháp thuộc các uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Sắc tức Sắc pháp/Rupa dhamma bao gồm các pháp thuộc sắc uẩn, ngũ căn-ngũ cảnh (và vô biểu sắc).

Lại nữa, theo luật nguyên thủy Thập nhị nhân duyên thì Vô minh - Hành duyên Thức sanh Danh, Sắc. Thức ở đây là Vinnana tức Duy thức, có chức năng truyền đạt dữ liệu tin tức/new (Khác Vijnapti tức Duy biểu truyền đạt thông tin biểu đạt/information) Nên thành phần dữ liệu gồm cả Danh (Thọ, Tưởng, Hành, Thức uẩn) lẫn Sắc (Sắc uẩn) được gọi là Pháp xuất sanh từ Ngũ uẩn đó chính là Tâm, nơi tích tập sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp (Theo Giải Thâm Mật Kinh, chương Tâm Ý thức/HT Thích Trí Quang Việt dịch)

Kính,

trừng hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 3.- Sự liên đới: Vô Minh - TÂM - (&) Ngã ?

* Có 2 phương cách diễn tả về "TÂM" ở 2 hệ phái Nam & Bắc PG.

1/. Bắc Tông PG.- Chủ trương: "Trực chỉ Chân Tâm- Kiến Tánh thành Phật".- Nghĩa là khi quán kiến về TÂM. Hành giả Bắc Tông PG cần Thấu rõ Chân Tâm.

+ Nhưng dõi theo các kinh điển Bắc Truyền.- Thì chỉ có 1 TÂM chớ không có 2 Tâm ! Mà chỉ có VÔ MINH che chắn làm cho tri kiến sai lệch mà Tâm trở thành "Vọng Tâm". Giống như khi con mắt bị bệnh mà thấy có bóng lòa sanh ra hoa đốm (dụ cho vọng tâm).

+ Khi không còn Vọng Tâm.- Thì chỉ duy nhất 1 TÂM.- Là CHÂN NHƯ TÂM..- Nhưng Chân Như Tâm lại không thể nói.- Nếu nói ra thì không còn là Chân Như ! (Bất khả thuyết)

2/. Nam Tông PG. Thì không nói về Chân Như hay Chân Tâm.- Mà nói về Niết Bàn. Như đoạn Thắng Luận sau:

(lượt trích).- Sự chứng ngộ Niết bàn:

Hành giả muốn chứng Niết bàn phải cố gắng tìm hiểu sự vật đúng với thực tướng. Với nhất tâm, vị ấy quan sát tự ngã và tìm thấy cái gọi là tự ngã chỉ gồm có danh và sắc. Khi đã hiểu tự ngã chỉ gồm có danh và sắc, vị ấy lại tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra tự ngã, và nhận thấy là đời sống hiện tại là do 5 nguyên nhân vô minh ở quá khứ, ái thủ, kamma (nghiệp) và đoàn thực của đời hiện tại (trích.- Thắng Pháp Luận)

+ Ánh sáng mà Thắng Luận soi chiếu là: Vô Ngã tức Niết Bàn..- Nếu nói theo cách nói của Bắc Tông PG là hết Vô Minh thì Chân Như hiển hiện.

* Sự liên đới: Vô Minh - TÂM - (&) Ngã là:


  • Bắc Tông hóa giải VÔ MINH. Nam Tông đoạn trừ NGÃ CHẤP.
  • Bắc Tông thể nhập.- CHÂN NHƯ TÂM . Nam Tông chứng đắc .- NIẾT BÀN.

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Nban_j10

* Mà CHÂN NHƯ TÂM chính là NIẾT BÀN (Chân Như Tánh Tịnh Niết Bàn)
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 4.- Tóm tắc pháp học về TÂM ở Thắng Pháp.

Theo Vi Diệu Pháp có tất cả 89 tâm (hay tâm vương) được phân loại tùy theo phương diện.

Đứng về phương diện cõi giới thì có 4 loại tâm:

1. Tâm Dục giới (Kamavacaracitta): gồm 54 tâm chạy theo nắm bắt cảnh dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc).
2. Tâm Sắc giới (Rupavacaracitta): gồm 15 tâm thiền, lấy sắc pháp làm đề mục tu thiền.
3. Tâm Vô Sắc giới (Arupavacaracitta): gồm 12 tâm thiền, lấy vô sắc làm đối tượng tu thiền.
4. Tâm Siêu thế (Lokuttaracitta): gồm 8 tâm hướng về Niết bàn làm đối tượng.

Đứng về phương diện hiện khởi qua các căn thì có 6 thức: 1. Tâm nhãn thức: tâm nương con mắt, biết hình sắc. 2. Tâm nhĩ thức: tâm nương lỗ tai, biết âm thanh. 3. Tâm tỷ thức: tâm nương lỗ mũi, biết mùi hương. 4. Tâm thiệt thức: tâm nương cái lưỡi, biết mùi vị. 5. Tâm thân thức: tâm nương thân xác, biết cảm giác xúc chạm (nóng, lạnh, trơn, rít). 6. Tâm ý thức: tâm biết những ý nghĩ khởi lên trong tâm.

“Tâm thức không phải là một cá thể đơn thuần mà là một đơn vị tổng hợp. Một tâm thức khởi lên chắc chắn phải có những thành phần phụ thuộc. Những thành phần phụ thuộc này được gọi là sở hữu tâm (cetasika).

Tất cả tâm khi khởi lên đều chỉ có một nhiệm vụ là “biết cảnh”, nhưng được phân chia làm nhiều loại vì chúng có những đặc tính khác nhau. Đặc tính khác biệt ấy là do “sở hữu tâm” gây nên, như cùng đứng trước một cảnh mà sự biết cảnh nầy có đặc tánh ham muốn, sự biết cảnh kia lại có đặc tánh khó chịu, v.v...”

Tâm sở hay sở hữu tâm gồm có 52, chia thành ba loại:

1. Đại đồng hóa tâm sở (có 13): 7 biến hành (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn) và 6 biệt cảnh (tầm, tứ, thắng giải, tinh tấn, hỷ, dục).
2. Bất thiện tâm sở (có 14): tham, sân, si, vô tàm, vô quý, trạo cử, tà kiến, mạn, tật đố, bỏn xẻn, hối quá, hôn trầm, thùy miên, hoài nghi.
3. Tịnh hảo tâm sở (có 25): tín, niệm, tàm, quý, vô tham, vô sân, hành xả, tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm, nhu thân, nhu tâm, thích ứng thân, thích ứng tâm, thuần thân, thuần tâm, chánh thân, chánh tâm, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, bi, tùy hỷ, tuệ quyền.

Sự phân chia và kết hợp giữa tâm và tâm sở của Vi Diệu Pháp rất phức tạp, ở đây tôi chỉ nêu sơ lược để bạn đọc có chút khái niệm.

Điều cần nhớ là tâm không phải là một cá thể, mà là một dòng tâm thức, gồm nhiều loại tâm và tâm sở nối tiếp nhau khởi lên rồi diệt.

Lộ trình tâm Đặc biệt của Vi Diệu Pháp là nói về Lộ trình tâm (Cittavitthi), tức sự diễn tiến của một dòng tâm sinh diệt. Mỗi khi tiếp xúc với đối tượng hay trần cảnh, các loại tâm xảy ra theo một lộ trình phức tạp tùy theo từng hoàn cảnh. Thời gian khởi lên, trụ, và diệt của một tâm được gọi là sát na tâm (cittakkhana), một đơn vị cực ngắn chưa tới 1/1.000.000 giây.

Dưới đây là một thí dụ về lộ trình tâm (gồm 17 sát na) khi mắt thấy một đối tượng: 1. Hữu phần trôi qua (1 sát na) 2. Hữu phần rung động (1 sát na) 3. Hữu phần dừng lại (1 sát na) 4. Nhãn môn hướng tâm (1 sát na) 5. Nhãn thức (1 sát na) 6. Tiếp thọ tâm (1 sát na) 7. Quan sát tâm (1 sát na) 8. Xác định tâm (1 sát na) 9-15. Tốc hành tâm (7 sát na) 16-17. Ghi nhận tâm (2 sát na)

Khởi đầu khi dòng tâm thức ở trạng thái tĩnh lặng, chưa có tác động của một đối tượng nào thì nó trôi chảy âm thầm lặng lẽ (từ A đến B), ẩn tàng trong chiều sâu của sự sống nên gọi là Hữu phần (bhavanga).

Ở sát na thứ nhất khi Hữu phần đang trôi chảy êm đềm, chợt có một đối tượng tác động vào khiến Hữu phần này rung động trong một sát na (từ B tới C), và kế đó dừng lại (ở C). - Dừng lại có nghĩa là ngưng trôi chảy lặng lẽ để bước sang phần kế, cho nên gọi là Hữu phần dừng lại.

Ở sát na thứ 4, tâm hướng về đối tượng qua con mắt. Sát na thứ 5, nhãn thức sinh khởi. Ba sát na kế tiếp (6, 7, 8 ) tâm bắt đầu tiếp nhận, suy xét, và xác định. Bảy sát na kế tiếp (từ 9 đến 15) là quan trọng nhất vì đây là lúc tâm có thể tạo nghiệp (hành) mới.

Nghiệp này có thể tạo quả tức thời trong lộ trình kế tiếp, hay sẽ tạo quả trong tương lai. Hai sát na cuối cùng (16,17) là tâm ghi nhận tất cả tiến trình vừa xảy ra.

Sau khi ghi nhận xong, tâm trở về Hữu phần, và sửa soạn tiến sang lộ trình kế tiếp. Hình vẽ từ C tới D tượng trưng cho tiến trình từ sát na thứ 4 đến sát na thứ 17. Ở D, tâm trở về Hữu phần.

Dưới đây là một thí dụ thường được dùng song song với lộ trình tâm ở trên: 1. Người đang ngủ mê (ví như Hữu phần đang trôi chảy). 2. Luồng gió thổi qua (Hữu phần rung động). 3. Xoài rụng làm người kia tỉnh dậy (Hữu phần dừng lại). 4. Người đó hướng về phía trái xoài (nhãn môn hướng tâm). 5. Thấy một vật nhưng chưa biết là gì (nhãn thức). 6. Lượm trái xoài lên (tiếp thọ tâm). 7. Quan sát và ngửi (quan sát tâm). 8. Biết đây là trái xoài (xác định tâm). 9-15. Ăn trái xoài (tốc hành tâm). 16-17. Ăn xong nằm ngủ trở lại (ghi nhận tâm).

Giáo lý Nguyên thủy chỉ nói đến 6 thức, sau này Duy Thức tông của Vô Trước và Thế Thân nói đến 8 thức, tức là thêm Mạt-na thức và A-lại-da thức.

Trên một bình diện nào đó, Hữu phần có thể được xem như tương đương với A-lại-da thức. Bởi vì Hữu phần là phần chìm của dòng tâm thức, giống như vô thức hay tiềm thức, tất cả loại tâm đều khởi lên từ Hữu phần rồi cuối cùng trở về Hữu phần, giống như muôn ngàn đợt sóng khởi lên từ mặt biển rồi lặn trở về biển.- Phần chìm này tuy trôi chảy lặng lẽ nhưng nó chuyên chở và chứa đựng trong đó tất cả những nghiệp nhân do các tâm nối tiếp sinh diệt tạo tác, khởi lên chìm xuống, từ đời này sang đời khác.

Trong Vi Diệu Pháp còn có khái niệm về Kiết sinh thức (Patisandhi-vinnana), đó là dòng tâm thức kết nối từ đời này sang đời sau. Khi sống, dòng tâm thức trôi chảy lặng lẽ trong ngũ uẩn dưới trạng thái Hữu phần, nếu không có tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức trở thành “kiết sinh thức”, chập tư tưởng cuối cùng của kiếp trước trở thành chập tư tưởng đầu tiên của kiếp sau, cho nên còn gọi là “thức tái sinh”. Thức này còn có tên là thần thức hay hương ấm. Có ba điều kiện để một chúng sinh thọ thai, đó là tinh cha, noãn cầu mẹ và thần thức (hay kiết sinh thức). Sau khi nhập thai, kiết sinh thức liền trở thành dòng Hữu phần (bhavangasota).
( HT. Th Trí Siêu.- Lượt giải)
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Phần 2.- TÂM nhìn qua 5 UẨN.

+++++++++++++++++++=


Bài 5.- Kinh Nikaya dạy về 5 Uẩn.
v/đ TÂM ở Nam Truyền PG 5_uon_13

Trong Nikāya (các bộ kinh thuộc Tạng Pali), phân tích về năm uẩn ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức) được đề cập rải rác ở nhiều kinh, nhưng không có một bộ kinh cụ thể nào chỉ tập trung hoàn toàn vào ngũ uẩn.

Tuy nhiên, một số bộ kinh và bài kinh tiêu biểu trong Tương Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta Nikāya), Uẩn Tương Ưng (Khandha Saṃyutta), đặc biệt là k. HẢLIDDIKẢNI THỨ HAI (Dutìyahãliddikãnisutta), phân tích chi tiết về năm uẩn. - Đây là nơi tập hợp các bài kinh liên quan trực tiếp đến bản chất, sự sinh khởi, và sự chấm dứt của ngũ uẩn.

* Sau đây xin trích đoạn k. HẢLIDDIKẢNI THỨ HAI (Dutìyahãliddikãnisutta)25 (5. III. 12)Tương Ưng Bộ.

一 Đối với sắc giới, này gia chủ, cái gọi là dục, là tham, là hỷ, là khát ái; những gì thuộc chấp thủ, tâm trú trước, thiên chấp tùy miên; sự đoạn tận chúng, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, từ khước chúng một cách hoàn toàn, như vậy gọi là tâm khéo giải thoát.
Đối với thọ giới, này gia chủ...
Đối với tưởng giới, này gia chủ...
Đối với hành giới, này gia chủ...
Đối với thức giới, này gia chủ, cái gọi là dục, là tham, là hỷ? là khát ái;những gì thuộc chấp thủ tâm trú trước, thiên chấp tùy miên; sự đoạn tận chúng,ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, từ khước chúng một cách hoàn toàn, như vậy gọi là tâm khéo giải thoát.
Như vậy, này gia chủ là ý nghĩa đã được Thế Tôn nói đến trong tập: "Các câu hỏi của Sakka” như sau: "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào được giải thoát với sự đoạn tận khát ái, những vị ấy đã hoàn toàn đạt được toàn thiện; đã hoàn toàn đạt được an ổn khỏi các khổ ách; đã hoàn toàn hành Phạm hạnh; đã hoàn toàn đạt được mục đích; là bậc Tối thượng giữa chư thiên và loài người.,,(hết trích)

++++++++++++

Thảo luận: Như bài kinh trên dạy rõ: NGÃ gồm Danh & Sắc.- Ở kinh này diễn tả thành 5 Uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

+ Đối với: 5 Uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.- Nếu chìm đắm trong: dục, tham, hỷ, khát ái; những gì thuộc chấp thủ, tâm trú trước, thiên chấp tùy miên.- Đây là phàm phu Chấp Ngã.

+ Đối với:5 Uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.- "Những Sa-môn, Bà-la-môn nào được giải thoát với sự đoạn tận khát ái, v.v... những vị ấy đã hoàn toàn đạt được toàn thiện; đã hoàn toàn đạt được an ổn khỏi các khổ ách; đã hoàn toàn hành Phạm hạnh; đã hoàn toàn đạt được mục đích; là bậc Tối thượng giữa chư thiên và loài người" (Bậc Thánh).

* Tóm tắc:

- Phàm phu.- Thì 5 Uẩn là NGÃ.- Vì bị chấp thủ, tâm trú trước, thiên chấp tùy miên.

- Bậc Thánh.- Thì 5 Uẩn là "TÂM khéo giải thoát", là Niết Bàn.- Vì được giải thoát với sự đoạn tận khát ái,
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 6.- Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai KHÔNG.

BT. PG có đoạn TÂM kinh rằng:

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

nghĩa:
Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.(lượt trích)

++++++++++=

Thảo luận:

+ Quán tự tại: Nghĩa là Khi Thiền Quán nơi Trí Bát Nhã.- Tức Trí biết các Pháp (gồm cả ngũ uẩn) là KHÔNG.- Thì vượt các khổ.- Tức vào Diệt Đế Niết Bàn.

- Trí biết các Pháp là KHÔNG (gồm cả ngũ uẩn).- là biết những gì ? Thế nào là KHÔNG ?

1/. Trí biết 5 Uẩn là Không: Nghĩa là do nơi Phật dạy, do Thiền Định.- Nên biết 5 Uẩn đều là pháp duyên hợp. Cái này có do cái kia có. Từ đó biết chúng Không có Tự Tánh, nương gá nhau mà có.

2/. Các Khổ: Tức là thực trạng của Khổ Đế (Tứ diệu đế)

3/. Vượt các khổ: Tức là Diệt Đế- Niết Bàn (Do thể nhập Chân Không)

4/. Thế nào là KHÔNG ?

Đáp: Tức là TÁNH KHÔNG của các Pháp.-( HT Th Thanh Kiểm có giải về 3 bậc Sắc- Không). Là: 1. Đối Đải. 2. Bất Dị. 3. Tuyệt Đãi. (hết trích)

1. Sắc- Không Đối Đải: Nghĩa là do Ý THỨC phân biệt mà phàm phu thấy Sắc (CÓ) đối lập với KHÔNG (Không Có). Đây là tầng bậc thứ I của Thế Gian Phàm phu, và là ở Tầng đầu về "Văn tự Bát Nhã".

Ở tầng bậc này. Vì là Pháp Đối Đải, nên chúng ta chỉ thấy SẮC khác KHÔNG. - Không thể lẫn lộn.

Thí dụ: Chúng ta nói "Tôi KHÔNG CÓ tiền" không thể nào lẫn lộn với "Tôi CÓ tiền". - Nếu lẫn lộn, thì là già cả lẫn lộn, hoặc là người bị mất trí !.

* Cái "Không" (trong vòng Đối Đải) này. Chưa phải là Tánh Không, mà Trí Huệ Bát Nhã chỉ bày.- Đây chỉ là Tưởng Tri.

2. Sắc- Không Bất Dị: Tức là không khác nhau.

a). Nếu dùng Trí Thông minh của thế gian, lấy Ý Thức, não bộ để suy lường thì không thể nào thấu triệt được.

b). Người tu hành dùng Trí Không (Trí biết các Pháp Không) để quán, thời mới biết SẮC chẳng khác KHÔNG.

- Quán như thế nào để biết ?

Đáp: Quán .- Các Pháp không thể tự có, mà do các duyên hội hợp mà có.
- Sự quán chiếu Bát-nhã. Là Pháp Thiền Quán để lột bỏ những tấm màn Vô Minh do Ý Thức vọng khởi ra ấy, đang ngăn che chúng ta với thực tại của mọi sự vật là tánh Không, bởi vì sự vật thì từ vô thủy đến vô chung vẫn chính là tánh Không: Trí biết các Pháp Tánh Không- Tức là Trí Không. - Dùng Trí Không để quán chiếu các Pháp. Gọi là Quán Chiếu Bát Nhã.

* Về Quán Chiếu Bát Nhã này. Kinh điển Nikaya có nói đến:

+ Tưởng Tri, Thắng Tri và Liễu Tri.- - Tưởng Tri là thấy biết bằng Ý THỨC.- - Thắng Tri là thấy biết bằng Thiền Quán. Nên sự thấy biết rất thù thắng hơn Tưởng Tri.- Đây mới là Quán Chiếu Bát Nhã.- Liễu Tri là "Trực Nhận Chân Lý" bằng "Trí Không".

Hỏi: Thiền Quán như thế nào để đến được "Trí Không" ?
Đáp: Kinh Bát Nhã và ĐT ĐL dạy: Người tu quán 18 Không sẽ thấy được TÁNH KHÔNG của các Pháp. Thấy được Tánh Không của các Pháp thì có được Trí Không (Trí biết các Pháp là Không).

Kinh dạy: - Nguồn cội các pháp là không có tự tánh. Không tự tánh thì không phải có nghĩa là Không có các pháp, mà là các pháp giả có . Nếu chấp cái Không ấy thì rơi vào Đoạn kiến Không, nếu chấp Đoạn kiến Không thì là Tà kiến.

- Lưu ý .- "Tánh Không" chẳng phải là có 1 cái Tánh là KHÔNG (nếu hiểu vậy thì liền rơi vào Chấp Không, nêu trên).- Mà là Các Pháp đều KHÔNG CÓ TỰ TÁNH, nên là TÁNH KHÔNG.

Nếu chúng ta cho rằng Tánh Không, là các Pháp có một cái Tánh "cố định là KHÔNG", thì chúng ta rơi vào "cái Không " thuộc phạm trù đối đãi của phàm phu" cái Không thuộc ý thức suy lường này của phàm phu chúng ta cần nên loại bỏ, để tiến vào cái Không Bất Dị, và cái không Tuyệt Đãi của Bậc Thánh.

Kinh nói rằng:
"Cho nên, trong cái không đó, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giới cho đến ý thức giới. Không có vô minh cũng không có hết vô minh. Cho đến, không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không trí cũng không đắc. Vì không có sở đắc, nên Bồ tát y nơi Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, ly hẳn tất cả điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn".

Vì "KHÔNG" không thuộc nhị biên phân biệt (Sắc không đối đãi), nên cái ‘không’ mà tâm kinh nói đây, không những không có ấm, giới, nhập như hàng Nhị thừa đã chứng nghiệm, mà cũng không luôn pháp Tứ đế hay Thập nhị duyên sinh. Ngay cả cái gọi là trí, là chứng cũng không. Bởi phần thức ấm sâu xa là Alaida và Matna thảy đều không. Đây là mượn ngôn từ để nói về THỰC TƯỚNG BÁT NHÃ như Bát bất của luận Trung Quán, (trích...)

Nói chung, khi giải trừ Ý Thức, trầm tư vào Thiền quán, sẽ tiếp cận được Sắc Không Bất Dị,

* Thí dụ: Bằng Thiền quán vào pháp Hữu Vi như thế này.- Có thể thấy được Sắc- Không Bất Dị:


  • SẮC: là vật chất.- là do duyên hội hợp mà có.- Là Pháp Tập- Tán.- Nên là Tánh Không.
  • Cái gọi là KHÔNG (thuộc pháp đối đãi).- Cũng là do duyên như vậy nên Không.- - Là Pháp Tập- Tán.- Nên là Tánh Không.

* Thí dụ:Có một quán cafe đặc tên là "Sen hồng".-Lại có một quán cafe đặc là "Không tên".

Như vậy dù là quán có tên hay quán không tên đều là quán cafe như nhau. Bởi vì do nhân như vậy, duyên như vậy mà có tên là "Sen hồng". Cũng do nhân như vậy, duyên như vậy mà có tên là "Không tên".

Gút lại: SẮC & KHÔNG (Ở pháp Hữu Vi) Điều Là Pháp Tập- Tán.- Nên là Tánh Không.- CHÚNG BẤT DỊ..- Chư Pháp Bất Dị.- Nghĩa là không có sai khác.- Vì tất cả đều từ bản thể Chân Như mà huyễn hiện.

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Thien-18

3. Sắc- Không Tuyệt Đải: Đây là Pháp Vô Vi, Chân Như, Niết Bàn.- Vì Pháp Vô Vi là Bất Sanh, bất diệt, vô ngôn, tuyệt lự .- Nhưng lại là nền tảng, là căn nguyên SẮC & KHÔNG.- Nên gọi là Tuyệt Đãi.

* Như bài nói về Hư Không Vô Vi sau:

+ Hư không là một từ ngữ trừu tượng để chỉ khoảng không gian không có vật chất.- -Thí dụ:Trong khung cảnh không gian chung quanh tôi,tôi nhận thấy.-Đây là cái bàn,đây là cái ghế,đây là cây cột nhà v.v...Và khoảng không gian mà tôi không thể xác định được đó là vật gì thì tôi gọi đó là HƯ KHÔNG.
-Như vậy HƯ KHÔNG là một từ Ngữ trừu tượng,không thể nắm bắt,không có thật thể.


  • HƯ KHÔNG CHỈ CÓ DANH TỰ MÀ KHÔNG CÓ THỰC THỂ.
  • VÔ VI CŨNG LÀ PHÁP KHÔNG CÓ THỰC THỂ,VÌ PHÁP TÁNH,VÌ NIẾT BÀN,VÌ CỰC LẠC V.V...LÀ PHÁP TỊCH DIỆT CHƠN KHÔNG LÀ PHÁP CHỈ CÓ DANH TỰ MÀ KHÔNG THỰC THỂ NHƯ HƯ KHÔNG NÊN GỌI LÀ HƯ KHÔNG VÔ VI.

- Hư không vô vi: không ngã không pháp rời các cấu nhiễm rỗng rang như hư không, chơn như, pháp tánh. Không dùng ý thức suy nghĩ, nó phi sắc phi tâm, không cấu tịnh, sanh, diệt và tăng giảm nên gọi là vô vi.

- Sắc- Không Tuyệt Đải: Đó là tự tánh bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm của hết thảy các pháp.
Như vậy gọi là vô vi pháp tướng.

* Sắc- Không Tuyệt Đải.- Cũng chính là CHÂN NHƯ VÔ VI.- không phải vọng gọi là Chơn (biến kế sở chấp) không điên đảo gọi là Như (y tha khởi) tức là thật tánh của các pháp (viên thành thật).

* Sắc- Không tuyệt đãi (Thể Nhập Chân Như nên SIÊU VIỆT TRI KIẾN không còn khởi phân biệt nhị nguyên). Đây là Liễu Tri. Thuộc Chân Trí của bậc Thánh.

Tóm lại: SẮC- KHÔNG TUYỆT ĐÃI là CHÂN NHƯ (TÂM), là VÔ VI, là NIẾT BÀN.- Hành Thâm Bát Nhã.- Ngũ Uẩn Giai Không (hoàn toàn) là Thể nhập Vô Vi Chân Như, Niết Bàn vậy.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 54%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
347
Điểm tương tác
150
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Nếu phải Dựa vào Tam Tạng kinh điển để giải thích Tâm Không, Tánh Không thì vẫn không thế nào Thấy được Tâm Tánh.
Tâm là Phật là Pháp. Tất cả Pháp đều là Tâm là Phật.
Nghĩa là Dựa vào Tam Tạng kinh chẳng thế giải thích Tâm Không, Tánh Không được đâu.

Ngàn Kinh muôn Luận chỉ là phương tiện giải thích Tâm Tánh vẫn không thế nào đủ để giải thích:
"Đâu là Tâm? Không chỗ nào là Tâm?"
Có câu "Người Tìm Tâm như người dang cưỡi Trâu tìm Trâu?"
Hí hí,

Pháp sư thăng toà giảng Kinh, bác ở dưới nói liên thiên gì thế ?

Dựa vào "chữ" - Lời văn Kinh - như Kim Khẩu Phật thuyết trên đỉnh Tuyết Sơn, ngàn chúng lặng yên, Thiên nhạc tấu vang, Thiên Thần hoan hỷ, nghe xong đắc pháp vô số, gọi là Thanh văn thừa.

Bác "văn thanh" mà chẳng "phản văn văn tự tánh" đó là lỗi của bác đâu phải lỗi của "thanh". Vì nghe mà chỉ đuổi chữ mà chẳng tìm nghĩa nơi tâm mình, nên tục nhân gọi là " đàn gảy tai trâu", bác không phải là người tìm trâu, mà bác là "con trâu đang bị cưỡi" bởi tập khí phiền não chấp trước !

Kinh thuyết như Phật hiện tiền, khởi tâm kính ngưỡng còn chưa đủ thành mà lãnh huyền chỉ, ở đó mà cao ngạo cái gì ?

Hay bác muốn em cưỡi cỗ máy thời gian về lại quá khứ, mượn đỡ cây phản của cụ Đức Sơn, mang về đặt đây dâng thầy Vienquang xử bác nhé ?!
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Phần 3.- Tâm THỨC.

++++++++++++++++++


Bài 7.- Tóm lược.- kinh 6 Xứ:

Trong Nikaya.- đề cập đến sáu loại nhận thức: nhãn thức (nhận thức thị giác), nhĩ thức (nhận thức thính giác), tị thức (nhận thức khứu giác), thiệt thức (nhận thức vị giác), thân thức (nhận thức xúc giác) và ý thức (nhận thức tư duy). Đây là những yếu tố cơ bản trong quá trình nhận thức của con người, theo quan điểm Phật giáo Nguyên thủy.

Ở kinh 6 Xứ.- ” Thế Tôn nói như sau: — Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.” Đó là cốt tủy của kinh.

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG 6_xo10

Tâm Thức cần phải được biết

Sáu căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý cần phải được biết, tức là sáu nhân cần thiết để tạo sự hòa hợp với sáu trần cần phải biết, là sáu duyên tức Sắc, Thinh, Hương Vị, Xúc, Pháp mà khởi lên sáu quả cần phải biết,tức sáu thức Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức. Lục thức còn gọi là Tâm thức. Sự gặp gở ba pháp của căn, trần, thức là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến “Sáu ái thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. - Lục thức cũng sanh diệt, nên lục thức vô ngã.

Phật giải rõ ràng pháp giải thoát, “Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”. Và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.”(HT. Thích Minh Châu Việt dịch)

Trong kinh Rohitassa, Đức Phật dạy:

"Trong chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian.239 "

(Trong đoạn kinh này, danh từ"Loka" - được phiên dịch là "Thế gian" - ám chỉ tình trạng đau khổ.- Tức Khổ Đế)
+++++++++++++++++++++

Thảo luận:

Như Đức Phật dạy:

+ Trong chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng.- Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian.

  • Cũng có nghĩa là. 6 Thức hay 6 Xứ là nơi khởi nguồn thế gian. Chấm dứt thế gian.
  • Cũng có nghĩa là. Tu Phật phải y cứ 6 Thức hay 6 Xứ.- Chớ không ở đâu khác.
  • Cũng có nghĩa là. 6 Thức hay 6 Xứ là nơi khởi nguồn của xuất thế gian.và Giải thoát đến Niết Bàn.
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 8.- Cội Nguồn của TÂM .

Câu chuyện Ngoại Đạo nạn vấn.- ở kinh Bách Dụ:

TÔI NGHE NHƯ VẦY:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại Vườn trúc Thước Phong gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại Bhikṣu [bíc su], chư đại Bồ-tát, và thiên long bát bộ; tổng cộng là 36.000 vị.

Khi ấy trong chúng hội có 500 Phạm Chí từ các trường học khác nhau, họ từ chỗ ngồi đứng dậy và hỏi Đức Phật rằng:

"Chúng tôi nghe là Phật Đạo rất thâm sâu và không gì có thể ngang bằng. Thế nên chúng tôi đến hỏi. Mong Ngài hãy thuyết giảng cho!"

Đức Phật bảo:

"Lành thay!"
Phạm Chí hỏi rằng:
"Vũ trụ tồn tại hay không tồn tại?"
Đức Phật bảo:
"Nó vừa tồn tại mà cũng không tồn tại."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Nếu nó tồn tại, sao Ngài nói nó không? Nếu nó không tồn tại, sao Ngài nói nó có?"
Đức Phật bảo:
"Người sống nói là có, nhưng kẻ chết nói là không. Do đó, Ta có thể nói nó tồn tại và không tồn tại."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Con người nhờ vào gì để sống?"
Đức Phật bảo:
"Con người nhờ vào ngũ cốc để sống."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Ngũ cốc từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:
"Ngũ cốc sanh ra từ bốn đại: đất, nước, gió, lửa."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Bốn đại từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:
"Bốn đại sanh ra từ không."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Không từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:
"Không sanh ra từ không chỗ có."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Không chỗ có từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:
"Không chỗ có sanh ra từ tự nhiên."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Tự nhiên từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:

"Tự nhiên sanh ra từ tịch diệt."
Phạm Chí hỏi rằng:
"Tịch diệt từ đâu sanh ra?"
Đức Phật bảo:
"Sao nay ông lại hỏi việc sâu xa như vậy? Tịch diệt là Pháp bất sanh bất tử."


Phạm Chí hỏi rằng:
"Đức Phật đã đắc tịch diệt chưa?"
Đức Phật bảo:
"Ta vẫn chưa đạt đến tịch diệt."
"Nếu Ngài vẫn chưa đạt đến tịch diệt, thế thì làm sao Ngài biết được tịch diệt là thường lạc?"
Đức Phật hỏi rằng:
"Bây giờ Ta hỏi ông, chúng sanh ở thế gian là khổ hay vui?"
Phạm Chí đáp rằng:
"Chúng sanh rất khổ."
Đức Phật hỏi rằng:
"Làm sao ông biết họ khổ?"
Phạm Chí đáp rằng:
"Khi chúng sanh chết, tôi thấy họ chịu thống khổ khôn xiết. Do đó, tôi biết chết là khổ."
Đức Phật bảo:
"Tuy bây giờ ông chưa chết, nhưng ông cũng biết chết là khổ. Tương tự như vậy, vì Ta thấy mười phương chư Phật đều bất sanh bất tử, cho nên Ta biết tịch diệt là thường lạc."

Ngay lúc ấy, 500 vị Phạm Chí được tâm khai ý giải và xin thọ trì Năm Giới. Sau đó họ đều đắc Quả Dự Lưu.
(Thích Trí Phong.- Rút từ Đại Tạng. -Trung Tâm Phiên Dịch Huệ Quang.)
++++++++++++++++++++++

Tư duy:

* Ngoại Đạo nạn vấn, với ý đồ dùng ngôn ngữ để buộc Đức Phật phải công nhận: "Thượng Đế, Phạm Thiên" sanh ra con người !

* Đức Phật bác bỏ và chỉ ra: Vạn vật từ Vô Sanh (Nê hoàn- Tịch Diệt- Niết Bàn) mà sanh.

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Bze-la13

  • Các Thuật Ngữ: Nê hoàn- Tịch Diệt- Niết Bàn- Chân Như v.v... đều chỉ cho TÂM.- Mà là NGUỒN TÂM. Là BẢN THỂ.
  • THỂ sanh ra TƯỚNG, DỤNG.

 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 9.- 6 THỨC. - là TƯỚNG (của TÂM).

THỂ : Là Bản Thể, là cội nguồn.

TƯỚNG: Là Hiện Tượng sanh ra từ Bản thể.

DỤNG: Là Diệu dụng của Bản thể & Hiện Tượng.

+ "Pháp" luôn đầy đủ “thể, tướng, dụng”. Thể (hay thể tánh) là bản chất nội hàm, tướng là hình dáng bên ngoài, dụng là lợi ích của mỗi pháp. Nói cách khác bất kỳ cái gì có hình thức biểu hiện gọi là tướng. Mỗi tướng đều có cái dụng riêng của nó.

+ Tâm cũng vậy. Thể của TÂM là Chân Như- Tịch Diệt. Tướng của TÂM 5 Uẩn, hoặc 6 Thức. Dụng của Tâm Thức là Thấy , nghe, hay, biết (theo hiện Thức.Như "Nhãn thức" dụng là Thấy).

+ Khi nói về Tâm.

  • Không có dài, vắn, vuông, tròn v.v....
  • Không có xanh, vàng, trắng, đỏ v.v...
  • Không có nặng, nhẹ, nổi, chìm v.v...

Nhưng thông qua 6 Thức là: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, Ý.- Thông qua Biểu TƯỚNG (như vậy) mà biết sự tồn tại của TÂM.

* Đến đây một câu hỏi khởi lên là: Vì sao 6 Giác Quan.- Chính là TƯỚNG của Tâm.- Mà kinh chỉ gọi là Thức; Mà không gọi là TÂM ?

- Đáp: Vì Thức là 1 trong 5 món ngăn che TÂM.- Kinh gọi là Ngũ Uẩn. (hoặc Ngũ Ấm.- Chúng ta sẽ quán sát thêm ở bài sau)
v/đ TÂM ở Nam Truyền PG 5_uon_14
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 10.- TÂM tạo ra 5 Uẩn.(trong đó có THỨC UẨN)

= Thức: là những sự nhận thức, phân biệt, hiểu biết được gom lại thành thức uẩn.

= Uẩn (khandha) có nghĩa là một khối hay một nhóm cùng loại, cùng tính chất.

= Năm uẩn (panca-khandha) là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.

(HT.TH Trí Siêu) nói về 5 Uẩn:

Trong kinh Hoa Nghiêm nói tâm như một họa sĩ khéo, vẽ ra đủ loại ngũ ấm (thân hình), trong tất cả thế gian, không gì mà tâm không tạo được. Một họa sĩ khéo, tài ba thì tốt chứ sao. Nhưng kẹt một điều (là bất giác) như đã nói ở trên, sau khi vẽ ra một ngũ ấm thì tâm tưởng đó là nhà rồi chui vào ẩn thân, hoặc tâm xem đó là áo đẹp mặc hoài không chịu cởi ra. Khi ngũ ấm tan rã thì tâm lại tạo một ngũ ấm khác để chui vào. Nếu làm nghiệp ác thì tâm tạo ra thân thú vật hay ngạ quỷ rồi chui vào đó. Nếu làm nghiệp thiện thì tâm tạo ra thân người hay chư thiên. Biển quên mình là biển, tưởng mình là sóng và gọi sóng là Ta. Khi ngọn sóng khởi lên thì biển cho đó là Ta sinh ra. Khi ngọn sóng vươn cao lên thì biển cho đó là Ta lớn lên (hay trưởng thành). Khi sóng bắt đầu đi xuống thì biển cho là Ta già đi. Khi sóng chìm xuống biển mất dạng thì biển cho là Ta chết và hoảng sợ. Biển không nhớ mình là ai, vì từ lâu nó tưởng nó là những ngọn sóng to nhỏ đủ loại. Biển tạo ra sóng, rồi tưởng nó là sóng. Sóng có sinh có diệt, nhưng biển không sinh không diệt. Tâm cũng vậy, tâm vọng động nên tạo ra ngũ uẩn rồi tưởng nó là ngũ uẩn, ngũ uẩn là mình, là Ta. Rồi từ đó tâm khổ sở lo lắng cho cái Ta (ngũ uẩn). (Lượt trích)

Vâng ! TÂM tạo ra 5 Uẩn là như thế.

* Ở đây chúng ta quán THỨC UẨN.

+ Thức uẩn (vinnana-kkhandha): là những sự nhận thức, phân biệt, hiểu biết được gom lại thành thức uẩn.

Chúng sanh Chấp năm uẩn là "ngã".- Khi năm uẩn này kết hợp lại với nhau thì gọi là con người (puggala, person).

Bất cứ người nào cũng đều là một hợp thể của năm uẩn, không hơn không kém. - Nhưng vì không biết tự mình chỉ là hợp thể của năm uẩn mà lại tưởng mình là ông này, bà kia, tên này, chức nọ, v.v... nên mới bắt đầu sinh chuyện, lầm tưởng năm uẩn là ngã, là Ta rồi khư khư bám vào đó.

Năm uẩn chỉ là năm uẩn,

  • sắc chỉ là sắc,
  • thọ chỉ là thọ,
  • tưởng chỉ là tưởng,
  • hành chỉ là hành,
  • thức chỉ là thức, thế thôi.

Nhưng vì không biết (vô minh) nên

  • đối với sắc (form) thì cho sắc là Ta,
  • Ta có thân hình cao, thấp, đẹp, xấu, v.v... Mũi tẹt chỉ là mũi tẹt, nhưng vì chấp cái mũi là Ta nên thấy nó xấu, cần phải đi sửa mũi cao lên.
  • Mắt một mí chỉ là mắt một mí, nhưng vì chấp mắt là Ta nên cần phải đi cắt thành hai mí cho Ta đẹp hơn.
  • Da nhăn chỉ là da nhăn, nhưng vì chấp da là Ta, là của Ta nên phải đi căng da và đánh phấn thoa son cho Ta trẻ lại.
  • Thân lùn, thấp nhỏ chỉ là thân lùn, thấp nhỏ, nhưng vì chấp thân là Ta nên phải đi giày cao gót cho Ta cao hơn một chút.
  • Không biết cảm thọ (sensations, feelings) chỉ là cảm thọ, mà lại chấp cảm thọ là Ta. Khi có cảm giác dễ chịu, sung sướng thì cho là Ta sướng, nên luôn luôn đi tìm khoái lạc qua sáu giác quan.
  • Mắt thích nhìn sắc đẹp,
  • tai thích nghe lời tâng bốc nịnh hót,
  • mũi thích ngửi mùi nước hoa, dầu thơm,
  • lưỡi thích nếm những món ngon vật lạ,
  • thân thích sự êm ái, nhục dục,
  • ý thức luôn luôn suy nghĩ về cái Ta và những thứ của Ta.

Sáu căn luôn hướng ra ngoài, chạy tìm sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) để có cảm giác sung sướng, vì cho rằng Ta sung sướng.

Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không vừa ý thì sinh ra cảm giác đau khổ, và cho là Ta đau khổ.

Không biết tưởng chỉ là tưởng (tri giác, perception), mà lại chấp tưởng là Ta.

Nên

  • mắt thấy sắc thì cho là Ta thấy,
  • tai nghe tiếng thì cho là Ta nghe,
  • mũi ngửi mùi thì cho là Ta ngửi,
  • lưởi nếm vị thì cho là Ta nếm vị,
  • thân xúc chạm thì cho là Ta xúc chạm,
  • ý tưởng tượng thì cho là Ta tưởng tượng, v.v...

* Tóm lại:

- TÂM tạo ra 5 Uẩn (trong đó có Thức).- Rồi do Vô Minh (Hoặc)- Mà Chấp 5 Uẩn làm "Ngã".- Nên có Hành (Nghiệp).- Có Nghiệp nên có sanh tử ưu bi (Khổ)

(HT. Th Tri Siêu): Bình thường tâm không khởi thì không có chuyện gì hết, giống như biển lặng. Khi tâm khởi động, sinh ra đủ loại ý nghĩ, mong muốn, ưa ghét, vui buồn thì lúc bấy giờ mọi sự vật liền xuất hiện theo luật duyên khởi. Vì thế trong nhà thiền có câu: “bình thường tâm thị đạo”, khi tâm trở về trạng thái bình thường của nó, yên lặng chiếu soi như mặt biển không sóng thì thiên hạ thái bình, đó là đạo.

Còn cái tâm luôn suy nghĩ, dù suy nghĩ đúng hay sai, đó không còn là bình thường nữa mà đã hết bình thường rồi, giống như mặt biển đã dậy sóng, sóng nhỏ, sóng to, sóng thần, sóng ngầm, sóng lăn tăn, sóng đủ loại.

Nhưng khổ nỗi, tâm chúng sinh đã đánh mất trạng thái yên lặng ban đầu (bổn tánh) mà chỉ quen với trạng thái lăng xăng khởi niệm (hậu tánh) và cho đó là bình thường. Chúng sinh cho cái tâm bình thường của mình là cái tâm hay suy nghĩ lăng xăng đủ chuyện. (hết trích)

+ Ghi chú: "Tâm" ở đoạn này là nói về "Tâm Thức"

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Danh_s10


* TÂM & THỨC.- Ví như chất sắc sanh ra "rĩ sét" rồi "rĩ sét" lại ăn mòn chất sắc.- Tâm Chân Như sanh ra "Thức" (Tâm Thức) rồi do vô minh chấp ngã mà "Thức" lại lôi chúng sanh vào luân hồi khổ.

* Nhưng Tâm Chân Như là bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.- Nên có Giáo lý Như Lai Tạng để sáng soi v/đ này.
 

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,494
Điểm tương tác
1,130
Điểm
113
Phần 3.- Tâm THỨC.

++++++++++++++++++

Tâm Thức cần phải được biết

Sáu căn: Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý cần phải được biết, tức là sáu nhân cần thiết để tạo sự hòa hợp với sáu trần cần phải biết, là sáu duyên tức Sắc, Thinh, Hương Vị, Xúc, Pháp mà khởi lên sáu quả cần phải biết,tức sáu thức Nhãn thức, Nhĩ thức, Tĩ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức. Lục thức còn gọi là Tâm thức. Sự gặp gở ba pháp của căn, trần, thức là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến “Sáu ái thân cần phải được biết”, chính do duyên này được nói đến như vậy. - Lục thức cũng sanh diệt, nên lục thức vô ngã.

Phật giải rõ ràng pháp giải thoát, “Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”. Và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.”(HT. Thích Minh Châu Việt dịch)

Trong kinh Rohitassa, Đức Phật dạy:

"Trong chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian.239 "

(Trong đoạn kinh này, danh từ"Loka" - được phiên dịch là "Thế gian" - ám chỉ tình trạng đau khổ.- Tức Khổ Đế)
+++++++++++++++++++++

Hề hề,

Tâm thức/Mindset, theo ngôn ngữ khoa học thường thức hiện đại thì gồm có Trí năng (Lý trí và Tình cảm) và Nhận thức tùy mức độ của ấn tượng sâu cạn (ấn tượng bền chặc hay hời hợt) mà có quyết định trong sự suy nghĩ, cảm nhận và hành động. Và đó chính là Năng tri và Sở tri theo ngôn ngữ Hán Việt.

Theo nguyên thủy Câu xá luận thì Tâm Thức bao gồm Tâm và Thức, chúng cùng Thể nhưng khác Tên gọi. Dụ như Nước và Sóng. Sóng lặng thì Nước và Sóng đồng một Thể. Vậy nên khi Năng không, Sở không thì đó chính là Bản Thể.

Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 10.- NHƯ LAI TÀNG.- TÂM-

- Pháp giới (tên khác của TÂM) là đầu mối vọng hiện ra muôn sự vật, lớn không ngoài, nhỏ không trong “Phóng chi tắc cai la thế giới, thu chi tắc tế nhập vi trần” (Buông ra thì trùm khắp pháp giới, thâu lại thì nhỏ hơn vi trần), nên pháp giới là tâm của vũ trụ, đồng thới cũng là tâm của con người và tùy theo pháp môn,

- Pháp giới có những danh hiệu khác nhau như: Chơn như, Chơn tâm, Chơn không, Tỳ Lô Giá Na, Bản lai diện mục, Như ý châu, Niết Bàn, Phật tánh. v.v...

Vì vậy pháp giới có đủ cả hai mặt chơn đế và tục đế, bản thể và hiện tượng, tánh và tướng mà hai mặt này lại tương dung, tương nhiếp với nhau như sóng và nước. - Nên gọi là NHƯ LAI TẠNG (hết trích)
v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Nhu_la12

+++++++++++++++++

Thảo Luận:

pháp giới (tên khác của TÂM) có đủ cả hai mặt chơn đế và tục đế, bản thể và hiện tượng, tánh và tướng.- Có nghĩa là:

Khi TÂM tạo ra Thức Uẩn.- Thì có "đủ cả hai mặt chơn đế và tục đế",

  • Chơn Đế: Thì Tịch Diệt, Thanh tịnh, Niết Bàn.
  • Tục Đế: Thì Vô minh, chấp Ngã, Sinh diệt, khổ v.v...

  • Do Vô Minh Chấp Ngã.- Nên chúng sanh sống trong Thức Uẩn.- Chỉ nhận được Tục Đế. Quên đi Chân Đế.
  • Do không nhận ra Chân Đế.- Chúng Sanh chỉ thấy Hiện TƯỚNG. Không Thấy Bản THỂ (của TÂM)
  • Hết Vô Minh, chấp Ngã.- 6 Thức thành Lục Trí (hoặc tứ Trí).- Đức Phật dạy: Y TRÍ BẤT Y THỨC.

Kinh Nikaya dạy:

  • Thức quá khứ, vị lai hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, xấu hay tốt, xa hay gần, tất cả những gì là thọ, tưởng, hành, thức, cần phải được nhận định theo chánh trí huệ, đúng như thật: “Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta”.
  • Khi nhận định sự vật như thế, này các thầy, người đa văn thánh đệ tử xa lìa và nhàm chán sắc thân, xa lìa và nhàm chán thọ, tưởng, hành và thức. Do nhàm lìa nên vị ấy không còn ham muốn. Do hết ham muốn nên được giải thoát. Khi được giải thoát, trí huệ khởi lên: “Đây là sự giải thoát” và vị ấy biết rõ: “Tái sinh chấm dứt, phạm hạnh đã thành, điều cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”.

“Này các thầy, Thức không phải là ta. - Nếu thức là ta thì thức sẽ không gây đau khổ phiền não và đối với thức ta có thể ra lệnh: “Thức của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi”.

Thức là sự nhận thức, phân biệt, hiểu biết. Bình thường khi mọi việc hanh thông suông sẻ thì ta tưởng tất cả sự nhận thức, phân biệt, hiểu biết là ta, cho nên ta có thể làm chủ được nó. Nhưng khi gặp tai nạn, xui xẻo thì ta mới nhận ra không phải như vậy.

Thí dụ những khi ta chơi hụi, hoặc cho vay bị quỵt thì sao? Ta có biết trước, và phân biệt được người kia là kẻ lường gạt, giựt hụi không?

Cái thức, hay sự nhận thức, phân biệt của ta nó đâu có báo trước cho ta biết người kia là kẻ gian để ta đừng cho vay.

Khi đi học hay đi thi, nếu ta là thức, là chủ của thức thì ta có thể ra lệnh cho cái thức phải hiểu ngay bài thi và làm đúng ngay chóc. Nhưng nếu ta không học bài, thiếu thông minh thì cái thức nó mù tịt không hiểu gì hết và ta vẫn thi rớt như thường. Do đó ta không thể ra lệnh, hay sai khiến cái thức của ta phải như thế này hay như thế kia theo ý ta.

Như vậy cái thức vô ngã, vô chủ, không ai là chủ của nó cả. (hết trích)

  • Bắc Tông PG dạy: Hóa giải Vô Minh.- Y TRÍ BẤT Y THỨC.
  • Nam Tông PG dạy: Vô Ngã- đắc Niết Bàn.

 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 12.- Tánh Giác.- (Diệu) Dụng của TÂM.

Ở kinh Lăng Nghiêm, khi ngài Phú Lâu Na hỏi “tất cả các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới, v.v... đều là tính thanh tịnh bản nhiên Như lai tạng, thì sao bỗng nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền, v.v...?”

+ Đức Phật trả lời: “Tánh Giác là diệu minh,- bản giác là minh diệu”.

* (Cần lưu ý: Tánh giác .- có nghĩa đơn giản là tánh biết, nhưng tánh biết này không phải là cái biết thường tình thế gian như biết phải biết trái, biết yêu biết giận, biết buôn bán làm ăn, v.v... Mà: Tánh biết ở đây là tánh giác, là diệu minh. )

* Trở lại Tánh Giác Diệu Minh:

  • Diệu là năng duyên khởi ra sự vật,
  • Minh là nhận biết các sự vật.

* Tính chất nhận thức của Tánh biết này là hiện lượng (pramana), biết một cách trực tiếp, vô tư, không có vọng tưởng phân biệt, ưa ghét, thủ xả.

* (Tánh giác này tỏa ra sáu giác quan thành nhiều tánh khác như tánh thấy, tánh nghe, tánh biết, tánh ngửi, tánh nếm. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật khai thị tánh thấy cho ngài A-Nan, rồi sau nhờ Bồ tát Văn Thù lựa một phương pháp cho ngài A-Nan tu tập, đó là quán tánh nghe (nhĩ căn viên thông) của Quán thế Âm Bồ tát, để trở về chân tâm ) .

* Tánh giác là tánh căn bản, thường hằng của tâm, còn được gọi là Phật tánh.- Vì nó là Bản Nhiên nên còn gọi là BẢN GIÁC.

  • Bản Giác (hay Bản Tánh) là DỤNG của TÂM CHÂN NHƯ (ở BTPG).
  • Bản Giác (hay Bản Tánh) là DỤNG của (TÂM) NIẾT BÀN (ở NTPG).

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Thien-19
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 13.- Phần TỊNH của THỨC (Tâm).- Bản Giác.

TÂM THỨC (Như Lai Tàng).- Có 2 mặt: 1. NHIỄM , 2. TỊNH.

  • TỊNH.- Là phần Bản Giác của THỨC.
  • NHIỄM.- Là phần Hậu Tánh của THỨC.

* Bổn Giác: “Bổn tâm thanh tịnh” có nghĩa là cái tâm ban đầu trong sạch, do bổn tâm thanh tịnh cho nên “bổn tánh thanh tịnh”. - Nói cho đủ ý nghĩa là “bổn tánh của tâm thanh tịnh”. - Đó là Bản Giác.

+ Tâm ban đầu tánh vốn thanh tịnh, nhưng vì bất giác vô minh, khởi lên muôn ngàn vọng tưởng, phiền não, sinh ra sơn hà, đại địa, tạo ra ngũ uẩn, rồi trôi lăn trong sinh tử luân hồi, dần dần tâm tự quên mất cái tánh ban đầu (bổn tánh) và khoác vào những tánh tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... những tánh này được gọi là "hậu tánh" (tánh huân tập về sau).


  • Bổn tánh (của tâm) thanh tịnh = chân tâm / Trái lại Hậu tánh (của tâm) ô nhiễm = vọng tâm.
  • Hậu tánh của tâm là tánh chấp ngã, chấp pháp, tánh phiền não (20 căn bản phiền não trong Duy Thức).
  • Hậu tánh này ai cũng biết, nhưng bổn tánh thì khó ai biết được, ngoại trừ các thiền sư ngộ đạo.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ Huệ Năng khi được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khai thị kinh Kim Cang đến chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì đại ngộ thốt lên năm đặc tính của bổn tánh:

1. Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh (hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh).
2. Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt (hà kỳ tự tánh bổn vô sinh diệt).
3. Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ (hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc).
4. Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động (hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động).
5. Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp (hà kỳ tự tánh năng sinh vạn pháp).

* ("Tự Tánh" nói ở trên là chỉ cho Bản Tánh, hoặc Bản Giác.)

Ngũ tổ biết Huệ Năng đã ngộ được bổn tánh mới bảo rằng: “Chẳng biết bổn tâm, học đạo vô ích, nếu biết được bổn tâm thấy được bổn tánh mình, tức gọi là trượng phu, là thầy của trời người, là Phật”.


  • Biết được bổn tâm tức là thấy được bổn tánh.
  • Nhưng thấy được một bổn tánh chưa chắc biết được bổn tâm, bởi vì tâm có nhiều bổn tánh.

  • Qua lời của Lục tổ, chúng ta biết được năm thứ bổn tánh.
  • Qua kinh Lăng Nghiêm, chúng ta biết được hai thứ bổn tánh, đó là diệu và minh.

  • Tánh diệu là tánh năng sanh muôn pháp, ứng với bổn tánh thứ 5 của Lục tổ.
  • Tánh minh là tánh giác (tánh biết), có thể được xem như là bổn tánh thứ 6 của tâm.
  • Tánh không sanh diệt và không dao động, cũng chính là tánh “hằng chuyển như bộc lưu” của A-lại-da và “lặng lẽ trôi chảy” của dòng Hữu phần (bhavanga).

+ Nhờ Lục tổ khai thị về bổn tánh, chúng ta có thể tu tập từ bỏ những hậu tánh mà lần mò trở về bổn tánh. Trở về bổn tánh tức là trở về nguồn tâm, bổn tâm, chân tâm.

* Chữ “tâm ban đầu” được dịch từ chữ “bổn tâm”.


  • Bổn (hay bản) có nghĩa là ban đầu. Bổn tâm là tâm ban đầu.
  • Bổn tánh là tánh ban đầu.

* Để hiểu rõ ý nghĩa “ban đầu”, xin lấy hai ví dụ: nước và gương.

+ Nếu có người đưa cho bạn một ly nước ngọt như Coca cola thì bạn có biết được bản chất ban đầu (tối sơ, nguyên thủy) của nó ra sao không? Chất ngọt trong Coca cola không phải là tính chất ban đầu của nước. Chất hơi bọt (gaz) trong đó cũng không phải là bản chất của nước. Màu nâu của Coca cola cũng không phải là tính chất ban đầu của nước.

+ Bản chất (hay bổn chất) của nước là trong, nhạt, không có màu.- Sau đó người ta bỏ vào đó chất coca, đường, màu hóa học, chất gaz và nước đó biến thành nước ngọt Coca cola. Dân Mỹ quen uống Coke (coca cola) hoặc nước ngọt nên khi nói đến nước uống thì họ không còn nghĩ đến nước lọc (nhạt nhẽo, vô vị) nữa.

- Như vậy có thể nói tính chất ban đầu (bổn chất hay bổn tính) của nước là trong, nhạt, không màu được không?

+ Nếu có người đưa cho bạn một tấm gương đầy bụi để soi thì bạn có dùng được không? Bạn sẽ vứt nó đi hay là bạn đi tìm khăn để lau gương cho sạch bụi.
- Khi lau gương sạch thì bạn có thể nói là tấm gương ban đầu vốn trong sáng, nhưng vì bụi bám lâu ngày nên gương trở thành mờ được không?

* Tâm cũng như thế. Khi được thanh lọc, loại trừ tất cả những phiền não, vô minh, chấp ngã thì bản chất thật sự của tâm hiện ra, đó là tâm thanh tịnh, vô nhiễm.- Gọi là "Bổn Tâm"-

- Tại sao tâm ban đầu vốn thanh tịnh mà lại khởi lên vô minh, phiền não, chấp ngã làm chi để trôi lăn trong sinh tử?

+ Nếu tu thành Phật, được tâm thanh tịnh rồi, thì bất chợt tâm sẽ bị vô minh, phiền não nữa sao?
- Tâm ban đầu có cả hai: tánh giác và vô minh.


  • Nhưng tánh giác thì vô thỉ vô chung (không có khởi đầu và không có chấn dứt),
  • còn vô minh thì vô thỉ hữu chung (không có khởi đầu nhưng có chấm dứt).

* Sự bất giác vô minh không thể biết nó bắt đầu từ lúc nào, nhưng khi hoàn toàn giác ngộ thì vô minh chấm dứt. Giống như người đi tìm vàng, ban đầu thấy vàng thì vàng bị lẫn trong đất. Sau khi đem về nấu chảy, lọc ra thành vàng ròng thì vàng này vĩnh viễn không còn dính đất nữa. (theo HT. Th Trí Siêu)

++++++++++++++===

Thảo Luận:

* Hậu Tánh. - Là phần Nhiễm (Vô Minh) ai cũng biết rồi.

* Bản Tánh.(Bản Giác).- Tùy theo Tông phái, Pháp môn trong PG mà có tên khác nhau, như:

Bổn Tâm, Tự Tánh, Chân Như, Pháp Thân, Tịnh Độ. Cực Lạc, Niết Bàn, Tự Tánh Di Đà- Duy Tâm tịnh Độ v.v...Là một cách mà Phật và Tổ, đã dụng ngôn ngữ "Hình Tượng" để diễn tả một "Tư Tưởng Siêu Việt Trừu Tượng" .

+ Nếu khéo theo Tứ Y Pháp do Phật dạy: 1.Y pháp bất y nhân, 2.Y nghĩa bất y ngữ, 3.Y trí bất y thức, 4.Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa.- Thì cơ may tiếp cận Bản Giác rất cao.
v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Di_ze_11
 

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Bài 14.- Đưa TÂM trở về Nguồn cội.

* (Tâm ở đây là Tâm THỨC.)

Tu và Thành Phật là trở về Bổn Tâm- (Bản Giác).- HT.Th Trí Siêu có bài viết: Đưa TÂM trờ về:

Tâm bắt đầu đi hoang từ lúc bất giác vô minh khởi niệm chấp Ta (ngã), tự quên mình là ai, quên mất tự tánh diệu minh, năng khởi, năng biết, nên chìm đắm trong thế giới vật chất do chính nó tạo ra. Muốn chấm dứt khổ đau sinh tử luân hồi thì tâm phải lên đường trở về. Trở về đâu? Trở về bổn tánh của nó, trong đó không có một cái ngã nào hết. Trên đường trở về có ba thứ mà tâm cần phải giải quyết: phiền não, ái dục, và vô minh.

Tâm bị dính vào cái thân nên phải chịu sinh, già, bệnh, chết. Nếu không muốn tái sinh thì tâm phải ngừng tạo nghiệp (hữu), bởi vì tạo nghiệp nên mới bị nghiệp lực dẫn đi luân hồi. Muốn ngưng tạo nghiệp thì đừng ái, thủ. Vì có yêu, ghét nên mới sinh ra thủ, xả và phiền não. Có thủ, xả (lấy, bỏ) là có tạo nghiệp. Có yêu thì có thương, có nhớ, muốn ở gần, muốn chiếm hữu, muốn đủ thứ. Ở gần không được, muốn chiếm hữu không được thì buồn khổ (ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ). Khi ghét thì muốn tránh xa, muốn bỏ đi. Tránh xa hoặc bỏ đi không được thì bực tức, khó chịu (oán tắng hội khổ). Vì thế hễ tâm có yêu ghét là có phiền não theo sau. Muốn hết phiền não thì tâm đừng yêu ghét, đừng ái dục. Vấn đề khổ đau của con người là phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ganh ghét, buồn, nhớ, giận hờn, v.v...). Nguyên nhân gần sinh ra phiền não là ái dục, nguyên nhân xa là vô minh. Cho nên muốn hết phiền não thì phải diệt trừ ái dục và vô minh. Làm thế nào để hết ái dục? Có nhiều người cho rằng muốn hết ái dục thì phải tránh xúc và thọ, vì có tiếp xúc qua lại nên cảm thọ mới phát sinh, nên họ xa lánh thế gian đi vào rừng núi. Nhưng đó chỉ là tránh tiếp xúc với loài người, chứ sáu căn vẫn tiếp xúc với sáu trần như thường, mắt vẫn thấy hình sắc, tai vẫn nghe âm thanh, mũi vẫn ngửi mùi, khi ăn lưỡi vẫn biết vị, thân vẫn biết nóng lạnh, trơn ngứa, v.v... Theo 12 nhân duyên thì thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là quả của quá khứ nên không thể diệt trừ. Ngay cả đức Phật và các vị A-la-hán cũng có lạc thọ, khổ thọ và xả thọ khi tiếp xúc với trần cảnh. Khi gặp trời nắng hay mưa, các ngài cũng bị nóng lạnh, bệnh hoạn, thọ khổ nơi thân nhưng tâm của các ngài vắng lặng, không có thọ khổ. Khi được ăn uống đầy đủ, khí hậu mát mẻ, thân thể khỏe mạnh các ngài cũng không vui thích cảm giác khoái lạc nơi thân. Ngoài ra thọ cũng là một uẩn cấu tạo nên con người, cho nên không thể dứt trừ ái bằng cách từ bỏ xúc và thọ. Muốn dứt trừ ái dục thì phải tìm về cội nguồn xem Ai ái dục? Người thích ái dục là Ai để loại trừ, đó tức là tu tập vô ngã, chứ không phải tránh né xúc và thọ.(Hết trích)

Làm sao từ bỏ Chấp Ngã & ái dục?

Đáp: Cần phải TU.
+ Tu là dùng Giới- Định- Tuệ mà chuyển hóa 3 Nghiệp Thân, khẩu, ý cho được trở về Bản Giác- Bản Tâm Niết Bàn.

+++++++++++++++++++

Thảo Luận:

Để Tu và Thành Phật là trở về Bổn Tâm- (Bản Giác).- Lúc ấy: 5 Uẩn, 6 Thức chuyển thành 10 Trí Lực.- Ở Phật Giáo Nguyên Thủy dạy phải dùng Giới- Định- Tuệ để chuyển "Hậu Tánh" (nghiệp) về Bản Giác tức đắc Tâm Niết Bàn.- Trong có pháp Định (là Thiền) Phật Giáo Nguyên Thủy dạy phải dùng Giới- Định- Tuệ để chuyển "Hậu Tánh" (nghiệp) về Bản Giác tức đắc Tâm Niết Bàn.- Trong có pháp Định là Thiền Vipassanà.
* Vi pá sa na có nghĩa là thấy sự việc đúng như thật. Đây là tiến trình tự thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Ta bắt đầu quan sát hơi thở để định tâm. Với ý thức sắc bén, ta tiến tới việc quan sát bản chất thay đổi của thân và tâm, thể nghiệm được chân lý phổ quát về vô thường, khổ, vô ngã. Hiểu rõ chân lý này bằng chứng nghiệm trực tiếp là một tiến trình thanh lọc tâm. Toàn thể con đường tu tập (Dhamma) là phương thuốc trị liệu chung cho các vấn đề chung,

* (Thắng Pháp Luận dạy): Có 5 pháp làm trở ngại cho sự tu thiền và tu quán là 5 Triền cái: Kàmacchanda: Dục ái, Vyàpàda: Sân, Thìna – middha: Thụy miên, Uddhaccakukkucca: Trạo cử, Vicikicchà: Nghi. Do ảnh hưởng 5 Triền cái, chúng ta không thể tu thiền định hay quán ba pháp ấn; khổ, vô thường và vô ngã. Các phương pháp tu hành dẫn đến diệt trừ 5 Triền cái này gọi là Samathabhàvanà, chỉ tu tập và chỉ chứng được khi đạt đếnSắc Thiền và Vô Sắc Thiền, và các đối tượng dùng để thực hiện các thiền định trên gọi là Samatha-kammatthàna: Chỉ nghiệp xứ. Người tu hành chỉ có thể diệt trừ hoàn toàn các Triền cái ở Siêu Thế Giới bằng cách quán tưởng thực tánh khổ, vô thường và vô ngã của sự vật. Các phương pháp tu hành quán tưởng được gọi là Vipassanàbhàvanà (Quán tu tập) và các đối tượng để tu hành gọi là Vipassanà Kammatthànà: Quán nghiệp xứ. (hết trích)

v/đ TÂM ở Nam Truyền PG Pho_mi10

Các ngôi chùa thuộc Hệ Phái Nguyên Thủy PG có dạy pháp Thiền này.
(Nếu ĐH nào ở gần TP.HCM .- Mỗi Chủ Nhật hằng tuần có Khóa Tu Thiền tại chùa Phổ Minh của HT Tiến Sĩ Thích Thiện Tâm để tu tập)
 
Sửa lần cuối:

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,494
Điểm tương tác
1,130
Điểm
113
Bài 14.- Đưa TÂM trở về Nguồn cội.

* (Tâm ở đây là Tâm THỨC.)

Hề hề,

Tâm vốn bản vô, rỗng rang như hư không; không ngăn ngại mà cũng không bị ngăn ngại. Đây chính là Chân đế ở Phật giáo nguyên thủy bao gồm Hư không, Tứ đại (và các chuyển hóa của Tứ đại) ở dạng hạt (Tàu gọi là lân hư, nhỏ nhiệm đến mức không chiếm thể tích của hư không) và Bản thức (Bản giác). Giáo pháp này được Đại thừa phát triển thành Lục đại pháp giới.

Tâm sanh do Duyên khởi (Hoặc là do ý tưởng nảy sanh ở lòng, Ý giới/Mano dhatu hoặc là do duyên với cảnh trần, Lục trần/Dhamma dhatu) được gọi là Tâm Thức, cùng Thể mà khác Tên gọi.

Trở về nguồn Tâm chính là đưa Tâm Thức trở về Bản nguyên tuyệt đối (Bản giác/Bản thức/Chân như không) gọi là Đạo lộ dẫn về Niết bàn (Hay Chân như/Đại thừa). Đạo lộ đó chính là Trung Đạo trải qua bốn đạo vị, Phát nhãn pháp, Phát trí pháp, Phát Minh (tâm) và Giác (ngộ).
Phát Nhãn-Trí pháp do đa văn huân tập Chánh pháp đẳng lưu cũng gọi là Văn, Tư, Tu ở vị hữu lậu mà thực hành Như lý Tác ý (Thuần lý Tri hành) dần lọc sạch ô nhiễm, tăng thượng thanh tịnh vượt Ngũ triền cái vào Chánh định (Tứ định, Tứ không, Tứ vô lượng).
Phát minh (Tâm), là nhờ Chánh định mà thấy rõ nguồn tâm, Bản giác/Bản thức/Chân như không (Pháp thân)
Giác (ngộ), ngộ nhập Bản giác/Bản thức/Chân như không (Pháp thân) nhờ Giới, Định, Huệ vô lậu mà đắc Giải thoát (Phiền não chướng), Giải thoát tri kiến (Sở tri chướng).


Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Quản Trị Viên

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,402
Điểm tương tác
1,387
Điểm
113
Phần 4.- TÂM Ý

++++++++++++++++++


Bài 15. Ý Thức:

Hiện Tướng của TÂM là THỨC.- Trong 6 Thức : Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và Ý (đều là Thức). - Nhưng Ý Thức có công năng nổi trội và chủ đạo.

Thí dụ:

  • Khi Nhãn (tức con mắt) tiếp xúc với Sắc trần.- Tức cảnh sắc.- Thì sanh ra Nhãn Thức.- Tức là sự "Nhãn Thức".
  • Nhưng "Nhãn Thức" khi ấy rất mờ nhạt. Chỉ đến khi có Ý THỨC cùng tác động.- Thì khi ấy Nhãn Thức mới hiện khởi thành KIẾN (tri).- Sự cộng hưởng này Duy Thức học gọi là "Nhãn câu ý Thức".
  • Cả 5 Thức kia: Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng vậy.- Đều chờ Ý Thức cộng hưởng mới sanh diệu dụng: Kiến, văn, giác, tri.

* Trong đạo Phật, "tác ý" (cetanā) được xem là yếu tố chính, thậm chí là bản chất của nghiệp (kamma).- Tác ý là sự chủ ý, ý muốn, hay ý định đằng sau mỗi hành động. Mọi hành động có tác ý, dù là thiện hay bất thiện, đều được xem là nghiệp và sẽ tạo ra quả báo tương ứng.

K. Pháp Cú:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ,
ý tạo tác;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.”

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ,
ý tạo tác.
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.

(Kinh Pháp Cú,- Phẩm I)

Câu "Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo" là một câu trong Kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu, có nghĩa là "Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác". Câu này nhấn mạnh vai trò quan trọng của tâm (ý) trong việc hình thành hành động và trải nghiệm của con người.

+++++++++++++++=

Thảo Luận:

+ Ở PG Nguyên Thủy. thường không tách bạch giữa TÂM & Ý.

+ TÂM có Tướng là THỨC.

+ Ý Thức cũng là Tướng của TÂM.

Tất cả chúng sanh đều có thân đủ 5 Uẩn (trong đó có Thức Uẩn)

+ Con Người, Chư Thiên, và A Tu La.- Do phước báu và do sự có tu tập ở tiền kiếp đã huân tập.- Nên Ý Thức được thăng hoa hơn các cõi thấp.

+ Các cõi Thánh (4 quả Thánh) .- Ý Thức thăng hoa thành Diệu Trí.

* Như bài kệ Pháp cú trên.- Đức Phật đã dạy: Ý Thức có 2 phần: 1 Nhiễm, 2. Tịnh.

+ 1 Nhiễm.- Ý sẽ đưa đến Khỗ.

+ 2. Tịnh.- Ý sẽ đưa đến An lạc (tức Niết Bàn).- Đó là Cơ sở để "Thăng Hoa Ý Thức".
 

Đính kèm

  • nzeo_j10.webp
    nzeo_j10.webp
    9.5 KB · Lượt xem: 1
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top