Tâm Sự Vua Trần Nhân Tôn
“Trước đây khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó đi mời Thượng Sĩ. Người trao cho hai bộ Ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta thấy Thượng Sĩ sống rất thế tục, nên sinh ngờ vực, bèn giả bộ ngây thơ lén hỏi:
‘Chúng sinh quen nghiệp uống rượu ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo’. Thượng Sĩ giải rõ: ‘Giả như có người đứng quay lưng lại, bỗng có nhà vua đi qua sau lưng, người kia bất ngờ ném một vật gì đó trúng vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như vậy phải biết hai việc không liên quan với nhau’. Bèn mới viết hai bài kệ để chứng tỏ:
Vô thường các pháp hành
Lòng nghi, tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm
Lại nói:
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm ra
Tâm cảnh xưa nay chẳng
Chốn chốn đều ba la
Ta hiểu ý, chặp lâu mới nói: ‘Tuy là như thế, nhưng tội phước đã rõ thì làm sao’.
Thượng Sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
"Ăn cỏ với ăn thịt
Chúng sinh mỗi có thức
Xuân đến trăm cỏ sinh
Chỗ nào thấy họa phúc"
Ta nói: ‘Chỉ như thế thì công phu giữ sạch phạm hạnh không chút xao nhãng để làm gì’.
Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta lại thỉnh ích, Thượng Sĩ lại làm thành hai bài kệ, để ấn chứng cho ta:
"Trì giới với nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc
Chẳng trì giới nhẫn nhục"
Lại nói:
Như người lúc leo cây
Đang yên tự tìm nguy
Như người không leo nữa
Trăng gió làm việc gì.
Lại kín đáo dặn ta: ‘Chớ bảo cho người không đáng’”.
Cũng chính qua đoạn văn trên ta biết thời điểm chứng ngộ của vua, đó là vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1287), khi cả nước đang rầm rộ chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để đối phó với cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên và đó là lúc Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu mất, như ĐVSKTT 5 tờ 51b5 đã ghi. Nhân lúc mẹ mình mất, vua Trần Nhân Tông đã đến mời người anh của mẹ là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đến dự tang. Vào dịp ấy, đã xảy ra cuộc đối thoại giữa hai người, mà ta vừa dẫn trên, và do chính vua Trần Nhân Tông ghi lại. Tuệ Trung đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong cuộc đối thoại đó.
Cũng qua cuộc đối thoại ấy, ta thấy cơ sở tư tưởng của Trần Nhân Tông đã hình thành, mà sau này vua đã viết thành văn bản bằng tiếng Việt trong Cư trần lạc đạo phú, làm chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo ít lắm cũng kéo dài tới gần bốn trăm năm sau, tức từ khoảng 1300 cho đến 1695. Đây là một giai đoạn Phật giáo hoàn toàn thế tục, không có sự cách biệt giữa các giới tại gia và xuất gia. Họ sống hòa mình với nhau, thậm chí trong một con người, mà điển hình là Hương Chân Pháp Tính (1470-1550 ?), Thọ Tiên Diển Khánh (1550-1610 ?) và Minh Châu Hương Hải (1628-1715). Họ từng là những người đỗ đạt, gánh vác việc nước việc dân, rồi sau đó giống như vua Trần Nhân Tông, họ đã sống đời một vị xuất gia, như Pháp Tính đã diễn tả qua hai câu thơ của mình:
"Trẻ từng vả đứng khoa danh
Già lên cõi thọ tìm duềnh Bụt tiên"
Cơ sở tư tưởng phát biểu trong đoạn văn trên ta cần phải chú ý, khi đề cập đến nền Thiền học của trường phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông gầy dựng. Dù đã xuất gia vào tháng 7, tháng 8 năm ấy Thượng hoàng phải cầm quân đi đánh Ai Lao, như ĐVSKTT 6 tờ 3a1-3 đã chép: “Tháng 8 (năm Giáp Ngọ, 1294) Thượng hoàng thân chinh Ai Lao, bắt sống người và súc vật không kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (thiếu tên) làm tiên phong, bị Ai Lao vây, Phạm Ngũ Lão chợt đem quân ập đến, liền giải vây. nhân thế tung quân đón đánh. Giặc thua.
Cho Ngũ Lão phù bằng vàng”.
---------------------------------------------------
“Trước đây khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó đi mời Thượng Sĩ. Người trao cho hai bộ Ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta thấy Thượng Sĩ sống rất thế tục, nên sinh ngờ vực, bèn giả bộ ngây thơ lén hỏi:
‘Chúng sinh quen nghiệp uống rượu ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo’. Thượng Sĩ giải rõ: ‘Giả như có người đứng quay lưng lại, bỗng có nhà vua đi qua sau lưng, người kia bất ngờ ném một vật gì đó trúng vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như vậy phải biết hai việc không liên quan với nhau’. Bèn mới viết hai bài kệ để chứng tỏ:
Vô thường các pháp hành
Lòng nghi, tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm
Lại nói:
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm ra
Tâm cảnh xưa nay chẳng
Chốn chốn đều ba la
Ta hiểu ý, chặp lâu mới nói: ‘Tuy là như thế, nhưng tội phước đã rõ thì làm sao’.
Thượng Sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
"Ăn cỏ với ăn thịt
Chúng sinh mỗi có thức
Xuân đến trăm cỏ sinh
Chỗ nào thấy họa phúc"
Ta nói: ‘Chỉ như thế thì công phu giữ sạch phạm hạnh không chút xao nhãng để làm gì’.
Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta lại thỉnh ích, Thượng Sĩ lại làm thành hai bài kệ, để ấn chứng cho ta:
"Trì giới với nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc
Chẳng trì giới nhẫn nhục"
Lại nói:
Như người lúc leo cây
Đang yên tự tìm nguy
Như người không leo nữa
Trăng gió làm việc gì.
Lại kín đáo dặn ta: ‘Chớ bảo cho người không đáng’”.
Cũng chính qua đoạn văn trên ta biết thời điểm chứng ngộ của vua, đó là vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1287), khi cả nước đang rầm rộ chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để đối phó với cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên và đó là lúc Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu mất, như ĐVSKTT 5 tờ 51b5 đã ghi. Nhân lúc mẹ mình mất, vua Trần Nhân Tông đã đến mời người anh của mẹ là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đến dự tang. Vào dịp ấy, đã xảy ra cuộc đối thoại giữa hai người, mà ta vừa dẫn trên, và do chính vua Trần Nhân Tông ghi lại. Tuệ Trung đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong cuộc đối thoại đó.
Cũng qua cuộc đối thoại ấy, ta thấy cơ sở tư tưởng của Trần Nhân Tông đã hình thành, mà sau này vua đã viết thành văn bản bằng tiếng Việt trong Cư trần lạc đạo phú, làm chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo ít lắm cũng kéo dài tới gần bốn trăm năm sau, tức từ khoảng 1300 cho đến 1695. Đây là một giai đoạn Phật giáo hoàn toàn thế tục, không có sự cách biệt giữa các giới tại gia và xuất gia. Họ sống hòa mình với nhau, thậm chí trong một con người, mà điển hình là Hương Chân Pháp Tính (1470-1550 ?), Thọ Tiên Diển Khánh (1550-1610 ?) và Minh Châu Hương Hải (1628-1715). Họ từng là những người đỗ đạt, gánh vác việc nước việc dân, rồi sau đó giống như vua Trần Nhân Tông, họ đã sống đời một vị xuất gia, như Pháp Tính đã diễn tả qua hai câu thơ của mình:
"Trẻ từng vả đứng khoa danh
Già lên cõi thọ tìm duềnh Bụt tiên"
Cơ sở tư tưởng phát biểu trong đoạn văn trên ta cần phải chú ý, khi đề cập đến nền Thiền học của trường phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông gầy dựng. Dù đã xuất gia vào tháng 7, tháng 8 năm ấy Thượng hoàng phải cầm quân đi đánh Ai Lao, như ĐVSKTT 6 tờ 3a1-3 đã chép: “Tháng 8 (năm Giáp Ngọ, 1294) Thượng hoàng thân chinh Ai Lao, bắt sống người và súc vật không kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (thiếu tên) làm tiên phong, bị Ai Lao vây, Phạm Ngũ Lão chợt đem quân ập đến, liền giải vây. nhân thế tung quân đón đánh. Giặc thua.
Cho Ngũ Lão phù bằng vàng”.
---------------------------------------------------