VÔ NGÃ
-----------------------------------------------
Trời đã tối hẳn, hai thầy trò, Du Tăng và đệ tử Bất Ác, xin vào trú ngụ nơi một ngôi chùa vắng ở ngoại ô. Vị sư già người khô gầy, quắc thước, dáng dấp nhanh nhẹn, diện mạo nghiêm trang; tiếp Nhà Sư bằng nụ cười cởi mở, thân thiện:
- Nghe tiếng Nhà Sư (Du Tăng) đã lâu nay mới hân hạnh được gặp mặt, thật là nhân duyên lớn. Xin Nhà Sư cạn chung trà cho ấm lòng.
Hai người cùng chấp tay tương kính. Những nụ cười đầm ấm, dịu dàng. Bất Ác đứng khép nép bên sau Nhà Sư mà cảm nghe tâm hồn thật là yên ả, thanh bình.
Vị Sư già lim dim mắt một lúc rồi nói:
- Đời sống của một vị du tăng hành cước như Nhà Sư quả thật là nhẹ nhàng, thanh thoát. "Dã hạc vô lương, thiên địa khoan" ( Hạc nội không có lương thực mà đất trời rộng rãi). Quả vậy, chỉ có tam y, bình bát, chiếc mỏ, cặp cánh mà thong dong biển rộng sông dài, gác ngoài tai muôn hệ lụy nhân sinh.
Nhà Sư vẫn im lặng, vị sư già tiếp:
- Đời sống của Nhà Sư quả là giải thoát. Vậy chẳng hay Nhà Sư có sứ mạng gì để làm nữa? Mục đích nào để đạt tới? Bổn phận và trách nhiệm nào phải hoàn thành? Hay Nhà Sư đã hoàn toàn rảnh việc, đã hoàn toàn buông bỏ mọi gánh năng trên vai?
- Cám ơn sự tán thán của Ngài, quả thật bần Tăng chưa dám là như vậy.
Vị Sư già mở mắt ra, nụ cười xởi lởi:
- Quý hóa thay! Quả đúng Nhà Sư là một người cao thượng, có một đời sống rất cao thượng vậy!
Nhà Sư cất giọng điềm đạm:
- Trước khi trả lời, bần Tăng xin hỏi Ngài về ý nghĩ của hai chữ "cao thượng"? Thế nào là cao thượng? Phải chăng cao thượng là vì thấy mình thành tựu những giá trị to lớn? Đã thấy mình đủ giới và trí? Đã thấy mình trong sạch và vắng lặng giữa thế gian bất tịnh và huyên náo nầy?
- Phải vậy!
- Thế thì bần Tăng chẳng có cốt cách gì cao thượng như Ngài đã nghĩ. Bần Tăng sống đời bình thường của một tỳ khưu xin ăn bình thường.
Vị Sư già ngạc nhiên:
- Sao thế được! Không cao thượng sao được khi cuộc đời này Nhà Sư không còn dính líu dù chỉ cái gót chân? Nhà Sư đã xa lìa bụi bặm cuộc đời, sống hạnh khước từ, tri túc, tri chỉ; giới luật tinh nghiêm, lục căn thu thúc, thiền quán tinh cần; sống đời vô trú rày đây mai đó, tùy duyên hóa đạo như mây trắng ngàn phương, thong dong tự tại... Đời sống như vậy mà không cao thượng thì trên thế gian này còn gì gọi là cao thượng nữa?
Nhà Sư mỉm cười:
- Ngài nói hơi quá! Tuy nhiên, nếu sống mà tốt đẹp được như thế thì tôi cũng không dám nghĩ rằng sống vậy là để mà hơn người, hơn đời, hay để cho mình được cao thượng hơn.
Vị Sư già nhíu mày:
- Vậy sống như thế để làm gì?
- Thưa Ngài, là để mà học bài học Giác Ngộ!
Vị Sư già ngẫm ngợi hồi lâu:
- Dẫu thế nào Nhà Sư cũng quá khiêm nhường!
Nhà Sư đáp:
- Chẳng phải thế!
Vị Sư già ngạc nhiên hỏi:
- Tạo sao?
- Vì bần Tăng biết và thấy. Bần Tăng biết và thấy rằng, khiêm nhường là ngã mạn, khiêm nhường là thấy mình ở trên cao phải hạ thấp xuống, khiêm nhường là để được an toàn bản ngã, để được người ta kính trọng, nể vì. Trên tất cả, khiêm nhường thường ẩn chứa bóng tối của dối trá và hư ngụy. Bởi vậy, bần Tăng như thế nào thì xin được là như thế ấy. Bần Tăng là người ăn xin đúng nghĩa, cho nên cao thượng không có trong bần Tăng mà khiêm nhường cũng không có trong bần Tăng!
Vị Sư già lưng thẳng dậy:
- Thật là lạ lùng. Quả là tôi mới nghe lần đầu. Nhưng xin Nhà Sư cho tôi được hỏi tiếp: tại sao cao thượng là không mà khiêm nhường cũng bảo là không?
- Thưa, tất thảy chúng là vận hành của bản ngã, nói rõ hơn, là chiếc bẫy vô hình của Vô Minh và Ái Dục.
- Khiếp!
Nhà Sư tiếp lời chậm rãi:
- Chúng ta nên sống với tri như thực, kiến như thực; đừng sống với những quy ước, những tầng bậc giá trị của thế gian. Chúng ta là kẻ tu hành, vậy thì hãy bước ra ngoài mọi hào quang của chân lý ước lệ và hào quang của những ngôn ngữ sáo mòn. Sự sống đích thực không cần chúng. Chân trời giác ngộ, giải thoát nó rộng rãi, khoáng đãng, mênh mông và vô lượng hơn nhiều.
Vị Sư già nắm chặt hai tay Nhà Sư, cất giọng xúc động:
- Thật là tri ân, Nhà Sư đã mở mắt cho tôi, nhờ vậy tôi mới biết rằng, từ lâu, tôi đã sống trong các giá trị hữu vi, tôi sống với sự vận hành của bản ngã.
Nhà Sư cũng cảm động:
- Đấy là lời chân thật tự đáy lòng, bần Tăng rất hoan hỷ.
Vị Sư già cúi đầu hồi lâu:
- Nhà Sư có thể giảng giải rộng những điều vừa nói cho tôi thông suốt vấn đề, được chăng?
- Xin vâng! Nhà Sư nói - Ngài là một vị chân tu, đứng đắn, đàng hoàng, đạo đức nhưng vì thiếu trí tuệ nên kết quả tu hành của Ngài chỉ gặt hái được phước hữu lậu nhân thiên mà thôi.
Vị Sư già nói:
- Đúng vậy, nhưng tôi còn có hành thiền định.
- Tại sao Ngài lại công phu thiền định?
- Là để đối trị với xáo trộn, bất an, phóng dật, lo âu, sợ hãi...
- Đồng ý thế rồi, và Ngài đã tìm được hạnh phúc?
- Thú thật là có, hai ba giờ hoặc một hai ngày, tôi cảm thấy hạnh phúc khi nhập định.
Nhà Sư mỉm cười:
- Có khi nào Ngài nghĩ rằng vì bực tức, bất mãn không hài lòng những cái diễn ra nơi nội tâm, nên Ngài mong muốn nhập định để tìm cái hạnh phúc và an lạc khác. Bực tức, bất mãn, không bằng lòng là do sân, và thoải mái trong hạnh phúc thiền định là do tham, Ngài có thấy không?
- Quả thật tôi chưa hề nghĩ đến.
- Như vậy là vì bất an, bất mãn cái hiện tại nên Ngài muốn chạy trốn cái hiện tại ấy. Ngài mong một cái gì khác để khỏa lấp chúng đi! Tất cả đấy chứng tỏ rằng, Ngài đang muốn thành tựu cho một bản ngã, khuếch đại bản ngã bằng tham vọng vi tế hơn đó là sở đắc thiền định vậy!
Vị Sư già ngạc nhiên:
- Vậy thì các vị Thánh nhân A la hán, Chư Phật không có hành, không có đắc, không cao thượng gì hết sao?
- Dĩ nhiên các Ngài có hành, có đắc, có cao thượng.
- Tôi nghe dường như mâu thuẫn.
- Không có mâu thuẫn đâu - Nhà Sư ôn tồn đáp - các Ngài hành, đắc, cao thượng, để mà giác ngộ "cái tôi", các Ngài vô ngã, còn đắc định như vừa rồi là hữu ngã.
Vị Sư già gật đầu nhưng lại hỏi:
- Vậy làm thế nào để được vô ngã?
- Vô ngã không phải là làm như thế này hoặc làm như thế kia. Vô ngã cũng không phải là cái để mà hành, mà đắc hoặc là để hiểu và biết. Vô ngã thuộc phạm trù của "cái thấy", của tuệ giác. Ngài nên nhớ rằng, đừng mong cầu để được vô ngã, tại sao vậy? Vì khi Ngài mong cầu vô ngã, rồi quyết định thành tựu cái vô ngã ấy, thì cuối cùng Ngài sẽ đạt được một cái NGÃ VÔ NGÃ!
Vừng trán vị sư già cau lại, Nhà Sư nghĩ rằng đã buông lời là buông luôn, không còn giữ lại:
- Ngài như thế nào thì Ngài thấy như thế ấy, như thế ấy với khuôn mặt như thực của mình, không thêm, không bớt, không thủ, không xả. Và đấy mới bước qua phạm trù của quán chiếu bát nhã, của tuệ giác. Tuệ giác là thường trực trú nơi "vô ngã". Tôi nói "trú" một cách cố ý, vì rằng, Ngài phải thường trực trú nơi cái hiện tiền trôi chảy của tâm niệm, của tư tưởng. Bất kể tâm niệm, tư tưởng ấy là gì, là tốt, là xấu, là đục, là trong cũng đều được ghi nhận một cách rõ ràng, chân xác! Nói cách khác, Ngài phải thường trực chánh niệm, tinh tấn và tỉnh giác trước các pháp đến và đi qua tâm thức. Thường trực lắng nghe chính mình một cách khách quan, đừng đồng lõa với cái gì, mà cũng đừng chấp nhận, phản ứng hoặc biện hộ cho cái gì. Tuệ minh sát phải trong sáng, sắc bén, không thiên vị và hoàn toàn trung chính. Đừng bất mãn cái gì, đừng mong muốn cái gì, vì bất mãn là sân, mong muốn là tham! Vậy chỉ có một việc duy nhất là chăm chú và trầm tĩnh lắng nghe. Chỉ có lắng nghe như vậy Ngài mới cắt đứt được tham sân và thấy rõ vô ngã là gì!
Nhà Sư ngừng nói hồi lâu, vị Sư già mới góp lời:
- Bấy lâu, tôi thấy tôi thành tựu được nhiều, Nhà Sư đã lột trần tôi ra và tôi thấy mình chẳng còn gì nữa cả!
- Đúng vậy! Lời thổ lộ ấy của Ngài mới thật là cao quý: Lời của ý-thức-vô-ngã! Như vậy, thưa Ngài, cao thượng đúng nghĩa là khi mình toàn triệt vứt bỏ được "cái tôi". Vứt bỏ cũng chỉ là cách nói, chứ thật ra, khi thấy thì Tất cả Pháp đều là vô ngã. Các Pháp là vô ngã thì lấy gì để sở đắc, thành tựu? Hoàn toàn không! Rốt ráo không! Tuy nhiên, cái không ấy không phải là hư vô mà nó là chìa khóa để mở cửa Niết Bàn!
----------------------------------------
Huyền Không
-------------------------------------------
Lời bàn:
Người tu Thiền Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỉ, XẢ )cũng như Lục Độ ( Bố Thí , Trì giới, Thiền Định, Nhẫn Nhục, Tinh Tiến và Thiền Định), chẳng bao giờ chấp Ngã và Vô Ngã .