- Tham gia
- 15/7/10
- Bài viết
- 2,819
- Điểm tương tác
- 838
- Điểm
- 113
AJANTA MỘT DI-TÍCH PHẬT-GIÁO NGOẠI HẠNG
_______________________________ --- On Tue, 7/31/12, Phi-Phung Koster <kosterngo@msn.com> wrote:
From: Phi-Phung Koster <kosterngo@msn.com>
Subject: RE: [DsSg1969] AJANTA một di tích Phật Giáo ngoại-hạng.
To: "DsSg1969" <dssg1969@yahoogroups.com>
Date: Tuesday, July 31, 2012, 5:48 PM
<KOSTERNGO@MSN.COM>
______________________________________
<TABLE border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD vAlign=top _yuid="yui_3_1_1_3_134414910842168">Phật giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại vẫn còn tồn tại và đang phát triển ngày nay. Tuy nhiên theo dòng biến động của lịch sử thì Phật giáo cũng không tránh khỏi những thăng trầm. Nếu Phật giáo đã từng gián tiếp hay trực tiếp mang lại chữ viết, văn hóa, triết học và lịch sử cho một số quốc gia trên địa cầu và đánh dấu một cấp bực tiến hóa cao độ cho kho tàng tư tưởng của nhân loại thì Phật giáo cũng đã từng bị hủy diệt ở Ấn độ và nhiều nơi khác.
Chúng ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành một nơi chiêm bái và một thắng cảnh du lịch trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến mất.
_______________________________ --- On Tue, 7/31/12, Phi-Phung Koster <kosterngo@msn.com> wrote:
From: Phi-Phung Koster <kosterngo@msn.com>
Subject: RE: [DsSg1969] AJANTA một di tích Phật Giáo ngoại-hạng.
To: "DsSg1969" <dssg1969@yahoogroups.com>
Date: Tuesday, July 31, 2012, 5:48 PM
<TABLE border=0 cellSpacing=0 cellPadding=0><TBODY><TR><TD vAlign=top _yuid="yui_3_1_1_3_134414910842168">Phật giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại vẫn còn tồn tại và đang phát triển ngày nay. Tuy nhiên theo dòng biến động của lịch sử thì Phật giáo cũng không tránh khỏi những thăng trầm. Nếu Phật giáo đã từng gián tiếp hay trực tiếp mang lại chữ viết, văn hóa, triết học và lịch sử cho một số quốc gia trên địa cầu và đánh dấu một cấp bực tiến hóa cao độ cho kho tàng tư tưởng của nhân loại thì Phật giáo cũng đã từng bị hủy diệt ở Ấn độ và nhiều nơi khác.
Chúng ta đều biết đến ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới là Borobudur ở Inđônêxia được khám phá trong vùng rừng rậm của đảo Java vào đầu thế kỷ XIX và ngày nay đã hồi sinh để trở thành một nơi chiêm bái và một thắng cảnh du lịch trong lòng một quốc gia Hồi giáo. Tuy nhiên có lẽ ít ai biết về di sản tuyệt vời khác của Phật giáo là Ajanta cũng đã được khám phá một cách thật tình cờ vào đầu thế kỷ XIX để ngày nay trở thành một nơi hành hương tại Ấn độ, nơi mà Phật giáo đã phát sinh và đã từng biến mất.

Bài viết ngắn dưới đây sẽ tường thuật lại sự khám phá ly kỳ đó và mô tả sơ lược di tích quý giá này kèm theo một mẫu chuyện để chúng ta cùng suy tư.
Một sự tình cờ lý thú
Ngày 28 tháng 4 năm 1819, có một toán quân lính người Anh thuộc đạo quân viễn chinh ở Ấn độ cưỡi ngựa đi tuần tra dọc theo dãy núi Indhyadri trong một vùng hẻo lánh phía đông bắc tỉnh Aurangabad, tiểu bang Maharashtra nơi miền Tây bắc nước Ấn. Đoàn lính tiến dần vào một hẻm núi thật sâu và hoang dã. Dưới chân họ con suối Waghora chảy xiết, ôm sát vào chân núi và luồn sâu vào hẻm vực. Đại úy John Smith thuộc đội kỵ mã thứ 28 của đoàn kỵ binh đóng ở Madras đang lơ đãng nhìn lên sườn núi dựng đứng thì chợt thấy dường như có những cửa hang trên vách đá. Khá tò mò vì các cửa hang có vẻ không phải là thiên nhiên mà do tay người đục khắc, anh chàng sĩ quan này bèn nhảy xuống ngựa và tìm cách trèo lên vách núi để xem cho biết. Lanh quanh một lúc thì anh ta tìm được cách trèo lên được vì nơi này có nhiều bậc thang khá hẹp đục vào vách đá. Sau khi lên đến nơi thì anh ta cũng chỉ quan sát qua loa cảnh tượng hiện ra trước mắt rồi phải trèo xuống vì các đồng đội còn đang đứng chờ bên dưới. Tuy nhiên anh chàng John Smith vẫn cố lấy bút chì ghi tên mình và ngày tháng vào một góc kín đáo trên một trụ đá ở một cửa hang lớn, và nét bút chì ấy cho đến ngày nay vẫn còn lờ mờ. Sau đó thì các hang động này lại chìm vào sự yên lặng mênh mông của những ngàn năm quá khứ. Tuy nhiên câu chuyện khám phá chớp nhoáng của viên đại úy sau đó thỉnh thoảng cũng vẫn được đồn đại trong đoàn quân viễn chinh.
Năm năm sau, vào tháng 2 năm 1824, có một viên trung úy tên là James Alexander thuộc đạo quân xung kích 16 trong đoàn quân viễn chinh Anh quốc quyết định xin nghỉ phép vài hôm để đi săn. Anh trung úy trẻ này rất say mê săn bắn và vẫn thường mong có dịp đi săn trong hẻm vực Waghora vì anh nghe nói nơi đây có rất nhiều thú nhất là các loài thú dữ, xứng đáng với biệt danh "thung lũng cọp" mà người ta gán cho nơi này. Trước khi lên đường bạn bè trong quân ngũ cảnh giác anh ta là ngoài thú dữ ra còn có nhiều thứ nguy hiểm khác nữa, nhất là bọn thổ dân Bhil sinh sống trong các vùng rừng núi thuộc miền trung và tây bắc nước Ấn. Thổ dân Bhil rất ghét người lạ dám cả gan xâm nhập vào lãnh địa của họ. Mặc dù đã được cảnh giác nhưng James Alexander chẳng đếm xỉa gì đến chuyện ấy vì anh ta rất mê săn heo rừng, beo, báo và cọp.
James Alexander nhờ một người thợ săn địa phương dẫn đường. Vào thời bấy giờ có nhiều thợ săn chuyên nghiệp gọi là shikari, rất thiện nghệ và chuyên phục vụ cho những người giàu có và quý phái tại địa phương hoặc từ Anh Quốc đến và nhất là các sĩ quan thích săn bắn trong đạo quân viễn chinh. Anh trung úy còn dẫn theo hai người lính trong nhóm sepoys, tức là đội lính tập tuyển mộ tại địa phương. Cả bọn trang bị khí giới đủ loại gồm súng ngắn, súng dài, kiếm, lao, mác... và đoàn đi săn cứ thế mà băng rừng tiến vào hẻm núi Waghora.
Khi vừa đến cửa thung lũng nơi có một dòng suối chảy xiết thì bỗng nhiên có tiếng huýt sáo vọng lại từ phía vách núi trước mặt. Cả đoàn dừng lại để lắng nghe động tĩnh, và đúng là có người đang rình rập vì có nhiều tiếng huýt sáo khác đáp lại từ các bụi rậm và hốc đá chung quanh. Quả đúng là đoàn đi săn đang bị thổ dân Bhil phục kích. Mặc dầu sợ hãi nhưng cả đoàn tay cầm khí giới cứ tiến lên , vừa cẩn thận quan sát chung quanh. Bỗng nhiên nhiều thổ dân Bhil cầm cung tên nhô đầu lên từ các bụi rậm, gốc cây và hốc đá. Cũng lạ là họ không tỏ vẻ gì tức giận hay đang chuẩn bị tấn công mà chỉ có vẻ tò mò đưa mắt theo dõi thế mà thôi. Đoàn săn bắn cũng bớt sợ vì họ biết rằng các mũi tên của thổ dân Bhil đều có tẩm thuốc độc. Trung úy James Alexander vẫn giữ được bình tĩnh và nhận thấy người Bhil có thân hình nhỏ thó, da đen sậm và gần như là trần truồng.
Đoàn săn bắn tiếp tục ngược theo dòng suối để tiến vào hẻm vực trong khi các thổ dân Bhil vẫn rình rập phía sau nhưng chỉ quan sát mà không tấn công. Sau cùng thì đoàn săn bắn cũng tiến được vào giữa hẻm núi, khu này có hình vòng cung giống như hình móng ngựa, chiều ngang độ vài trăm mét. Viên trung úy James Alexander vừa canh chừng các thổ dân Bhil vừa quan sát vách núi trước mặt và bất ngờ anh ta trông thấy khoảng hơn một chục miệng hang cheo leo trên vách đá...
Vì tò mò thúc đẩy, trung úy James Alexander bèn ra lệnh cho cả đoàn tìm cách trèo lên để xem. Khi lên được đến nơi thì họ mới biết là các hang đúng là do tay người đục đẽo. Cửa hang hình vòm cung có cột đá chống đỡ và tất cả các hang đều được đục thẳng từ bên ngoài vào trong vách núi. Tường và cột đá ở cửa hang được chạm nổi với các hình người, hình thú vật, hoa, lá.... Một số hang bị đá sụp lấp kín lối vào, nhưng một số hang khác vẫn còn kẻ hở có thể chui vào được. Vô cùng kinh ngạc trước quang cảnh đồ sộ của các cửa hang đang hiện ra trước mặt, James Alexander bèn quyết định chui vào bên trong xem sao. Cả đoàn tìm cành và cỏ khô bó lại làm đuốc rồi chui vào một cửa động. Ánh sáng làm cho hàng ngàn con dơi đang đeo ngược trên trần hoảng sợ bay tán loạn. Trên mặt đất có nhiều đống phân động vật cho biết là có nhiều thú như khỉ, chó rừng, cọp, gấu... đến trú ẩn. Đoàn người lại tìm thấy một cầu thang đưa họ lên các gian phòng ở tầng trên. Tại đây họ thấy có vết tro còn mới và trong một góc tối có một bộ xương người.
[còn tiếp]
Kính
bangtam
</TD></TR></TBODY></TABLE>
Sửa lần cuối: