Dhutanga (Hạnh đầu đà) có nghĩa là ‘Rũ bỏ” Trong Đại Tạng Kinh có nhắc đến danh từ ‘Hạnh Đầu Đà” nhưng 13 (Nam Tông) hay 12 (Bắc Tông) đều không được ghi trong Đại Tạng Kinh hay A Hàm.
Trong một số bản Kinh có ghi chép
“Và đây là những lợi lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một tỳ kheo ở rừng tác ý vào lâm tưởng (Trung, kinh 121) có thể đạt được ngay trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như kinh nói: "Này Nàgita, ta hài lòng về vị tỳ kheo sống ở rừng" (Tăng chi iii, 343). Khi sống tại một trú xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng v.v... Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh đầu-đà khác như phấn tảo y v.v... dễ dàng tu tập đối với vị ấy.”
Trong Kinh có nhắc tới Hạnh đầu đà liên quan đến : Đại Đức Kassapa và chúng đệ tử của ông đều thọ trì giới luật nghiêm nhặt về hạnh 'Đầu Đà' (Dhutanga) thật ra phải hiểu về thời đó, Đạo Phật chưa ra đời thì Hạnh đầu đà hoặc cao hơn nữa là Khổ Hạnh đã được hầu hết các vị Bà La Môn thực hành nghiêm mật , và ngày nay ở VN thì kỳ lạ nhưng bên Thái Lan hay Miến hay Ấn việc thực hành Đầu Đà vẫn có vô số vị và mình cũng đã gặp cả đoàn hàng trăm người đó.
Thậm chí Theravada còn có Ngày lễ Hạnh đầu đà hàng năm được tổ chức tôn vinh.
Trong Đại kinh Khu rừng sừng bò, Đức Phật cũng không phản đối với quan điểm : Tỷ-kheo tự mình sống ở rừng núi và thán đời sông ở rừng núi; tự mình sông khât thực và tán thán đời sông khât thực; tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo; tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y; tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục; tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ; tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sông độc cư; tự mình sông không nhiêm thê tục và tán thán hạnh không nhiêm thê tục; tự mình tinh cân, tinh tân và tán thán hạnh tinh cân, tinh tân; tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh….
Trong 152 bản kinh của Trung Bộ Kinh, Đức Phật đều giảng về 4 hoạt động tu tập của các Tỷ kheo đệ tử tổng kết lại như sau:
---------
Sống đời sống độc cư viễn ly (hay xuất gia)
Phạm hạnh đạo đức
Thực hành thiền Jhana (Chánh định) nơi vắng
Chánh trí (Văn Tư Tu) để từ bỏ tham dục
----------
13 hạnh đầu đà chỉ được ghi chép chi tiết từ sau này trong Thanh Tịnh Đạo với Luận Sư Phật Âm (Buddhaghosa) từ thế kỷ thứ 5 sau 1000 năm Đức Phật nhập diệt
1. mặc y chắp vá: pamsukūlik'anga ,
2. chỉ mặc ba y: tecīvarik'anga ,
3. đi khất thực: pindapātik'anga ,
4. Không bỏ sót ngôi nhà nào khi đi khất thực: sapadānikanga ,
5. Ăn một lần: ekāsanik'anga ,
6. Chỉ ăn từ bát khất thực: pattapindik'anga ,
7. từ chối mọi thức ăn bổ sung: khalu-pacchā-bhattik'anga ,
8. Sống trong rừng: āraññik'anga ,
9. sống dưới gốc cây: rukkha-mūlik'anga ,
10. Sống ngoài trời: abbhokāsik'anga ,
11. Sống ở nghĩa địa: susānik'anga ,
12. Hài lòng với bất cứ trú xứ nào: yathā-santhatik'anga ,
13. Ngủ trong tư thế ngồi (không bao giờ nằm): nesajjik'anga .
13 bài tập này, không có ngoại lệ, đều được đề cập trong các kinh điển cũ (ví dụ M. 5, 113; AV, 181-90), nhưng không bao giờ cùng ở một nơi.
------------------
Một câu chuyện liên quan
Xưa, có một số Tỷ-kheo có đủ đức hạnh; một số người trong số họ đã tuân thủ nghiêm ngặt các thực hành khổ hạnh (dhutanga), một số có kiến thức sâu rộng về Pháp, một số đã đạt được định tâm (jhana), một số đã đạt được Anagami Phala (Quả bất lai). v.v... Tất cả họ đều nghĩ rằng vì họ đã đạt được nhiều như vậy nên họ sẽ dễ dàng đạt được Arahatta Phala (Quả vị La Hán). Với suy nghĩ này họ đã đến gặp Đức Phật.
Đức Phật hỏi họ: “Này các Tỳ kheo, các ông đã đạt được Arahatta Phala chưa?” Sau đó, họ trả lời rằng họ đang ở trong tình trạng như vậy nên không khó để họ đạt được Arahatta Phala bất cứ lúc nào. Với họ, Đức Phật nói: " Này các Tỳ kheo! Chỉ vì các ông đã có giới luật (sila), chỉ vì các ông đã đạt được Anagami Phala (Quả bất lai), các ông không nên tự mãn và nghĩ rằng chỉ còn một chút nữa phải làm; trừ khi các ông đã tận diệt được chúng." tất cả các chất say sưa đạo đức (asavas), các bạn không được nghĩ rằng mình đã chứng ngộ hạnh phúc viên mãn của Quả A-la-hán " .
Rồi Đức Phật nói bài kệ như sau:
Câu 271 & 272. Không chỉ bằng việc thực hành Đạo đức đơn thuần, cũng không phải bằng sự học hỏi nhiều, cũng không phải bằng việc đạt được Định tâm, cũng không phải bằng việc sống ẩn dật, cũng không bằng việc tự bảo đảm rằng, “Tôi tận hưởng niềm an lạc của Quả Anagami (Bất lai) mà phàm nhân không được hưởng (puthujjanas) ),” này các Tỷ-kheo, nên an trú bằng lòng mà không đạt đến sự tận diệt các chất say sưa đạo đức (Dục hỷ) [tức là không đạt đến quả vị A-la-hán].
Như vậy Đức Phật không coi Hạnh Đầu Đà là những Pháp đã đủ để giải thoát.
Tổng kết : Và như vậy Đức Phật không bác bỏ Hạnh đầu đà, cũng không bắt buộc thực hành Hạnh đầu đà toàn bộ 13 bài tập nhưng vẫn nhắc nhở thực hành những căn bản như : Độc cư viễn ly, 3 y 1 bát, ăn khất thực 1 bữa và đây cũng chỉ là những bài tập căn bản sơ khởi cho các Tu sĩ, nó không phải bài tập đủ để có thể Giác ngộ hay giải thoát. Muốn giác ngộ hay giải thoát cần thực hành Chánh Định (Jhana) và Chánh kiến (Bát Chánh đạo – Tứ Niệm xứ) và tất cả đã được tổng kết thành 37 phẩm trợ đạo được ghi chép chi tiết trong Đại Tạng Kinh điển.
HÀ BỒ ĐỀ (Gosinga) từ Bảo Hải Linh Thông Tự
Trong một số bản Kinh có ghi chép
“Và đây là những lợi lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một tỳ kheo ở rừng tác ý vào lâm tưởng (Trung, kinh 121) có thể đạt được ngay trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như kinh nói: "Này Nàgita, ta hài lòng về vị tỳ kheo sống ở rừng" (Tăng chi iii, 343). Khi sống tại một trú xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng v.v... Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh đầu-đà khác như phấn tảo y v.v... dễ dàng tu tập đối với vị ấy.”
Trong Kinh có nhắc tới Hạnh đầu đà liên quan đến : Đại Đức Kassapa và chúng đệ tử của ông đều thọ trì giới luật nghiêm nhặt về hạnh 'Đầu Đà' (Dhutanga) thật ra phải hiểu về thời đó, Đạo Phật chưa ra đời thì Hạnh đầu đà hoặc cao hơn nữa là Khổ Hạnh đã được hầu hết các vị Bà La Môn thực hành nghiêm mật , và ngày nay ở VN thì kỳ lạ nhưng bên Thái Lan hay Miến hay Ấn việc thực hành Đầu Đà vẫn có vô số vị và mình cũng đã gặp cả đoàn hàng trăm người đó.
Thậm chí Theravada còn có Ngày lễ Hạnh đầu đà hàng năm được tổ chức tôn vinh.
Trong Đại kinh Khu rừng sừng bò, Đức Phật cũng không phản đối với quan điểm : Tỷ-kheo tự mình sống ở rừng núi và thán đời sông ở rừng núi; tự mình sông khât thực và tán thán đời sông khât thực; tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo; tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y; tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục; tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ; tự mình sống độc cư và tán thán hạnh sông độc cư; tự mình sông không nhiêm thê tục và tán thán hạnh không nhiêm thê tục; tự mình tinh cân, tinh tân và tán thán hạnh tinh cân, tinh tân; tự mình thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh….
Trong 152 bản kinh của Trung Bộ Kinh, Đức Phật đều giảng về 4 hoạt động tu tập của các Tỷ kheo đệ tử tổng kết lại như sau:
---------
Sống đời sống độc cư viễn ly (hay xuất gia)
Phạm hạnh đạo đức
Thực hành thiền Jhana (Chánh định) nơi vắng
Chánh trí (Văn Tư Tu) để từ bỏ tham dục
----------
13 hạnh đầu đà chỉ được ghi chép chi tiết từ sau này trong Thanh Tịnh Đạo với Luận Sư Phật Âm (Buddhaghosa) từ thế kỷ thứ 5 sau 1000 năm Đức Phật nhập diệt
1. mặc y chắp vá: pamsukūlik'anga ,
2. chỉ mặc ba y: tecīvarik'anga ,
3. đi khất thực: pindapātik'anga ,
4. Không bỏ sót ngôi nhà nào khi đi khất thực: sapadānikanga ,
5. Ăn một lần: ekāsanik'anga ,
6. Chỉ ăn từ bát khất thực: pattapindik'anga ,
7. từ chối mọi thức ăn bổ sung: khalu-pacchā-bhattik'anga ,
8. Sống trong rừng: āraññik'anga ,
9. sống dưới gốc cây: rukkha-mūlik'anga ,
10. Sống ngoài trời: abbhokāsik'anga ,
11. Sống ở nghĩa địa: susānik'anga ,
12. Hài lòng với bất cứ trú xứ nào: yathā-santhatik'anga ,
13. Ngủ trong tư thế ngồi (không bao giờ nằm): nesajjik'anga .
13 bài tập này, không có ngoại lệ, đều được đề cập trong các kinh điển cũ (ví dụ M. 5, 113; AV, 181-90), nhưng không bao giờ cùng ở một nơi.
------------------
Một câu chuyện liên quan
Xưa, có một số Tỷ-kheo có đủ đức hạnh; một số người trong số họ đã tuân thủ nghiêm ngặt các thực hành khổ hạnh (dhutanga), một số có kiến thức sâu rộng về Pháp, một số đã đạt được định tâm (jhana), một số đã đạt được Anagami Phala (Quả bất lai). v.v... Tất cả họ đều nghĩ rằng vì họ đã đạt được nhiều như vậy nên họ sẽ dễ dàng đạt được Arahatta Phala (Quả vị La Hán). Với suy nghĩ này họ đã đến gặp Đức Phật.
Đức Phật hỏi họ: “Này các Tỳ kheo, các ông đã đạt được Arahatta Phala chưa?” Sau đó, họ trả lời rằng họ đang ở trong tình trạng như vậy nên không khó để họ đạt được Arahatta Phala bất cứ lúc nào. Với họ, Đức Phật nói: " Này các Tỳ kheo! Chỉ vì các ông đã có giới luật (sila), chỉ vì các ông đã đạt được Anagami Phala (Quả bất lai), các ông không nên tự mãn và nghĩ rằng chỉ còn một chút nữa phải làm; trừ khi các ông đã tận diệt được chúng." tất cả các chất say sưa đạo đức (asavas), các bạn không được nghĩ rằng mình đã chứng ngộ hạnh phúc viên mãn của Quả A-la-hán " .
Rồi Đức Phật nói bài kệ như sau:
Câu 271 & 272. Không chỉ bằng việc thực hành Đạo đức đơn thuần, cũng không phải bằng sự học hỏi nhiều, cũng không phải bằng việc đạt được Định tâm, cũng không phải bằng việc sống ẩn dật, cũng không bằng việc tự bảo đảm rằng, “Tôi tận hưởng niềm an lạc của Quả Anagami (Bất lai) mà phàm nhân không được hưởng (puthujjanas) ),” này các Tỷ-kheo, nên an trú bằng lòng mà không đạt đến sự tận diệt các chất say sưa đạo đức (Dục hỷ) [tức là không đạt đến quả vị A-la-hán].
Như vậy Đức Phật không coi Hạnh Đầu Đà là những Pháp đã đủ để giải thoát.
Tổng kết : Và như vậy Đức Phật không bác bỏ Hạnh đầu đà, cũng không bắt buộc thực hành Hạnh đầu đà toàn bộ 13 bài tập nhưng vẫn nhắc nhở thực hành những căn bản như : Độc cư viễn ly, 3 y 1 bát, ăn khất thực 1 bữa và đây cũng chỉ là những bài tập căn bản sơ khởi cho các Tu sĩ, nó không phải bài tập đủ để có thể Giác ngộ hay giải thoát. Muốn giác ngộ hay giải thoát cần thực hành Chánh Định (Jhana) và Chánh kiến (Bát Chánh đạo – Tứ Niệm xứ) và tất cả đã được tổng kết thành 37 phẩm trợ đạo được ghi chép chi tiết trong Đại Tạng Kinh điển.
HÀ BỒ ĐỀ (Gosinga) từ Bảo Hải Linh Thông Tự
Sửa lần cuối: