GHI CHÚ LỜI MỞ ĐẦU & THỰC HÀNH SƠ KHỞI
1. Xem Giuse Tucci,
Các Tôn giáo của Tây Tạng (London: Rout ledge và Kegan Paul, 1980) liên quan đến nguồn gốc của “Tử thư Tây Tạng”; H.Richardson và D. Snell grove,
Lịch sử Văn hóa Tây Tạng (Boston, Shambhala, 1986) liên quan đến kiến trúc; và Giacomella Orofino,
Những giáo lý thiêng liên của Tây Tạng về Cái Chết và Giải Thoát, (Bridport, Prism Press, 1990) liên quan đến những điểm tương đồng về thuyết nhị nguyên giữa Tây Tạng và Hỏa giáo.
Về các tác phẩm chạm khắc Karakoram, xem Karl Jettmar,
Giữa Ghandara và Con đường tơ lụa: Những bức chạm khắc trên đá trên đường cao tốc Karakoram (Mainz: Verlag Phillipp Von Zabern, 1987), minh họa số 14, hoặc
Cổ vật ở miền Bắc Pakishtan, do Karl Jettmar biên tập (Mainz: Verlag Phillipp Von Zabern, 1989), tập 1, tấm 5-6. Về các bức chạm khắc Ladakhi, xem Giacomella Orofino trong
Đông và Tây, 1991.
2. Lopon nhận xét rằng phải thực hành theo cách này như là bước chuẩn bị cho việc thực hành chính nên đề cập đến yêu cầu về thời gian là khá nghiêm túc và có chủ ý. Hãy nghĩ rằng việc thực hiện một khoảng thời gian chuẩn bị như vậy là rất quan trọng, chứ không phải chỉ trong chốc lát. Vì vậy, hãy chuẩn bị càng nhiều càng tốt.
Ngoài việc ăn và ngủ, thực hành này nên được áp dụng suốt cả ngày. Nếu bạn đi đến một thung lũng hay một hang động trống rỗng, bạn còn có thể làm gì nữa? Đây là cách thực hành nghiêm túc, không giống ngondro thông thường. Việc này dành cho người chán ngán cuộc sống trần tục. Nếu không thì khó có thể từ bỏ tất cả những thứ khác.
Về chuyện này, chúng tôi hỏi Lopon liệu có nhất thiết phải đến một nơi vắng vẻ để thực hành phương pháp này không, và ông ấy trả lời không phải. Nếu không thế thì ít nhất chúng ta cũng nên duy trì các thời khóa đều đặn và thực hiện nghiêm túc để có kết quả. Ông nói rằng, trong lối sống phương Tây, chúng ta có nhiều thời gian rảnh rỗi để thực hành, vì vậy việc đó đôi khi còn tốt hơn là trở thành một tu sĩ, bởi vì một tu sĩ có rất nhiều nhiệm vụ và nghi lễ khác nhau phải thực hiện.
Lopon bình luận thêm rằng về mặt nội dung, quán tưởng sáu cõi là một phương tiện, nhưng cũng có hiện thực về luân hồi như vậy. Việc này cần phải được thực hiện chuyên nhất. Vì nếu bạn thực hành chúng cùng với các hoạt động thế tục khác thì rất khó tránh khỏi bị xao lãng. Còn nếu bạn không tu luyện ngondro nghiêm chỉnh thì các thực hành khác chỉ như trò giải trí mà thôi.
3. Lopon nhận xét rằng mặc dù con người nhìn vào nước và thấy nước, nhưng chúng sinh ở các cõi khác cùng nhìn vào nó lại thấy theo cách khác. Khi động vật nhìn thấy nó, chúng chỉ coi là thứ để uống chứ không phải nước.Chúng sinh ở địa ngục coi nó là lửa hoặc băng; ngảy quỷ thấy giống thứ gì đó bẩn thỉu. Những gì chúng ta thấy luôn bị quy định bởi những hành động trước đây của mình. Chúng ta chỉ thấy nghiệp của chính mình; mà chúng ta có thể kiểm tra từ ví dụ rõ ràng rằng nếu hai hoặc ba người đi cùng nhau để xem thứ gì đó thì họ đều nhìn thấy và cảm thấy những thứ khác nhau.
4. Điều này đưa ra một ví dụ. Như tâm trí cá nhân chẳng hạn. Một người có thể nghĩ anh ta tốt, trong khi những người khác nghĩ anh ta xấu; một người mẹ có thể coi một người đàn ông như con trai mình, nhưng vợ anh ta lại coi như một người chồng. Tất cả điều này được tạo ra bởi tâm trí cá nhân, mọi người nhìn người khác thông qua những định kiến của họ. Mọi thứ đều được tạo ra. Nhận thức này giúp chúng ta có thể phát triển theo những cách tích cực hoặc tiêu cực. Nhưng chúng ta bị bao phủ bởi vô minh, vì chúng ta luôn bám chấp. Nếu mọi thứ tồn tại như tâm trí bám chấp của chúng ta nhìn thấy chúng, như những đối tượng có thật và cố định, thì chẳng có gì có thể thay đổi trên thế giới này. Nhưng chẳng có gì là không thay đổi. Đó là cách chúng ta bị lầm tưởng. Mục đích của thực hành này là phá vỡ nhận thức sai lầm này.
5. Lopon bình luận rằng Shardza đã biên soạn những bộ sưu tập của riêng mình ở đây và được mô tả trong văn bản chính. Chúng được lấy từ Zhang Zhung Nyengyu được xuất bản ở Delhi. Những thực hành bên trong này đạt hiệu quả cao nhất khi thực hiện cùng thực hành bên ngoài trong một thời khóa. Lopon nhận xét tốt nhất nên thực hiện ba loại thực hành này trong cùng một buổi, lần lượt từng loại.
6. Ba điểm của chày được tạo thành bởi khủy tay và các cánh tay.
7. Đây là ngồi bắt chéo chân, lưng thẳng, cổ hơi gập, mắt nhìn vào ngực, miệng hơi há ra.
8. Lopon bình luận phần thực hành sơ bộ này được thực hiện trong các phần, đầu tiên là phần thân, sau đó là lời, cuối cùng là tâm trí, tất cả trong một phần.
9. Lopon nhận xét rằng chúng ta coi mọi thứ là những đối tượng độc lập; chúng ta không thể thấy rằng tất cả đều là phản xạ của trạng thái tự nhiên. Những gì chúng ta đang thấy đều là ảo tưởng, trong thực tế không tồn tại độc lập. Chúng giống như những ảo ảnh trong mơ. Tuy nhiên nếu những sự vật này đều là độc lập và tự duy trì, chúng ta có thể xác định chúng thông qua một quá trình tham vấn.
Lấy chiếc bàn này làm ví dụ. Nếu hỏi cái bàn có thể được tìm thấy ở trên mặt, bên cạnh, các chân, hay dưới đáy thì chúng ta không thể tìm được. Nếu cái gì đó độc lập và tự duy trì (tức là có sự tồn tại cố hữu), nó sẽ lộ diện bản chất sau khi khảo sát.
Đây là một phương pháp phân tích được sử dụng rất rộng rãi trong Phật giáo; xem
Thiền về Tính Không của Jeffrey Hopkins (London: Wisdom Books, 1983). Kiểm tra đối tượng theo cách này là một thủ tục đơn giản và không quá khó khăn; vấn đề là ở việc tái thiết nhận thức.
10. Lopon bình luận rằng triết học có thể hữu ích để giới thiệu cái thấy của Dzogchen. Mặc dù bạn không thể giải thích bản tính của tâm trí, bạn có thể chỉ ra nơi có thể tìm được nó giống như một đứa trẻ chỉ tay vào mặt trăng. Thông thường, các hành giả Dzgochen không thảo luận về cái thấy từ quan điểm logic hoặc phân tích, bởi vì họ không được đào tạo để làm vậy. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp của truyền thống Bon, nơi mà một trường phái triết học độc đáo của Dzogchen đã phát triển. Trong bất cứ trường hợp nào, điều tối thiểu mà Dzogchen nhân có thể làm là giải thích điều người đó đang làm và suy nghĩ.
11. Lopon nhận xét rằng việc sử dụng
tâm trí này không phải theo nghĩa “ý thức”; chính tâm trí là “bản tính của tâm trí”. Nó không giống quan điểm của Duy Thức.
Việc tham chiếu đến Duy Thức này liên quan đến khái niệm Tàng Thức hay
Kunzhi; theo quan điểm này, đó là nơi lưu trữ mọi dấu vết nghiệp báo, nếu bạn tịnh hóa nó, bạn sẽ đạt được Phật quả. Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng trong Dzogchen, nó có nghĩa là trạng thái tự nhiên, nền tảng, và không có khái niệm về sự tịnh hóa. Nền tảng vốn là thanh tịnh bản nguyên,
kadag, thanh tịnh ngay từ đầu. Vì vậy thực hành không phải là tịnh hóa, mà là nhận ra trạng thái đó.
Lấy thế giới bên ngoài làm ví dụ. Trong Duy Thức, nó được giải thích giống như hai nửa quả trứng luộc chín được cắt đôi ở giữa, sao cho phía khách thể và phía chủ thể của một cá thể tồn tại khớp vào nhau. Nhưng Dzogchen nói rằng mọi thứ đều được bao bọc bởi trạng thái tự nhiên, trạng thái này có khả năng tạo ra và thu nhập những phản chiếu. Những gì được phản chiếu trong tâm trí không tồn tại độc lập, cả bên trong và bên ngoài đều là những phản chiếu tự phát trong trạng thái tự nhiên.
Làm được điều này là một phẩm chất tự nhiên của trạng thái nguyên thủy, nhưng điều này không có nghĩa là những phản chiếu này là vững bền, độc lập và tồn tại có sẵn. Chúng phát sinh từ trạng thái tự nhiên và quay trở lại trạng thái đó; chính sự thiếu hiểu biết của chúng ta đã nắm bắt chúng như độc lập. Vì vậy triết lý Duy Thức thường bị nhầm với Dzogchen. Trong Duy Thức, như được nói rằng cả thế giới khách quan và chủ quan đều phát sinh từ những nguyên nhân nghiệp báo. Tuy nhiên, trong Dzogchen, thế giới tồn tại một cách tự phát, nó bị quy định bởi nghiệp, nhưng nguồn gốc của nó là trạng thái tự nhiên.
Tuy nhiên, triết học Trung Quán hoàn toàn không chấp nhận khái niệm
kunzhi; nó chỉ chấp nhận sau loại thức (các giác quan và tâm thức) hơn là tám loại thức của Duy Thức và Dzogchen. Trong những hệ thống đó, sau sáu thức, thức thứ bảy là
nyonne (mạt na thức) và thức thứ tám là
kunzhi (tàng thức). Đôi khi người ta sử dụng một phép loại suy: tâm trí là chồng còn mạt na là vợ. Tàng thức là nhà kho và các giác quan thu thập hàng hóa từ bên ngoài vào kho.
Vì thế, Dzogchen nắm giữ nhiều khía cạnh chung với Duy Thức, mặt khách thể và chủ thể là không thể tách rời trong cả hai hệ thống. Tuy nhiên, trong Dzogchen, điều quan trọng là trạng thái tự nhiên là thanh tịnh ngay từ đầu và luôn hiện diện. Không có gì để thanh lọc và không có gì để đạt tới.
12. Lopon bình luận rằng lời chỉ trích của Tsongkhapa về Dzogchen dựa trên quan niệm rằng tất cả những gì các nhà Dzogchen làm là hỏi về bản tính của tâm trí và thấy rằng nó không có màu sắc, kích thước hay vật chất. Theo ông đó là quan điểm của Dzogchen. Nhưng lời chỉ trích này bị nhầm lẫn vì đây là quan điểm của các phái ***. Như đã đề cập trong chú thích 11, Dzogchen nhấn mạnh sự khác nhau giữa tâm trí và bản tính của tâm trí. Bản tính tâm trí của tôi khác bản tính tâm trí của bạn. Có nhiều bản tính của tâm trí cũng như có nhiều chúng sinh. Khi một người đắc thân cầu vồng thì mọi người khác vẫn như cũ. Giống như mỗi chúng sinh có thân thể khác nhau thì họ cũng có tâm trí khác nhau. Tuy nhiên, phẩm chất của tất cả tâm trí đều giống nhau, tâm trí hoàn toàn mang tính cá nhân nhưng những phẩm tính của nó là chung cho tất cả. Người ta chỉ có thể nghiên cứu bản tính của chính mình mặc dù những phẩm tính mà bạn khám phá có thể giống nhau đối với tất cả chúng sinh.
13. Lopon nói rằng đó là: tồn tại, không tồn tại, cả hai, không phải cả hai.
14. Điều đó có nghĩa là bạn nhận ra nó mà không bám chấp. Nó là một phương pháp để giới thiệu, một thực hành sơ khởi, không phải là cái thấy sau cùng của Dzogchen.
15. Lopon bình luận rằng bạn không được đi xa hơn điểm này trừ khi đã đạt được chứng ngộ như nó mô tả mà không cần khảo sát, đối tượng, hay có bất cứ bám chấp nào. Đây là tính sáng và tính không hợp nhất. Bạn thậm chí không được bám chấp vào sự hợp nhất. Chỉ khi đạt được như vậy thì những thực hành theo sau mới có thể mang lại kết quả. Phải có sự hiện diện rõ ràng không bám chấp; đó là kết quả của thực hành sơ khởi.
GHI CHÚ THỰC HÀNH TREKCHO
1. Lopon nhận xét rằng khi bạn nhận được quán đỉnh thì nó cho bạn thấy trạng thái tự nhiên. Sau đó, bạn có thể kiểm tra xem mình đã nhận được điều gì hay chưa bằng cách xem liệu bạn có hiểu rõ trạng thái tự nhiên hay không. Tuy nhiên nếu thực hiện các thực hành sơ khởi, bạn sẽ thấy được trạng thái tự nhiên. Vì vậy, đó chính là quán đỉnh.
2. Văn bản này giống như nhóm thứ ba; nếu nó được dạy chính xác, những hiểu sai sẽ tự động chấm dứt và những ví dụ về việc này sẽ được đưa ra trong văn bản tiếp theo.
3. Như được nói rằng chúng cần được loại bỏ. Cái thấy của Dzogchen vượt xa những con đường này; nó là cao nhất và phải được thực hành. Nhưng chính quan điểm này là sai lầm vì khi nghĩ rằng những cách khác là tiêu cực và Dzogchen là quan điểm tốt nhất thì bạn đang giữ hai mặt: mặt tiêu cực và mặt tích cực; nhưng Dzogchen thì không có mặt nào cả. Nếu bạn vẫn bám chấp vào hai phía thì bạn chưa đạt được cái thấy của Dzogchen.
4. Nếu an trú trong trạng thái giải thoát, bạn không cần phải giữ hay bỏ bất cứ thứ gì.
5. Đặc biệt là giáo lý trung ấm và chuyển di thần thức được đưa ra trong Quyển 4 của tài liệu này.
6. Trong tác phẩm này Shardza đã thu thập nhiều trích dẫn từ các nguồn khác nhau về Trekcho, Thogal và Nhập thất trong Bóng Tối, vân vân.
7. Phật quả lúc đó là tự đạt được. Trong kiếp này bạn chứng ngộ nền tảng vì vậy bạn cảm thấy rất an toàn và yên tâm. Bạn sống với lòng tự tin của một vị tulku, người mà luân hồi chẳng có gì đáng sợ.
8. Cuốn sách tổng hợp kinh nghiệm của các hành giả được gọi thông tục là
Nyamgu.
9. “Đưa vào” có nghĩa là “hiển bày trực tiếp”.
10. Lopon bình luận, nếu bạn bám theo tính không thì không đúng, nếu bạn bám theo tính giác thì không đúng, và cho dù bạn bám theo sự hợp nhất thì cũng không đúng. Bản chất Dzgochen đích thực là sự hợp nhất, nhưng sự hợp nhất là một trạng thái hiện hữu, không phải là đối tượng của sự hiểu biết.
11. Giống như hệ thống Chittamatra (Duy Thức).
12. Lopon cho ý kiến rằng đây là một tham chiếu đến quan điểm Duy Thức trên cái nhìn về các yếu tố căn bản. Mặc dù mọi thứ dường như xảy ra khi chúng ta thức giấc, như thể chúng là những biến đổi thường hằng và thực tế đối với thế giới, nhưng chúng vẫn là các dấu vết của nghiệp; không có gì xảy ra theo nghĩa tuyệt đối.
Mọi hình ảnh đều giống như một giấc mơ. Trong giấc mơ, hình ảnh chỉ là hình ảnh đối với tâm trí, mặc dù bất cứ điều gì xuất hiện đều giống như vật chất thực sự đối với người nằm mơ. Điều này cũng tương tự như khi ta thức giấc. Mọi hình tướng đều đến từ các dấu vết nghiệp báo, tất cả đều xuất hiện trong tâm trí. Ngoài tâm trí, không có gì tồn tại cả. Sự khác biệt giữa mơ và tỉnh chỉ là ở thời điểm mà thôi.
13. Năng lượng để phản chiếu là một đặc tính của đại dương, do đó, sự phản chiếu và năng lượng được hợp nhất trong bản tính của nó. Đôi khi chỉ có hai thuật ngữ được sử dụng:
gzhi, nền tảng, và
tsal, sự phản chiếu; hai thuật ngữ này đề cập lần lượt đến khả năng tiếp nhận các phản chiếu (phía chủ thể) và bản thân các phản chiếu (phía đối tượng).
14. Bạn không thể nói trạng thái tự nhiên là trống rỗng hay có những phản chiếu hoặc bất cứ thứ gì. Giống như nước cũng ướt, nó là cả hai thứ cùng một lúc, không thuật ngữ nào có thể nắm bắt được thực tại vượt quá ngôn từ này. Bạn không thể nói nó là trống rỗng chỉ bởi vì nó không thể nắm bắt được, nếu bạn nói nó là trống rỗng, bạn cố gắng đi vào trạng thái trong khi đang nắm bắt khái niệm về tính không. Chân lý vượt xa mọi khái niệm. Đây là sự ám chỉ đến hệ thống Đại Ấn. Semde là khía cạnh của Đại Toàn Thiện nhấn mạnh đến tính không nhiều nhất và vì vậy tác giả ở đây nói rằng nó tương tự như Đại Ấn. Đại Ấn nhấn mạnh và nắm bắt tính không, nhưng ở đây bản tính được để nguyên như nó là, không cố gắng hành động theo nó, không thiền định, quán tưởng hay suy ngẫm.
Lopon cho biết rằng Semde, Longde, và Mengade đều là những khía cạnh của Dzogchen bởi vì họ thừa nhận chân lý cuối cùng về sự hợp nhất giữa tính giác và tính không. Semde nhấn mạnh nhiều hơn đến khía cạnh Tính Không, Longde nhấn mạnh Tính Giác. Nhưng cả hai đều thống nhất, đó là tinh túy trong quan điểm của Dzogchen (sự hợp nhất giữa tính không và tính giác). Mahamudra là sự hợp nhất giữa tính không và đại lạc, và như Tsongkhapa đã giải thích rất rõ ràng rằng tính không được đề cập đến là quan điểm của Trung Quán; đây không phải là quan điểm về tính không được đề cập đến trong Dzogchen.
Nhiều trường phái có những thuật ngữ và mệnh đề rất giống với những thứ như vậy của Dzogchen, và điều này đã dẫn đến một số nhầm lẫn khi nhãn hiệu này được áp dụng cho các hệ thống khác. Ví dụ, Sakya Pandita rất rõ ràng khi lên án Dzogchen là không hề có một quan điểm Phật giáo nào cả. Tất cả các văn bản Dzogchen đều đặc biệt đề cập đến sự cần thiết phải tách biệt tất cả các quan điểm khác để làm sáng tỏ ý nghĩa của các thuật ngữ chỉ sử dụng trong bối cảnh Dzogchen mà thôi.
Ngay từ đầu bạn cần phải biết những quan điểm khác nhau (của những thừa thấp hơn), nhưng chúng phải bị loại bỏ vì đây (Dzogchen) là thừa cao nhất và tốt nhất. Nhiều vị thầy Dzogchen hiện nay đang dạy rằng quan điểm của Đại Ấn, Trung Quán và Đại Toàn Thiện là không khác nhau. Nhưng điều này không được tìm thấy trong (lịch sử) văn học (của ba pháp môn).
15. Lopon bình luận Trugel Yungdrung là tác giả của
A Khrid trong Mười Lăm Buổi, được sáng tác vào thế kỷ 11. Shardza đang chỉ trích văn bản này vì nó chủ yếu là về Semde.
16. Lopon nhận xét loại tính giác thứ ba này luôn ở bên bạn dù bạn có biết hay không. Nhưng chúng sinh bình thường không nhận thức được phần bản chất này của họ. Điều này tốt nhất có thể được giải thích bằng một câu chuyện nhỏ. Ngày xưa một bà già có một cục vàng nằm trên sàn nhà tranh của bà. Một ngày nọ, có một hoàng tử đến và nhìn thấy vàng liền hỏi bà: “Sao bà nghèo thế?” Bà giả trả lời bà chỉ là một nông dân nghèo. Hoàng tử chỉ ra rằng có một kho báu ở đó, mà bà lão không nhận ra sự giàu có của mình.
Chỉ khi hoàng tử (vị thầy) đến thì bà già (chúng sinh) mới thấy được được sự giàu có (trạng thái tự nhiên). Tất nhiên, số vàng không bị ảnh hưởng dù bà lão có nhìn thấy hay không.
17. Tư thế bảy điểm là ngồi xếp bằng, hai tay thẳng, cột sống thẳng, cổ hơi thu vào, mắt mở, miệng mở, lười trên vòm miệng.
18. Drenpa Namkha là một đại thành tựu giả và là cha của Đạo sư Liên Hoa Sinh theo lịch sử Bon. Ông là một nhà cải cách vĩ đại và đã viết nhiều bài bình luận. Rigpa Rangshar là tên bí mật của Shardza Tashi Gyaltsen; ông còn được biết với tên Drime Nyingpo.
19. Lopon bình luận rằng trong khi bạn đang tỉnh giác, các ý nghĩ khởi lên sẽ tự giải thoát. Nếu bạn không ở trong tỉnh giác thì những ý nghĩ sẽ có thể dẫn dắt bạn.
20. Bốn hoạt động là: ăn, ngủ, ngồi và đi vệ sinh, cho nên bạn cần giữ trạng thái tự nhiên mọi lúc!
21. Năm điểm là: 1) dừng lại. 2) đặt vào một đơn điểm. 3) buộc lại mà không làm gì. 4) giải thoát cả luân hồi và niết bàn và 5) mọi thứ không ngừng được hợp nhất vào “Trạng thái thống nhất tự nhiên”.
22. Mười hai phương pháp này được mô tả trong những phần tiếp theo, như bốn thành tựu, ba năng lực hiểu biết và năm điểm quyết định mà không cần hành động.
23. Lopon nói rằng đây là những mô tả về hành giả có khả năng đạt được Phật quả.
24. Nếu bạn không lĩnh hội trọn vẹn trạng thái tự nhiên, thì mọi thực hành, chẳng hạn như trì tụng thần chú, vân vân, đều được coi là cố gắng. Nhưng khi bạn hoàn toàn chứng ngộ trạng thái đó thì không còn hành động nào trong số này có tầm quan trọng nữa. Vì vậy, bạn có thể làm mọi việc theo cách ngược lại. Longchenpa có quan điểm tương tự: “Khi bạn không chứng ngộ trạng thái tự nhiên, bạn phải cố gắng tích lũy công đức, thực hành bồ đề tâm, sám hối, vân vân”.
Tuy nhiên, “ngược lại” được đề cập ở đây không phải là “ngược lại” theo nghĩa chấp nhận quan điểm của các phái dị giáo hay thậm chí của một đối thủ. Nó có nghĩa là một khi liên tục ở trong trạng thái tự nhiên thì người ta sẽ không bị mê lầm nên dù người ta tụng niệm, hay thực hành quán tưởng, hoặc bất cứ việc gì cũng không thành vấn đề. Nó giống như ở trong không gian, dù bạn sơn đen hay trắng lên không gian, nó cũng chẳng để lại dấu vết gì.
Khi bạn lần đầu nghe những giáo lý này, nó có thể gây ra sự hiểu lầm, vì nó chỉ có giá trị đối với người có thể sống trong trạng thái tự nhiên mà không bị phân tâm và xao lãng. Trạng thái tự do như vậy chính là kết quả.
25. Lopon bình luận nếu bạn không làm bất cứ điều gì thì điều đó không quan trọng trên quan điểm về tính không; tất nhiên nó khác với quan điểm của hành giả. Những khác biệt này không khác nhau về nguồn gốc nên không có hai chân lý; xét cho cùng thì hành giả không phải là nguồn gốc. Chỉ có một nguồn gốc, nhưng đối với người đang bám chấp thì có một quan điểm bị hạn chế.
Nhiều giáo lý có vẻ giống với Dzogchen, nhưng chúng đều bị giới hạn bởi tư tưởng. Nếu quay về nguồn gốc của chúng thì luôn có những giáo huấn nói rằng đây là con đường đúng và kia là con đường sai. Một khi đã có hậu cảnh như vậy, bạn sẽ bị giới hạn bởi những tư tưởng. Nhưng Dzogchen không có hậu cảnh, điểm này khó giải thích vì mọi thứ Dzogchen tuyên thuyết đều dành cho hành giả có năng lực. Sự khác biệt về quan điểm này là rất quan trọng cần hiểu rõ.
26. Lopon nói rằng khi các trường phái Phật giáo khác nghe thấy giáo lý này trong quá khứ, họ đã rất khó chịu và nói rằng Dzogchen hoàn toàn không phải là Phật giáo. Nhưng Dzogchen không phải là triết học duy vật Ấn Độ hay phương Tây mà các hành động trong cuộc sống không có hậu quả cuối cùng bởi vì thân và tâm có cùng bản chất, quan điểm cho rằng chúng cùng sinh ra nên không thành vấn đề khi bạn thực hiện những hành động tốt hay xấu bởi vì cuối cùng cả hai đều trở thành tro bụi và không còn dấu vết nào. Trạng thái tự nhiên rốt cuộc không phải là vật chất như đã được tuyên bố liên tục trong văn bản, bạn có thể tìm thấy nó ở đâu?
27. Không may là văn bản này đã bị thất lạc trong sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.
28. Lopon nhận xét điều này có nghĩa là nó không có kết thúc nào cả và nằm ngoài khái niệm; bản tính Dzogchen không có kết thúc và không có khởi đầu. Tuy nhiên, từ quan điểm cá nhân, niết bàn có thể được coi là có sự khởi đầu, vì người thực hành phải trở thành một vị Phật. Nhưng trong lời dạy này, mọi sự đều bình đẳng với Phật.
29. Lopon nói: “Tại sao họ phê phán quan điểm này? Đó là bởi vì tất cả các trường phái này, ngay cả các phái
mật tông, đều phụ thuộc vào quán tưởng, tư thế thân thể, hởi thở, vân vân”.
30. Lopon bình luận rằng trong một cuộc đua ngựa, con ngựa không có thời gian nhìn xuống đất và gặm hoa hay cỏ; tương tự, khi bạn thực hành trạng thái tự nhiên, mọi ý nghĩ và hành động đều được giải thoát tự động vào trạng thái tự nhiên mà không có kế hoạch hay hành động.
31. Lopon nói trong khi hành giả không bị xao lãng mà liên tục ở trong trạng thái tự nhiên thì giống như họ đang ở trong không gian, bất cứ điều gì được thực hiện đều không để lại dấu vết nào. Như chúng tôi đã nói, dù bạn sơn đen hay trắng lên không gian thì cũng chẳng còn gì đọng lại. Cơ sở lưu trữ dấu vết đã biến mất, nó trống rỗng.
Tất nhiên việc này chỉ áp dụng cho một hành giả đã đạt được thiền định liên tục. Đối với những người khác vẫn còn bám chấp vào các dấu vết nghiệp báo của họ thì điều này không được áp dụng. Khi Lopon lần đầu đến Swayambhu ở Nepal vào năm 1944, ông đã gặp một số người Tây Tạng đi du lịch cùng trong vài ngày. Một người đàn ông từng là một nhà sư, đã có vợ con và đang mang một khối hành lý rất lớn sau lưng. Hồi còn là tu sĩ, ông đã gặp Dega Rinpoche ở trên núi, một hành giả Đại Toàn Thiện nổi tiếng, do đó, ông đã từ bỏ y áo tu sĩ vì cảm thấy mình quá bị ràng buộc vào những giới luận Vinaya. Lopon chỉ ra rằng anh ta cũng bị ràng buộc như nhau với các con của mình. Người đàn ông trả lời rằng trong Dzogchen người ta nói rằng bạn làm gì không quan trọng nên ông ấy được tự do làm bất cứ việc gì và điều đó không sao cả. Tuy nhiên đây là một sự hiểu lầm về Dzogchen. Giáo lý này chỉ áp dụng khi bạn đã hoàn toàn hội nhập vào trạng thái tự nhiên. Nó phụ thuộc vào thực hành của bạn và chỉ có bạn mới có thể đánh giá.
Vì vậy, thật là nghịch lý khi những người mới bắt đầu phải hành động mặc dù quan điểm của Dzogchen tối thượng không có hành động. Người mới bắt đầu phải thực hiện một hành động mạnh mẽ, một quyết định, nếu không sẽ có nghi ngờ và do dự. Tất cả các phương pháp tu tập mở đầu đều giúp chúng ta chứng ngộ trạng thái tự nhiên. Nhưng một khi nó đã được thấy và hiểu thì tình huống sẽ khác. Hành giả Đại Toàn Thiệnđã chứng ngộ sâu xa sẽ không cần tu luyện các thực hành dự bị nữa.
32. Lopon bình luận điều này có nghĩa là không do dự hay thiền định, đây là lý do vì sao nhiều vị thầy Phật giáo chỉ trích Dzogchen. Chẳng hạn, Tsongkhapa khẳng định rằng trạng thái tự nhiên trong Dzogchen giống như vô thức. Cách nhận xét đó rất xa, sự tỉnh giác này rất sáng tỏ và rõ ràng. Nhưng các nhà bình luận Ấn Độ về Bát Nhã ba la mật, chẳng hạn như Long Thọ, đã không hiểu rằng sự tỉnh giác này sẽ hiện diện sau khi các suy nghĩ đã ngừng lại. Họ có chứng ngộ được thứ gì đó tương tự, nhận thức trực tiếp không mê lầm về sunyata (tính không). Nhận thức này không thể tách rời khỏi đối tượng của nó và không bị nhầm lẫn; nhưng nó không giống (với tỉnh giác Đại Toàn Thiện).
Nó có vẻ giống nhau bởi vì ở đây đối tượng là sunyata và chủ thể là nhận thức trực tiếp; nhưng điểm khác biệt là trạng thái nhận thức này là kết quả của sự thực hành bằng suy nghĩ. Đầu tiên bạn thực hành và sau đó bạn có kinh nghiệm. Bạn phát triển nó cho đến khi tư tưởng giảm dần và đối tượng ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Cuối cùng đối tượng được nhận thức trực tiếp, vì vậy nó là kết quả của tư tưởng.
Ngay cả khi có một hố sâu trong quá trình tiến tới giai đoạn cuối cùng của nhận thức trực tiếp, thì không thể phủ nhận mối liên hệ giữa ý niệm và nhận thức trực tiếp. Nếu không có mối liên hệ nào giữa hai thứ đó thì chẳng có gì bắc cầu nối chúng được. Nhưng từ quan điểm của Dzogchen, bản tính đã được kết nối rồi, nó không được móc nối với các suy nghĩ bởi vì nó đã có ở đó rồi. Nó đã luôn ở đó. Nó không được phát minh ra. Bất cứ điều gì ở trong bạn, bạn đều có thể nhận ra.
Việc tịnh hóa là cần thiết đối với Dzogchen, tuy nhiên, đó là lý do của những thực hành sơ khởi. Sẽ là một sai lầm lớn nếu cố gắng áp dụng những giáo lý này (không thiền, không hành) mà chưa qua quá trình tu luyện sơ khởi. Bạn phải luôn hiểu quan điểm của bất cứ nhận xét nào, dù là về trạng thái tự nhiên hay cá nhân. Nếu không bạn sẽ rơi vào chủ nghĩa hư vô.
33. Loponcho biết trong nền tảng triết học của Dzogchen có nhiều quan niệm sai lầm khác nhau được mô tả trong
Namkha Truldzo, một văn bản chính về triết lý của Dzogchen được dạy ở Dolanji:
“
Quan điểm bạn phải thiền định, hay bạn không được thiền định; rằng không có nguồn gốc của sự tồn tại hoặc luân hồi không có kết thúc; quan điểm Dzogchen phải được học để biết nó hoặc Dzogchen không có mối liện hệ nào với tâm trí; quan điểm nó không liên quan đến bất cứ điều gì khác hoặc quan điểm Dzogchen không chắc chắn, bất cứ điều gì cũng được, rằng mọi thứ đều chẳng là gì nên bạn có thể làm bất cứ việc gì bạn thích, hoặc quan điểm cho rằng mọi thứ đều không sai lầm. Đây là những quan điểm vô minh.”
“Những quan điểm tốt hơn nhưng vẫn còn sai lầm là Kadag, rằng cái thấy là thanh tịnh bản nguyên, lundrub, nghĩa là mọi thứ tồn tại tự phát; rằng cái thấy là không chắc chắn nên nó có thể là thế này hoặc thế kia; hoặc trạng thái tự nhiên thực sự là bản tính và những phản chiếu. Đây là những quan điểm hoàn chỉnh một phần.”
“Một số vị thầy Dzogchen giới thiệu cái thấy trực tiếp bằng pha lê hoặc gương; một số nói rằng bạn phải đến một nơi yên tĩnh để thiền định; một số nói rằng bạn phải gặp khó khăn và những người khác nói bạn phải là một người ăn xin. Một số đạo sư nói rằng bạn phải từ bỏ tất cả tài sản của mình để đi sống trong nghĩa địa hoặc trên núi; một số lại nói: “Hãy đi ngay và sống như một tên điên!” Một số nói: “Đừng ham muốn bất cứ điều gì, hãy đi và sống như một đứa trẻ con”. Một số khác nói rằng bạn phải sống ngược lại với những gì họ dạy; có người nói: “Con nên tránh xa những vật gây ra sân hận và tham muốn, và đừng mong có danh tiếng tốt!” Người khác lại nói: “Dù người ta nói điều tốt hay xấu về con, đừng quan tâm!” Đây là những câu nói của các đạo sư Dzogchen.
“Nhưng theo hệ thống này, chúng tôi không chấp nhận bất cứ lời dạy nào của họ, chúng tôi không nghĩ rằng lời dạy của họ là tốt hay xấu, chúng tôi không quan tâm. Tại sao? Bởi vì chúng tôi hoàn toàn nằm ngoài sự phán xét về quan điểm của họ. Chẳng có ích gì khi tranh cãi hay phán xét; chúng ta không quan tâm. Giống như con voi, nếu nó khát thì không ai có thể ngăn nó đi uống nước! Tất cả những quan điểm khác nhau này đều bị giới hạn bởi tư tưởng và vì thế mà bám chấp”.
Quá trình này có mục đích đưa ra những nghi ngờ để làm sáng tỏ chúng giống như giặt vết bẩn trên một tấm vải để người ta có thể nhìn rõ chất liệu.