Kim Cang Thoi Luan

Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại

Kim Cang Thoi Luan

Tà ma ngoại đạo

Phật tử
Reputation: 26%
Tham gia
13/8/18
Bài viết
190
Điểm tương tác
27
Điểm
43
ĐANG DỊCH
Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hành Chứng Văn Loại

No. 2646



  • Lời Tựa


Trộm nghĩ, hoằng thệ không thể nghĩ bàn[1], là con thuyền vĩ đại vượt qua biển cả khó qua[2]; quang minh không gì chướng ngại, là mặt trời trí tuệ phá tan bóng tối vô minh.

Thế thì, duyên tịnh độ được thành từ sự sinh khởi nghịch hại của tỳ-kheo Điều Đạt[3] và thái tử A-xà-thế[4], nhân tịnh nghiệp được thuyết từ sự tuyển chọn An dưỡng của Đức Phật Thích Ca và hoàng hậu Vi-đề-hi[5].

Đây là, lòng nhân từ của sự quyền hóa[6] nhằm cứu độ khắp chúng sinh khổ não, tâm bi mẫn của bậc Thế Hùng[7] muốn thương tưởng cả xiển-đề nghịch báng[8].

Bèn biết, gia hiệu[9] viên dung[10] chí đức[11] là chánh trí có khả năng chuyển ác thành đức[12], và Nan tín kim cương tín nhạo[13] có khả năng đoạn trừ hoài nghi[14], hoạch chứng chân lý.

Như vậy, phàm phu dễ tu chân giáo, ngu độn dễ qua đường tắt. Giáo pháp Phật thuyết một đời, không sánh với biển đức[15] như thế. [Những ai] bỏ uế ưa tịnh[16], hành tín sai lầm, tâm mê thức ít, ác nặng chướng nhiều, [thì] cậy nhờ Như Lai đưa đi[17], mong về đường thẳng tối thắng[18]. Riêng kính vâng hành này, chỉ tôn trọng tín đây.[19]

Chao ôi! Cường duyên là hoằng thệ[20], ngàn đời không gặp; tịnh tín mà chân thật, muôn kiếp khó được. Gặp hành được tín, mừng do túc duyên.

Vậy mà, luân hồi che lấp lưới nghi, lại còn trải qua nhiều kiếp.

Quả thật, chân ngôn “nhiếp lấy không bỏ”[21], chánh pháp “siêu thế hy hữu”.[22] Đừng ngần ngại lắng nghe và suy xét.




Ngu ngốc Thích Thân Loan.[23]


Vui thay!

Thánh điển nơi Tây Phồn, Nguyệt Chi[1]

Thầy giảng ở Đông Hạ, Nhật Thành[2]

Khó gặp nay được gặp

Khó nghe đã được nghe.

Kính tín chân tông giáo hành chứng

Chỉ biết Như Lai công đức sâu.

Đây vui những gì nghe được

Và khen những gì có được.
Tiêu Đề



Kinh Đại Vô Lượng Thọ[1] là giáo nghĩa chân thật của Chân tông Tịnh độ.

  • Hiển Chân Thật Giáo
  • Hiển Chân Thật Hành
  • Hiển Chân Thật Tín
  • Hiển Chân Thật Chứng
  • Hiển Chân Phật Độ
  • Hiển Hóa Thân Độ






[1] Kinh Đại Vô Lượng Thọ là một trong những kinh điển Phật giáo Đại thừa, bộ kinh tinh túy của ba kinh Tịnh độ, gồm 2 quyển. Tên chính thức là Kinh Vô Lượng Thọ. Nội dung nói về nhân địa tu hành, quả địa thành Phật, cõi nước trang nghiêm, nhiếp thọ chúng sinh niệm Phật của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Có bản gốc tiếng Phạn, bản dịch Tạng ngữ và 5 bản dịch Hán ngữ. Có nhiều chú sớ, như Tịnh Độ Luận của Bồ-tát Thế Thân, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của Sa-môn Tuệ Viễn, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của Đại sư Cát Tạng, v.v.
Năm bản dịch Kinh Vô Lượng Thọ hiện còn là:
1. Phật thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (zh. 佛說無量清淨平等覺經; ký hiệu: T12 No. 361). Dịch giả được cho là Sa-môn Chi-lâu-cà-sấm người nước Nguyệt Thị đời Đông Hán dịch ở Lạc Dương. Nhưng Lữ Trừng ở trong “Tân biên Hán văn Đại Tạng Kinh mục lục” (Hán: 新編漢文大藏經目錄) khảo chứng xác định rằng dịch giả của Kinh này phải là Trúc Pháp Hộ thời Tây Tấn dịch.
2. Phật thuyết A Di Đà Tam-Da Tam-Phật Tát-Lâu-Phật-Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (zh. 佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經; ký hiệu: T12 No. 362 [Nos. 360, 361, 363, 364]), thông thường gọi tắt là Đại A Di Đà Kinh (zh. 大阿彌陀經). Tất cả các đề mục ghi chép Kinh điển đều thống nhất dịch giả là Ưu-bà-tắc Chi Khiêm người nước Nguyệt Thị đời nhà Ngô dịch. Tuy nhiên, các học giả Nhật Bản về sau khảo chứng và cho rằng dịch giả đích thật chính là pháp sư Chi-lâu-cà-sấm đời Đông Hán, còn Chi Khiêm chỉ là người cải định về sau .
3. Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (zh. 佛說無量壽經; ký hiệu: T12 No. 360 [Nos. 361-364]). Kinh mục đề rằng dịch giả là Sa-môn Khang Tăng Khải người Ấn Độ đời Tào Ngụy, ông đã dịch Kinh này tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, vào năm Nhâm Dần tức là niên hiệu Vĩnh Gia thứ 4 (310). Tuy nhiên, nhiều học giả sau quá trình khảo chứng nghi ngờ rằng bản dịch này không phải của Khang Tăng Khải, cho rằng có sự liên quan đến Trúc Pháp Hộ thời Đông Tấn. Bản Kinh thứ ba này có lẽ được lưu hành rộng rãi nhất, bằng chứng là vị Tổ sư đời thứ 13 của Tịnh Độ Tông là hòa thượng Thích Ấn Quang (1862 – 1940) vào năm 1933 đã chỉ định cho giáo đồ Tịnh Độ đời sau rằng bản Kinh này là tiêu chuẩn nhất. Chắc cũng vì như vậy mà bản Kinh này được chọn dịch ra nhiều ngoại ngữ nhất trong năm bản.
4. [Đại Bảo Tích Kinh] Vô Lượng Thọ Như Lai Hội (zh. “大寶積經”無量壽如來會; ký hiệu: T11 No.310 j. 17-18). Bản này do Tam Tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chí (Bodhiruci 562-727) người Nam Ấn Độ đời Đường phụng chiếu dịch. Thật ra Vô Lượng Thọ Như Lai Hội chỉ là một phẩm nằm trong “Kinh Đạo Bảo Tích” mà thôi, trong chính văn Hán ngữ được xếp nằm ở quyển 17 và 18. Hòa thượng Ngẫu Ích trong Pháp Hải quan lan (zh. 法海觀瀾) cho rằng bản dịch của Bồ-đề-lưu-chí văn phong đẹp nhất. Thời cận đại, ở Nepal, các nhà khảo cổ đã phát hiện được nguyên bản Phạn văn có nội dung giống với Kinh này.
5. Phật thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (zh. 佛說大乘無量壽莊嚴經; ký hiệu: T12 No. 363 [Nos. 360-362, 364]) do Minh Giáo đại sư Pháp Hiền đời nhà Triệu Tống phụng chiếu dịch.
(Trích Năm Dị Bản Kinh Vô Lượng Thọ, Nguyễn Thành Sang – Diệu Trai cư sĩ)

[1] Nguyệt Chi là tên gọi dân tộc Trung Á, nhưng ở đây, Tây Phồn (西蕃) và Nguyệt Chi (月支) đều chỉ cho Ấn Độ.
[2] Đông Hạ (東夏) là Trung Quốc. Nhật Thành (日域) là Nhật Bản.

[1] Đối với ngài Thân Loan, nguyện lớn (hoằng thệ) là 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, đặc biệt là lời nguyện thứ 18: “Nếu con được thành Phật, mà chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện, thì con chẳng trụ ở ngôi Chính giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chính pháp.” Nan tư nghì vãng sinh là vãng sinh theo lời nguyện thứ 18, nghĩa là không có công đức riêng lẽ mà chính là từ năng lực của Đức Phật A Di Đà.
[2] Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật A Di Đà khởi từ bi đối với chúng sinh nghèo khổ: “Ta ở vô lượng kiếp, Không làm đại thí chủ, Cứu khắp người nghèo khổ, Thề không thành Chánh giác.” Đức Phật Thích Ca dạy tôn giả A-nan: “Như Lai đem lòng đại bi vô tận, thương xót chúng sinh trong ba cõi, nên mới thị hiện ra đời, khai sáng đạo giáo, để cứu vớt quần sinh, khiến cho họ được nhiều lợi ích chân thật.” “Các vị Bồ-tát vì chúng sinh loại làm người bạn không mời, vì chúng sinh mà gánh vác trọng trách.” Nan độ hải (難度海): Biển cả khó qua là sự sinh tử lưu chuyển của chúng sinh.
[3] Đề-bà-đạt-đa (sa. Devadatta) hoặc còn được phiên là Đề-bà-đạt-đâu, Địa-bà-đạt-đâu, Địa-bà-đạt-đâu, Đế-bà-đạt-đâu, còn được gọi gọn là Điều Đạt, dịch nghĩa là "Thiên Thọ" (trời trao). Ông là em họ của Thích-ca Mâu-ni Phật, từng gia nhập vào tăng đoàn của Phật, nhưng rồi về sau ông nảy sinh nhiều ý kiến mâu thuẫn, cuối cùng li khai khỏi tăng đoàn của Phật Thích Ca để thành lập tăng đoàn khác.
Ở trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, Đề-bà-đạt-đa là kẻ đã phạm vào trọng tội Năm tội lớn (ngũ nghịch), phá hoại tăng đoàn, phản bội Phật giáo, một nhân vật phản diện tuyệt đối. Do quả báo của ác nghiệp, Đề-bà-đạt-đa đã chết do đất rút và bị tái sinh vào địa ngục A-tỳ, chịu khổ hình rất lâu dài. Nhưng trước khi chết, Đề-bà-đạt-đa đã nói lời sám hối với Phật Thích Ca, và Phật Thích Ca đã tiên tri rằng sau 100.000 đại kiếp trái đất nữa, Đề-bà-đạt-đa sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác.
Còn trong Diệu Pháp Liên Hoa kinh của Phật giáo Bắc Tông thì ghi rằng Đề-bà-đạt-đa cũng từng được các vị Phật quá khứ thụ ký cho, tương lai sẽ thành Phật. Theo kinh này thì thật ra Đề-bà-đạt-đa đến thị hiện vai nhân vật phản diện, để cho chúng sinh hiểu được toàn bộ quả báo đọa vào địa ngục do gây ra năm tội nghịch lớn. Tại Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân nói rằng mỗi vị Phật quá khứ đều có một nhân vật chống lại họ giống như Đề-bà-đạt-đa, mà Đề-bà-đạt-đa ở trong địa ngục A-tỳ như Tỳ-kheo nhập niềm vui Tam thiền.
[4] A-xà-thế (阿闍世, sa. Ajātaśatru, pi. Ajātasattu་) là vua nước Magadha (Ma-kiệt-đà 磨竭陀) – một vương quốc cổ ở phía bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Ông đã trị vì Magadha trong 8 năm cuối cùng tại thế của Phật Thích Ca Mâu Ni và 22 năm kế tiếp (khoảng 491 - 461 trước Công nguyên). Ông là người giết hại vua cha Bimbisara (Tần-bà-sa-la) và cùng Đề-bà-đạt-đa (sa., pi. devadatta) định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự Phật pháp. Dưới thời Ajatashatru, Magadha trở thành vương quốc cường thịnh nhất ở miền Bắc Ấn Độ.
[5] Kinh Quán Vô Lượng Thọ chỉ rõ quá trình phát sinh giáo pháp của Tịnh độ tông, đã được Đức Phật Thích Ca trình bày. Tương truyền rằng, hoàng hậu Vi-đề-hi (韋提希, sa. Vaidehī, pi. Vedehī), mẹ của vua A-xà-thế, bị con mình bắt hạ ngục cùng với chồng là vua Tần-bà-sa-la (sa., pi. Bimbisāra). Bà nhất tâm cầu nguyện Phật và khi Phật hiện đến, bà xin tái sinh nơi một cõi yên lành hạnh phúc. Phật dùng thần lực cho bà thấy mọi thế giới tịnh độ, cuối cùng bà chọn cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Phật dạy cho bà phép thiền định để được tái sinh nơi cõi đó. Phép thiền định này gồm 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo nghiệp lực của chúng sinh, các phép quán này có thể giúp vãng sinh vào một trong chín cấp bậc của Tịnh độ.
[6] Quyền Hóa (權化, sa. Avatàra): Hóa hiện, ứng hiện. Nghĩa là chư Phật và Bồ tát dùng sức thần thông tạm thời hóa hiện các loại thân hình, hoặc các loại vật thể, tùy theo nhu cầu, để cứu độ chúng sinh. Như bồ tát Quán thế âm hóa hiện 32 thân tướng để thu nhiếp chúng sinh, Đức Như Lai Đại Nhật của Mật giáo thì hóa hiện tướng Minh vương phẫn nộ để thức tỉnh những chúng sinh ương ngạnh, khó giáo hóa, cho đến biến hiện các vật như hóa thành, v.v. để làm lợi ích và dẫn dắt chúng sinh, như thí dụ Hóa thành trong kinh Pháp Hoa.
Sau khi Phật giáo Đại thừa hưng khởi, đã nảy sinh tín ngưỡng Pháp thân, là bản chất tuyệt đối, tin tưởng rằng Pháp thân dùng Phật, Bồ-tát hoặc các loại hình thái khác mà xuất hiện ra thế gian để cứu độ chúng sinh. Trường hợp nổi bật nhất là tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm. Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng và các nước Phật giáo Bắc truyền nói chung, đều tin rằng Bồ-tát Quán Thế Âm hóa hiện các loại hình tướng, như 32 thân ứng hóa, để cứu khổ chúng sinh. Đây là tín ngưỡng phổ cập nhất trong dân gian. Chẳng hạn như dân tộc Tây Tạng tin rằng đất nước Tây tạng là trú xứ của Bồ-tát Quán Thế Âm và các vị Đạt Lai Lạt Ma chính là hóa thân của Ngài. Ở Nhật Bản, quyền hóa được xem là đồng nghĩa với ứng hiện, quyền hiện, quyền giả, hóa hiện, thị hiện. Tư tưởng này là sự kết hợp giữa tín ngưỡng thần cách của dân tộc Nhật bản và đối tượng tín ngưỡng của Phật giáo, gọi là thuyết Bản địa thùy tích, như Đại thần Thiên chiếu, Đại thần Bát phan chính là Thùy tích của Như Lai Đại Nhật và Bồ-tát Quán Thế Âm.
[7] Thế Hùng 世雄: Danh từ tôn xưng Đức Phật, vì Phật có sức đại định và hùng mạnh, chế phục và dứt trừ hết sạch tất cả phiền não. Kinh Vô Lượng Thọ, quyển thượng (Đại 12, 266c04) nói: “Ngày nay, bậc Thế Hùng trụ nơi Phật đã an trụ.” Phẩm Phương Tiện, kinh Pháp Hoa (Đại 9, 5c15) nói: “Không thể suy lường được bậc Thế hùng.”
[8] Nhất-xiển-đề (一闡底, sa. Icchāntika): Có khi được gọi là Nhất-xiển-để-kha (一闡底柯), có nghĩa là nhiều tham dục, cũng gọi là tham vui sinh tử, không cầu giải thoát nên không tín nhạo với Chánh pháp. Những kẻ phỉ báng các giáo lý dành cho Bồ-tát, nói rằng các giáo lý này không phù hợp với kinh điển, giới luật, và giáo lý giải thoát, gọi là Nhất-xiển-đề. Bởi vì sự phỉ báng này mà họ gạt bỏ tất cả các thiện căn và không nhập Niết-bàn.
[9] Gia hiệu (嘉號): Gia, là thiện, là mỹ. Danh hiệu mà tận thiện, tận mỹ, gọi là gia hiệu. Gia hiệu ở đây là “Nam mô A Di Đà Phật”.
[10] Danh hiệu A Di Đà Phật là danh hiệu của vạn hạnh ở nhân vị và vạn đức ở quả vị của Bồ-tát Pháp Tạng, bao gồm lục độ vạn hạnh, vô lượng vô biên thiện căn công đức. Đây là danh hiệu của vạn thiện, vạn đức, viên mãn vô khuyết, gọi đó là viên.
Bao nhiêu công đức ở trong Phật pháp đều là vạn thiện vạn đức. Như những viên đá nhỏ trong cái túi, không phải tất cả đều khác nhau, mà một là tất cả, tất cả là một, dung thông vô ngại thành một danh hiệu. Vì vậy, vạn đức ngay đó là một danh hiệu, và một danh hiệu ngay đó là vạn đức, một hoặc nhiều đều tự tại, vô ngại, gọi đó là dung.
[11] Chí đức (至德): Nghĩa là công đức tột cùng. Đạt đến tột cùng của công đức, gọi là chí đức. Giống như đạt đến tột cùng của sự tôn quý, gọi là chí tôn.
[12] Có hai mặt của cái ác: một là, có sự phân biệt giữa thiện và ác trong con người; hai là, sự tồn tại tội lỗi của con người do nghiệp lực thao túng, những ham muốn trần tục của con người, chúng được soi sáng bởi tuệ nhãn của Như Lai, tức con người được chiếu sáng bởi tấm gương của cõi Tịnh độ. Đức, là đức hải, đức bản, đức hiệu, v.v. Ác đối lập với đức, đó là thế giới hiện tượng riêng biệt (Ta Bà) đối lập với thế giới của bản chất chân thực (Cực Lạc).
[13] Tam tín (三信): Cũng gọi Tam tâm, Tam tín tâm, là giáo nghĩa của Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, chỉ cho Chí tâm, Tín nhạo tâm, Dục sinh tâm do Đức Phật A Di Đà thệ nguyện trong điều nguyện thứ 18 của Ngài, được gọi là Đại kinh tam tâm (大經三心). Tịnh độ Chân tông Nhật bản chủ trương bản nguyện của Phật là cứu độ những người tội ác sâu nặng, cho nên nếu chúng ta bỏ tâm tự lực mà tin sâu sức cứu độ của Phật thì chắc chắn sẽ được cứu. Nếu người nghe ý nghĩa của bản nguyện này (nguyện thứ 18) mà tâm không sinh một mảy may nghi hoặc thì gọi là Tín nhạo (tin ưa). Sự tín nhạo này là do Chí tâm của Phật ban cho, do đó bản chất của niềm tin ưa ấy là chân thực không hư dối. Lòng tin này chính là Dục sinh tâm mà Đức Phật A Di Đà muốn cho chúng ta phát tâm sinh về cõi Tịnh độ của Ngài. Tổ của Tịnh độ Chân tông Nhật bản là ngài Thân Loan chủ trương Tam tín, tức là Tín tâm, biểu thị đức tánh mà Phật A Di Đà ban cho chúng ta, còn Nhất tâm (Chí tâm) thì biểu thị căn bản là chúng ta có thể được cứu độ. Tín tâm này chính là bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, muốn cứu độ tất cả chúng sinh vãng sinh báo độ, chính là tâm tin vào pháp tha lực. Tuy nhiên, pháp này cao siêu, người ở “giai vị tu nhân” khó mà dùng lòng tin mà đi vào, phải lấy tha lực để mà tín phục, nên gọi là nan tín. Nếu từ lập trường tự lực thì tín tâm này khó có thể vào được, nhưng một khi đã vào được rồi thì nó trở nên cứng chắc như kim cương, không gì có thể phá hoại hay làm cho loạn động, cho nên gọi là Nan tín kim cương tín nhạo (難信金剛信樂). Lòng tin ưa này là do sức cứu độ sâu rộng của Phật A Di Đà ban cho chúng ta nên cũng gọi là Lợi tha thâm quảng tín nhạo (利他深廣信樂). Theo ngài Thân Loan, ba tâm này là một tâm, và tâm ấy là kim cương tâm.
[14] Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao (淨土文類聚鈔), No. 2647, tr. 644a05, có ghi: “Vạn hạnh tròn đủ gia hiệu (Nam mô A Di Đà Phật) tiêu chướng, trừ nghi.”
[15] Hải đức (德海): Công đức sâu rộng như biển cả. Kinh Tối Thắng Vương, quyển 10, phẩm Bồ Tát Tán Dương: “Chúng con ước lược tán dương Phật đức chỉ là một giọt trong biển đức ấy”.
[16] Trong Hai Thời Công Phu, Hòa thượng Thích Trí Quang viết: “Cực lạc là tịnh độ của đức Di đà. Sự sinh tịnh độ ấy có 2 mặt. Thứ nhất, sinh Cực lạc là sinh quốc độ ấy, ở về hướng tây quốc độ Sa bà này. Thứ hai, sinh Cực lạc là sinh tịnh độ ấy ngay nơi quốc độ này. Riêng mặt thứ hai, Di đà đại bản nói, "Có người vốn nguyện độ sinh mau chóng, thì đem công đức của cái nguyện ấy mà tự trang bị, nhập vào thế giới sinh tử, tự tại thuyết pháp giáo hóa. A di đà phật dùng thần lực làm cho người này giáo hóa chúng sinh phát sinh chánh tín cho đến thành tựu bồ đề, nhưng từ đầu đến cuối, người này không bị cái khổ của các đường dữ ..., dẫu sống trong ngũ trược ác thế mà không khác gì sống trong thế giới của người ấy là Cực lạc quốc độ (Chính 12/337). Thông thường pháp môn Tịnh độ có 2 chữ hân yểm: chán Sa bà, thích Cực lạc. Nhưng chán chứ không phải bỏ. Nên người tu pháp môn tịnh độ Cực lạc thì hoặc sinh Cực lạc rồi trở lại hóa độ Sa bà trước hết, hoặc sinh Cực lạc ngay nơi Sa bà mà hóa độ trước, mặt nào cái nguyện sinh Cực lạc cũng là vì thế giới Sa bà này, nên tôn giả A nan đã nói "ngũ trược ác thế thệ tiên nhập". Bản kinh Di đà này nói rõ, gọn, và khá độc đáo, về cả 2 mặt của sự sinh Cực lạc, dẫu rằng nghe như chỉ nói mặt thứ nhất mà thôi.”
[17] Thích Ca Như Lai ở uế độ Ta Bà khuyến phát chúng sinh cầu sinh về tịnh độ của Phật A Di Đà. Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (Đại 37, No. 1753, tr. 246b13) ghi: “Ngưỡng mong Đức Thích Ca ở phương này phát khiển (đưa đi), Đức Di Đà ở nước kia liển lai nghinh, kia mời đây tiễn, há không đi ư?”
[18] Trực đạo (直道): đường thẳng, con đường không quanh co, thẳng đến Niết-bàn. Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 1, tr.465b14: “Nhị không (sanh không và pháp không) chính là trực đạo xuất thế.”
[19] Hành, là Nam mô A Di Đà Phật. Tín, là Kim cương tín tâm mà Như Lai hồi hướng. Hành và tín là chánh nhân của sự vãng sinh. Câu “Nam mô A Di Đà Phật” (hành) hồi chuyển lưu nhập trong tâm của chúng sinh, thì đó là đại tín. Cho nên nói, “hành tức là tín, tín tức là hành”.
[20] Nguyện lực rộng lớn của Đức Phật A Di Đà là tăng thượng duyên mạnh mẽ cho tất cả chúng sinh có được tín tâm vãng sinh Cực Lạc, gọi là cường duyên.
[21] Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật ghi: “Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót.” Chân ngôn, là lời nói chắc thật của Đức Phật A Di Đà.
[22] Chánh pháp chỉ cho bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Thân Loan Thánh nhân trước đây luôn hoài nghi về bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, nhưng bây giờ nghi ngờ của ông đã được tiêu trừ. Chính như bản nguyện của Đức Phật A Di Đà đã nói, Thân Loan Thánh nhân đã đạt được hạnh phúc tuyệt đối, nên lớn tiếng hô: "Lời hứa của Di Đà là thật!" Hơn nữa, Thân Loan Thánh nhân kêu gọi "Đừng ngần ngại lắng nghe và suy nghĩ về điều đó", và hy vọng rằng mọi người sẽ được đưa lên con thuyền Đại bi nguyện của Đức Phật A Di Đà càng sớm càng tốt. Và bước lên con thuyền Đại bi nguyện chỉ có một con đường là lắng nghe.
[23] Ngu ngốc (愚禿): Biệt danh của Thân Loan, ông tự nhận mình là “phi Tăng phi tục”. Sau khi Thân Loan di chuyển về phía Bắc, ông ấy đã sử dụng cái tên "Ngu ngốc Thích Thân Loan" (愚禿釋親鸞). Ngu, là từ khiêm xưng; ngốc, nghĩa là cạo trọc. Trung A-hàm, Kinh Bệ-bà-lăng-kỳ, số 63: “Này anh Nan-đề-bà-la, tôi không muốn thấy sa-môn trọc đầu.” Ban đầu đây là một cái tên châm biếm vị sư cạo trọc đầu của những ngoại đạo Ấn Độ cổ đại; về sau, nó đã được sử dụng trong Phật giáo, các nhà sư phạm giới bị châm biếm là ngu ngốc, ngốc cư sĩ. Kinh Đại Niết-bàn, Bắc bản, quyển 3 (Đại 12, 383 hạ): “Những người phạm giới và không hộ pháp được gọi là cư sĩ trọc đầu.” Sau thời Trung cổ ở Nhật Bản, các nhà sư thường tự xưng là ngu ngốc, và nó trở thành một trong những khiêm xưng của Tăng lữ, giống như bần đạo, chuyết tăng.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Q

quynhat

Guest

Nam Mô Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai
 

Bantoioi

Active Member

ĐÃ TIẾN CÚNG
Reputation: 65%
Tham gia
16/3/20
Bài viết
469
Điểm tương tác
142
Điểm
43
BUÔNG BỎ --> 10 KIẾT SỬ TRÓI BUỘC CHÚNG SANH TRONG TAM GIỚI --> TỊNH ĐỘ

1/ Thân kiến nhận lầm ngũ uẩn là ta, của ta, tự ngã của ta
2/ Hoài nghi là tâm chưa thực chứng được Thánh đế
3/ Giới cấm thủ là còn chấp vào các hình thức chế định bên ngoài.
4/ Dục ái là tâm tham đắm thuận cảnh trong cõi Dục
5/ Sân hận là tâm đối kháng với nghịch cảnh trong cõi Dục.

6/ Sắc ái là tâm dính mắc trong thiền định cõi Hữu Sắc
7) Vô Sắc ái là tâm dính mắc trong thiền định cõi Vô Sắc
8/ Mạn vi tế là tâm còn so sánh hơn hay thua với bậc Thánh thấp hơn hoặc cao hơn
9/ Trạo cử vi tế là tâm còn suy nghĩ tính toán đến lý tưởng chứng đắc A-la-hán
10/ Vô minh vi tế là tâm còn chưa thông suốt hết 5 kiết sử cuối cùng để thực chứng A-la-hán.

Cung kính.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top