Bài 11 .- 1. Vi Tế Tương Dung An Vị Môn. - 1a). Tích Lữ Đồng Tân đầu Phật.
Ở Cao Tăng truyện có sự tích Sư Huỳnh Long, nói ý nghĩa này:
Nguyên ông Lữ Đồng Tân là người ở xứ Kinh Triệu, đời nhà Đường, hiệu là Thuần Dương Tử.
.......Ban sơ, ông học Nho, đã thi ba lần không đậu. Sẵn dịp ông gặp Ngài Hớn Chung Ly, .......Ngài dẫn ông về non Chung Nam ở trọn bảy năm và truyền cho đủ các phép Tiên thuật.
Một bữa kia, ông Lữ Đồng Tân muốn đi đến cả miền thế gian mà độ người, bèn vào xin phép thầy. Ngài Hớn Chung Ly bằng lòng, lại lấy gươm báu trao cho ông và dạy rằng: “Gươm này của thầy ta là Đông Họa Đế Quân truyền lại cho ta. Muốn sát hại người nào thì phải biết trước tên họ và chỗ ở của người ấy, rồi niệm một câu chú, gươm đó hóa ra rồng xanh bay đến chỗ đó mà chém đầu. Nay ta giao cho ngươi đem theo mà hộ thân, song ngươi phải nhớ ba điều này: Một là đừng chọc ghẹo thầy chùa, hai là đừng để mất gươm báu này và ba là ngươi đi mãn ba năm rồi phải trở về đây. Nếu ngươi cãi lời thì ta không dung thứ”.
........Ông Lữ Đồng Tân phụng mạng, lạy thầy mà lãnh gươm, rồi từ từ hạ san.
Ông đi đủ các xứ, đã mãn kỳ ba năm mà không độ được người nào. Một bữa kia, ông đi ngang qua xứ Huỳnh Long, nghe nói tại nhà quan Phó Công tên là Vĩnh Thiện có thiết một cuộc chay để làm lễ trai tăng cúng dường các nhà sư.
.......Ông bèn vào chơi và muốn dự lễ trai ấy, nhưng ông Phó Công nói rằng: “Ta cúng dường đệ tử của Phật, chớ không phải cúng dường đệ tử của Tiên. Vậy ngươi không được phép vào dự tiệc này!”.
Ông Lữ Đồng Tân bèn hỏi: “Phật nhà ông có đạo đức gì mà ông trọng như thế?”.
Ông Phó Công trả lời: “Thôi, đừng nói chi đến chuyện các Phật sống thuở trước! Hiện nay, có hòa thượng Huệ Nam ở chùa Huỳnh Long thường thuyết pháp độ người được mấy chục ngàn rồi. Còn đạo Tiên của ngươi lâu nay có độ được người nào chưa?”.
.......Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, lấy làm thẹn, quên lời thầy căn dặn, liền đi đến núi Huỳnh Long quyết tìm hòa thượng Huệ Nam mà đấu phép.
.......Khi đến nơi, ông vừa gặp sư cụ đang lên nhà giảng đường. Ông bèn lén xen vào hàng đại chúng, ngờ đâu hòa thượng biết trước, bèn nói rằng: “Hôm nay ta không thuyết pháp! Ta có một lời chuyển ngữ hỏi đại chúng …”.
.......Sư cụ vừa mới nói tới đó thì thầy một người (tức là ông Lữ Đồng Tân) ở trong hàng đại chúng bước ra, cười rồi hỏi rằng: “Hòa thượng có câu chi, xin nói mau mau!”.
Sư cụ nói tiếp:
Lão tăng năm nay lớn gan,
Đóng trai dưới núi rồng vàng.
Tay áo tuốt ra roi sắt,
Đánh tan Thế Giới ba ngàn.
.......Ông Lữ Đồng Tân vỗ tay cười và đáp lại: “Hòa thượng năm trước chẳng lớn gan, năm ngoái chẳng lớn gan, sang năm chẳng lớn gan, chỉ có năm nay lớn gan. Xin hòa thượng cho phép tôi trả lời:
Gan ta lúc này to đại,
Chuyên sự hơn thua cướp trại.
Giật quách roi sắt trong tay,
Để lại ba ngàn Thế Giới.
........Ông Lữ Đồng Tân bèn nói tiếp: “Bốn câu của hòa thượng tầm thường, không lạ chi! Tôi có một lời chuyển ngữ này, như hòa thượng trả lời được thì chém tôi, còn như không trả lời được thì tôi chém hòa thuợng”.
Sư cụ bằng lòng, rồi ông Lữ Đồng Tân đọc bài kệ như sau:
Thiết vàng cày đất trỉa kim tiền,
Thằng đá con con xỏ chuỗi liên.
Hột lúa chứa xong bầu thế giới,
Nửa nồi nấu đủ cuộc sơn xuyên
Mấy ông Lão Tử khi thùy địa,
Tay của Hồ tăng lúc chỉ thiên.
Huyền ấy chớ rằng chưa hết lực,
Trong huyền, huyền ấy lại không huyền.
Hòa thượng Huệ Nam liền đáp lại:
Sẵn lò hồng để trĩa kim tiền,
Mãnh sáng kia, ai xỏ đặng liền.
Hột lúa hóa đặng ba ngàn giới,
Biển lớn thâu về đủ bách xuyên.
Tháng hạ đầu lò phun mãnh hỏa,
Trời đông đáy nước nạp lương thiên.
Chân như ai tỏ trong thiền ấy,
Trong thiền, thiền ấy có sanh thiền.
Ông Lữ Đồng Tân nghe mấy câu kệ, biết mình đã thua, nhưng ông còn gượng hỏi: “Hòa thượng nói rằng hột lúa hóa ra ba ngàn thế giới, hòa thượng thua rồi!”.
.......Sư cụ bảo rằng: “Ngươi muốn điều chi thì lại gần đây mà nói, chớ ta đã điếc mà ngươi còn đứng xa nói thì ta nghe không đặng”.
......Ông Lữ Đồng Tân tưởng thật, bèn bước lại gần bên, ngờ đâu thình lình sư cụ nhanh tay chụp đầu ông níu lại mà hỏi: “Ngươi nói rằng một hột lúa chẳng hóa đặng ba ngàn thế giới thì ngoài cái nồi nửa cân của ngươi còn nấu những vật gì?”.
.......Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy, bèn nghẹn họng, không đáp lại được.
Sư cụ liền hỏi tiếp: “Nếu y theo lời giao ước của ngươi, ta phải chém đầu ngươi. Nhưng vì đạo Phật của ta cấm sát sanh nên ta tha cho ngươi đó”.
.......Nói rồi, sư cụ lấy cái giải xích mà đánh trên đầu ông Lữ Đồng Tân một cái, làm cho ông mắc cỡ đỏ mặt, liền lui ra ngoài, nghênh mặt lại ngó trộm sư cụ, rồi cười ba tiếng, lắc đầu ba cái, vỗ tay ba hiệp và mang gươm đi thẳng vào núi.
........Đến chỗ vắng vẻ không người, ông bèn rút gươm báu ra, họa bùa niệm chú, rồi dặn gươm bay tới chùa Huỳnh Long mà giết hòa thượng Huệ Nam. Dặn dò xong, ông bèn hét lên một tiếng, gươm ấy liền hóa ra con rồng xanh bay thẳng đến nhà phương trượng của sư cụ.
.........Khi ấy, hòa thượng Huệ Nam thấy con rồng xanh bay liệng trên hư không, liền lấy ngón tay chỉ lên, tức thì con rồng xanh bèn hóa lại gươm, rồi rơi xuống cắm dưới ao bùn.
........Ông Lữ Đồng Tân ngồi trên núi trông đợi hơn nửa ngày mà không thấy con rồng xanh trở về, bèn niệm chú thâu gươm lại mà không thấy gì!
Lúc ấy, hồn vía của ông sảng lạc, không biết tính sao, phải liều mạng chạy xuống chùa Huỳnh Long để tìm gươm báu.
.........Đến nơi, ông gặp Ngài Huệ Nam và hỏi rằng: “Xin hòa thượng trả gươm lại cho tôi”.
Sư cụ đáp: “Ai mượn gươm của ngươi mà ngươi đến đòi? Nó cắm dưới ao bùn kia, ngươi ra đó mà lấy!”.
Ông Lữ Đồng Tân nghe nói, liền chạy ra ao, cúi xuống nắm gươm, ráng hết sức bình sinh mà nhổ lên, nhưng gươm chẳng nhúc nhích!
......Sư cụ thấy vậy, bèn nói: “Ngươi muốn giết ta, ta chẳng trả gươm ấy lại cho ngươi. Ngươi có giỏi thì tự nhổ lấy!”.
Ông Lữ Đồng Tân bèn năn nỉ sư cụ: “Hòa thượng dùng phép thuật mà cắm trụ gươm ấy rồi, tôi làm sao nhổ lên nổi! Vậy xin hòa thượng có lòng từ bi, muốn trả gươm cho tôi thì xin nhổ lên giùm!”.
.......Sư cụ bèn đáp: “Ta có bốn câu kệ, nếu ngươi hiểu được thì ta trả gươm lại cho ngươi”.
Nói rồi, Ngài lấy một tờ giấy, vẽ một cái vòng. Trong vòng ấy, có chấm một điểm, rồi dưới cái vòng lại đề bốn câu kệ như sau:
Đầu gươm có đơn hẳn,
Lòng đơn sẵn gươm rồi.
Bằng ai hiểu nhơn ấy,
Ắt thoát khỏi luân hồi.
.......Ông Lữ Đồng Tân xem đi xem lại một hồi lâu mà không hiểu chi cả. Hòa thượng thấy vậy, bèn niệm chú rằng: “Án Hộ Pháp thần linh tốc tốc hiện hình”. Niệm xong, ông Hộ Pháp hiện đến. Sư cụ bèn bảo rằng: “Ngài phải đem tên này giam cầm trong núi Khổn Ma Nham, mỗi ngày chỉ cho ăn một cái bánh thôi. Chừng nào nó tỏ ngộ được thiền cơ, Ngài dẫn nó tới đây cho ta hỏi”.
........Ông Hộ Pháp phụng mạng, bảo ông Lữ Đồng Tân đi, ông dùng dằng không chịu đi. Ông Hộ Pháp bèn nói lớn rằng: “Đi mau, kẻo cái bảo xử của ta đây nặng hơn tám vạn bốn ngàn cân xán xuống một cái thì thịt xương ngươi nát như bùn!”.
Ông Lữ Đồng Tân nghe nói thất kinh hồn vía, bèn riu ríu đi theo, không dám cãi nữa!
Một hôm, nhân lúc ông Hộ Pháp đi khỏi, ông Lữ Đồng Tân ở trong hang đá bèn tự nghĩ rằng: “Khi mình hạ san, thầy có căn dặn đừng có chọc ghẹo thầy chùa. Bởi vì mình dại, không nghe lời thầy, cho nên mới bị nạn như vậy! Còn ông hòa thượng nói rằng chừng nào mình tỏ ngộ được thiền cơ thì mới tha tội cho mình, mà biết đời kiếp nào mình mới tỏ ngộ được thiền cơ? Cổ nhân nói rằng: Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng. Ở đây khổ cực lắm, chịu không nổi! Vậy mình tính việc trốn đi thì tiện hơn”.
Ông Lữ Đồng Tân tự nghĩ như vậy, rồi lén bò ra cửa hang, cởi mây bay về núi Chung Nam, vào quỳ trước mặt thầy mà thọ tội.
Ngài Hớn Chung Ly thấy ông trở về mà không có gươm báu của mình, nghe ông kể hết đầu đuôi tự sự, Ngài nổi giận mà mắng rằng: “Ta đã dặn dò ba chuyện mà ngươi đều phạm cả, lại còn bị người ta đánh u đầu, làm xấu hổ cho đạo. Ngươi còn mặt mũi nào mà về đây nữa?”.
Ông Lữ Đồng Tân cứ lạy hoài và thưa rằng: “Tội của con đã đáng rồi! Trăm lạy thầy dung thứ cho con và xin thầy dùng phương pháp chi mà thâu gươm báu về, chớ ông hòa thượng đã cắm dưới bùn rồi, con đọc chú thâu về không được!”.
Ngài Hớn Chung Ly quở mắng một hồi lâu, rồi viết một bức thư trao cho ông Lữ Đồng Tân, bảo đem đến chùa Huỳnh Long mà đưa cho hòa thượng Huệ Nam.
Sư cụ tiếp lấy thư và xé ra xem, thấy có vẽ một cái vòng, ở trên vòng thì chấm một điểm, ở dưới vòng thì có đề bốn câu kệ như sau:
Đơn vẫn là gươm,
Đặng đơn biết gươm.
Gươm vẫn là đơn,
Đặng gươm biết đơn.
Sư cụ xem thơ xong, bèn nói với ông Lữ Đồng Tân: “Ta vì tưởng thầy của ngươi nên mới trả gươm ấy. Thôi, ngươi ra lấy đi!”.
Ông Lữ Đồng Tân bước ra ao mà nhổ gươm, thấy nhẹ bổng, cầm gươm trở vào lạy sư cụ và xin cho biết cái lý huyền diệu trong thơ.
Sư cụ hỏi: “Ngươi có chịu quy y Tam Bảo, ta sẽ truyền cho”.
Ông Lữ Đồng Tân liền đáp: “Tôi xin tình nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và nguyện làm đệ tử của hòa thượng”.
Sư cụ bảo ông quỳ xuống và hiệp chương tịnh tâm mà nghe mấy lời này:
“Hôm trước, ngươi nói rằng một hột lúa đựng cả thế giới, ấy là nhỏ mà hàm lớn, nên ngoài cái vòng có một chấm. Còn ta thì nói rằng một hột lúa hóa ba ngàn thế giới, ấy là lớn mà hàm nhỏ, nên trong cái vòng có một chấm”.
Ông Lữ Đồng Tân nghe xong, liền hiểu được cái nhân tánh, tức thì làm một bài kệ và trình cho sư cụ xem:
Quăng bầu, ném dây, đập luôn đơn,
Cái thuốc trường sanh cũng chán lờn.
Từ gặp Huỳnh Long truyền phép Phật,
Mới hay ngày trước lỗi đường chân. (hết trích)
* Tóm lượt nghĩa Vi Tế Tương Dung An Vị Môn: "Vi Tế" là nói cái nhỏ (như hạt cải).- tuy nhiên nhỏ có thể dung nạp cái lớn (như núi tu Di).- Nên gọi là "Tương Dung".
kinh văn: Này Ca Diếp ! Nếu một Bồ tát trụ Đại thừa Đại Niết Bàn có thể đem núi Tu Di cao rộng để vào trong vỏ hạt cải, vậy mà các chủng loại sinh vật ở trong núi không hề hay biết cũng chẳng có bị chật hẹp hay sự khác lạ nào. Chỉ có người trình độ tương đương mới thấy biết việc làm của vị Bồ tát kia và cũng biết khi nào đem về đặt lại chỗ cũ.
Kinh nói: "Hết thảy thế giới nhập vào một hạt bụi nhỏ”. Dù vậy thế giới không bị thu hẹp lại, cũng không bị tán vụn ra. Đó là cái nhỏ chứa đựng cái lớn. Nhưng không phải nới rộng cái nhỏ để sức chứa, cũng thâu hẹp cái lớn lại cho vừa sức chứa. Trật tự vạn hữu vẫn như vậy. Bao dung lẫn nhau mà không tạp loạn.(hết trích)
Đây là Diệu lý dùng Môn An vị tương dung vi tế, ngay nơi tướng mà nói. Như một hạt cải (hay hạt bụi) là tướng nhỏ. Núi Tu Di là tướng lớn.- Nói "tướng lớn" là Núi Tu Di, hay "tướng nhỏ" là hạt cải.- là do sự thấy biết lầm chấp do vô minh nên Ý Thức phân biệt mà sanh ra "cái thấy sai biệt". Nếu có thể "quán thật tướng", thì thật tướng các pháp là vô tướng.- Vì Lớn và Nhỏ cùng là Vô Tướng nên Tương Dung.
* dùng Lý Vô Tướng này mà quán Vũ Trụ thì thấy ra:
- Pháp giới Thật Tướng là Vô Tướng.- Đó là BẢN THỂ CHÂN NHƯ ( thấy Lý pháp giới).
- Các tướng do duyên giả hợp chỉ là GIẢ TƯỚNG HUYỄN HIỆN ( thấy Sự pháp giới).
TS. Từ Đạo Hạnh rằng:
CÓ thì có tự mãi mai, (Sự Pháp Giới)
KHÔNG thì cả Thế Gian (Vũ Trụ) này cũng Không. (Lý pháp giới)
Ai hay "Bóng Nguyệt lòng sông",
Chấp chi có có, không không làm gì !
* Bởi vậy. Cái nhìn của nhà Phật.- Vũ trụ này là NHƯ- HUYỄN.- DO TÂM TẠO