4.- MỤC ĐÍCH CỦA THAM THIỀN.
Mục đích của Tham thiền là gì? Là muốn minh tâm kiến tánh. Cái quả minh tâm kiến tánh như thế nào? Là thâu triệt bổn nguyên, vượt ngoài tam giới, liễu thoát sanh tử, chẳng thọ hậu hữu, độ mình độ người, phổ lợi chúng sanh. Ấy là mục đích cuối cùng của loài người.
Nhưng muốn minh tâm kiến tánh, trước tiên phải rõ thế nào là tâm tánh. Tâm tánh là bổn nguyên tự tánh của chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh, học gọi CHƠN NHƯ, NHƯ LAI. Thiền Tông gọi là Bổn lai diện mục, Thanh tịnh Pháp thân; Duy Thức Tông gọi là Tự thân tịnh độ, Thường tịch quang tịnh độ; Tam Luận Tông gọi là Thật tướng Bát Nhã, Luật Tông gọi là Bổn nguyên tự tánh, Kim Cang bửu giới. Thiên thai tông gọi là Tự tánh thật tướng, Hoa Nghiêm Tông gọi là Nhất chơn pháp giới; Mật Tông gọi là Tịnh Bồ đề tâm ... danh hiệu dù nhiều, bản thể chỉ một. Duy Thức Luận nói: “Chơn là chơn thật, tỏ chẳng hư vọng. Như là như thường, tỏ chẳng biến đổi. Nghĩa là cái chơn thật này, nơi tất cả pháp thường như bản tánh, nên gọi Chơn Như”. Kinh Duy Ma Cật nói “Như là chẳng hai chẳng khác”. Kinh Kim Cang nói “Như Lai là chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu”.
Theo những kinh luận kể trên, nói “Tâm tánh” là chỉ ngay Chơn tâm tự tánh, chẳng phải tâm tánh của người đời. Người đời nói “tâm” ấy là vọng tâm, tức là vô minh, nay muốn minh tâm cái tâm chơn thật cùng tột, nên gọi là CHƠN NHƯ.
Kinh Hoa Nghiêm phát huy cái lý của Chơn như Phật tánh rất tường tận, trong phẩm Thập
Hồi Hướng nói: “Siêng tu tất cả pháp xuất thế gian, đối với thế gian vô thủ vô y, đối với diệu đạo chánh kiến kiên cố, thấu pháp chơn thật, lìa chư vọng kiến, ví như chơn như, khắp tất cả nơi, chẳng có ngằn mé; ví như chơn như, chơn thật làm tánh, ví như chơn như, thường giữ bản tánh, chẳng có biến đổi, ví như chơn như, nơi tất cả pháp, vô tánh làm tánh ... (còn rất nhiều, nay lược bỏ chẳng kể xiết).
Đây là cảnh giới chơn như Phật tánh do Phật với Tổ đích thân chứng nhập, rồi dùng ngôn ngữ phương tiện để khai thị cho chúng sanh, chúng sanh nghe rồi, hoặc ngơ ngác chẳng hiểu nói gì, hoặc biết được đại ý nhưng chẳng thể cho là minh tâm kiến tánh; nghe rồi được hiểu gọi là giải ngộ, cần phải tự tham tự chứng, đích thân thấy rõ, mới có thể gọi là chứng ngộ, sở chứng với Phật chẳng khác, nên gọi kiến tánh thành Phật.
Thường có kẻ thông minh lanh lợi, xem nhiều kinh điển mà được giải ngộ, giảng giải cho người khác nghe, biện tài như suối chảy mà thật thì chẳng biết chơn như Phật tánh là vật gì. Cũng như người chưa từng đến thắng cảnh Tây Hồ, chỉ xem du ký của người khác, lại diễn tả cho người khác nghe giống như đã từng đi qua, thật thì chưa từng đích thân thấy thắng cảnh ấy, nếu gặp người đã từng du lịch Tây Hồ, hỏi về chơn cảnh ấy thì ngơ ngác chẳng thể trả lời, vì thế nên Thiền Tông chủ trương chỉ thẳng tâm người, chẳng lập văn tự là vậy.
Nên biết, muốn minh tâm kiến tánh toàn nhờ chơn thực tham chứng, người khác chẳng thể thay thế được, chẳng quí đa văn, chỉ quí thấy ngay, từ ngoài cửa vào chẳng phải gia bửu, lời nói của người khác nói chẳng dính dáng với mình.
Xưa kia Hương Nghiêm Hòa Thượng ở trong hội Bá Trượng, thông minh lanh lợi, hỏi một đáp mười, bị Qui Sơn hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh nói thử một câu xem!”, liền ngơ ngác chẳng đáp được. Về liêu phòng tìm ra hết thảy văn tự xem qua, muốn tìm một câu để trả lời trọn chẳng thể được, than rằng: “Bánh vẽ chẳng thể cứu đói”, cứ xin Qui Sơn nói trắng ra, Qui Sơn nói: “Ta nói cho ngươi thì ngươi về sau sẽ mắng ta; ta nói là việc của ta, chẳng dính đáng với ngươi!”. Hương Nghiêm bèn lấy tất cả ngôn giáo đốt bỏ, thẳng qua Nam Dương, nghỉ tại di tích của Huệ Trung Quốc Sư, tham cứu lâu ngày, một hôm nhổ cỏ, ngẫu nhiên quăng miểng trúng nhằm cây tre phát ra tiếng, hoát nhiên tỉnh ngộ, liền về tắm gội đốt nhang, hướng về phía Qui Sơn lễ bái rằng: “Hòa Thượng đại từ, ân hơn cha mẹ, nếu lúc đó vì con nói trắng ra thì đâu có việc kiến tánh hôm nay”.
Do đó mà xem, Thiền Tông chẳng lập văn tự, chỉ chú trọng tham chứng, mà được tôn là phương thuốc hay của minh tâm kiến tánh, pháp Thiền của Thiền Tông được phổ biến khắc Trung Quốc, đâu phải việc ngẫu nhiên.
5.- CÁC LOẠI THIỀN.
THIỀN là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật, các Tông Đại, Tiểu thừa đều có pháp Thiền chuyên môn, ngoại đạo tà sư cũng mỗi mỗi kiến lập pháp thiền của họ, tà chánh lẫn lộn, tên gọi rất nhiều, cho nên người tu tập pháp Thiền của Tông môn, trước tiên phải hiểu rõ pháp Thiền của các Tông và phân biệt Tà, Chánh, Chơn, Ngụy, rồi mới chẳng bị lầm vào lối tẻ, chẳng phân biệt được trắng đen. Người xưa vì đáp sai một chuyển ngữ, đọa thân chồn năm trăm đời, hành giả nên cẩn thận! Phàm phá ngã chấp là chánh, chấp ngã là tà, lối tu theo ngã chấp là ngoại đạo; tu đúng theo Tông chỉ là chơn, không đúng Tông chỉ là ngụy, nay đại khái đưa ra các loại Thiền như sau:
1).- TỐI THƯỢNG THỪA THIỀN:
Hành giả sau khi chứng ngộ, trong tâm thất thông bát đạt, tùy tiện đề ra một pháp đều là Phật pháp, nói nghịch nói xuôi chẳng lìa chơn như, tất cả từ chơn tâm mình chảy ra, che thiên ngập địa, từ Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cho đến Tổ Sư hét, gậy, chửi mắng, đều là trực chỉ chơn như, trọn mâm đem ra, kẻ hoát nhiên kiến tánh thì chẳng cách tơ hào, nếu còn do dự bèn cách xa muôn dặm, ấy là Tối thượng thừa Thiền.
2).- NHƯ LAI THIỀN VỚI TỔ SƯ THIỀN:
Như Lai Thiền là Thiền giáo môn, chứng nhập từng bực như: Thập tín, Thập trụ, cho đến Thập địa, Đẳng giác, còn có thể giải thích: Tổ Sư Thiền thì không có thứ bậc, thẳng vào bản thể Phật tánh chẳng thể giải thích. Người xưa có một việc chứng tỏ:
Hương Nghiêm Hòa Thượng sau khi chứng ngộ, thuyết bài kệ trình Ngài Qui Sơn rằng:
“Tiếng trúc quên sở tri.
Chẳng cần nhờ tu trì.
Động dung hiển lối xưa.
Chẳng đọa nới vắng lặng.
Mỗi mỗi chẳng dấu tích.
Thanh sắc ngoài oai nghi.
Người đạt đạo bốn phương.
Đều xưng thượng thượng cơ”.
Qui Sơn nghe rồi bảo Ngưỡng Sơn rằng:
“Ông này đã triệt ngộ”. Sau Ngưỡng Sơn soát xét lại, Hương Nghiêm thuyết kệ rằng:
“Năm xưa nghèo chưa phải nghèo.
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi.
Năm nay nghèo dùi cũng không".
Ngưỡng Sơn nói: “Như Lai Thiền thì cho sư đệ ngộ, Tổ Sư Thiền thì chưa”.
Hương Nghiêm lại nói bài kệ khác:
“Ta có một cơ.
Nháy mắt nhìn y.
Nếu còn chẳng ngộ.
Chớ gọi Sa di”.
Ngưỡng Sơn bảo với Qui Sơn rằng: “Mừng cho Nhàn sư đệ đã ngộ Tổ Sư Thiền".
3).- THIỀN NA VÀ BÁT NHÃ THIỀN:
Thiền Na Thiền là pháp Thiền thứ năm trong sáu Ba La Mật, Bát Nhã Thiền là sau khi đã minh tâm kiến tánh, phát huy đại dụng để độ người như việc niêm hoa thị chúng.
4).- NHẤT VỊ THIỀN VÀ NGŨ VỊ THIỀN:
Phá tan hầm sâu vô minh, minh tâm kiến tánh, đốn siêu Phật địa, vào cảnh bất nhị, gọi là Nhất Vị Thiền. Ngoại đạo thiền, phàm phu thiền, Tiểu thừa thiền, Đại thừa thiền, Tối thượng thừa thiền gọi chung là Ngũ vị thiền.
5).- BA THỨ TỊNH QUÁN THIỀN:
Tức Sa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na, như kinh Viên Giác đã có giải thích kỹ càng về ba thứ Thiền quán này.
6).- KHÔ MỘC THIỀN (THIỀN CÂY KHÔ):
Những pháp Thiền chấp ngồi suốt ngày đêm chẳng nhúc nhích như dựng cây khô, cho ngồi lâu là cao, gọi là khô mộc Thiền.
7).- THAM THIỀN LẦM DỤNG CÔNG RẤT DỄ PHẠM NHỮNG BỆNH SAU ĐÂY:
A.- CHỈ bệnh: Đè nén tất cả tư tưởng miễn cưỡng dừng lại, như nước biển chẳng nổi sóng, chẳng nổi một bọt nhỏ. Tiểu thừa đoạn dứt lục căn, đạo giáo thanh tịnh quả dục, tuyệt Thánh bỏ trí đều thuộc bệnh này, Phật tánh thì chẳng hợp với CHỈ.
B).- TÁC bệnh: Bỏ vọng lấy chơn, lấy niệm xấu đổi niệm lành, nghịch trần hợp giác, nghịch giác hợp trần; phá một phần vô minh, chứng một phần pháp thân, Lão Tử: “Thường vô dục để quán diệu, thường hữu dục để quán sai”; Khổng Tử: “Chánh tâm thành ý”, nhà Nho: “Trừ bỏ ích kỷ của dục vọng, tồn tại chánh tâm của thiên lý” ấy đều thuộc về bệnh này, Phật tánh chẳng do TÁC mà đắc.
C).- NHẬM bệnh: Tư tưởng khởi cũng mặc kệ, diệt cũng mặc kệ, chẳng dứt sanh tử, chẳng cầu Niết Bàn, chẳng trụ, và chấp trước tất cả tướng, chiếu mà thường tịch, tịch mà thường chiếu, đối cảnh vô tâm, nhà Nho: “Lạc thiên tri mệnh”, Đạo giáo: “Trở về tự nhiên”, “Trở về hài nhi" đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do Nhậm mà có.
D).- DIỆT bệnh: Tất cả tư tưởng dứt sạch, mênh mông trống rỗng như gỗ đá, Trung thừa phá nhất niệm vô minh, Trang Tử: “Tọa vong”, nhà Nho: “Ngã tâm vũ trụ" và chơn lý của sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ đều thuộc bệnh này, Phật tánh chẳng do DIỆT mà có.
Tham thiền lầm dụng công phu nếu phạm bốn bệnh kể trên thì sẽ lầm nhận Tứ tướng, nay lược giải như sau:
i)- NGÃ TƯỚNG: Tức ngã chấp; Tiểu thừa khi dã dứt lục căn, tiểu ngã đã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, tiểu ngã dã diệt, lại vào cảnh giới đại ngã, lúc ấy tâm lượng rộng lớn, thanh tịnh tịch diệt, hình như đầy khắp vũ trụ. Nhà triết học Hy Lạp nói “Đại ngã”, “Thượng đế”, Lão Tử: “Nhấp nhoáng trong đó có tượng, nhấp nhoáng trong đó có vật; sâu xa mịt mù, trong đó có tinh” đều thuộc cảnh giới NGÃ TƯỚNG.
ii)- NHƠN TƯỚNG: Tức pháp chấp, khởi niệm sau để phá niệm trước, ví như niệm trước có ngã, niệm sau chẳng nhận ngã, rồi lại khởi một niệm nữa để phá cái niệm “chẳng nhận là ngã”, nối liền như thế cho đến vô ngã, nhưng kiến giải “phá” vẫn còn, ấy là nhơn tướng. Trang Tử nói: “Ta nay mất ngã” tức là NHƠN TƯỚNG.
iii)- CHÚNG SANH TƯỚNG: Cũng là pháp chấp, cảnh giới này ngã tướng, nhơn tướng chẳng thể đến, tức là chúng sanh tướng. Nhà nho nói: “Mừng, giận, buồn, vui khi chưa phát gọi là Trung”. Thư Kinh nói: “Duy tinh duy nhất, nên chấp nơi Trung, chữ TRUNG này tức chúng sanh tướng.
iv)- THỌ GIẢ TƯỚNG: Tức Không chấp, tất cả tư tưởng đều đã ngưng nghỉ, tất cả thị phi thiện, ác đều đã quên mất, trong đó trống rỗng chẳng có chi cả, đồng như mạng căn. Lục Tổ gọi là Vô ký không, Nhị thừa nhận lầm cho là cảnh giới Niết Bàn, kỳ thật chính là vô thỉ vô minh, Thiền Tông gọi là hầm sâu vô minh, “hầm sâu đen tối mịt mù”, đạo Giáo nói; “Vô cực” tức là cảnh giới này.
Bốn tướng kể trên đều thuộc pháp hữu vi, đều chẳng cứu cánh, nên Kinh Viên Giác nói: “Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ bốn tướng, dù khổ hạnh tu tập trải qua nhiều kiếp, chỉ gọi là hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh quả. Kinh Kim Cang nói: “Có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng ắt chẳng phải Bồ Tát" là chỉ rõ bốn thứ cảnh giới này đều chẳng phải chánh pháp. Người trí kém thường nói: “Tam giáo cùng nguồn”, nếu được rõ tính nghĩa bốn tướng này thì biết tam giáo cách nhau như trời với đất.
Vì phạm bốn bệnh bèn lầm nhận Kiến, Văn, Giác, Tri là Phật tánh:
Huệ Trung Quốc Sư hỏi một Thiền giả từ đâu đến. Đáp: từ miền Nam đến. Sư hỏi: “Miền Nam có Thiện tri thức nào?”. Đáp: “Trí thức rất nhiều". Sư hỏi: “Làm sao dạy người?”. Đáp: “Trí thức miền Nam khai thị người học: Tức Tâm là Phật, nghĩa Phật là Giác, nay ngươi sẵn đủ tánh kiến, văn, giác, tri, tánh này nhướng mày nháy mắt, vận dụng khứ lai khắp trong cơ thể, búng đầu đầu biết, búng chân chân biết, nên gọi Chánh biến tri, ngoài ra chẳng có Phật khác; thân này có sanh diệt, tâm tánh từ vô thỉ đến nay chưa từng sanh diệt, thân sanh diệt như con rắn lột da, người ra nhà cũ, thân là vô thường, tánh thì thường. Sở thuyết của miền Nam đại khái như thế". Sư nói: “Nếu vậy thì chẳng khác với bọn ngoại đạo tiên ni; họ nói: “Trong thân này có một thần tánh, tánh này hay biết đau ngứa, khi thân hoại thì thần ra đi, như nhà bị cháy chủ nhà ra đi, nhà là vô thưòng, chủ nhà là thường”. Nếu nói như thế thì chẳng phân biệt được tà chánh, lấy gì là đúng! Trước kia ta đi du phương gặp nhiều bọn này, tụ chúng năm ba trăm, mắt ngó mây trời, nói là Tông chỉ miền Nam, tự sửa đổi Kinh Pháp Bảo Đàn, lược bỏ Thánh ý, thêm vào lời tục để mê hoặc cho hậu học, đâu còn ngôn giáo! Khổ thay! Mất cả Tông ta! nếu cho kiến, văn, giác, tri là Phật tánh thì Duy Ma Cật chẳng nên nói: “Pháp lìa kiến, văn, giác, tri, nếu hành kiến, văn, giác, tri, ấy là kiến, văn, giác, tri, chẳng phải cầu pháp vậy”.
Huỳnh Bá truyền tâm pháp yếu nói: “Cái tâm bổn nguyên thanh tịnh này thường tự sáng tròn chiếu khắp, người đời chẳng ngộ, chỉ nhận kiến, văn, giác, tri là tâm, bị kiến, văn, giác, tri che khuất nên chẳng thấy bản thể tinh minh. Hể ngay đó vô tâm thì bản thể tự hiện như mặt trời trên hư không, chiếu khắp mười phương chẳng có chướng ngại. Người học đạo nên ở nơi kiến, văn, giác, tri nhận bản tâm, nhưng bản tâm chẳng thuộc kiến, văn, giác, tri cũng chẳng lìa kiến, văn, giác, tri chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri sanh khởi kiến giải, chớ nên ở nơi kiến, văn, giác, tri động niệm, cũng chớ lìa kiến, văn, giác, tri tìm tâm, cũng chớ bỏ kiến, văn, giác, tri cầu pháp, chẳng tức chẳng lìa, chẳng trụ, chẳng chấp, tung hoành tự tại, nơi nào chẳng phải đạo tràng!”.
--------------------------------
(còn tiếp)