Chú thích:
[1] Bốn quả: là bốn thánh quả của Thanh Văn: a- Tu Ðà Hoàn: nhập lưu hay dự lưu: mới dự vào dòng Thánh; Tư Ðà Hàm: dịch là Nhứt Lai: còn trở lại một lần sanh tử nữa mới được giải thoát rốt ráo; c- A Na Hàm: dịch là bất lai hay bất hoàn: không còn trở lại nhân gian nữa; d- A La Hán, dịch là vô sanh: được giải thoát hoàn toàn ra khỏi sanh tử.
[2] Kiến hoặc, tư hoặc: sai lầm về quan điểm hay kiến chấp lệch lạc không đúng; tư hoặc: sự mê lầm tiềm tàng nơi tâm thức rất khó diệt trừ do bốn món phiền não gốc tham, sân, si và mạn gây nên. Vì bốn phiền não này khi ta sinh ra đã có sẵn rồi, nên gọi chúng là câu sanh phiền não hay câu sanh hoặc. Câu sanh là đồng thời sanh ra, vừa lọt lòng mẹ đã có tiềm tàng, nên còn gọi là bẩm sinh. Chúng ràng buộc và chi phối, sai khiến dẫn lôi người nên cũng gọi là kiết sử, tức ràng buộc hay trói buộc và sai khiến hoặc chi phối.
[3] Thập địa: mười địa vị của hàng Ðại Thừa Bồ Tát tu chứng. Ðó là: 1) hoan hỷ, 2) ly cấu (lìa hết mọi nhiễm uế), 3) phát quang, 4) diệm huệ, 5) cực nan thắng, 6) hiện tiền, 7) viễn hành, 8) bất động địa, 9) thiện huệ, 10) pháp vân.
[4] Tam muội: cũng gọi là tam ma địa hay tam ma đề (sammadhi), Trung Hoa dịch là chỉ quán, thiền định, đại định, giải thoát. Tu thiền đạt đến trình độ cao, thân tâm hành giả không giao động mà lìa hết mọi sự rối loạn, tà mị. Chư Phật, Bồ tát, A La Hán đạt được pháp định sâu này.
[5] Lợi căn, độn căn: lợi là sắc bén nhanh lẹ, độn là chậm lụt, trì trệ. Người lợi căn là người gặp việc phản ứng mau lẹ, nhanh chóng, tốt; độn căn là căn tánh si ám, mù mờ quyết định không sáng suốt rõ ràng.
[6] Thập trí: mười trí hiểu biết theo như Tiểu thừa là: 1- Thế tục trí: trí thông thường 2- Pháp trí: trí hiểu bốn chân lý, 3- Loại trí: ở hai cõi: thượng (trời) 4,5,6,7 Khổ trí: trí hiểu biết bốn chân lý chung, riêng ở cõi trời và cõi thấp hơn. 8- Tha tâm trí: biết tâm niệm người khác 9- Tận trí: trí biết hết niềm tin đời trước của mình nên cũng gọi là tự tín trí 10- Vô sanh trí: trí giải thoát - Niết bàn tự tại (theo Câu Xá luận q.26). Thập trí theo Ðại Thừa là 1-Trí biết khắp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai 2- Phật trí 3- Trí biết khắp không ngăn ngại 4- Trí biết khắp vô số các cõi pháp giới 5- Trí biết trọn vẹn đầy đủ 6- Trí biết khắp cõi thế gian 7- Trí kiểm soát được các thế giới 8- Trí biết khắp tất cả chúng sanh 9- trí biết cùng các pháp 10- Trí biết hết thảy chư Phật. (theo kinh Hoa Nghiêm q.16)
[7] Chấp đoạn, chấp thường: (đoạn kiến, thường kiến): cho rằng loài hữu tình sau khi chết mất hẳn là chấp đoạn. Ngược lại cho thân tâm còn hoài bất diệt là thường kiến. Cả hai lối chấp đều sai lầm, tai hại cho tiến trình tu tập giải thoát.
[8] Vô học: bốn thánh quả hàng Thanh Văn, ba quả trước là hữu học. Quả A La Hán thứ tư Vô học. Công hạnh viên dung không còn phải học nữa.
[9] Tam thừa: ba cổ xe chuyên chở đạo giải thoát là: Thanh Văn (Tu quán pháp Tứ Ðế), Duyên Giác (tu quán pháp 12 nhân duyên) và Bồ Tát ( tu pháp Lục Ðộ)
[10] Tùy cơ: tùy trình độ căn cơ đem pháp chuyển hóa độ chúng sanh.
[11] Thật trí: thông đạt về thực tướng của các pháp, đó là thực trí của Như Lai, còn quyền trí của Phật thông đạt về các loại sai biệt. Thực trí là thể, còn Quyền trí là Dụng. Bản thể của Như Lai thành Phật là do thực trí, còn diệu dụng giáo hóa ở đời là do quyền trí
[12] Phương tiện trí: hay còn gọi là quyền trí (xem chú thích 11) thông đạt về pháp phương tiện, hành phương tiện.
[13] Nhị thừa: giáo pháp được ví như cổ xe chở người đến được quả địa gọi là Thừa. Ðó là: 1/ Thanh Văn thừa: nghe thanh giáo của đức Phật, quán tứ đế mà đoạn trừ được phiền não 2/ Duyên Giác thừa: quán pháp 12 nhân duyên mà sinh Không trí, nhờ đó đoạn trừ phiền não.
[14] Ngũ nhãn: năm loại mắt pháp tính từ phàm phu đến chư Phật là: 1) Nhục nhãn: mắt của thân xác phàm. 2) Thiên nhãn: mắt của chư thiên cõi sắc hay mắt của những người tu thiền đạt được. 3) Huệ nhãn: mắt của hàng Thanh văn và Duyên giác đã đắc đạo, nhờ trí tuệ quán chiếu chân không vô tướng của vạn hữu vũ trụ. 4) Pháp nhãn: mắt trí tuệ của hàng Bồ Tát; vì phát nguyện cứu độ chúng sanh nên quán tất cả đều là pháp. 5) Phật nhãn: mắt của Phật nhìn khắp cả 3000 đại thiên thế giới. Chư Phật đạt được đầy đủ ngũ nhãn.
[15] Tam minh: 3 trí biết pháp rõ ràng phân minh hay trí nhận biết rõ mọi sự mọi vật. Ðó là: 1) Túc mạng minh: biết rõ tự thân, tha thân trong đời trước của mình. 2) Thiên nhãn minh: biết tướng sanh tử đời vị lai của tự thân và tha thân. 3) Lậu tận minh: biết khổ tướng hiện tại, đoạn mọi phiền não (đoạn dứt phiền não (lậu). Như thế Tam Minh chính là Túc Mạng thông, Thiên Nhãn thông và Lậu Tận thông trong lục thông.
[16] Thập lực: chỉ mười lực về trí đức của Như Lai, đó là:
1- Trí lực biết sự vật nào là có đạo lý hay phi đạo lý
2- biết rõ nhân quả nghiệp báo ba đời của tất cả chúng sanh
3- biết các Thiền định, tám giải thoát, ba tam muội
4- biết rõ tâm tánh của tất cả chúng sanh
5- biết mọi loại trí giải của tất cả chúng sanh
6- biết khắp và đúng thực các cảnh giới khác nhau của chúng sanh
7- biết hết các đạo mà người tu hành đạt tới.
8- thấy biết sanh tử nghiệp thiện ác của chúng sanh không bị ngăn ngại
9- biết đời trước của chúng sanh, rõ về Niết Bàn.
10- biết rõ như thực đối với mọi tàn dư tập khí, đoạn dứt hẳn chẳng sinh (Luận Trí Ðộ q.25 và Luận Câu Xá q.29)
[17] Bốn vô lượng tâm: bốn tâm từ rộng lượng bao dung là:
1- Từ vô lượng: ban sự an vui đến với mọi người, mọi loài
2- Bi vô lượng: đem đến người và vật sự lợi lạc dứt khổ
3- Hỷ vô lượng: lòng hoan hỷ thân cận trong mọi hoàn cảnh, trường hợp.
4- Xã vô lượng: tâm xã rộng dung mọi dị biệt với hết thảy chúng sanh
[18] Pháp giới: pháp giới có nhiều nghĩa, có sự có lý. Pháp là vạn pháp, giới là cõi; cõi pháp giới rộng lớn bao hàm là về sự. Hoa Nghiêm chủ trương lý tánh chơn như là pháp giới, cũng gọi là chơn như pháp tánh, thực tướng, thực tế.
[19] Năng - sở: năng là người tác động; sở là kẻ bị động; năng là chủ động, sở là đối tác bị động. Câu năng lễ, sỡ lễ: chỉ người đang lạy là ta, đức Phật được lễ lạy là sở (lễ)
[20] Ðốn giáo: giáo pháp nhanh chóng chứng đắc Phật quả, thành tựu Bồ Ðề giải thoát gọi là đốn giáo. Ðối với hạng người căn cơ nhanh nhẹn ngay từ đầu Phật nói thẳng pháp Ðại Thừa là ngộ được ngay.
[21] A La Hán dịch có 3 nghĩa: ứng cúng (thọ của trời, người cúng dường, sát tặc (diệt giặc phiền não), vô sanh (không thọ sanh lại nữa)
[22] Tích môn: chỉ việc đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo thuyết pháp cho tới hội Pháp Hoa, những điều thuyết trong các kinh suốt 49 năm mà Tam thừa pháp là phương tiện; Nhất thừa pháp là chân thật. Ðó là sự khai quyền hiển thực về giáo lý. Bộ kinh Pháp Hoa gồm có 28 phẩm, 14 phẩm đầu là phần Tự, Chính, Lưu Thông của Tích Môn; 14 phẩm sau thuộc Bổn Môn.
[23] Chỉ quán: chấm dứt (chỉ), quán xét làm dứt hết vọng niệm trong pháp Thiền quán Samatha, ***, đình chỉ ở đế lý bất động.
[24] Chủng trí: tức nhứt thiết chủng trí của Phật. Trí Phật biết hết thảy mọi pháp nên thường cuối lời phục nguyện có câu: "nhứt thiết chúng sanh đồng thành chủng trí" (Hết thảy chúng sanh đồng đạt thành Phật trí)
[25] Pháp thân: chân thân của Phật, là một trong 3 thân. Thân này duy chỉ chân như trong pháp giới thanh tịnh. Chân như này có đầy đủ công đức chân thường, là chỗ sở y của hết thảy các pháp công đức hữu vi và vô vi.
[26] Tam ma địa: cũng gọi là Tam muội, có nhiều tên gọi, theo luận Thập Ðịa gọi đó là tam trị, căn cứ vào chướng đã đoạn mà gọi tên. Tam muội này có hai loại: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu định gọi là tam tam muội, vô lậu định là tam giải thoát môn.
[27] Bốn thiện căn: theo ba tông: Câu Xá, Thành Thật, Pháp Tướng quan niệm có khác nhau. Ðó là sự tu hành kiến đạo cũng gọi là tứ gia hạnh vị: Noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất. Theo luận Câu Xá: 1/ noãn pháp: sinh từ hậu niệm của tổng tướng niệm trụ có 3 phẩm: thượng, trung, hạ đều quán đủ bốn thánh đế khổ, tập v.v... Noãn là tiền tướng của Thánh hỏa. Thánh hỏa ví với vô lậu trí kiến đạo. Tiền tướng của kiến hỏa sắp sinh là vị hơi có triệu chứng ám áp (Noãn). 2/ Ðảnh pháp: thiện pháp được sinh ra từ hậu niệm của Thượng phẩm Noãn pháp, cũng có 3 phẩm: hạ, trung, thượng đều quán đủ tứ đế, tu 16 hành tướng. Ðảnh ví với đỉnh núi. Ðỉnh núi ở ranh giới giữa hai ngã tiến và thoái. Hoặc tiến lên nhẫn vị, không còn bị thoái đọa nữa; hoặc thoái xuống ở Noãn vị, hoặc có gây nghiệp vô gián đọa vào địa ngục. ( Ở lưng chừng giữa tiến và thoái như vậy nên ví với đỉnh núi. Ðỉnh cũng là đỉnh đầu của người). 3/ Nhẫn: thiện căn sinh ở hậu niệm của đảnh pháp gọi là Nhẫn pháp cũng có 3 phẩm: Hạ nhẫn quán đủ bốn đế, tu 16 hành tướng như trên. Ở vị này không đọa vào 3 đường ác nữa. Trung nhẫn do đó mà diệt dần đế sở (bị) duyên, diệt hành tướng năng duyên, tới cực độ thì lưu thuộc ở một hành tướng khổ của khổ đế dục giới: đó gọi là giảm duyên, giảm hành. Thượng nhẫn quán một hành tướng khổ của khổ đế trước đây còn sót lại. Nên vị của thượng nhẫn chỉ là trong khoảng thời gian một sát na. Ðến vị này ắt không còn thoái đọa nhẫn pháp, hơn nữa không đọa đường ác. 4/ thế đệ nhất: là thiện căn sinh ở hậu niệm của Nhẫn pháp. Ðó là một sát na nên không có 3 phẩm thượng, trung, hạ giống như thượng nhẫn quán hành tướng khổ của khổ đế. Gọi thế là vì pháp hữu lậu thế gian. Trong pháp hữu lậu, không có pháp nào vượt qua được quán trí này. Xem đó là pháp tối thắng, nên gọi là thế đệ nhất, cũng ở trong một sát na. Vị này không gián đoạn ắt sinh vô lậu trí nhập vào kiến đạo, chân chính chứng ngộ thắng đế là thánh giả mà lìa sự sinh của kẻ phàm phu.
[28] Thế đệ nhất: gia hạnh thứ tư trong bốn loại gia hạnh. Ðó là mức cao nhất của hữu lậu trí, là nhất trong thế tục pháp, nên gọi là thế đệ nhất.
[29] Ðạo tràng: nơi trang nghiêm giảng kinh, thuyết pháp, nơi tu tập hành lễ cho nhiều người tham dự để tăng trưởng đạo tâm, thực hành thiện pháp.
[30] Ngũ dục: năm món ham muốn làm cho con người phải lao đao lận đận trong đời sống là: 1/ của cải (tài sản, tiền tài) 2/ sắc 3/ danh 4/ ăn uống 5/ ngủ nghỉ
[31] Y báo: hoàn cảnh sinh sống của ta như gia đình, nhà cửa, công ăn việc làm, chế độ chính trị... Nói chung, tất cả mọi phương tiện trang bị cho đời sống.
[32] Hoa tạng: là thế giới hay cõi Tịnh Ðộ của chư Phật trong báo thân các Ngài
[33] Tứ thiên vương: là ngoại tướng của trời Ðế Thích. Lưng chừng núi Tu Di, có một ngọn núi là La Kiền Ðà La. Núi này có 4 đầu, bốn vị Thiên vương mỗi vị ở mỗi đầu bảo hộ cho một cõi thiên hạ, vì thế mà gọi là Hộ quốc tứ thiên vương. Ðó là cõi trời thứ nhất của lục dục thiên, là cảnh đầu tiên của Thiên Xứ. Tứ Thiên Vương là: 1- Phương đông: Trì Quốc Thiên 2- Nam: Tăng Trưởng Thiên 3- Tây: Quảng Mục Thiên 4- Bắc: Ða Văn Thiên.
[34] Thập hiệu Như Lai: Phật đủ mười hiệu là: 1- Như Lai 2- Ứng Cúng 3- Chánh Biến Tri 4- Minh Hạnh Túc 5- Thiện Thệ 6- Thế Gian Giải 7- Vô Thượng Sĩ 8- Ðiều Ngự Trượng Phu 9- Thiên Nhơn sư 10- Phật Thế Tôn.
[35] Ðoạn đức: Là một trong ba đức tự lợi lợi tha của chư Phật: 1) Trí đức: dứt sạch hết vô tri đủ vô thượng Bồ Ðề 2) Ðoạn đức: đoạn hết phiền não có dư vô thượng Niết Bàn (hai đức này thuộc về tự lợi). 3) Ân đức: có dư đức đại bi cứu giúp tất cả chúng sanh. Ðó là đức lợi tha đem lợi lạc cho người khác, mọi loài.
[36] Chân đế tam tạng: Thiền sư, người nước Ưu Thiền Ni - Tây Ấn Ðộ. Năm Ðại Ðồng thứ 13 đời Lương, Ngài hơn 30 tuổi sang Trung Quốc được vua Vũ Ðế tri ngộ. Sau gặp quốc nạn bỏ sang Bắc Tề, rồi sang Ðông Ngụy, trong lúc lưu lạc bôn ba, Ngài đã soạn thuật phiên dịch các bộ kinh Kim Quang Minh, Luận Nhiếp Ðại Thừa, luận Duy Thức và Thế Thân
truyện gồm 278 quyển. Ngài viên tịch ngày 11 tháng 1 năm Ðại Kiến thứ nhất, thọ 71 tuổi.
[37] Tam chuyển pháp luân: ba lần đức Phật chuyển pháp luân. Phật giảng pháp Tứ Diệu Ðế cho hàng Thanh Văn tại vườn Lộc Uyển có ba lần chuyển: 1- Thị chuyển: Ðây là Khổ. Ðây là Tập. Ðây là Diệt. Ðây là Ðạo. Ðây là chỉ rõ bốn tướng của Tứ đế 2- Khuyến chuyển: Khổ nên biết. Tập nên đoạn. Diệt nên chứng. Ðạo nên tu. Ðó là khuyên tu về Tứ đế. 3- Chứng chuyển: Khổ ta đã biết. Tập ta đã đoạn. Diệt ta đã chứng. Ðạo ta đã tu. Ðó là Phật tự nêu mình ra để làm chứng. Hạng thượng căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ nhất, Hạng trung căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ hai, hạng hạ căn nhờ Phật chuyển pháp lần thứ ba và tất cả đều ngộ đạo.
[38] Bốn kinh A hàm: bốn bộ kinh thuộc tiểu bộ là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm.
[39] Trụ Lăng Già: Lăng Già là tên núi ở nước Sư Tử. Núi lấy tên ngọc báu Lăng Già để gọi, có nghĩa là hiểm trở vô cùng khó mà lên được. Ðức Phật trụ ở núi đó thuyết kinh.
[40] Tứ tất đàn: bốn pháp phổ thí cho chúng sanh, nên gọi là tất đàn hay cũng gọi là bốn pháp thành tựu: 1- Thế giới tất đàn 2- Vị nhân tất đàn 3- Ðối trị tất đàn 4- Ðệ nhất nghĩa tất đàn. Trong 4 nghĩa tất đàn bao quát hết 12 bộ kinh, tám vạn bốn ngàn pháp tạng, đều là thực tướng không trái ngược nhau (theo Luận Trí Ðộ q.1)
[41] Vô tướng: chỉ chân lý dứt tướng trạng, một trong ba pháp ấn: Không, Vô tướng, Vô nguyện (vô tác) đạt đến Niết Bàn giải thoát.
[42] Vô duyên: không có quan hệ ràng buộc. Không có sự vin theo của tâm thức. Nói cách khác là không duyên theo với các pháp nhiễm thế tục.
[43] Pháp tánh: cũng gọi là thực tướng chơn như, pháp giới, Niết Bàn v.v... Tánh hay tính là nói về thể, cái thể không đổi. Chân như là thể của muôn pháp; trong nhơ, sạch ở loài hữu tình, ở loài phi tình, tánh nó không thay đổi nên gọi là pháp tánh.
[44] Nhất thiết trí: tức là Phật trí, biết rõ hết thảy mọi pháp. Cho nên gọi Phật là bậc nhứt thiết hay nhứt thiết chủng trí, tiếng phạn là Tát Bà Nhã. Trí của bậc Thánh biết tất cả các cõi thế giới, chúng sanh, biết tất cả các pháp hữu vi, vô vi, biết tất cả mọi việc quá khứ, hiện tại và vị lai.
[45] Bốn đức: tức là bốn đức của Niết Bàn: chân thường - chân lạc - chân ngã - chân tịnh. Chân thường hay là Thường đức: thể của Niết bàn là vĩnh hằng, bất biến và không sanh diệt nên gọi là Thường; Lạc, Ngã, Tịnh cái thể cũng vắng lặng giải thoát, hoàn toàn an lạc không còn bị nhiễm ô chi phối.
[46] Bát phong: Tám gió hay còn gọi tám pháp là những thứ mà thế gian yêu hay ghét. Tám thứ này làm lay động được lòng người như:1- lợi, 2- suy, 3- hủy (chê), 4- dự (khen) 5- xưng (ca ngợi) 6- cơ (chế nhạo), 7- khổ, 8- lạc.
[47] Sáu căn, sáu trần: sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý căn; sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần. Căn tiếp xúc với trần sinh ra thức (nhận thức, phân biệt). Ví dụ: mắt tiếp xúc sắc phân biệt, nhận định rõ mọi vật xung quanh.
[48] Ðệ nhứt nghĩa: tức có nghĩa là đệ nhứt nghĩa đế, là chân lý có nghĩa bậc nhất, Phật Pháp có phân hai mặt: 1- tục đế là pháp thế gian nên cũng gọi là thế đế để hàng phàm phu tu học thuộc về pháp hữu vi; 2- chân đế là pháp xuất thế gian để cho hàng thánh giả hay người xuất gia xét nét, ghi tâm. Do ý nghĩa cao siêu huyền diệu nên gọi là đệ nhứt nghĩa đế hay cũng gọi là thắng nghĩa đế.
[49] Bốn loài chúng sanh: tất cả chủng loại chúng sanh có tình thức đều nằm trong 4 loài: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh. 1- thai sanh: loài sanh bằng bào thai 2- noãn sanh: loài đẻ trứng 3- thấp sanh: loài sanh nơi ẩm thấp 4- hoá sanh: loài biến hóa hình như bướm, muỗi, lăng quăng v.v...
[50] Năm đường: hay 5 cõi chúng sanh lưu chuyển: trời, nguời, a tu la, ngạ quỉ, súc sanh.
[51] Ngũ ấm: còn gọi là ngũ uẩn; uẩn hay ấm là tích tụ, chứa nhóm, hòa hợp tạo thành thân tâm của chúng sanh. Năm món này che lấp chân lý khiến chúng sanh luân hồi thọ khổ. Ðó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức
1- Sắc: cũng tức là thân, những vật hữu hình tạo thành bởi sáu căn và sáu trần.
2- Thọ: thọ nhận mọi thứ vui sướng hoặc buồn khổ, hay không vui không khổ.
3- Tưởng: nhận ra màu sắc, chủng loại, tánh phái ...
4- Hành: đối cảnh vật đem lòng ham muốn
5- Thức: hiểu biết sự vật, nhận định đúng sai ...
[52] Pháp tánh: còn gọi là thực tướng chơn như, pháp giới, Niết Bàn. Cái thể của vạn pháp ở loài hữu tình, phi tình, tính nó không đổi gọi là pháp tánh.
[53] Tùy phiền não: phiền não phụ thuộc của tham, sân, si, mạn như ăn năn, chừa lỗi, tìm tòi, xét nét . . .
[54] Thập nhị nhập: hay còn gọi là thập nhị xứ. Nhập tức là vào, xứ là nơi, chỗ. Ðó là sáu căn: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý tiếp xúcsáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp để phân biệt màu sắc tốt, xấu v.v...
[55] Thập bát giới: mười tám giới gồm 6 căn, 6 trần như trên giải thích và 6 thức: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý thức, tức là cái biết của mỗi căn phân biệt ngoại cảnh đúng sai ra sao.
[56] Sáu đại: gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Sáu pháp này đầy dẫy khắp tất cả pháp giới tạo nên loài hữu tình hay phi tình. Nên gọi là đại, vì phi tình do ngũ đại tạo thành, còn hữu tình do lục đại tạo thành.
[57] Vô lượng kiếp: trải qua nhiều đời, nhiều kiếp không thể tính hết được
[58] Thất bảo: bảy món quí báu như: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
[59] Tát Bà Nhã: còn gọi là Tát Vân Nhã. Dịch là Nhứt Thiết Trí. Tát Bà Nhã còn gọi là nhứt thiết chủng trí, tức là trí tuệ quả vị rốt ráo viên mãn của chư Phật; chủng là chủng loại, có nghĩa là chẳng pháp nào là không thông đạt. Vì vô số phẩm loại thế gian và xuất thế gian đều hiểu suốt cho nên gọi là nhứt thiết chủng trí.
[60] Ba pháp vô vi: vô vi có nghĩa là không sanh diệt, không biến đổi. Ðây là 3 trong 6 pháp vô vi theo Duy Thức.
1- Hư không vô vi: chơn như hay pháp tánh, không thể dùng ý thức suy nghĩ hay lời luận bàn được. Nó phi sắc, phi tâm, không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm. Bởi vì không ngã, không pháp, rời các cấu nhiễm, rỗng rang như hư không.
2- Trạch diệt vô vi: do dùng trí tuệ vô lậu, lựa chọn diệt trừ hết các nhiễm ô, nên chơn như vô vi mới hiện. Vì thế nên gọi là trạch diệt vô vi
3- Phi trạch diệt vô vi: vô vi không cần lựa chọn diệt trừ các phiền não. Tánh chơn như vốn thanh tịnh; các pháp hữu vi tạp nhiễm, vì thiếu duyên không sanh khởi, nên pháp vô vi được hiện. Gọi đó là "phi trạch diệt vô vi" (tu chứng đệ tam thiền đạt được ba pháp vô vi này)
[61] Năm pháp nhẫn: 1/ Phục nhẫn 2/ Tính nhẫn 3/ Thuận nhẫn 4/ Vô sinh nhẫn 5/ Tịch diệt nhẫn
[62] Sáu chủng tánh: 6 giống có thể sanh sản thân phận không thay đổi là: 1/ Tập chủng tánh: ở địa vị thập trụ tu tập pháp không quán, phá bỏ mê lầm về kiến thức và về tư tưởng. 2/ Tánh chủng tánh: ở thập hạnh trụ nơi pháp không, giáo hóa được chúng sanh, phân biệt hết thảy pháp tánh. 3/ Ðạo chủng tánh: ở địa vị thập hồi hướng, tu diệu quán trung đạo, nhân đó thông đạt hết thảy Phật Pháp. 4/ Thánh chủng tánh: trở lên ba bực trên gọi là Hiền. Hiền vị nương theo Thập địa của Bồ Tát tu pháp diệu quán trung đạo, phá một phần vô minh, chứng nhập địa vị Thánh. 5/ Ðẳng giác tánh: ở địa vị này Bồ Tát trông mong được diệu giác về sau, chỉ còn có một bậc nữa, nhưng cao hơn bốn địa vị trước. 6/ Diệu giác tánh: địa vị linh diệu cao hơn hết, giác ngộ trọn vẹn.
[63] Thập hồi hướng: mười tâm đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh gọi là hồi hướng. Ðó là: 1- Cứu hộ tất cả chúng lìa tướng chúng sanh. 2- Hồi hướng bất hoại 3- Hồi hướng tâm đồng như chư Phật 4- Hồi hướng đến khắp mọi nơi chốn. 5- Hồi hướng vô tận công đức cho tất cả 6- Hồi hướng theo thiện căn bình đẳng 7- Tùy theo quán chúng sanh hồi hướng 8- Hồi hướng chân như tướng 9- Hồi hướng giải thoát không trói buộc 10- Hồi hướng đến vô lượng pháp giới.
[64] Thập kiên tâm: 10 tâm kiên cố, mười tâm không hoại hay 10 tâm Kim Cang đó là: 1- hiểu rõ pháp tánh 2- hóa độ chúng sanh 3- trang nghiêm thế giới 4- thiện căn hồi hướng 5-phụng sự đại sư 6- thực chứng cao pháp 7- rộng tu nhẫn nhục 8- trường kỳ tu hành 9- tự hành đầy đủ 10- khiến thân nhân mãn nguyện.
[65] Tứ nhiếp pháp: bốn pháp nhiếp hóa chúng sanh. Ðó là: 1/ Bố thí: Bố thí có 3 hình thức: a) của cải b) giáo pháp c) ban sự không sợ sệt đến người, vật. 2/ Ái ngữ: nói lời hòa diệu thân thương trong tinh thần xây dựng để đem tin yêu, lợi lạc đến người, vật khác. 3/ Lợi hành: làm việc lành bằng thân, khẩu, ý giúp ích cho chúng sanh. 4/ Ðồng sự: cùng làm trong một ngành nghề, cùng chia xẻ kinh nghiệm với nhau. Ở một góc cạnh khác, dùng pháp nhãn thấy căn tánh của chúng sanh, bèn tùy sở thích của họ mà phân hình thị hiện ra, để làm chung công việc với họ, giúp đỡ cho họ thân ái với mình mà thọ giáo lý.
[66] Vi tế hoặc: phiền não chi li khó thấy. Những bậc trí tuệ sắc bén, phiền não thô trọng đã hết, nhưng còn nhiễm những mối phiền não tế.
[67] Vô duyên đại bi: lòng từ bi chỉ có ở chư Phật. Ðó là lòng từ bi tuyệt đối bình đẳng khởi lên nhờ kiến giải xa lìa sai biệt và không tâm phân biệt. Hàng phàm phu và nhị thừa không thể có được như vậy.
[68] Tứ ma: bốn loại ma 1- Ma phiền não 2- Ngũ ấm ma 3- Ma ba tuần hay thiên ma và 4- Tử ma (ma chết chỉ là một trong các loài ma).
[69] Thất Phật: bảy vị Phật là 1- Tỳ Bà Thi 2- Thi Khí 3- Tỳ Xá Phù 4- Câu Lưu Tôn 5- Câu Na Hàm Mâu Ni 6- Phật Ca Diếp 7- Phật Thích Ca Mâu Ni (đó là 7 vị Phật trong hiền kiếp). Bảy vị Phật thời Quá Khứ Trang Nghiêm kiếp là: 1- Ða Bảo Như Lai 2- Bảo Thắng 3- Diệu Sắc Thân 4- Quảng Bác Thân 5- Ly Bố Úy 6- Cam Lồ Vương 7- A Di Ðà Như Lai.
[70] Do tuần: đọc là do diên hoặc du thiên hay du thiên na hoặc yojana, tên số mục để đo lường của Ấn Ðộ thời xưa. Một do tuần bằng 10 dặm (lý) của Tàu mà một dặm bằng 576m thì một do tuần tương đương 6km.
[71] Ðại sĩ: tiếng gọi chung Bồ Tát, hoặc để gọi Thanh Văn và Phật. Sĩ là từ chỉ chung hạng phàm phu, để phân biệt với phàm phu nên gọi là Ðại. Người làm việc trọng đại lợi lạc khắp mọi loài chúng sanh là Ðại Sĩ hay Khai Sĩ.
[72] Thập thánh: Ba địa trước trong Thập địa là tam hiền, 10 vị trong thập địa là Thập Thánh
[73] Quán đảnh: bên Ấn Ðộ khi một vị tân vương lên ngôi thì vị trưởng thượng trong tôn giáo dùng nước bốn biển mà rưới lên đầu của vị tân vương ban phép lành. Ấy là phép quán đảnh. Do đó, đệ tử được truyền giới, truyền pháp, truyền Phật quả đều có lễ rưới nước lên đỉnh đầu gọi là lễ quán đảnh.
[74] Huân tập: các hành vi thiện, ác, biểu hiện nơi thân, khẩu, ý, thức như xông hương vào quần áo. Hiện ra ở thân, miệng, ý gọi là pháp hiện hành. Khi phân ra ở chân như hoặc A lại Da Thức của pháp hiện hành, gọi là huân tập.
[75] Sáu loài hay sáu đạo: thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh.
[76] Tám bộ chúng: Ðó là: 1- Càn Thát Bà 2- Tỳ Xá Xà 3- Cưu Bàn Trà 4- Tiết Lệ Ða (Ngạ quỉ) 5- Loài rồng 6- Phú Ðan Na (quỉ hôi hám) 7- Dạ xoa (quỉ dũng kiện) 8- Quỉ La Sát.
[77] 12 bộ kinh hay 12 phần giáo là: Trường hàng hay kinh thể văn xuôi 2/ Trùng tụng: thể văn vần hay thể kệ 3/ Thọ ký 4/ Cô khởi: bài kệ không lặp lại nghĩa của trường hàng mà là những kệ tự lập ý nghĩa riêng 5/ Vô vấn tự thuyết: Phật tự nói không có ai thỉnh thưa như kinh Pháp Hoa phẩm Phương Tiện 6/ Nhơn Duyên: như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói duyên khởi của Phật Ðại Thông Trí Thắng 7/ Thí Dụ 8/ Bổn sự: mô tả việc các thế giới trước kia của chư Phật 9/ Bổn sanh: việc thọ sanh về những đời quá khứ 10/ Phương quảng: nói rõ thật tướng Trung Ðạo. 11/ Vị tằng hữu: pháp lạ chưa từng nghe. 12/ Luận nghị : vấn đáp giữa Phật và các đệ tử.
[78] Tam tai: Ba tai họa lớn là hỏa tai (tai nạn lửa dữ), thủy tai (nạn ngập lụt, hồng thủy) và phong tai (gió bão). Ðó là đại tam tai, còn cách giải thích khác thuộc tiểu tam tai như: 1- đao binh (chém giết nhau) 2- ôn dịch (bịnh dịch) 3- cơ cẩn (nạn đói).
[79] Tiểu kiếp: kiếp sống tăng giảm số tuổi. Theo luận Câu Xá, con người thọ mạng cao nhất là 84,000 tuổi. Sau đó cứ qua 100 năm lại giảm một tuổi, giảm cho tới khi người chỉ còn 10 tuổi. Ðó gọi là giai đoạn giảm kiếp. Sau đó bắt đầu giai đoạn tăng kiếp. Qua 100 năm tăng 1 tuổi, cho đến khi đạt tới mức thọ mạng cao nhất là 84,000 tuổi. Rồi một giai đoạn giảm kiếp khác lại bắt đầu. Một giảm kiếp cộng với một tăng kiếp gọi là tiểu kiếp.
[80] Ba thân Phật: Phật có đủ ba thân là: báo thân, ứng thân và pháp thân. 1/ Báo thân là thân hiện hữu của Phật, chỉ các bậc Thánh mới tiếp xúc được. 2/ Ứng thân còn gọi hóa thân, thân ứng hiện của Phật tùy loại chúng sanh mà được tiếp xúc, giáo hóa. 3/ Pháp thân là chân thân, tự tánh sáng suốt trong lặng của Phật.
[81] Bà Già Ðộ: cũng gọi là Bà Già Phạm, Bạc Già Phạm, Bạc A Phạm, Bà Già Bạn là một trong các danh hiệu của chư Phật. Theo Phật Ðịa luận phân tích có sáu nghĩa: Tự Tại, Thịnh Vượng, Ðoan Nghiêm, Xứng Danh, Cát Tường, Tôn Quí. Trí Ðộ luận phân biệt bốn nghĩa: có công đức, khéo phân biệt, có thanh danh, có thể phá phiền não; có nghĩa là Phật.
[82] Ngũ trược: năm thứ uế bẩn không tinh sạch.
Ðó là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược
1. Kiếp trược: tuổi thọ giảm dần theo kiếp số, và con người phải chịu đựng mọi phiền não trong thời gian thọ thân này. Kiếp tăng, con người thọ đến 84,000 tuổi và kiếp giảm xuống còn 10 tuổi.
2. Kiến trược: nhận định thấy biết sai lầm, kể cả kiến chấp lệch lạc dù bằng mắt hay suy nghĩ tà vạy nên tạo nhiều điều tội lỗi, xấu ác.
3. Phiền não trược: những việc bất như ý gây buồn phiền, hờn giận, ganh ghét, thù oán v.v... làm tổn hại mình và người.
4. Chúng sanh trược: chúng sanh có nhiều loại mang thân hình xấu xí dị kỳ, tanh hôi, vi, vảy, sừng lông; có hai chân, 4 chân, nhiều chân hoặc không chân.
5. Mạng trược: mạng sống ngắn ngủi như sợi chỉ mành treo chuông; chỉ cần một cơn gió nhẹ là chỉ đứt, mạng sống kết liễu trong tích tắc.