- Tham gia
- 19/10/06
- Bài viết
- 1,361
- Điểm tương tác
- 74
- Điểm
- 48
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
01. PHẨM TỰ THỨ NHẤT
(Hán bộ trọng quyển thứ nhất)
------------o0o---------
Dịch Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
01. PHẨM TỰ THỨ NHẤT
(Hán bộ trọng quyển thứ nhất)
------------o0o---------
Như vậy, tôi nghe : một lúc nọ, đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật ở tại rừng Ta-La Song-Thọ nơi thành Câu-Thi-Na (1), cùng với tám mươi ức trăm ngàn vị đại Tỳ-Kheo.
Bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai vào lúc sáng sớm sắp nhập niết-bàn, đức Phật dùng thần lực vang ra tiếng lớn thấu khắp các nơi, suốt đến trời Hửu-đãnh (2) theo từng ngôn-ngữ của mỗi loài mà bảo rằng : “ Đưc Như-Lai Vô-Thượng-Đẳng, Chánh-giác thương mến che chở chúng-sanh, là ngôi nhà to rộng cho chúng sanh, về nương, xem chúng-sanh đồng như La-Hầu-La.
Đấng Đại-Giác Thế-Tôn sắp nhập Niết-bàn, tất cả chúng-sanh nếu có chổ nghi nay đều nên bạch hỏi, củng là lần hỏi cuối cùng!
Từ mắt, mũi, miệng, đức Thế-Tôn phóng ra các thứ ánh sáng. Những ánh sáng ấy có nhiều mầu : Xanh, vàng, đỏ, trắng, màu pha-lê, màu mã- não, chiếu khắp cõi đại-thiên (3), cũng lại chiếu suốt cả mười phương. Lục-đạo chúung-sanh (4), ai gặp được ánh sáng nầy chiếu đến mình thời tất cả tội- cấu phiền-não đều tiêu trừ. Những chúng sanh nầy thấy ánh sáng cùng nghe lời tuyên-bố trên đây, tất cảđều rầu lo, buồn khóc nức nở : “Than ôi! còn gì đấng Từ-Phụ : Thương thay khổ thay !”
Lúc đó khắp đại-địa, núi non biển cả thảy đều chấn động.
Các chúng sanh bảo nhau rằng : “ Chúng ta gắng dằn lòng chớ quá buồn khổ. Phải kíp đến thành Câu-Thi-Na, nơi rừng Ta-La đảnh lễ Phật, cầu thỉnh đức Như-Lai trụ thế thêm một thờigian “.
Mọi người lại nắm tay nhau mà nói rằng : “Chúng sanh hết phước, thế gian trống rỗng, những ác nghiệp thêm nhiều.
Đức Như-Lai sắp nhập Niết-bàn. Các ngài mau đến hầu Phật”.
Rồi lại cùng than rằng :”Thế gian trống rỗng ! Thế gian trống rỗng ! Chúng ta từ nay không chỗ phụng thờ, không ai cứu hộ, côi cút nghèo cùng. Một mai xa lìa đấng Vô-Thượng-Giác, nếu có chỗ nghi lầm, chúng ta sẽ bạch hỏi với ai ?”
Bấy giờ các vị đại Tỳ-kheo (5) : Tôn-giả Ma-Ha-Ca-Chiên-Diên, Tôn-giả Bạc-Câu-La, Tôn-giả Ưu-Ba Nan-Đà v.v… chạm phải ánh sáng của Phật, thân của các ngài liền run giật, tâm tưởng mê loạn, hốt hoảng kêu la.
Lại có tám trăm vạn vị Tỳ-kheo đều là bực vô-lậu A-La-Hán, tâm được tự tại, chỗ làm đã xong, rời các phiền-não, điều-phục các căn, có oai-đức lớn, thành tựu không-huệ, đã khỏi sanh tử, tất cả đều là chơn Phật-tử. Sáng hôm ấy, lúc mặt trời vừa mọc, các ngài đang nhăn nhành dương, thấy ánh sáng của Phật chiếu đến, các ngài hối nhau súc miệng, rửa tay. Toàn thân của các ngài đều rởn óc máu nổi đỏ như bông ba-la-xa, hai mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ. Vì muốn lợi-lạc cho chúng sanh, thành tựu hạnh đệ-nhứt-không của Đại-thừa, cùng muốn hiển phát giáo-pháp phương tiện bí mật của Như-Lai, để các cuộc thuyết pháp chẳng đoạn tuyệt và cũng vì muốn làm nhơn duyên điều phục chúng sanh, nên các ngài vội đến trước Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vòng, rồi chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Lại có sáu mươi ức vị Tỳ-kheo-ni, như Thiện-Hiền Tỳ-kheo-ni, Ưu-Ba Nan-Đà Tỳ-kheo-ni, Hải-Y Tỳ- kheo-ni, v.v…., đều là bực Đại-A-La-Hán, đả sạch phiền-não, tâm được tự tại, chỗ làm đã xong, các căn điều –phục có oai đức lớn, thành tựu không –huệ.
Các Tỳ-kheo-ni ấy cũng vào buổi sáng sớm, lúc mặt trời vừa mọc, toàn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như bông ba-la-xa, đôi mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ, cũng vì muốn lợi lạc cho chúng sanh, và làm nhơn duyên điều-phục, nên các Tỳ-kheo-ni ấy vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vòng, rồi chắp tay cung kính, ngồi qua một bên. Trong chúng Tỳ-kheo-ni nầy, có những vị Bồ-Tát đến bực thập-địa an-trụ bất-động. Vì hóa độ chúng sanh nên hiện thân phụ nữ, nhưng thường tu tập bốn tâm vô-lượng (6), đặng sức tự-tại có thể biến-hóa làm Phật.
Bấy giờ lại có một hằng-hà-sa đại Bồ-Tát (7) chứng bực thập địa an trụ bất động, phương tiện hiện thân. Danh hiệu của các vị Thượng thủ là : Hải Đức Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ Tát v.v… Các ngài thảy đều kính trọng Đại thừa, an trụ Đại thừa, hiểu sâu Đại thừa, ưa thích Đại thừa, gìn giữ Đại thừa. Các ngài khéo tùy thuận được tất cả thế gian mà lập thệ rằng : “ Những ai chưa giải thoát, sẽ làm cho được giải thoát”.
Các ngài từ vô lượng kiếp về quá khứ tu trì giới pháp thanh tịnh, khéo đem chỗ đã làm dạy lại cho người chưa hiểu, nối thạnh ngôi Tam Bảo (8) làm cho chẳng đoạn tuyệt, sau này sẽ chuyển pháp luân, dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, thành tựu vô lượng công đức như thế, xem chúng sanh đồng như con một. Các vị đại Bồ Tát này cũng vào lúc sáng sớm gặp ánh sáng của Phật chiếu đến cả mình rởn ốc, máu đỏ nổi kên như bông ba-la-xa, đôi mắt tràn lệ, lòng rất đau xót, vì muốn lợi lạc cho chúng sanh, thành tựu hạnh đệ nhứt không của Đại thừa, hiển phát giáo pháp phương tiện bí mật của Như –Lai, cho các cuộc thuyết pháp chẳng đoạn tuyệt, cùng làm nhơn duyên điều phục cho chúng sanh, nên các ngài vội đến chỗ Phật, cúi đầu lạy chơn Phật, đi nhiễu Phật trăm ngàn vòng, chắp tay cung kính ngồi qua một bên.
Bấy giờ lại có hai hằng -ha-sa vị Ưu-bà-tắc (9) thọ trì ngũ giới (10) đầy đủ oai nghi, các ôÂâng Oai Đức Ưu-Bà-Tắc , Thiện Đức Ưu-Bà-Tắc v.v… làm thượng-thủ trong số ấy. Tất cả đều thích quan sát sâu kỹ các môn đối-trị như các môn khổ, vui, thường, vô-thường, tịnh, bất-tịnh, ngã, vô ngã, thiệt, bất thiệt, qui y, phi qui y, chúng sanh, phi chúng sanh, hằng, phi hằng, an, phi an, vi, vô vi, đọan, bất đoạn, niết bàn, phi niết bàn, tăng thượng, phi tăng thượng v.v…. Cũng thích muốn nghe vô- thượng đại-thừa, nghe rồi có thể giảng lại cho người khác, khéo giữ gìn giới luật thanh tịnh, khát ngưỡng đại- thừa, đã tự đầy đủ lại có thể làm đầy đủ kẻ khác, khéo nhiếp thủ trí-huệ vô-thượng, ưa thích và gìn giữ đại-thừa. Khéo tùy thuận tất cả thế gian, độ người chưa được độ, dạy người chưa được hiểu, nối giống Tam-Bảo cho khỏi đoạn tuyệt, sau nầy sẽ chuyển pháp-luân, dùng đại trang-nghiêm mà tự trang-nghiêm, tâm các vị ấy luôn say sưa nơi giới-hạnh thanh-tịnh, thành-tựu nhữngø công đức như thế, đối với chúng sanh phát tâm đại-bi bình-đẳng xem nhu con một.
Sáng sớm hôm ấy, vì muốn làm lễ trà-tỳ (11) thân của Như-lai, nên mỗi người đem vạn bó gỗ thơm : gỗ chiên-đàn trầm-thủy, gỗ ngưu-đầøu chiên-đàn, gỗ thiên -mộc-hương v.v…. Do thần lực của Phật nên các bó gỗ thơm áy chiếu ra nhiều màu xanh vàng đỏ trắng rất sáng đẹp. Gỗ thơm ấy đều ướp bằng các thứ dầu thơm. Các thứ hoa sen đơm trên những bó gỗ, cùng treo những lá phan năm màu mịn đẹp. Chở gỗ là các thứ xe bằng loại thất bảo (12) thắng bốn ngựa hùng tráng. Trên xe tàn lọng che giăng, rủ những tràng hoa sen đẹp đủ màu, làm bằng vàng ròng và kim cương, các loại ong đen vui vẻ bu họp trong hoa vang ra tiếng diễn nói những pháp vô-â thường, khổ, không, vô –ngã và thuật đạo hạnh của Bồ- Tát tu tập ngày trước. Lại có các thứ âm nhạc hòa tấu thành tiếng buồn than : “Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian trống rỗng !” Trước mỗi xe có Ưu-Bà-Tắc bưng hương-án bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, trên án xông các thứ hương thơm thượng hảo, cùng chưng các thứ hoa sen đẹp đủ màu. Các vị Ưu- Bà-Tắc nầy vì muốn cúng dường Phật cùng chư tăng, nên đã dự sắmõ các thứ thực phẩm nấu bằng củi chiên-đàn trầm thủy. Những thực phẩm ấy thơm ngon đủ sáu vị : mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt cùng đủ ba đức ; mềm dẽo, sạch sẽ, đúng pháp. Khi đến rừng Ta-La, họ lấy mạt vàng ròng rải khắp các nơi, rồi trải gấm lụa lên trên rộng đến mười hai do-tuần. Họ thiết tòa sư tử cao lớn bằng bảy báu để thỉnh Phật và chư Tăng ngồi. Họ đem dầu thơm quý thoa vào thân cây trong rừng rồi treo các lá phan, các tàn lọng xinh đẹp họ rải những thứ hoa đẹp thơm vào các khoảng giữa cây cách nhau. Các Ưu-Bà-Tắc nầy đều suy nghĩ rằng :
“ Tất cả chúng sanh nếu ai có chỗ thiếu hụt : cần thức ăn, tôi sẽ cho ăn; cần uống, cho uống; cầnđầu, cho đầu; cần mắt, cho mắt; bất luận là cần dùng thứ gì, tôi sẽ cho thứ ấy. Lúc bố-thí như thế tôi sẽ không có lòng tham sân ác độc nhơ-nhớp. Tôi không hề móng niệm cầu phước lộc thế gian mà chỉ nhứt tâm cầu quả vô-thượng bồ-đề”.
Các vị Ưu-Bà-Tắc nầy đều đã an-trụ nơi đạo bồ-đề. Các ông nghĩ thầm : Hôm nay đức Như-Lai thọ thực của chúng tôi xong sẽ nhập Niết-Bàn”. Vừa nghĩ đến đây, cả mình các ông đều rởn ốc, máu đỏ nổi lên như bông ba-la-xa, đôi mắt tràn lệ, lòng rất buồn khổ. Các ông lật đật đem những đồ cúng dường dâng lên đức Phật, cúi đầu lạy chơn Phật đi nhiễu trăm ngàn vòng, khóc lóc nức nở, tiếng động trời đất, nước mắt như mưa. Các ông than với nhau rằng : Thế gian sẽ trống rỗng, thế gian sẽ trống rỗng, rồi cac ông lại nhào lăn trước Phật, vừa khóc vừa bạch Phật :” Cúi xin Đức Như-Lai xót thương chúng con mà nhận lễ cúng dường cuối cùng nầy”.
Đức Thế-Tôn biết giờ nên yên-lặng không nhận. Các ông yêu cầu ba phen mà Phật vẫn không hứa nhận. Không được đức Phật nhận, các ông rất đau khổ như người có con một phải bệnh chết vừa mới chôn xong. Các ông đem những đồ cúng an trí một nơi rồi cùng nhau ngồi qua một bên.
hoalinhthoai.com