KINH DỊCH có gì hay ?

KINH DỊCH có gì hay ?

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749045972053.webp

Hỏa Lôi Phệ Hạp

噬嗑: 亨, 利用獄.
Phệ Hạp: Hanh, lợi dụng ngục.

“Phệ” có nghĩa là cắn bằng răng, cũng có nghĩa là thôn tính, xâm chiếm ( ý chỉ rằng, thay vì sửa mình thì người Quân tử lại buông lung thân tâm, dẫn đến thói hư tật xấu nó xâm nhập, nó xâm chiếm, nó thôn tính, nó thao túng con người mình, khiến mình trở thành phiên bản xấu tệ của tâm hồn vốn cao thượng trong sạch khi mới xuất hiện nơi cuộc đời này). “Hạp” nghĩa là đóng, ngậm, khép lại; cũng có nghĩa là làm cho hợp lại với nhau. “Ngục” là nơi giam giữ.

Kinh nói: Phệ Hạp, hanh.

“Phệ” là cắn, khi cắn thì người ta thường phải há miệng, hai hàm răng trên dưới mở ra, mở ra rồi thì mới đưa vật cần cắn xé vào giữa hai hàm răng, sau đó khép lại giữ vật, dùng sức của cơ hàm mà phá hủy mối liên kết của vật được đưa vào, tách vật ra thành từng mảnh, rồi khép hai hàm răng lại với nhau – tức là “Phệ hạp”, để phần bị cắn rơi vào trong miệng, nhai nhuyễn rồi nuốt xuống dạ dày mà tiêu hóa.

Vậy vật đưa vào để cắn là vật gì thế ? Có phải trái cây thơm ngon chăng ? Hay là thức ăn bổ dưỡng ? Không phải, tất nhiên là không rồi; vì Thánh nhân chẳng lấy sự cắn để nói việc ăn, như thế thì đâu cần tới Thánh nhân, nên để việc này cho bác sỹ răng hàm mặt hoặc bác sỹ chuyên khoa tiêu hóa thì sẽ thích hợp hơn. Xuyên xuốt cả quyển Kinh Dịch, đều là sự khuyên răn về rèn luyện Đức Hạnh, Tài Trí để làm người hướng thượng, làm người hữu ích, làm “bông hoa” đẹp giữa cõi trần ô trược. Thánh nhân khéo léo đan xen, ẩn chứa trong từng hình tượng thí dụ của đời sống thường nhật, vì thế biết rằng ở đây, ý nghĩa cũng lại xoay quanh nhưng điều trọng yếu như thế mà thôi.

Vật đưa vào miệng mà Thánh nhân nói tới chính là “thói hư tật xấu”, hai hàm răng tức là Giới – Định theo nhà Phật, cũng tức là kỷ luật và quyết tâm, là khuôn phép và lòng kiên định duy trì khuôn phép đó, theo ý nghĩa phổ thông của người đời.

“Thói quen xấu tệ” có cái dễ bỏ, dễ phá hủy, dễ “tiêu hóa”; cũng có cái bền vững, khó bỏ, khó diệt trừ. Vậy thì “Phệ hạp” tức là lấy Giới – Định, lấy kỷ luật và quyết tâm hòa hiệp lại, như hai hàm rằng khép lại với nhau, làm vũ khí triệt tiêu thói hư tật xấu. Người Quân tử phải tỉnh táo để nhận ra khuyết điểm, cần dũng cảm để nói ra, phơi bày khuyết điểm ấy cho mọi người dạy bảo; cuối cùng, phải dùng hết ý chí và lòng tự tin ứng dụng Giới – Định mà thành tựu thiện pháp, xóa bỏ thói hư tật xấu thì được mọi sự tốt đẹp “hanh” thông. Ấy là thật nghĩa của “Phệ Hạp, hanh”.

Kinh nói: Lợi dụng ngục.

“Ngục” là nơi giam giữ kẻ tệ ác xấu xa, nay ví thói hư tật xấu cũng giống như kẻ tội phạm, cho nên Thánh nhân sử dụng hình ảnh ngục tù để biểu đạt cho người Quân tử biết rằng: thói xấu cần phải nhốt giam lại bằng “ngục tù” Giới luật ( nhà Nho gọi là Lễ Nghĩa ), nhốt giam nó lại thì nó không phương hại tới người khác và chính mình. Nhốt rồi thì làm sao nữa ? Phải quản thúc nó, phải dạy dỗ nó, phải uốn nắn nó, cho tới khi nó từ “ác” thành “thiện” rồi mới được trả nó về với xã hội bên ngoài, khi đó sẽ trở thành người Đạo Đức mà làm lợi ích cho nhân loại.

Cho nên, nói “dụng ngục” – tức là sử dụng hình phạt, sử dụng kỷ luật, là sự tự quở trách bản thân, là sự tự răn nhắc bản thân với vô vàn hình thức đa dạng khác nhau như trách móc, khuyên nhủ, chỉ ra sự nguy hại, cho thấy hậu quả bất như ý v…v mỗi khi Thân Tâm lệch lạc sai đường, như chú bé chăn trâu dùng roi đánh vào mông trâu, mỗi khi trâu đi không đúng nơi đúng chỗ, ăn vào lúa mạ của người. Trâu đi sai đường là thói xấu cần bỏ, ăn lúa mạ là tổn hại cần tránh, đó là việc làm tiêu mòn phước đức, chú bé là Tâm người Quân tử quyết trí rèn luyện Đức Hạnh, roi là “ngục” hình , là kỷ luật, là hình phạt thể hiện sự cứng rắn mạnh mẽ mỗi khi bản thân làm sai trí hướng đã chọn, làm sai lời dạy của Hiền Thánh đã trao truyền. Do sự sửa mình mạnh mẽ và đầy lòng quyết tâm ấy, lỗi lầm có lỡ xảy ra cũng liền được khắc phục, lâu dài cái lực của thói xấu nó yếu đi, sự chi phối thân tâm không còn mạnh mẽ như trước, lặp lại và giữ gìn lâu dài như thế thì tất nhiên mọi việc từ từ rồi sẽ được “hanh” thông như ý thôi. Ấy là từ bức tranh được trâu, tới bức tranh cưỡi trâu thong dong, là hình ảnh lột tả quá trình “Phệ Hạp, lợi dụng ngục” mà bậc Thánh nhân khéo léo sử dụng hình tượng mà răn dạy người Quân tử đó vậy.

1749046517081.webp
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749062245731.webp

Thủy Phong Tỉnh

井: 改邑不改井, 无喪无得, 往來井井.
Tỉnh: Cải ấp bất cải tỉnh, vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh.
汔至, 亦未繘井, 羸其瓶, 凶.
Ngật chí, diệc vị quất tỉnh, luy kì bình, hung.

“Tỉnh” là cái giếng, cũng nghĩa là đào sâu xuống lấy mạch nước để dùng.

Trên thì “lo ăn”, dưới thì “lo uống”, kể ra Thánh nhân cũng “bận rộn” với việc thường nhật, không thua gì phàm nhân tại thế gian cả. Chỉ có khác người thường ở chỗ, người thường vì mình mà lo lắng, Thánh nhân vì người mà “lo toan", cho nên phải nói ra, kẻo người vì “vô minh” che mờ nên chẳng rõ, rồi lại phạm sai lầm, khiến cho một đời trôi qua, sinh ra thì khóc oe oe, đi rồi nước ngắn nước dài chảy ra, chẳng hiểu sao lại đẻ ra, sinh rồi lại tử hóa rồi hoàn không. Cho nên, nỗi lo của Thánh nhân cũng giống như lòng thương rộng lớn của Trời Đất, vì thế khi làm người phải biết ơn ấy để gắng sức luyện rèn thân tâm, theo lời dạy ân cần mà sống một kiếp người khỏi uổng phí vô ích.

Kinh nói: Cải ấp bất cải tỉnh.

“Cải” là sửa, là chữa. “Ấp” là kinh đô, là đất được phong, là một vùng đất. “Cải ấp bất cải tỉnh” nghĩa là có thể đổi kinh đô, có thể đổi trú xứ mà chẳng thể đổi giếng nước. Vì sao vậy ? vì giếng đào lấy nước ngầm từ lòng đất, nước ngầm chảy theo mạch ở dưới sâu, đâu thể thay đổi, nên giếng cũng phải thuận theo mà giữ nguyên hiện trạng đó thôi. Thân thể như cái ấp có thể thay đổi trẻ hóa già, yếu hóa mạnh, chứ tâm hồn thì nó vẫn cứ trơ trơ ở đó, trường tồn với trăng sao muôn thủa.

“Tâm hồn” là giếng nước, ý niệm trong sáng thiện lành là dòng nước mát không bị vẩn đục ô nhiễm. ( Có những cái “giếng” tâm hôn, mà "nước" không uống được, không dùng được, bởi dòng nước chảy trong tâm hồn ấy chứa đầy “độc tố” như : oán hờn, thù ghét, giận dữ, ganh tị, mưu hại, gian dối v..v ). “Thân thể” là vùng đất quan trọng mà tâm hồn “giếng” đặt để, nương vào. “Cải ấp” tức là sửa đổi thân miệng ý sao cho nó thiện lành, tốt đẹp như lời dạy của chư vị Hiền Thánh. Thân thì sửa, tại sao tâm lại không sửa ? Bởi Tâm là cái giếng, giếng có thể đục, có thể trong, sự trong đục là ý niệm "dòng nước" lăng xăng trôi chảy không ngừng trong tâm hồn “giếng”, chứ tâm “giếng” vốn chẳng động, chẳng thay đổi, chẳng thiện ác, nếu tâm “giếng” lúc khởi ý ác thì chuyển thành tâm ác thế làm sao cái thiện nó sinh ra được nữa ? (VD: có những kẻ sát nhân máu lạnh, nhưng lại rất hiếu thuận cha mẹ yêu thương con cái, thế thì cái hiếu thuận là thiện, sự mất nhân tính là ác, vậy lúc hiếu thuận cái ác nó ẩn khuất chỗ nào ? khi nó xuất hiện thì cái hiếu thuận nó lại lẩn trốn đi đâu ? Vì thế biết rằng, ý niệm có thay đổi thiện ác, chứ tâm hồn thì luôn như thế, chứa đựng chứ không ô nhiễm.) Do vốn thường trụ nên không cần “cải” sửa, mà thực tế thì muốn thay cũng thay không nổi nữa, nó vô hình vô tướng, lấy gì mà thay nó được đây ? Cho nên nói “bất cải”, là ý chỉ cần giữ vững sự thiện tâm được rồi, không cần thay đổi theo sự thay đổi của thân thể. Vì thân thể có sinh có diệt, ý niệm theo cảnh vật xoay chuyển có mừng, giận, buồn, vui; nhưng tâm hồn thì sinh ra đã thế, chết đi vẫn vậy, cho nên “bất cải” cũng là nhắc rằng chỉ cần giữ nguyên như ban sơ là được, như lúc mới sinh vậy, là tốt đẹp lắm rồi.

Lão Tử nói: “Chuyên khí trí nhu, năng anh như hồ ?” – Tập trung chí khí tới mức mềm mại, có thể như là đứa trẻ thơ chăng ?, tức là lấy sự thuần khiến như trẻ thơ làm con đường trở về với Đại Đạo. Mạnh Tử nói: “Đại nhân giả, bất thất kỳ xích tử chi tâm dã” – Bậc đại nhân, là người không đánh mất tấm lòng thơ trẻ. Cả hai vị tiền nhân đều nhấn mạnh sự “trong sáng” như trẻ thơ, là yếu tố quan trọng để thành tựu Đạo Đức, so với nghĩa “Trinh” mà Kinh Dịch để cập cũng có những nét tương đồng nhất đinh, gọi là tương đồng bởi vì đức Trinh trong Dịch nó “trưởng thành” nên có trong sự trong sáng, trong sạch, tinh khiết, một bầu trời Trí Huệ vô cùng rộng lớn, cho nên vừa giúp đời giúp người lại thành tựu luôn cả cho mình nữa vậy. Còn “trẻ thơ” thì chỉ có thể trong sáng, mà thiếu cái dụng “trí Đức”, vì thế chỉ nói là tương đồng, chứ chẳng nói là giống nhau. Như trong 10 bức tranh Thiền, thì tâm “trẻ thơ” có thể tới được “Quên trâu còn người” hay “Người trâu đều quên”. Còn ở đức Trinh của Trời Đất có thể tới chỗ “Trở về nguồn cội” hay “Thỏng tay vào chợ.” Ấy là chỗ khác biệt sâu sắc, ở đây chỉ nói lược qua mà không bàn sâu nữa, sẽ dành cho chủ đề ấy vào một dịp khác thích hợp hơn.

Kinh nói: Vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh

“Táng” là đánh mất, là rơi mất. “Đắc” là đạt được, có được, gặp phải. “Vô” là chẳng phải; là đừng, chớ, không nên; cũng có nghĩa là dù cho. “Vãng” là đi. “Lai” là đến. “Tỉnh tỉnh” là nước lên không ngưng; cũng có nghĩa là sáng suốt, là tỉnh táo – tức có ý thức và hiểu rõ mọi chuyện đang diễn ra. ( Đây là cách nói khác của từ “Chánh niệm” hay để tâm, đặt tâm – nó ngược nghĩa với “vô tâm” hay thất niệm).

Toàn câu Kinh trên có hai tầng nghĩa, một là: Chẳng vơi chẳng đầy, thay nhau mà múc. Hai là : Chẳng phải lo đánh mất, chẳng phải cố đạt được, tới lui đều sáng suốt.

Người Quân tử trên bước đường sửa chữa lỗi lầm, hoàn thiện bản thân mình; tất nhiên là sẽ có lúc hăng hái tiến tới, lại có lúc lui sụt thả trôi - ấy là bản tính của phàm nhân. Cho nên hết kiếp này sinh rồi kiếp khác tử, sửa mình luôn luôn như đun nước cho sôi, nhưng cứ nước gần sôi lại rút củi dập lửa, thành ra trải qua bao thời gian mà vẫn dậm chân tại chỗ. Chính vì hiểu rõ tình trạng ấy, Thánh nhân đặc biệt khuyên răn: trong lúc sửa mình, thay đổi thân tâm cho nó hướng thiện hướng thượng, giả như có bị lui sụt, lúc được lúc không, lúc thì như Bụt hiện thân, khi thì lại như La Sát giáng thế, thì cũng không sao, chớ lo, đừng có bận tâm mà suy nghĩ nặng nề quá, biết sai sửa sai, chưa thành thì làm lại, sự sửa mình vốn dĩ không phải là cuộc đua ai nhanh thì về đích sớm, ai sớm thì được quà to, mà ở đây là làm cho mình, để cho mình tốt lên mỗi ngày mỗi kiếp, vì thế không có được hay mất gì cả, chỉ là không ngừng đi lên, không ngừng tiến bộ, luôn giữ lòng trong sáng và thành thật, nhìn nhận rõ ràng thân tâm mình trong mọi lúc mọi nơi, khi tới khi lui miễn là rõ ràng sáng suốt, biết mình như nào và cần phải làm gì tiếp theo là được. Có đi không ngừng thì có ngày tới đích. Đừng có nản lòng mà tự ti bỏ cuộc !

Luận Ngữ, ghi lại lời Khổng Phu Tử rằng: ”Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” – tức là biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết, đó mới thật là biết vậy. Thế chỉ cần biết mình đang làm gì, chớ mà bận lòng sự được mất, chính cái biết rõ ràng bản thân tức là “ngọc quý” cần giữ gìn và nuôi dưỡng trong sự sửa mình đó vậy. Tâm niệm, suy nghĩ mình thay đổi tích cực hay tiêu cực, Thân mình thay đổi dễ chịu hay khó chịu, hết thảy đều biết rõ ràng, rồi từ từ điều chỉnh cho đúng hướng, như thế thì sự sửa mình của ta đã đạp tiếp dấu chân của hiền Thánh tiền nhân rồi đó vậy.

Kinh nói: Ngật chí, diệc vị quất tỉnh, luy kì bình, hung.

“Ngật” là nước cạn. “Chí” là đạt đến. “Diệc” là tuy. “Vị” là chưa. “Quất” là sợi dây kéo nước từ giếng lên. “Bình” là gầu đựng nước, đồ đựng nước buộc vào sợi dây – “Quất”; “kì bình” là cái bình mà buộc vào xợi dây ấy. “Hung” là xấu, không tốt lành.

Toàn câu Kinh trên nghĩa là: Nước giếng tới mức cạn rồi, lấy dây thả bình để kéo nước mà chưa được nước đã bể mất cái bình, thật đúng là xui xẻo.

Thánh nhân lấy việc thường ngày hay làm là kéo nước giếng lên sử dụng, thế mà bao ngày kéo nước chẳng sao, tự nhiên nay nước thì không lấy được còn làm bể mất cái bình, chỉ vì trước lúc lấy nước không coi giếng có còn nước hay chăng ? Thế thì có phải là làm việc mà không để tâm, làm mà chẳng biết mình đang làm gì, chỉ có làm như cái máy, lặp lại một cách vô thức, cho nên mới xảy ra cái việc bể bình, hối tiếc như vậy hay sao ?

Việc thường ngày còn không để tâm, việc nhỏ còn chẳng để ý thì những việc lớn lao hơn, tế nhị hơn, trọng đại hơn làm sao mà không để xảy ra hư hỏng, sao mà chẳng chịu “hung” xấu cho được. Rốt cục cũng tại bởi chẳng giữ viên ngọc quý “chánh niệm” thường biết rõ ràng trong mỗi việc làm mà ra cả.

Ô hay ! Lời Thánh nhân quá đỗi chân thường, trải ngàn năm rồi vẫn vẹn nguyên giá trị, âu cũng tại lòng người lao xao, nên lãng quên mà bỏ lỡ !
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Có khi nhiếc móc chẳng xong,
Có khi kìm nén để lòng tạm yên.
Có khi rộng lượng, được liền;
Cũng khiến dạ phiền nhẹ bớt âu lo.
Sửa mình khéo léo thuận cho,
"Căng", "chùng" đúng lúc, thì không mệt nhoài.
Đường dài việc khó gắng ai,
"Giá" thời trả hết, việc thời thành công.
"Tổn", "Hàm" ta bước thong dong,
Thả trâu gặm cỏ, ngồi nằm rung chân.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749115759324.webp

Sơn Trạch Tổn

損: 有孚, 元吉, 无咎, 可貞, 利有攸往
Tổn: Hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng.
曷之用 ? 二簋可用享
Hạt chi dụng? Nhị quỹ khả dụng hưởng.

“Tổn” nghĩa là đè nén xuống, là giảm bớt; cũng có nghĩa là nhiếc móc, đay nghiến; là làm hại, là hủy hoại. “Phu” nghĩa là sự thành tín; “Hữu phu” là có sự thành tín. “Nguyên” tức ban sơ, là khởi thủy; là trạng thái trong sáng lúc mới có mặt trên cuộc đời này. “Cữu” là lỗi lầm; “Vô cữu” là không phạm lỗi lầm. “Khả” nghĩa là có thể; là thích hợp; “Trinh” là sự trong sáng, trong trắng, là tiết hạnh cao quý. “Hữu du vãng” là đi ra ngoài; “Lợi hữu du vãng” là đi xa ra ngoài thì có lợi. “Chi” nghĩa là thuộc về. “Hạt” nghĩa cớ gì, tại sao. “Hạt chi dụng ?” nghĩa là dùng nó bằng cách nào ? “Quỹ” là bình đựng lúa, nếp, kê v..v để cúng tế thời xưa ( "Quỹ" thường có hình tròn, có nắp đậy, có hai quai cầm hai bên và có chân đế. Chất liệu phổ biến là đồng, nhưng cũng có thể làm bằng gốm hoặc các vật liệu khác.) “Hưởng” là dâng lên, là tiến cống. “Khả dụng hưởng” là có thể sử dụng để dâng lên.

Toàn bộ các câu Kinh trên nghĩa là: Hãy giảm bớt hình thức, có sự thành tín với tâm trong sáng như thủa phát tâm ban đầu là đủ khiến vui lòng rồi, mà cũng không phạm lỗi lầm chi cả. Khi có việc ra ngoài, chỉ cần giữ gìn sự thuần khiết phù hợp là sẽ được lợi ích. Cách làm như thế nào ? Sử dụng hai bình đựng lúa nếp để dâng lên là được.

Thánh nhân lấy hình thức tế lễ giản dị để biểu đạt cho sự sửa mình của người Quân tử, cái quý nằm ở chỗ “thành tín”, “trong sáng” và “kính cẩn”, nghĩa là ở sự chân thật nội tâm, chớ không phải ở nơi, ở lúc, ở hình thức bên ngoài cho người khác thấy, để người khác coi. Tu sửa mà chỉ để cho người khác coi vào, nhìn vào và cố làm sao để họ không chê bai mà khen ngợi mình, thì ấy không phải là sự sửa mình chân chánh. Việc làm như thế chỉ nuôi lớn bản ngã, là sự làm màu ra vẻ, không đi vào thực chất. Nó chỉ khiến tăng thêm sự che đậy, sự giả dối của nội tâm. Không có ích chi cho sự thành tựu Đức Hạnh chân thật, nó không khiến ta đạt được sự an vui đích thực và khả năng bình thản trước sóng gió nghịch cảnh. Nó sẽ làm ta mệt mỏi hơn vì phải đóng diễn nhiều vai nơi thế gian.

Kinh nói: Tổn, Hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng.

“Tổn” là giảm bớt, là nhiếc móc, là đay nghiến, là sự hủy hoại. Tại sao sự nhiếc móc xuất hiện, sự đay nghiến xuất hiện ? Vì ta làm sai cách hay vì người không thích ta; hay vì ta tức giận chính mình vì sửa chữa hoài mà không hết thói hư tật xấu ? Tại vì thói xấu còn thì chướng nạn dĩ nhiên xuất hiện, “nhiếc móc”, “đay nghiễn” chỉ là một trong những thử thách thường tình để hỗ trợ ta bào mòn thói xấu thôi, không có gì bất ngờ cả, thậm chí cần phải cảm ơn vì nó xuất hiện, chớ nó không xuất hiện thì ta lại cứ nghĩ mình ổn rồi, khỏi cần sửa chữa gì thêm nữa, nghĩ rằng ta đã tốt đẹp rồi khi mà ta chưa như thế ấy là nuôi lớn sự nguy hại âm thầm, ắt sẽ phải chịu quả đắng về sau.

Người ta thường nói: “Cái gì cũng có cái giá của nó”, sự tu sửa bản thân dĩ nhiên cũng vậy, cái “giá” cũng không hề “rẻ”, giá đó là gì vậy ? Là nhận chịu thiệt thòi ! Tại sao sửa mình là việc trong mình lại phải nhẫn chịu thiệt thòi ? Vì sửa mình cốt làm cho lòng trong lặng hơn, nghĩa là phải bỏ cái Tôi của mình qua một bên, bỏ cái ý riêng mà thay vào đó là cái lợi chung. Cho nên, không làm việc mưu cầu cho bản thân mình thì dĩ nhiên phải thuận theo khát vọng của người, vì người mà quên mình thì cái Tôi nó mới tiêu mòn, thói hư tật xấu nó mới không có nơi trú ngụ. Bằng không thì người bảo anh làm vậy không đúng rồi, thì mình đáp không đúng gì mà không đúng, tôi làm vậy suốt có sao đâu ! Hoặc khi có người nói, anh đừng như thế nữa chẳng có lợi đâu, thì mình nói đấy là quyền tự do của tôi, không khiến anh bận tâm, tôi thích thì tôi làm, có vấn đề gì nào ? Thế đấy, cứ hễ mà người ý kiến là mình phản bác lại liền, để bảo vệ quan kiến cá nhân. Bo bo giữ lấy ý mình thì cái Tôi nó lớn dần theo năm tháng, sự cố chấp nó nở rộ như cỏ dại mùa Xuân thì làm sao mà thói hư tật xấu nó thay mầu đội dạng thành thói lành việc tốt cho được. Dẹp trừ bản ngã là gốc của tu sửa, do đó, nhẫn chịu thiệt thòi là cái giá phải trả đi. Nói là thiệt, chứ thật ra, nếu mình bỏ đi cái dở mà thu về cái tốt lành, thì rốt cục mình là người được lợi nhất chớ có ai được lợi hơn mình đâu. Nên bỏ cái dở, hạ cái Tôi, lắng nghe cái đúng và tự sửa cái sai thì ấy là tự mình thương mình, tự mình cứu mình, tự mình làm điều tốt mang lại hạnh phúc an vui lâu dài cho chính mình đó vậy. Đó là vì sao tuy “tổn” mà lại được “Cát”, “lợi”. Thánh nhân nhấn mạnh trong quá trình tự sửa mình, thì nhẫn chịu “tổn” hại thiệt thòi là thứ bậc đầu tiên.

Vậy khi bị chỉ trích, khi bị lên án, khi bị góp ý v…v tức là khi bị người tác động tới thì mình nên làm sao ? Cứ thành tín “hữu phu” là được. Chỉ cần vậy là đủ rồi, dụng đúng cái chỗ dạy của bậc Hiền Thánh: Biết sao thì nói vậy, không biết thì nói là không biết, làm được hay không làm được thì cứ nói thẳng ra, khó khăn chướng ngại ở đâu thì cứ khai cho hết…vậy đó, phơi bày gan ruột ra cho thiện hạ mổ xẻ, thì ắt là người có lòng sẽ chỉ vẽ cho ta con đường ta đi mà cũng không chấp nhất ta làm gì, vì ta là người thành thực không che dấu. Ai mà lại không yêu quý sự thành thật cơ chứ ? Chỉ có kẻ muốn chịu khổ về sau thì mới ghét bỏ sự thành thật mà thôi !

Hễ muốn thành thật thì phải giữ tâm trong sáng, cũng như sự thành thật sẽ giúp việc giữ gìn tâm trong sáng được dễ dàng hơn “khả trinh”. Không có so đo suy tính thiệt hơn, không để trong tâm có chút lòng toan tính lao xao nào, như Trời trong xanh không mây che phủ, thuần khiết “trong sáng” thì sự thành thật nó mới lột tả được đúng hiện thực, nó mới mang lại “Cát” hỷ niềm vui cho cả mình và người đón nhận. Không tin ư ? Làm thử coi ! Khẩu quyết Thánh nhân dạy là: “lòng trống rỗng và nói ra sự thật”, đơn giản vậy đó, tu sửa “dễ như ăn kẹo”, thêm bớt nhào nặn mới khó, chứ khai thật ra những gì hiện hữu thì khó gì đâu nào phải không ?

Như trước đây đã từng nói, việc đi ra ngoài cuộc đời, va chạm cuộc sống, tức là sự cọ sát mài dũa tâm tánh nó luôn có “lợi” cho việc sửa mình, hơn là chỉ ngồi yên một chỗ xa cách tất cả, vì do có sự tương tác nên nó dễ bộc lộ thói quen – thứ mà phản ứng lại ngay khi bị tác động là thứ chân thật – lấy đó làm chỗ nhìn nhận học tập, làm chỗ tu sửa. Vì thế việc ra ngoài “hữu du vãng” mang theo tâm hồn thành thật không quanh co, khả dĩ có “lợi” cho sự rèn luyện tâm tánh, để làm lộ ra đức “Trinh” thuần khiết tiềm ẩn bên trong, là điều nên làm vậy.

Kinh nói: Hạt chi dụng? Nhị quỹ khả dụng hưởng.

Ấy là Thánh nhân đặt mình vào vị trí của phàm nhân mà tự hỏi để mà tự đáp, vì nhiều khi phàm nhân cũng không biết có việc đó để mà hỏi, hoặc có biết cũng chẳng dám hỏi vì sợ bị chê trách. Nên thôi thì, Thánh nhân có lòng, gọi là “tự biên tự diễn”, tự hỏi tự đáp. Tu sửa bản thân phải chịu thiệt thòi, thế làm sao để nhẫn chịu thiệt thòi mà không đòi đè người ra đánh hay là khóc tu tu như trẻ em bị dựt mất kẹo cầm tay đây ? Đơn giản như đang giỡn: “lấy hai cái bình dâng lên”.

Trên nói ăn, nói uống, nay lại nói bình nói lọ nói lúa nói kê, quả là các Ngài cũng thật thảnh thơi, nên nơi nơi đều đảo mắt tới, chính thế mà thích đem cái thí dụ gần kề trước mắt để tỏ cái Đạo sâu sắc bên trong. Tại sao phải lấy bình đựng lúa ? Tại sao phải là hai không phải là ba bốn năm hay một ? Vì tu sửa cần cân bằng khéo léo, nên lấy hai; vì khổ não chẳng khi không mà rớt xuống, đều từ tương tác mà sinh ra nên nói hai; vì sự biết và cái biết luôn song hành không rời nên lấy hai mà không phải là con số khác. Lại nữa vì “bình” có thể chưa đựng lúa kê, là thứ quan trọng cho sự sống và “tâm hồn” lại có thể chứa đựng những ý niệm, là cội gốc sinh ra hành động thiện ác thuận nghich, thế thì lấy “bình” tượng cho “tâm”, lấy “lúa, kê” tượng cho ý niệm thiện lành ích lợi, đem cái ý tốt đẹp trao dâng cho người, đổi lấy lấy cái chỉ trích, cái khó chịu, cái thiệt thòi mà người mang đến cho mình. Nói nôm na là lấy ân báo oán theo kiểu thế tục, vì người đời hay ví von sự nghịch cảnh mình gặp là điều “oán than” vậy đó.

Người xưa nói: “ Oán oán tương báo, hà thời liễu ?” – Đem oán thù đáp trả thù oán thì bao giờ mới kết thúc ? Lại nói : “Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh, thối nhất bộ hải khoát thiên không” – nhẫn một lúc sóng yên gió lặng, lùi một bước biển rộng Trời cao. Y cứ vào đây thì biết cái gốc của sự thành tựu đức “nhẫn” tức là chịu “tổn” mà không khởi sinh ý định báo thù, không khởi lên cái ý muốn báo oán, muốn làm đối phương phải chịu sự đau khổ tương xứng giống mình. Làm như thế thì sao gọi là “tu sửa” gì nữa, đó là trả đũa, là hơn thua mất rồi.

Hãy vui vẻ nhẫn chịu sự “tổn thương” mà hoàn cảnh bất như ý nó mang tới, nhưng sự tổn thương ấy không phải sinh rồi thì giữ nó lại để nó hành hạ thân tâm mình, mà đem sự tổn thương ấy, bỏ vô cái lọ “bình an” mà dâng lên Trời cao với đức Trinh thuần khiết - nghĩa là buông xả nó đi, hóa giải nó đi bằng tâm khoan dung, trong sáng, cao thượng vốn sẵn nơi mình. Trời Đất sẽ đón nhận hết, coi như là lễ vật quý, trao cho Trời Đất cái đó thì lòng mình nhẹ lại, ấy là nghĩa thô nghĩa tế của sự khéo dụng tâm khi phải gặp điều trái lòng khó yên. “Nhẫn khổ thì hết khổ” ấy là chân lý chắc thật, chớ nên lo lắng hoài nghi thêm làm gì !

Chẳng thể mà hễ bị oán than thì ai nấy lại kêu hai tiếng: Trời ơi ! Kêu mà không gửi gì cho nhau thì người ta gọi là kêu réo ầm ĩ, đã kêu Trời ơi rồi, thì nên tặng cho Trời cái nỗi lòng của mình nữa, thì mới được coi là trọn vẹn câu chuyện.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
1749177648878.webp

Trạch Sơn Hàm


咸: 亨, 利貞, 取女吉.
Hàm: Hanh, lợi trinh, thủ nữ cát.

“Hàm” nghĩa là vị mặn; cũng có nghĩa là cảm ứng, cảm mến, giao cảm. “Thủ” là chọn lấy; “Nữ” là con gái. “Thủ nữ” là lấy vợ - chọn người nữ để lấy làm vợ. “Cát” là vui vẻ. “Hanh” là thông. “Lợi” là có ích. “Trinh” là trong trắng, trong sạch, trong sáng.

Trong ngũ vị (chua, cay, mặn, ngọt, đắng), theo Đông Y, vị mặn thuộc hành Thủy, là chất dẫn nuôi tạng Thận – đây là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của con người, có mối liên hệ mật thiết tới sức khỏe sinh lý, khả năng tình dục và sức sống. Tình dục quá độ có thể gây tổn thương thận, rút cạn sức sống khiến cơ thể luôn trong tình trạng mệt mỏi uể oải, dẫn đến khả năng làm việc có ích cho Đời cũng sẽ theo đó giảm sút rất nhiều. Nay Thánh nhân lấy từ “Hàm” để nói ra sự thu hút, mối liên hệ vô hình giữa người với người, giữa nam với nữ. Lại lấy hình ảnh “thủ nữ” – lấy vợ để nói tới trong quẻ “Hàm”, dĩ nhiên ẩn nghĩa sâu sắc rất nhiều, nay chỉ có thể lược nói vài điểm trọng yếu:

Thứ nhất, nam nữ bị hấp dẫn nhau phổ biến nhất là bởi nhan sắc, nhà Phật gọi là sắc dục. Kinh Tăng Chi Bộ, bài Nữ sắc ghi: “Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông, như sắc người đàn bà. Này các Tỷ kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông”. Nay Thánh nhân dạy người Quân tử phải biết rèn luyện Đức Hạnh, lập trí hướng thiện hướng thượng, ắt biết chỗ làm “siêu vẹo” lòng người Quân tử nhất, làm cho người Quân tử khó đứng vững nhất trên sự Đạo Đức đó chính là “nữ sắc”. Vì vậy đặc biệt lấy việc hấp dẫn của sắc đẹp, lấy việc “vui thú” của tình dục làm chỗ cảnh báo cần nên tiết chế, cần phải tiết độ, nếu không sẽ gây nguy hại cho chính mình, mà sự rèn luyện Đức Hạnh cũng khó thành được vậy. Người xưa nói: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan” – người anh hùng ( người có ý chí rất mạnh mẽ ) cũng khó qua nổi ải mỹ nhân. Khó chứ không phải không làm được, nhưng nó khó tới độ Phật Thích Ca còn “than thở” rằng: “Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Ðạo được cả!” <Chương 24, Kinh Phật nói Bốn mươi hai chương>

Thứ hai, ham muốn sắc dục quá độ thì một vợ chưa đủ phải thêm năm thê bảy thiếp, vợ mình chưa đủ thì thấy vợ người hấp dẫn cũng tìm cách để chiếm đoạt, đâu có kể nhân nghĩa Đạo Đức, đâu có kể thị phi phải trái, đâu có kể danh dự nhân phẩm, đâu có kể quả báo về sau. Vì thế mới sinh ra câu nói: "Mẫu đơn hoa hạ tử, tố quỷ dã phong lưu" - Dẫu có phải chết dưới bông hoa mẫu đơn, thì ta vẫn cứ là con ma phong lưu. Quả là "tật bất khả vi" - bệnh hết thuốc chữa !

Do đó, từ chỗ hấp dẫn tới chỗ mê đắm, từ chỗ mê đắm tới chỗ “tham muốn vô độ”, ắt kéo người Quân tử ra khỏi đạo lộ rèn luyện Đức Hạnh, xô đẩy vào vòng tà ác bất nhân. Thực tế trước đây cũng như hiện tại, hành vi “tà dâm” (quan hệ tình dục nam nữ bất chính) dẫn tới tan nhà nát cửa, vợ chồng ly tán, con cái bơ vơ, thậm chí mất mạng tù tội v…v vẫn hiệu hữu như một lời cảnh tỉnh cho Người trên con đường rèn Đức luyện Tài, mang lại lợi ích và hạnh phúc cho Đời, phải nên tự giác mà cẩn trọng.

Kinh nói: Hàm, hanh, lợi trinh.

Người đã thành tâm tu sửa bản thân, thì tất nhiên điều tốt lành người khác cũng cảm nhận được. Nó không chỉ ở lời nói, mà nó là kết quả thực tế thông qua việc làm, lợi ích trong hiện thực chạm tới trái tim người được tiếp xúc nên sinh ra sự cảm mến, sự giao cảm ấy là nghĩa của “Hàm”.

Lại nữa, tâm thành kính hành Đạo Đức giữ Nhân Nghĩa, sửa Tâm Tánh, chẳng những cảm tới người mà còn thông tới các cõi u huyền, còn lên tới tận Trời cao, thấm xuống tận Đất sâu. Vì sao vậy ? Vì “Đức cao quỷ thần kính” – người có Đạo Đức thì quỷ thần đều kính trọng; “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ” – Trời không thiên vị, chỉ giúp người có Đức.

Người Quân tử chịu tủi nhục, trải cay đắng, nhẫn khó nhọc mới thành tựu được Đức Hạnh, làm được việc người khác khó làm, nhẫn được việc người khác khó nhẫn, cho nên tự nhiên có sự giao cảm với Trời Đất, mà cũng chạm tới thế nhân, khiến người cảm mến, Trời thương tình, làm cho mọi sự tự nhiên cũng được “hanh” thông thuận “lợi”, đức “Trinh” sáng rỡ thì nơi nào còn chướng ngại được nữa mà lại chẳng thuận. Hết thảy khó khăn trở thành thử thách, hết thảy thử thách giúp bào mòn thói xấu, như thế thì càng khó càng tốt đẹp hơn, càng mài dũa càng sáng tỏ ra. Ấy là lý do vì sao Thánh nhân nói “Hàm, hanh, lợi trinh”.

Kinh nói: Thủ nữ cát.

Tu thân tốt đẹp rồi thì tất nhiên phải nghĩ đến việc thành gia lập thất, “trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng” là chuyện thường tình nơi thế gian. Ở đây Thánh nhân dạy người sống nơi Đời mà rèn luyện Đức Tài để giúp ích cho Đời, cho nên việc “lấy vợ” cũng là việc có thể làm và nên làm để duy trì một nhân loại trường tồn hạnh phúc. Chẳng riêng gì con người, mà mọi loại đều như thế cả, ấy là việc cần thiết tự nhiên. Vả lại, trong lòng còn luyến ái nam nữ mà bảo đừng làm sự ấy thì cũng chẳng thể được. Tùy thuận nhân gian là việc mà người Trí nên theo, giả như thiên hạ vô sinh thì Phật Thích Ca cũng chẳng cần thọ thai mà ứng hiện giáo hóa, cõi này chẳng gọi là cõi Ngũ Trược, thời này chẳng gọi là thời Ác Thế, Ta Bà Địa Cầu trở thành Cực Lạc nhân gian, lời trong Kinh Dịch của Thánh nhân cũng chỉ là thói thường ngày của mọi người sinh sống. Sách này cũng chẳng cần truyền vì người sống đã phản chiếu ý Kinh hết rồi đó vậy.

Thánh nhân thường mượn việc đời mà làm sáng tỏ việc Đạo, nên việc lấy vợ “thủ nữ” cũng có ẩn ý sâu xa của nó. Tại sao người Quân tử phải lấy vợ ? Có phải vì dục vọng nam nữ, thèm muốn xác thịt mà lấy vợ ? Đó là một lý do, nhưng không phải là lý do chính. Nếu chỉ vì thỏa mãn dục lạc thì cũng có nhiều chỗ , nhiều cách để làm việc đó, nhất là vào thời xa xưa như: vào nhà thổ, nhà chứa, kỹ viện v..v. Việc kết đôi nam nữ có ý nghĩa quan trọng hơn, để nhằm duy trì nòi giống, để sinh con đẻ cái, nên mới cần phải thành hôn.

Duy trình nòi giống tức là truyền trao “tinh hoa” cho thế hệ sau. Đối với người con gái đi lấy chồng thì “trinh” tiết là thứ quan trọng, họ giữ gìn và chỉ trao cho một người duy nhất là người chồng hợp pháp. Đối với Đạo pháp thì là Đức “Trinh” - sự trong sạch của tâm hồn cao thượng, thuần khiết từ khi mới sinh ra đời chưa nhiễm bụi đời – là thứ quan trọng nhất. Thánh nhân muốn nói rằng, khi người Quân tử biết tu sửa và đã tu sửa được thành tựu, đã làm sáng tỏ được Trinh đức của Đất Trời nơi mình, thì cần đem cái lối đi, cái đường hướng ấy trao lại cho thế hệ sau, để đời đời người người được hưởng sự lợi ích, chẳng cho “Trinh” đức bị chôn vùi theo năm tháng thời gian. Ấy cũng là một trong các lý do vì sao, Kinh Dịch vẫn tiếp tục được giữ gìn, được trao truyền không ngừng từ thời Thượng cổ cho tới tân bây giờ. Đó là nỗi lòng, là hoài bão của Thánh nhân, muốn làm lợi ích cho nhân loại muôn đời mãi mãi.

Nhân loại có thể sẽ bị diệt vong nếu không còn sự kết đôi và sinh sản. Thánh nhân lấy hình ảnh “thủ nữ” có ý nghĩa quan trọng tới sự tồn vong của nhân loại để biểu đạt cho sự tiếp nối và duy trì Đạo Đức, sự rèn luyện Đạo Đức cũng có ý nghĩa quan trọng như thế. Không có Đạo Đức, con người không còn coi trọng Đạo Đức, không còn ai muốn rèn luyện Đạo Đức, không còn ai giữ gìn Đạo Đức, nhân loại nhất định sẽ đi tới sự tự diệt. Tại sao ư ? Như trên đã nói, sự Mâu thuẫn ngấm ngầm âm thầm sẽ đưa đến Tranh cãi công khai, rồi nếu ai ai cũng chỉ giữ lấy bản ngã, giữ lấy quan điểm, giữ lấy tư lợi, thế thì sự Cải Cách trong hòa bình chắc chắn là không xảy ra rồi, không Cải Cách trong hòa bình thì chỉ có cải cách trong bạo lực, tức là Chiến tranh. Chiến tranh không ngừng vì không còn ai đủ Đạo Đức để lãnh đạo, để hòa giải, để chấm dứt chiến tranh, tất cả chỉ có ích lợi cá nhân và sự thù ghét lẫn nhau, như thế chẳng đưa tới sự hủy diệt quy mô lớn, đưa đến sự tật diệt còn gì ? Vì thế mà cần truyền trao lại cho thế hệ mai sau, sự quan trọng, sự thiết yếu của rèn luyện Đức Hạnh, trau dồi Trí Tuệ nhằm gìn giữ sự hòa bình, gìn giữ sự tốt đẹp, gìn giữ nhân loại lâu dài trên Trái Đất thân yêu.
 
Sửa lần cuối:

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 52%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
329
Điểm tương tác
146
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
"Lúc leo lét bắt đầu nhóm lửa,
Biết bao nhiêu là sự khó khăn?
Chỉ đìu hiu một mảy gió xuân,
Cũng lo sợ lửa khi tắt mất.
Nghi ngút khói, mặc dầu thổi quạt,
Che một bên lại tạt một bên,
Khi lửa đà chắc chắn bén lên,
Thì mưa gió, chi chi cũng cháy."


Lời Bác Hồ ngày xưa răn dạy,
Nay xét mình kể cũng đúng thay.
Người Quân tử, sửa tánh chóng, chầy.
Lơ đãng chút lại thụt lui như trước.
Tiến một bước mà lùi hai bước,
Tưởng như là muôn kiếp chẳng xong.
Chỉ vững tâm, thường tự nhắc lòng:
Đây việc khó, phải cần nhẫn nại !
Không ngừng bước, sau rồi tất được.
Đấng nam nhi chớ quản gian lao.
Cứ "Đại tráng" - ngay ngắn bước nào,
"Quán" thông suốt, còn chi chướng ngại.
Hai Quẻ ấy Thánh nhân đã dạy,
Nay xét tiếp cho tỏ lòng Trời.
Cầu mong cho Nhân Loại sáng ngời,
Trong Đất Nước, người người hạnh phúc.
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Liên quan Xem nhiều Xem thêm
Top