- Tham gia
- 18/1/13
- Bài viết
- 1,013
- Điểm tương tác
- 289
- Điểm
- 83
<center>MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Triệt Ngộ Thiền Sư
Việt Dịch và Lược giải: HT. Thích Thiền Tâm
(Nguồn: adidaphat.net)
Hán:
1. Nhứt cú Di Đà,
Ngã Phật tâm yếu.
Thụ triệt Ngũ thời,
Hoành* cai Bát giáo.
</center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" height="178" width="518"><tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
</td><td valign="top">
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
</td></tr></tbody></table>
Một câu niệm Phật là tâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm, không thể dùng lời nói và tư tưởng để luận bàn suy nghĩ được. Năm thời là: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và thời Pháp Hoa. Tám giáo là: Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật và Bất định giáo. Dọc là chỉ cho chiều cao thuộc thời gian. Ngang chỉ cho chiều rộng thuộc không gian. Ý nói câu niệm Phật rất mầu nhiệm, về nghĩa lý bao trùm năm thời tám giáo, về cao rộng suốt cả thời gian, không gian.
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
2. Nhứt cú Di Đà,
Ý chỉ như hà?
Tri âm thường thiểu,
Mộc nhĩ thiên đa!
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Ý chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít,
Kẻ tai gỗ riêng nhiều!
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Như bài kệ trên đã dẫn, ta thấy đại khái ý chỉ của câu niệm Phật cao diệu như thế nào! Cho nên Thành Thời Đại Sư đã nói trong một Đề Từ:
<indent></indent>Mà trong A Di hồng danh thâm,
Nghìn muôn khôn tìm ra tri âm!
Thiên Như lòng từ soi chân đăng,
Đưa người mau ra vòng mê lầm...
Ôi câu hồng danh mầu thâm xa,
Sâu cùng chư tông làng thiền na.
Buông ra thâu vào đều như như,
Tương tư mơ đầy trời Liên hoa!
Điệu đàn niệm Phật cao siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? Vì thế nhiều kẻ đã lầm đánh giá Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt, hạng người già cả tu hành. Thật đáng cảm xót vì cảnh ít tri âm, như lời một bậc tiền bối đã than:
<indent></indent>Nga nga hồi chí tại cao sơn,
Dương dương hồ ý tại lưu thủy.
Đàn Bá Nha ít kẻ tri âm,
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm.
Chung Kỳ mất đập cầm không muốn khảy!
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
3. Nhứt cú Di Đà,
Đại ý phân minh.
Xà sanh cung ảnh,
Dược xuất kim bình.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Đại ý thật phân minh.
Rắn sanh từ cung ảnh,
Thuốc lấy ở kim bình.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăn quăn chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đền nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Độ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Đây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp viên đốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu?
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
4. Nhứt cú Di Đà,
Danh dị phương tiện.
Phổ nhiếp quần cơ,
Bàng thông nhất tuyến.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Phương tiện cực mầu lạ.
Nhiếp khắp hết căn cơ,
Rẽ thông vào Bát nhã.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Ấn Quang Đại sư nói: "Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng. Riêng môn Niệm Phật là phương tiện cực nhiệm mầu lạ, để mau thành Phật, chỉ một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đã tôn quí vượt hẳn quần thần "Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả căn cơ, dưới từ loài quỷ súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Cực Lạc. Chữ "Nhất tuyến" đây là chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhã chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một "đại thiền sư". Lại "Nhất tuyến" cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
5. Nhứt cú Di Đà,
Khai vãng sanh môn.
Thị đa phước đức,
Phi thiểu thiện căn.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Mở đường lối vãng sanh.
Đó là nhiều phước đức,
Chẳng phải ít căn lành.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Từ khi Vi Đề Hy phu nhân chán cõi đời trược ác, cầu sanh về thế giới đẹp an vui, đức Thích Tôn mới nói ra môn Tịnh độ mở đường lối vãng sanh, để hành giả được dễ dàng thuận tiến trên bước đường giải thoát. Muốn làm một bậc thượng thiện nhân cao quý ở cõi đẹp mầu như thế giới Cực Lạc, phải là người có nhiều phước đức căn lành. Theo kinh Vô Lượng Thọ: "Chúng sanh nào đời này nghe nói Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc, phát lòng tín nguyện, chí thiết niệm Phật cầu vãng sanh. Những chúng sanh đó trong tiền kiếp đã từng gặp nhiều đức Phật, và gieo trồng nhiều phước đức căn lành rồi".
_____________
*._ h/t sửa chữ Hoàng (màu vàng) thành chữ Hoành (ngang) trong bài kệ thứ nhất.
Triệt Ngộ Thiền Sư
Việt Dịch và Lược giải: HT. Thích Thiền Tâm
(Nguồn: adidaphat.net)
Hán:
1. Nhứt cú Di Đà,
Ngã Phật tâm yếu.
Thụ triệt Ngũ thời,
Hoành* cai Bát giáo.
</center>
Việt:
Một câu A Di Đà,
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt,
Ngang tám giáo trùm xa
Một câu A Di Đà,
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt,
Ngang tám giáo trùm xa
1. Nhứt cú Di Đà,
Ngã Phật tâm yếu.
Thụ triệt Ngũ thời,
Hoành* cai Bát giáo.
Ngã Phật tâm yếu.
Thụ triệt Ngũ thời,
Hoành* cai Bát giáo.
</td><td valign="top">
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt,
Ngang tám giáo trùm xa
Tâm yếu của Phật ta.
Dọc năm thời thấu suốt,
Ngang tám giáo trùm xa
</td></tr></tbody></table>
Lược giải:
Một câu niệm Phật là tâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm, không thể dùng lời nói và tư tưởng để luận bàn suy nghĩ được. Năm thời là: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và thời Pháp Hoa. Tám giáo là: Tạng, Thông, Biệt, Viên, Đốn, Tiệm, Bí mật và Bất định giáo. Dọc là chỉ cho chiều cao thuộc thời gian. Ngang chỉ cho chiều rộng thuộc không gian. Ý nói câu niệm Phật rất mầu nhiệm, về nghĩa lý bao trùm năm thời tám giáo, về cao rộng suốt cả thời gian, không gian.
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
2. Nhứt cú Di Đà,
Ý chỉ như hà?
Tri âm thường thiểu,
Mộc nhĩ thiên đa!
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Ý chỉ diệu bao nhiêu?
Bạn tri âm thường ít,
Kẻ tai gỗ riêng nhiều!
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Như bài kệ trên đã dẫn, ta thấy đại khái ý chỉ của câu niệm Phật cao diệu như thế nào! Cho nên Thành Thời Đại Sư đã nói trong một Đề Từ:
<indent></indent>Mà trong A Di hồng danh thâm,
Nghìn muôn khôn tìm ra tri âm!
Thiên Như lòng từ soi chân đăng,
Đưa người mau ra vòng mê lầm...
Ôi câu hồng danh mầu thâm xa,
Sâu cùng chư tông làng thiền na.
Buông ra thâu vào đều như như,
Tương tư mơ đầy trời Liên hoa!
Điệu đàn niệm Phật cao siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? Vì thế nhiều kẻ đã lầm đánh giá Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt, hạng người già cả tu hành. Thật đáng cảm xót vì cảnh ít tri âm, như lời một bậc tiền bối đã than:
<indent></indent>Nga nga hồi chí tại cao sơn,
Dương dương hồ ý tại lưu thủy.
Đàn Bá Nha ít kẻ tri âm,
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm.
Chung Kỳ mất đập cầm không muốn khảy!
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
3. Nhứt cú Di Đà,
Đại ý phân minh.
Xà sanh cung ảnh,
Dược xuất kim bình.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Đại ý thật phân minh.
Rắn sanh từ cung ảnh,
Thuốc lấy ở kim bình.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăn quăn chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đền nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Độ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Đây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp viên đốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu?
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
4. Nhứt cú Di Đà,
Danh dị phương tiện.
Phổ nhiếp quần cơ,
Bàng thông nhất tuyến.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Phương tiện cực mầu lạ.
Nhiếp khắp hết căn cơ,
Rẽ thông vào Bát nhã.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Ấn Quang Đại sư nói: "Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng. Riêng môn Niệm Phật là phương tiện cực nhiệm mầu lạ, để mau thành Phật, chỉ một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đã tôn quí vượt hẳn quần thần "Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả căn cơ, dưới từ loài quỷ súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Cực Lạc. Chữ "Nhất tuyến" đây là chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhã chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một "đại thiền sư". Lại "Nhất tuyến" cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.
<center>
<table border="0" bordercolor="#034400" cellpadding="0" cellspacing="0" width="500"> <tbody><tr><td height="50%" valign="center" width="50%">
5. Nhứt cú Di Đà,
Khai vãng sanh môn.
Thị đa phước đức,
Phi thiểu thiện căn.
</td><td height="50%" valign="center" width="50%">
Một câu A Di Đà,
Mở đường lối vãng sanh.
Đó là nhiều phước đức,
Chẳng phải ít căn lành.
</td></tr></tbody></table>Lược giải:</center>
Từ khi Vi Đề Hy phu nhân chán cõi đời trược ác, cầu sanh về thế giới đẹp an vui, đức Thích Tôn mới nói ra môn Tịnh độ mở đường lối vãng sanh, để hành giả được dễ dàng thuận tiến trên bước đường giải thoát. Muốn làm một bậc thượng thiện nhân cao quý ở cõi đẹp mầu như thế giới Cực Lạc, phải là người có nhiều phước đức căn lành. Theo kinh Vô Lượng Thọ: "Chúng sanh nào đời này nghe nói Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc, phát lòng tín nguyện, chí thiết niệm Phật cầu vãng sanh. Những chúng sanh đó trong tiền kiếp đã từng gặp nhiều đức Phật, và gieo trồng nhiều phước đức căn lành rồi".
_____________
*._ h/t sửa chữ Hoàng (màu vàng) thành chữ Hoành (ngang) trong bài kệ thứ nhất.
Sửa bởi Amin: