- Tham gia
- 27/10/06
- Bài viết
- 1,775
- Điểm tương tác
- 90
- Điểm
- 48
NỀN TẢNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
THÍCH THIỆN BẢO
Trong bốn chúng đệ tử Phật, số lượng xuất gia so với số lượng tại gia có sự chênh lệch rất lớn, bởi số lượng cư sĩ tại gia đông hơn rất nhiều. Và mặc dù giáo lý Đức Phật hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, song cũng có khá nhiều bài kinh liên quan đến việc hướng dẫn cuộc sống hạnh phúc gia đình. Nếu thực sự đạo Phật là một tôn giáo đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người thì nền giáo lý đó phải đáp ứng được nhu cầu mà con người đang ước vọng và mong muốn với những giải pháp để người cư sĩ tại gia có thể áp dụng làm nền tảng cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Chúng ta đều biết rằng, người con Phật tại gia phải đối diện với rất nhiều vấn nạn trong đời sống mưu sinh, nhất là trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường như hiện nay. THÍCH THIỆN BẢO
Hãy nhìn vào nền giáo lý mà Đức Phật đã trao truyền lại cho nhân loại để thấy rõ Đức Phật rất quan tâm đến người cư sĩ tại gia và trong hệ thống giáo lý đạo Phật những điều đề cập đến cư sĩ tại gia như thế nào. Câu chuyện về nàng Visakha sau đây là một ví dụ điển hình.
Visakha là con gái nhà triệu phú Dhananjaya. Cô rất giàu lòng quảng đại và có tâm đạo nhiệt thành. Mẹ cô là Sumana Devi và ông ngoại cô là nhà triệu phú Mendaka mà cô hết sức thương mến và quý trọng.
Trong kinh đề cập Visakha có sức mạnh như đàn ông và rất mỹ miều duyên dáng từ thuở còn thơ. Tóc nàng tựa như đuôi công và khi xõa ra thì dài tới mắt cá chân rồi cuộn trở lên. Môi nàng đỏ hồng tự nhiên và rất dịu dàng. Răng trắng như ngà, khít khao đều đặn và sáng ngời như hai hàng ngọc. Da cô Visakha mịn màng như cánh hoa sen màu vàng. Cho đến lúc già và có đông con, bà Visakha vẫn còn giữ hình dáng đẹp đẽ của thời son trẻ. Được phú cho năm vẻ đẹp của người phụ nữ - tóc, da, xương, vóc và tuổi trẻ - Visakha lại còn trí tuệ hơn người, sáng suốt trong việc thế gian cũng như trong lãnh vực tinh thần đạo đức.
Năm mười sáu tuổi, nhân một ngày lễ nọ, nàng cùng đi với nhiều tỳ nữ ra mé sông để tắm. Tình cờ một cơn mưa to từ xa kéo đến. Tất cả mọi người đều lật đật bỏ chạy vào tạm trú trong một căn nhà bỏ trống, trừ cô Visakha. Cùng lúc ấy cũng có vài vị Bà la môn đang đi tìm một người phụ nữ có đủ năm vẻ đẹp cho con trai của một vị triệu phú ở Sravasti. Thấy cô không vội vã hấp tấp mà chậm rãi, khoan thai đi vào trú mưa trong nhà, các vị Bà la môn lấy làm ngạc nhiên, hỏi cô tại sao không chạy mau vào cho khỏi ướt mình. Visakha nhân cơ hội, ứng khẩu nói lên quan điểm của mình, rằng cô có thể còn chạy mau hơn những người khác, nhưng cố ý không làm vậy. Và cô giải thích, ví như nếu có vị vua kia đang mặc sắc phục triều đình bỗng nhiên xăn áo quần lên chạy hối hả vào cung điện, thì ắt không thích đáng. Một thớt ngự tượng đường bệ oai nghiêm, mình mang đầy trang sức mà không dõng dạc lần bước, lại đâm đầu bỏ chạy ngoài đường, thì cũng là một cảnh tượng trái mắt. Những nhà sư thanh nhã khả kính cũng bị chỉ trích nếu các ngài chạy xốc xếch y bát. Cũng thế ấy, người phụ nữ chạy ngoài đường như đàn ông sẽ mất hết nề nếp đoan trang phong nhã.
Các vị Bà la môn lấy làm hoan hỷ được nghe những lời cao đẹp ấy và nghĩ rằng cô Visakha sẽ là người vợ lý tưởng cho con trai vị triệu phú kia. Sau đó mọi việc thích nghi được sắp xếp để vị Bà la môn Punnavaddhana, con của nhà triệu phú Migara ở Sravasti, vốn không phải là Phật tử, đi cưới cô Visakha.
Lễ cưới cử hành rất trọng thể. Ngoài những của hồi môn rất quan trọng và những món đồ trang sức quý giá (mahalatapilandhana), người cha sáng suốt còn dạy con gái những điều sau đây:
1.Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ: Không nên nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không nên đem chuyện xấu bên nhà chồng thuật lại cho người ngoài.
2. Không đem lửa bên ngoài vào nhà: Không nên ngồi lê đôi mách, nghe ngóng những chuyện xấu của người ngoài rồi đem về nhà bàn tán.
3. Chỉ cho đến những người biết cho: Đồ trong nhà chỉ nên đưa cho những người nào mượn rồi trả lại.
4. Không cho đến những người không biết cho: Không nên đưa cho những người mượn đồ mà không trả lại.
5. Cho đến cả hai, những người biết cho và những người không biết cho: Phải giúp đỡ thân bằng quyến thuộc nghèo khó, dầu họ trả lại được hay không.
6. Ngồi một cách an vui: Phải ngồi đúng chỗ thích nghi - khi thấy cha mẹ chồng đến phải đứng dậy.
7. Ăn một cách an vui: Trước khi ăn cơm phải coi có dọn đầy đủ cho cha mẹ chồng và chồng chưa. Cũng phải coi chừng xem người làm trong nhà có được chăm sóc đầy đủ không.
8. Ngủ một cách an vui: Trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, ghế bàn, cửa đóng then gài cẩn thận. Xem coi những người giúp việc trong nhà có làm đủ bổn phận của họ chưa và cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa. Thế thường, người nội trợ phải thức khuya dậy sớm, và trừ khi đau ốm, không nên ngủ ngày.
9. Coi chừng lửa: Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi có việc với cha mẹ chồng và chồng phải hết sức thận trọng cũng như phải thận trọng khi làm việc với lửa.
10. Tôn trọng các vị Trời trong nhà: Cha mẹ chồng và chồng phải được tôn kính như những vị Trời trong nhà.
Ngày cô Visakha về nhà chồng tại Savatthi, rất đông người trong thành phố tới tấp gởi đến nàng đủ loại tặng phẩm. Nhưng vốn giàu lòng quảng đại cô gởi quà, tặng lại mỗi người với vài lời ân cần và đối xử với mọi người như chính thân bằng quyến thuộc mình. Do thái độ cao quý ấy, ngay trong những ngày đầu tiên, tất cả mọi người bên nhà chồng đều quý chuộng cô.
Trong văn học Pali, chúng ta thấy đề cập đến nhiều nữ cư sĩ thực hành giáo pháp khi đang sống đời sống gia đình. Visakha, thường được gọi là mẹ của Migara (Migaramata hay Lộc Mẫu), là một trong những nữ cư sĩ lỗi lạc nhất. Ðọc cuộc đời của Visakha, sẽ khiến cho nhiều người cảm thấy rất hoan hỷ. Bà vẫn sống cuộc sống gia đình mà vẫn có thể đóng góp to lớn cho Phật giáo.
Visakha là một nữ Phật tử tại gia lập gia đình và qua những gì mà Visakha ứng xử với bên chồng cho chúng ta thấy, nếu người Phật tử biết ứng dụng tinh thần Phật dạy sẽ chuyển hóa được những khó khăn trong đời sống và có thể cảm hóa được những người trong gia đình chồng và những người chung quanh.
Xây dựng cuộc sống gia đình để tạo nên hạnh phúc trong mối quan hệ vợ chồng con cái là việc làm bình thường của cuộc sống con người. Ðức Phật không phủ nhận có hạnh phúc trong sự sống khi Ngài bảo sống là khổ đau. Trái lại, Ngài chấp nhận có những hình thái khác nhau về hạnh phúc, cả vật chất cũng như tinh thần, cho người thế tục cũng như cho người xuất thế. Trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara-nikàya) một trong năm tạng kinh nguyên thủy bằng tiếng Pali, chứa đựng những bài thuyết pháp của Đức Phật, có những bảng kê những hạnh phúc (sukkàni), như hạnh phúc của cuộc đời ẩn sĩ và hạnh phúc của cuộc sống gia đình, hạnh phúc của khoái lạc giác quan và hạnh phúc của sự từ bỏ thế tục, hạnh phúc của sự ràng buộc và hạnh phúc của sự giải thoát, hạnh phúc vật lý và hạnh phúc tâm linh v.v…
Không ai có quyền ngăn cấm hai người yêu nhau và cũng chẳng ai cấm họ kết hôn với nhau nếu họ không vi phạm các quy tắc chuẩn mực của đạo đức. Đức Phật cũng vậy, Ngài không bao giờ cấm các hàng đệ tử cư sĩ kết hôn với nhau nhưng phải sống với nhau theo các nguyên tắc đạo đức xã hội thì sẽ có được sự hạnh phúc. Để có được hạnh phúc trong hôn nhân, trong cuộc sống gia đình, thì cả người vợ và người chồng phải yêu thương nhau, phải có những điểm tương đồng với nhau thì như thế mới gọi là vợ chồng xứng đôi vừa lứa, là xứng đôi vợ chồng trong tinh thần của Phật giáo.
Có rất nhiều việc quan trọng mà người nam và người nữ nên lưu ý trước khi tính đến chuyện hôn nhân, xây dựng một mái ấm gia đình. Việc đầu tiên đó chính là việc lựa chọn người bạn đời. Nếu mình lựa chọn được người bạn đời thích hợp và có được những điểm tương đồng thì cuộc sống gia đình đầm ấm, trên thuận dưới hòa và hạnh phúc.