Bài 2.- CẬN TỬ NGHIỆP CÓ ĐỊNH HƯỚNG.
Phật giáo Tây Tạng huấn luyện các nhà sư về nghệ thuật sắp xếp cõi đi về sau khi qua đời bằng sự phát nguyện, nghĩa là thoát khỏi vòng dẫn dắt của nghiệp vốn giam hãm và trói buộc con người trong tiến trình tái sinh. Vì có phát nguyện nên năng lực đẩy con người đi vào cuộc đời, về ngay nơi mà họ muốn đến.
Tuỳ theo ước nguyện, mà sự đi về của mỗi con người đi theo một điểm đến nào đó, theo sự sắp xếp (theo nghiệp), hoặc theo nguyện ước (theo phát tâm Bồ đề).
Các vị cao tăng, hành giả chứng đắc và người có sự huấn luyện, làm chủ vận mệnh trong tái sinh đều có thể phát nguyện để đi vào cảnh giới nhất định.
Hòa thượng Thích Trí Thủ, chủ tịch Giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên phát nguyện đời đời kiếp kiếp tái sinh làm lại con người trong cõi Ta bà này chỉ để làm một trong hai việc. Thứ nhất, nếu tái sinh dưới hình thức là người cư sĩ, ngài phát nguyện sẽ là vị minh quân hay nguyên thủ quốc gia để hướng dẫn mọi người trở về con đường chánh pháp, mang đạo lý Phật truyền bá cho muôn dân; giúp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cơm no, áo ấm, lúa thóc được mùa, mưa thuận gió hòa; chiến tranh, khủng bố, đói nghèo không còn nữa.
Thứ hai, nếu tái sinh là người tu sĩ, ngài phát nguyện luôn là người lãnh đạo Giáo hội, để hướng dẫn cho các thế hệ sau đi đúng quỹ đạo của chánh pháp, giúp ích cho người hữu duyên với Phật pháp.
Sự phát nguyện lúc lâm chung sẽ định thành cận tử nghiệp có định hướng, giúp cho sự ra đi sẽ ở một trong hai nơi này. Ngài đã qua đời vào năm 1984.
Nếu áp dụng nguyên tắc tái sinh trung bình là 9 tháng 10 ngày trong thai mẹ, cậu bé nào ra đời khoảng một năm sau trong khoảng thời gian Hòa thượng viên tịch, chỉ cần quan sát tâm tính, hành động, lời nói, việc làm có những dấu hiệu gần giống Hòa thượng lúc sanh tiền thì đoán biết đó là hậu thân của Hòa thượng
Nghiệp do con người tạo ra trở thành chất keo gắn bó, nhất là những gì gắn bó trong mấy mươi năm cuộc đời tạo cảm giác gần gũi, thân mật hơn cái vừa mới quen. Ví dụ ở đạo tràng Pháp Hoa - chùa Diệu Tú này, phần lớn quý Phật Tử mặc áo tràng lam theo văn hóa pháp phục của Phật giáo miền Nam.
Nếu đạo tràng này được thiết lập ở miền Bắc trong trong những năm trước thì quý vị sẽ mặc áo tràng nâu của miền Bắc tượng trưng cho sự thanh bần. Ai đã quen với áo tràng lam, đến cuối đời chắc chắn vẫn sẽ tiếp tục mặc màu áo này. Áo tràng lam vẫn gắn bó hơn so với áo tràng nâu. Hoặc quý vị nào có thói quen dùng xâu chuỗi để lần và niệm Phật, giá trị xâu chuỗi có thể chẳng đáng là bao.
Rồi quý vị được một nhà sư tặng một xâu chuỗi khác bằng đá quý, mà giá trị cao gấp nhiều lần so với xâu chuỗi mà mình đang lần niệm, nhưng quý vị vẫn cảm thấy nó không quý bằng.
Nếu được lựa chọn, chắc chắn quý vị sẽ chọn xâu chuỗi gắn với sự hành trì của mình trong nhiều năm qua Khi còn sống, bất cứ kỉ niệm vật nào đều tạo nên sự gắn bó.
Đến lúc qua đời, tất cả năng lượng, hành động, chức nghiệp, và sự hành thiện của con người không bị mất đi. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng, nó tồn tại cùng một lúc tại thời điểm mà ta đầu thai, tâm thức ta trở thành phôi trong bào thai người mẹ. Vì vậy, nhiều cậu bé hay cô bé vừa mới chào đời đã có những thiên hướng bẩm sinh, mà tâm lý học Phật giáo gọi đó là:“câu sanh chủng tử”, tức là những hạt giống năng khiếu xuất hiện ngay cùng thời điểm đứa bé ấy chào đời, khiến chúng có thói quen chọn những vật liệu từng quen thuộc, gắn bó.
Hành giả nào ở đời trước từng có thói quen lần chuỗi, niệm Phật, khi tái sinh ở đời sau nếu quan sát sẽ thấy rõ trong buổi lễ thôi nôi; đứa bé ấy có khuynh hướng chọn xâu chuỗi - một vật liệu từng gắn bó với nó từ đời trước. Nếu là một nhà sư tu hành chân chính, phát nguyện trở lại cuộc đời để độ sinh, khi nhìn thấy xâu chuỗi, cái mỏ, cái chuông chắc chắn đứa bé sẽ chọn những vật dụng biểu tượng của người tu. Bởi vì với quá khứ từng là một nhà sư trong niềm an vui, hạnh phúc phục vụ nhân sinh, khiến người đó có khuynh hướng gợi nhớ lại những hạt giống ấy
Người tu có phương pháp có thể làm chủ được vận mệnh lúc lâm chung, để tái sinh ở những gia đình thích hợp với nguyện ước của mình, tiếp tục thực hiện công việc còn dở dang.
+++++++++++++
Thảo Luận:
Năng lượng để tái sanh có 2: 1. Nghiệp dẫn, 2. Nguyện dẫn
1. * Nghiệp:
- Có 3 nơi : 1.Thân, 2. Khẩu, 3. Ý
- Có 2 khuynh hướng: 1. Thiện, 2. Ác
* Dẫn đến 6 đường:1 Thiên, 2 A tu La,3 Người, 4 Địa ngục, 5 ngạ quỷ, 6 súc sanh.
- 3 Nghiệp Ác dẫn đến 3 đường khổ : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
- 3 Nghiệp Thiện dẫn đến 3 đường Vui: Thiên, A tu La, Người.
2. Nguyện dẫn: Do TÂM có tu.- Dẫn đến 4 Cảnh Thánh: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Phật dạy:
“Trong chính tấm thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng, Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian”
(Kinh Rohitassa: )
Cũng có kệ rằng:
Vạn pháp giai tùng tâm tự hiện,
Lục phàm tứ Thánh thể hà thù,
Mê thời vọng hiên thiên sai biệt,
Nhất niệm hồi quang tánh tự tri.
nghĩa
Vạn pháp đều do tâm mà hiện,
6 phàm, 4 Thánh cũng như như,
Vọng tâm mê tánh ngàn sai khác,
Một phút hồi quang lý nhất Như.
Có thể tóm tắc: Thân này, Tâm này, Nghiệp này, Nguyện này, 6 Phàm này, 4 Thánh này. Đều do TÂM sở Hiện.- có trong tấm thân một trượng này.- Chớ không phải tìm ở đâu xa.
|