- Tham gia
- 27/10/06
- Bài viết
- 1,775
- Điểm tương tác
- 90
- Điểm
- 48
TAM PHÁP ẤN
Định Huệ dịch
(Trích dịch từ Phật Giáo Thiền Học Dữ Đông Phương Văn Minh của Trần Binh)
Định Huệ dịch
(Trích dịch từ Phật Giáo Thiền Học Dữ Đông Phương Văn Minh của Trần Binh)
Ba pháp ấn là ba con dấu xác nhận ba giáo nghĩa "Các hành vô thường, các pháp vô ngã, niết-bàn tịch tịnh" là yếu lĩnh của Phật pháp. Nội dung này được thấy rất sớm trong phẩm Tứ Đoạn Ý, KINH TĂNG NHẤT A-HÀM qua bốn nghĩa : "Các hành vô thường, các hành đều khổ, các pháp vô ngã, niết-bàn ngưng nghỉ" thành bốn pháp ấn. Về sau, các Luận sư đem "Các hành đều khổ" sáp nhập vào "Các hành vô thường" thành ba pháp ấn.
KINH LIÊN HOA DIỆN ghi : "Tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã và niết-bàn tịch diệt là ba pháp ấn".
LUẬN THÀNH THẬT nói : "Tất cả pháp vô ngã, các pháp vô thường, niết-bàn tịch tịnh là ba pháp ấn, tất cả mọi lý luận đều không bác phá được, vì đó là chân lý".
Ba pháp ấn hay bốn pháp ấn, chính là chủ đề được các Kinh A-hàm lặp đi lặp lại nhiều lần, và chúng cũng khái quát yếu nghĩa của 4 đế, 12 nhân duyên …
1. Pháp ấn "Các hành vô thường"
Hành nghĩa là vận động biến dịch. Các hành là chỉ cho tất cả pháp hữu vi, nghĩa là tất cả các hiện tượng do nhân duyên sanh, có nương gá, có tạo tác, nói một cách khái quát tức là năm uẩn, chúng đều vô thường, trước có nay không, hiện tại có về sau không, tồn tại ở trong sự sanh diệt biến dịch như dòng nước chảy, ngọn lửa cháy, luồng gió thổi. Kinh số 456 trong TẠP A-HÀM ghi : "Tất cả hành vô thường, đều là pháp sanh diệt". Tất cả các pháp sắc, tâm đều như vậy. Thân thể vật chất thì biến dịch từ trẻ đến già, còn hoạt động tâm lý thì niệm niệm sanh diệt không ngừng. Kinh số 289 trong TẠP A-HÀM ghi : "Tâm ý thức ngày đêm chuyển biến trong từng khoảnh khắc giống như khỉ vượn". Đây là ấn tượng được cảm nhận trong lúc trực quán các hiện tượng vật lý và tâm lý con người. Tiến thêm một bước, vận dụng lý tánh phân tích có thể phát hiện sự sanh diệt biến hóa xuyên qua mỗi giờ, mỗi khắc, mỗi phút, mỗi giây, không có thời gian dù một niệm tạm dừng, bất biến. KINH AN BAN THỦ Ý ghi : "Khoảng thời gian búng ngón tay, tâm có 960 lần chuyển biến". Phẩm Phân Biệt Nghiệp, LUẬN CÂU-XÁ nói : "Các pháp hữu vi vừa có liền không. Nếu ở chỗ này sanh thì ở chỗ này diệt, không cho từ chỗ này chuyển đến chỗ khác". Phẩm Tứ Đại Tướng, LUẬN THÀNH THẬT nói : "Vì các pháp niệm niệm diệt nên không cho từ chỗ này chuyển đến chỗ khác".
Trong kinh Đại thừa thường đem tính vô thường ngay nơi sanh liền diệt của vạn vật tỷ dụ như ánh chớp, lửa nháng, sương mai, bọt nước. KINH KIM CANG nói tất cả pháp hữu vi "như sương mai, như ánh chớp". KINH LĂNG GIÀ cho rằng các pháp hữu vi "không thật, mau như điện chớp, thế nên nói là như huyễn". Phật học nhận thức sâu sắc đến tính biến dịch tuyệt đối của vạn vật, lóe lên tư tưởng biện chứng pháp thô sơ ngay ở thời cổ đại.
Nếu nói pháp ấn vô thường của Phật học chỉ nhấn mạnh một cách phiến diện về tính biến dịch mà phủ nhận tính ổn định tương đối của sự vật thì đó là một nhận định sai lầm. Phật học Đại, Tiểu thừa đều có nói đến hai đế chân, tục. Hai đế này dung thông mới là chân lý. Về mặt chân đế, vạn vật tuyệt đối vô thường biến dịch; còn nếu nhìn từ phía tục đế thì tính ổn định tương đối của vạn vật cũng chưa từng bị phủ nhận, và gọi đó là "tương tợ tương tục". Tính ổn định tương đối "tương tợ tương tục" này là phương tiện tất yếu được nhận thức ra trong sinh hoạt thế tục. LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ 37 nói : "Vô thường phá chấp thường, chẳng nên chấp vô thường là chân lý. Sao vậy ? Vì nếu các pháp là tướng vô thường, niệm niệm diệt thì sáu thức không thể nắm giữ sáu trần". Ý muốn nói vô thường chỉ dùng để phá trừ cái chấp lầm vô thường là thật thường bất biến, chứ không phải phủ nhận mặt ổn định tương đối của sự vật. Nếu chỉ thấy vô thường thì không thể nào nhận thức được đúng đắn về cảnh tướng vô thường. Vậy, cần phải thừa nhận tính ổn định tương đối trước, rồi mới từ tướng ổn định tương đối này mà nhìn đến tính biến dịch vô thường của tuyệt đối, như trong KINH TIỂU PHẨM BÁT NHÃ 3 ghi : "Vì không hoại sắc nên quán vô thường; vì không hoại thọ, tưởng, hành, thức nên quán vô thường. Người nào chẳng quán như thế, bị gọi là người hành tương tợ Bát-nhã Ba-la-mật". Ly khai tướng ổn định tương đối của năm uẩn mà phiến diện chấp lý vô thường thì bị chê là "tương tợ". (Tợ nghĩa là dường như phải mà không phải).
Phật học, từ quan điểm giá trị nhân sinh của tôn giáo xuất phát, nhận năm uẩn, các hành vô thường là khổ. Kinh số 437 trong TẠP A-HÀM ghi : "Vì tất cả các hành là pháp biến dịch, nên ta nói hễ có sở thọ thì đều là khổ". Qua lời Phật dạy, chúng ta thấy chẳng những các khổ thọ trong cuộc sống con người là khổ, mà ngay cả lạc thọ cũng đều vô thường nên cũng là khổ. "Các thọ đều là khổ" cũng được xem như là một pháp ấn.