- Tham gia
- 4/6/15
- Bài viết
- 139
- Điểm tương tác
- 34
- Điểm
- 28
Chương I citta (tâm vương)
SẮC GIỚI TÂM: 5 SẮC GIỚI THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 17) Vitakka-vicàra - pìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànakusalacittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhàna-kusalacittam. Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànakusalacittam. Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànakusalacittam. Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànakusalacittam ceti imàni pancapi rùpàvacarakusalacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Vitakha: Tầm. Vicàra: Tứ. Pìti: Hỷ. Sukha: Lạc. Ekaggatà: Nhứt tâm. Sahitom: Câu hữu. Pathama: Ðệ nhất Jhàna: Thiền. Kusalacittam: Thiện tâm. Dutiya: Ðệ nhị. Tatiya: Ðệ tam. Catuttha: Ðệ tứ. Upekkhà: Xả. Pancama: Ðệ ngũ. Panca: Năm. Rùpàvacara: Sắc giới.
III. VIỆT VĂN.
- 17) Ðệ nhứt thiền thiện tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ nhị thiền thiện tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền thiện tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền thiện tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm Ðệ ngũ thiền thiện tâm câu hữu với xả và nhất tâm. Như vậy năm tâm này được gọi là Sắc giới thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Tâm ở Dục giới luôn luôn dao động, bị chi phối bởi dục lạc nên không thể định tỉnh. Vì vậy có người tu hành muốn chứng được định tâm. Vị ấy lấy một hình tròn độ hơn một gang tay và dùng đất màu hồng trét bằng. Vật ấy gọi là Parikamma Nimitta, hay Sơ tướng. Người tu hành ngồi và nhìn đối tượng ấy hết sức chăm chú cho đến khi nhắm mắt mà vẫn có thể thấy một hình tròn sáng hiện ra. Ðó tức là Uggaha Nimitta (thô tướng). Uggaha Nimitta này còn thô sơ và còn những dấu vết dọc ngang của đối tượng trét đất trước. Với đối tượng này, người tu hành lại chuyên chú định tâm quán sát cho đến khi trở thành Pàtibhàga Nimitta (quang tướng). Quang tướng này thành một vòng trong sáng không một tì vết nào cả, mà chỉ do tưởng tượng hình thành mà thôi. Người tu hành vẫn tiếp tục định tâm trên Pàtibhàga Nimitta này cho đến khi chứng được đệ nhất thiền (Pathamajjhàna).
Khi chứng được Ðệ nhứt thiền, thời 5 Nìvarana (Triền cái): Kàmacchando: Dục cái, Vyàpàda: Sân, Thìnamiddha: Hôn trầm, Uddhacca-kukkucca: Trạo cử và Vicikicchà: Nghi) được diệt trừ và 5 Thiền chi sau đây được hiện ra: Vitakka (tầm), Vicàra (tứ), Pìti (hỷ), Sukka (lạc) và Ekaggatà (nhứt tâm). Khi người ấy tu đến định thứ hai, thì không có Vitakka; khi chứng đến thiền thứ ba thời không có Vicàra. Khi đến thiền thứ tư thời Pìti không còn. Khi đến thiền thứ năm thì Sukha không còn và được thế vào bởi Upekkhà (Xả). Như vậy dần dần tâm của người tu thiền định chỉ còn Upekkhà và Ekaggatà mà thôi.
Vitakka xuất xứ từ vi + takk nghĩa là suy nghĩ. Ở đây có nghĩa là đưa đến và quy tụ trên đối tượng. Do vitakka sanh ra mà thìna-middha (hôn trầm) được diệt trừ.
Vicàra xuất từ vi + car nghĩa là di chuyển, đây có nghĩa là tìm tòi, tức là để tâm trên đối tượng. Khi có vicàra thời diệt trừ được vicikichà (nghi). Vitakka ví như con ong bay đến bông hoa. Vicàra ví như con ong bay xung quanh cái bông ấy.
Pìti nghĩa là hỷ, từ chữ Pì nghĩa là hoan hỷ, sung sướng. Khi có Pìti thời diệt trừ được Vyàpàda (sân).
Sukha nghĩa là lạc. Khi có Sukha thời không có Uddhacca và Kukkucca (trạo cử). Pìti khiến ta thích ý đối với một đối tượng còn Sukha giúp ta hưởng thọ đối tượng ấy.
Upekkhà có nghĩa là thấy (Jkkhati) một cách vô tư (upa: yuttito) nghĩa là thấy một đối tượng với một tâm trí bình tĩnh. Nghĩa này chỉ dùng với Sobhana citta mà thôi.
Ekaggatà (eka + aggatà) nghĩa là nhứt tâm. Khi đã có định thì phải có Ekaggatà. Khi có Ekaggatà thời trừ diệt được Kàmacchanda (tham dục).
Thiền định Bhàvanà có hai loại: Samatha (chỉ) và Vipassanà (quán). Samatha, chỉ, nghĩa là tịch tỉnh nhờ tu 5 thiền mà chứng được. Chính nhờ tu Samatha mà chứng được Abhìnnà (thắng trí thần thông). Còn Vipassanà là thấy sự vật đúng với sự thật. Chính nhờ Vipassanà mà chứng được thánh quả.
Do 3 nghĩa nên gọi là Sắc giới. Vì dùng sắc pháp làm đối tượng tu hành mà chứng được thiền tâm. Vì ở sắc giới, vẫn còn có tế sắc. Và vì do chứng các thiền tâm này nên sau khi chết, có thể được sanh ở cõi Sắc giới thiên.
Jhàna từ ngữ căn Jhe (suy tư). Ngài Buddhaghosa định nghĩa: Àramman’upanijjhànato paccanìkajhàpanato và jhànam. Jhàna được gọi vậy là vì suy tư chín chắn trên đối tượng hay vì đốt cháy những vật chướng ngại (Nìvarana: Triền cái).
Lộ trình của thiền tâm được diễn tiến như sau:
- Khi Bhavanga (Hữu phần) được dừng lại, thời ý môn hướng tâm khởi lên với đối tượng là quang tướng (Patibhàganimitta). Tiếp đến là Tốc hành tâm (Javana), Tốc hành này bắt đầu với Parikamma (chuẩn bị) hay Upacàra (Cận định) tùy theo trường hợp. Tiếp đến là Anuloma (thuận thứ). Chính ở giai đoạn này mà tâm mới chắc chắn chứng được Appanà (An chỉ). Tiếp đến là Gotrabhù (chuyển tánh) Gotra chỉ cho Dục giới tánh; Bhù là chinh phục. Mọi tâm sát na đến đây thuộc về Dục giới. Sau Gotrabhù sẽ đến Appanà (An chỉ) và thuộc về Sắc giới. Ở đây, Appanà (An chỉ), cả 5 thiền chi đều có mặt ở Sơ thiền. Như vậy sự diễn tiến lộ trình của thiền tâm như sau: Bhavanga, manodvàràvajjana, Parikamma, Upacàra, Anuloma, Gotrabhù, Appanà (Hữu phần, ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ).
SẮC GIỚI TÂM: 5 SẮC GIỚI THIỆN TÂM
I. PÀLI VĂN.
- 17) Vitakka-vicàra - pìtisukhekaggatàsahitam pathamajjhànakusalacittam. Vicàrapìtisukhekaggatàsahitam dutiyajjhàna-kusalacittam. Pìtisukhekaggatàsahitam tatiyajjhànakusalacittam. Sukhekaggatàsahitam catutthajjhànakusalacittam. Upekkhekaggatàsahitam pancamajjhànakusalacittam ceti imàni pancapi rùpàvacarakusalacittàni nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Vitakha: Tầm. Vicàra: Tứ. Pìti: Hỷ. Sukha: Lạc. Ekaggatà: Nhứt tâm. Sahitom: Câu hữu. Pathama: Ðệ nhất Jhàna: Thiền. Kusalacittam: Thiện tâm. Dutiya: Ðệ nhị. Tatiya: Ðệ tam. Catuttha: Ðệ tứ. Upekkhà: Xả. Pancama: Ðệ ngũ. Panca: Năm. Rùpàvacara: Sắc giới.
III. VIỆT VĂN.
- 17) Ðệ nhứt thiền thiện tâm câu hữu với tầm, tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ nhị thiền thiện tâm câu hữu với tứ, hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tam thiền thiện tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhứt tâm. Ðệ tứ thiền thiện tâm câu hữu với lạc và nhứt tâm Ðệ ngũ thiền thiện tâm câu hữu với xả và nhất tâm. Như vậy năm tâm này được gọi là Sắc giới thiện tâm.
IV. THÍCH NGHĨA.
- Tâm ở Dục giới luôn luôn dao động, bị chi phối bởi dục lạc nên không thể định tỉnh. Vì vậy có người tu hành muốn chứng được định tâm. Vị ấy lấy một hình tròn độ hơn một gang tay và dùng đất màu hồng trét bằng. Vật ấy gọi là Parikamma Nimitta, hay Sơ tướng. Người tu hành ngồi và nhìn đối tượng ấy hết sức chăm chú cho đến khi nhắm mắt mà vẫn có thể thấy một hình tròn sáng hiện ra. Ðó tức là Uggaha Nimitta (thô tướng). Uggaha Nimitta này còn thô sơ và còn những dấu vết dọc ngang của đối tượng trét đất trước. Với đối tượng này, người tu hành lại chuyên chú định tâm quán sát cho đến khi trở thành Pàtibhàga Nimitta (quang tướng). Quang tướng này thành một vòng trong sáng không một tì vết nào cả, mà chỉ do tưởng tượng hình thành mà thôi. Người tu hành vẫn tiếp tục định tâm trên Pàtibhàga Nimitta này cho đến khi chứng được đệ nhất thiền (Pathamajjhàna).
Khi chứng được Ðệ nhứt thiền, thời 5 Nìvarana (Triền cái): Kàmacchando: Dục cái, Vyàpàda: Sân, Thìnamiddha: Hôn trầm, Uddhacca-kukkucca: Trạo cử và Vicikicchà: Nghi) được diệt trừ và 5 Thiền chi sau đây được hiện ra: Vitakka (tầm), Vicàra (tứ), Pìti (hỷ), Sukka (lạc) và Ekaggatà (nhứt tâm). Khi người ấy tu đến định thứ hai, thì không có Vitakka; khi chứng đến thiền thứ ba thời không có Vicàra. Khi đến thiền thứ tư thời Pìti không còn. Khi đến thiền thứ năm thì Sukha không còn và được thế vào bởi Upekkhà (Xả). Như vậy dần dần tâm của người tu thiền định chỉ còn Upekkhà và Ekaggatà mà thôi.
Vitakka xuất xứ từ vi + takk nghĩa là suy nghĩ. Ở đây có nghĩa là đưa đến và quy tụ trên đối tượng. Do vitakka sanh ra mà thìna-middha (hôn trầm) được diệt trừ.
Vicàra xuất từ vi + car nghĩa là di chuyển, đây có nghĩa là tìm tòi, tức là để tâm trên đối tượng. Khi có vicàra thời diệt trừ được vicikichà (nghi). Vitakka ví như con ong bay đến bông hoa. Vicàra ví như con ong bay xung quanh cái bông ấy.
Pìti nghĩa là hỷ, từ chữ Pì nghĩa là hoan hỷ, sung sướng. Khi có Pìti thời diệt trừ được Vyàpàda (sân).
Sukha nghĩa là lạc. Khi có Sukha thời không có Uddhacca và Kukkucca (trạo cử). Pìti khiến ta thích ý đối với một đối tượng còn Sukha giúp ta hưởng thọ đối tượng ấy.
Upekkhà có nghĩa là thấy (Jkkhati) một cách vô tư (upa: yuttito) nghĩa là thấy một đối tượng với một tâm trí bình tĩnh. Nghĩa này chỉ dùng với Sobhana citta mà thôi.
Ekaggatà (eka + aggatà) nghĩa là nhứt tâm. Khi đã có định thì phải có Ekaggatà. Khi có Ekaggatà thời trừ diệt được Kàmacchanda (tham dục).
Thiền định Bhàvanà có hai loại: Samatha (chỉ) và Vipassanà (quán). Samatha, chỉ, nghĩa là tịch tỉnh nhờ tu 5 thiền mà chứng được. Chính nhờ tu Samatha mà chứng được Abhìnnà (thắng trí thần thông). Còn Vipassanà là thấy sự vật đúng với sự thật. Chính nhờ Vipassanà mà chứng được thánh quả.
Do 3 nghĩa nên gọi là Sắc giới. Vì dùng sắc pháp làm đối tượng tu hành mà chứng được thiền tâm. Vì ở sắc giới, vẫn còn có tế sắc. Và vì do chứng các thiền tâm này nên sau khi chết, có thể được sanh ở cõi Sắc giới thiên.
Jhàna từ ngữ căn Jhe (suy tư). Ngài Buddhaghosa định nghĩa: Àramman’upanijjhànato paccanìkajhàpanato và jhànam. Jhàna được gọi vậy là vì suy tư chín chắn trên đối tượng hay vì đốt cháy những vật chướng ngại (Nìvarana: Triền cái).
Lộ trình của thiền tâm được diễn tiến như sau:
- Khi Bhavanga (Hữu phần) được dừng lại, thời ý môn hướng tâm khởi lên với đối tượng là quang tướng (Patibhàganimitta). Tiếp đến là Tốc hành tâm (Javana), Tốc hành này bắt đầu với Parikamma (chuẩn bị) hay Upacàra (Cận định) tùy theo trường hợp. Tiếp đến là Anuloma (thuận thứ). Chính ở giai đoạn này mà tâm mới chắc chắn chứng được Appanà (An chỉ). Tiếp đến là Gotrabhù (chuyển tánh) Gotra chỉ cho Dục giới tánh; Bhù là chinh phục. Mọi tâm sát na đến đây thuộc về Dục giới. Sau Gotrabhù sẽ đến Appanà (An chỉ) và thuộc về Sắc giới. Ở đây, Appanà (An chỉ), cả 5 thiền chi đều có mặt ở Sơ thiền. Như vậy sự diễn tiến lộ trình của thiền tâm như sau: Bhavanga, manodvàràvajjana, Parikamma, Upacàra, Anuloma, Gotrabhù, Appanà (Hữu phần, ý môn hướng tâm, chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tánh, an chỉ).