- Tham gia
- 13/8/18
- Bài viết
- 955
- Điểm tương tác
- 216
- Điểm
- 43
Tịnh Độ Ngũ Hội Pháp Sự Tán của ngài Pháp Chiếu có nói:
Nhân địa Phật kia lập hoằng thệ
Nghe danh niệm Phật đều rước về
Không lựa nghèo khổ hay giàu sang
Không chọn ngu si hay tài trí
Bất luận đa văn trì tịnh giới
Hoặc kẻ phá giới tội sâu dày
Chỉ cần hồi tâm niệm Phật nhiều
Gạch ngói có thể biến thành vàng.
Chánh tín niệm Phật kệ của Thân Loan thánh nhân:
Người ác cực trọng chỉ niệm Phật
Phật đã nhiếp lấy người ấy rồi
Phiền não chướng, mắt dù không thấy
Đại bi không mệt chiếu thân ta.
Chánh Tượng Mạt Hòa Tán của Thân Loan thánh nhân:
Nguyện lực thì vô cùng, vô tận
Tội chướng sâu nặng cũng không nặng
Phật trí thì vô biên, vô cực
Tán loạn, phóng dật cũng không bỏ.
Chánh tín niệm Phật kệ của Thân Loan thánh nhân:
Nhớ nghĩ Di Đà bản nguyện Phật
Tự nhiên tức thời nhập Tất định
Chỉ thường xưng Như Lai hiệu
Để báo ơn hoằng thệ đại bi.
Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh: Nếu người niệm Phật thì nên biết người ấy tức là Hoa Sen Trắng trong loài người.
A Mi Đà Như Lai đại bi luôn thương xót tất cả chúng sinh!
Chúng ta quyết một lòng cầu sinh về Cực Lạc tịnh độ, ngay cả khi phá vỡ thân hình
Đó là lòng nhân từ rộng lớn của Chư Phật 10 phương đồng giảng dạy
Chúng ta phải cố gắng để trả ơn, thậm chí cho đến khi xương trở thành cát bụi.
Phật Tổ Thống Kỷ Số 2036 Quyển 28
TRUYỆN VỀ BỌN ÁC VÃNG SANH:
1. Họ Kinh ở Trường An
Làm nghề đồ tể. Nhân Hòa thượng Thiện Đạo khuyên người niệm Phật, cả thành đều không ăn thịt. Kinh nổi giận dắt dao vào chùa quyết ý giết hại. Nhưng ngài Thiện Đạo chỉ bày Tây phương, hiện tướng Tịnh độ, khiến Kinh hồi tâm phát nguyện. Anh ta leo lên cây cao niệm Phật rồi gieo mình xuống mà chết. Chúng thấy Hóa Phật dẫn các thiên đồng tử từ đảnh đầu của Kinh bay ra (Thiên đồng tức là Hộ thần).
2. Trương Chung Húc
Ở Trường An, làm nghề giết gà. Khi sắp mạng chung thấy có người mặc áo lụa đào đuổi bầy gà đến rồi lên tiếng gọi “túc túc!” Thế là bầy gà từ bốn phía mổ vào mắt máu chảy dầm dề đau đớn không chịu nổi. Có vị Sa-môn Hoằng Đạo thấy vậy bèn lập bàn thờ tượng Phật khuyên nên niệm Phật. Bỗng anh ta tỉnh dậy thì mùi hương đầy nhà, bầy gà biến mất. Rồi anh ngồi yên mà hóa.
3. Trương Thiện Hòa ở Trường An
Làm nghề mổ bò. Khi lâm chung ông thấy mấy mươi con bò đến bảo rằng: “Mầy giết chúng tao.” Thiện Hòa bảo vợ gấp thỉnh Tăng. Tăng nói Quán Kinh: Như có chúng sinh làm nghiệp bất thiện, đáng bị đọa vào ác đạo. Các bạn lành bảo nên chí tâm niệm đủ mười tiếng Nam-mô A-di-đà Phật thì trừ được tám mươi ức kiếp tội sinh tử, liền được vãng sinh thế giới Cực Lạc. Thiện Hòa hô lớn: “Chắc vào địa ngục rồi!” Rồi lấy tay trái đánh lửa, tay mặt đốt hương, quay mình ngó về hướng Tây lớn tiếng niệm Phật. Chưa đủ mười tiếng liền bảo: “Phật đến rồi, đã cho tôi bảo tòa.” Nói xong thì qua đời.
4. Kim Thích
Nhà ở Cối kê, làm nghề lưới cá. Nhân ở chùa Thiên Hoa, Lợi Hành Nhân kết sinh Liên Xã, anh ta được khuyên niệm Phật, liền nhanh chóng bỏ nghề cũ, hằng ngày niệm cả vạn tiếng Phật. Lâu sau anh bảo người nhà rằng: “Ta đã thấy Phật và Bồ-tát đến cửa, đem Hoa sen vàng đến đón ta.” Rồi anh ta đến ngồi ở giường tre, bắt ấn mà hóa. Người xa gần đều nghe có mùi hương lạ.
5. Ngô Quỳnh
Nhà ông ở Nhân Hòa. Trước làm Tăng, vì việc nhà nên hoàn tục. Ông cưới vợ hai lần sinh hai người con. Giết mổ, bán rượu, nấu bếp, nem chả không thứ nào ông không làm. Gặp việc mua sắm ăn uống giết gà vịt thì ông bắt tay làm ngay. Ông bảo: “Ta là con Phật A-di-đà, chỉ muốn thoát khỏi thân này thôi.” Mỗi khi cắt thịt ông luôn niệm Phật và dạy người làng niệm Kinh tu Sám. Bỗng trên mắt ông nổi một cục bướu lớn bằng hột gà, nên thường lo lắng sợ hãi. Bèn cất nhà cỏ ở riêng, sớm tối niệm Phật, nương vào Phổ Hiền Hành Pháp mà phát lồ sám hối. Một hôm không bệnh, ông đến các nhà nói lời giả biệt rằng: “Ngày kia tôi sẽ đi.” Ngày hôm sau ông mời các bạn đạo đến niệm Phật trợ lực. Ông đem áo lót vải ra đổi rượu. Ăn uống xong rồi ông kêu lớn “Phật đến!” rồi qua đời.
Vãng Sinh Tập Số 2072
VI – NGƯỜI ÁC VÃNG SINH:
1. Trương Thiện Hoà: Trương Thiện Hòa đời Đường, làm nghề giết mổ trâu bò. Khi qua đời thấy bầy trâu nói tiếng người đòi mạng, do đó rất sợ hãi, gọi vợ bảo thỉnh chư Tăng sám hối cho ta. Tăng đến dạy rằng Quán kinh nói khi qua đời tướng ác hiện ra nếu dốc lòng niệm Phật liền được vãng sinh. Hoà nói địa ngục đến gấp chẳng kịp cầm lò hương. Rồi tay phải quẹt lửa, tay trái cầm lò hương thành kính niệm Phật, chưa đầy mười câu tự nói: Phật đến đón rước ta rồi hóa.
Khen rằng: Thấy địa ngục đến gấp tay cầm lò hương trong thế bức bách khẩn khổ mà tinh thành không có hai niệm. Tuy nói mười niệm mà đâu thể vượt hơn người chăm chăm trăm ngàn muôn ức niệm cho nên chắc chắn vãng sinh, lý thật như thế. Có người nghi là Bồ-tát thị hiện ra, nếu như thế thì bất tận.
2. Trương Chung Húc: Trương Chung Húc đời Đường, làm nghề giết gà. Khi bệnh thấy có người mặc áo lụa đen đuổi bầy gà đến mổ vào mặt máu chảy dầm dề đau đớn khó chịu nổi. Có vị Tăng lập tượng Phật bảo niệm, chỉ khoảng khắc thì thơm lạ đầy nhà an nhiên mà mất.
3. Hùng Tuấn: Hùng Tuấn đời Đường, ngụ ở Thành Đô, ngang bướng mạnh mẽ hơn người, không chịu giữ giới luật, bỏ đạo làm lính rồi lại vào làm Tăng. Nhân nghe kinh nói một câu niệm Phật thì diệt được trọng tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Bèn mừng rỡ bảo rằng ta có chỗ nhờ cậy. Từ đó tuy làm ác nhưng vẫn niệm Phật không ngớt. Tháng hai năm Đinh Mùi chết vì bạo bệnh, qua một đêm sống lại bảo rằng: Đến gặp vua Diêm La bảo là bắt lầm, nhưng ngươi niệm Phật không tin đâu. nay trở về nhân thế phải rất tinh tấn. Chúng gọi là Người lọt sổ địa ngục . Rồi Tuấn vào núi trai giới niệm Phật. Hơn bốn năm, tháng ba năm tân Hợi nhóm họp các Tăng Ni bảo rằng: Đã đến giờ tôi ra đi. Các vị trở về thành thấy ai quen thân với tôi thì nói giúp tôi rằng: Tuấn vì được niệm Phật mà được vãng sinh Tịnh độ, đừng coi tôi là Người lọt sổ địa ngục nữa. Trong lúc nói cười ngồi thẳng mà hóa.
Khen rằng: Quân tử và Tiểu nhân không đồng chỗ, làm sao vừa tạo ác vừa niệm Phật mà được vãng sinh. Ôi, chỉ dựa vào một lời nói Niệm Phật được diệt tội mà tin vào xương tủy, tức một niệm này nặng cả muôn cân, nên khi qua đời chuyển nghiệp được vãng sinh, nào có nghi gì?
4. Duy Cung: Duy Cung đời Đường, trú tại chùa Pháp Tánh, khinh trên hiếp dưới, làm bạn với đám côn đồ rượu chè bài bạc giao tiếp đầy cửa. Rảnh rang thì niệm Phật. Tăng trong chùa là Linh Khuy cũng đồng bọn ác giúp nhau. Người trong làng nói Linh Khuy làm ác, Duy Cung noi dấu, Địa ngục ngàn lớp, chẳng chán cùng vào. Cung nghe được, bảo rằng: Ta tuy làm nghiệp ác không thể trốn tránh, nhưng nhờ có Giáo Chủ Tịnh độ thương ta tội nặng mà cứu ta khỏi hầm lửa há lại đọa đường ác ư? Niên hiệu Càn Ninh năm thứ hai, Cung bị chết. Linh Khuy từ ngoài trở về thấy có mấy người thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ, hỏi từ đâu đến, đáp từ phía Tây đến đón rước Cung Thượng Nhân. Một người lấy từ bụng ra một bình vàng có cắm hoa sen búp bằng nắm tay bỗng nhiên nở to bằng cái mâm sáng rực rỡ, hướng về chùa mà đi, bỗng biến mất. Khi Linh Khuy về đến chùa thì nghe tiếng chuông, Duy Cung đã mất rồi.
5. Oánh Kha: Oánh Kha đời Tống, theo học với Thường Xuyên Diệu Sơn, rượu thịt không chừa. Bỗng tự nghĩ phạm hạnh thiếu sót, sợ phải bị trôi giạt, bèn khiến người ở chung lấy quyển chép về Vãng sinh của Thiền sư Giới Châu mà đọc. Hễ đọc một truyện là một bài. Rồi ở trong thất lập ghế ngồi Thiền xoay mặt về phía Tây, tuyệt thực mà niệm Phật. Hơn ba ngày thì mộng thấy Phật bảo Rằng: Ngươi còn sống mười năm nữa, phải nên cố gắng. Kha bạch Phật rằng: Dẫu con sống cả trăm năm nữa nhưng ở Diêm-Phù đầy trược ác dễ mất Chánh niệm, con chỉ muốn sớm sinh An Dưỡng thờ phụng các Thánh chúng. Phật bảo: Chí ngươi như thế thì ba ngày nữa ta sẽ đón ngươi, đến hẹn Kha sai chúng tụng Kinh A-di-đà, bèn nói: Phật và đại chúng đều đã đến. Rồi yên lặng mà hóa.
6. Trọng Minh: Trọng Minh đời Tống, trú tại chùa Báo Ân ở Sơn Âm không có giới hạnh. Vì bị bệnh bảo bạn đồng học là Đạo Ninh rằng: Nay tôi tâm thức tán loạn, thuốc nào trị được? Ninh dạy cho cách Tùy Tức Niệm Phật. Minh làm đúng theo lời dạy. Đến ngày thứ bảy thì sức đã nguy khốn. Ninh lại khiến tưởng tượng Phật ở trước mắt. Lâu sau bỗng thấy hai vị Bồ-tát kế thấy Phật, rồi nhắm mắt mà hóa.
7. Ngô Quỳnh: Ngô Quỳnh đời Tống, người ở Lâm An, trước làm Tăng sau bỏ Đạo về tục. Trước sau sinh hai con, giết mổ bán rượu đều làm, khi làm bếp nấu ăn giết hại gà vịt thì trì niệm A-di-đà Phật, ta giúp cho thoát thân này liền niệm danh hiệu Phật rồi mới ra dao. Mỗi khi cắt thịt thì niệm Phật không ngớt. Sau trên mắt có bứu bằng cái trứng gà, rất lo sợ. Lập am tranh phân tán vợ con, niệm Phật lễ Sám ngày đêm như không kịp. Niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ hai mươi ba, ông bảo mọi người rằng: Đến giờ Tuất thì tôi đi, mọi người đều cười. Đến chiều lấy vải màu đổi rượu uống xong viết bài tụng rằng: Giống rượu đều không, Hỏi gì Thiền tông, Ngày nay trân trọng, Gió mát trăng trong. Rồi ngồi thẳng chắp tay niệm Phật, nói rằng Phật đến, bèn hóa.
8. Kim Thích: Kim Thích đời Tống, người ở Cối Kê, làm nghề đánh cá, bỗng tỉnh ngộ bèn trì giới tinh tấn, hằng ngày niệm Phật vạn câu, rất lâu mà không thay đổi. Sau không bệnh mà bảo người nhà rằng: Phật A-di-đà cùng hai vị Bồ-tát đều đến đón rước ta. ta về Tịnh độ đây. Rồi đốt hương ngồi thẳng mà hóa. Người trong ấp nghe có mùi thơm lạ và nhạc trời cả ngày không tan.