- Tham gia
- 28/7/16
- Bài viết
- 1,837
- Điểm tương tác
- 904
- Điểm
- 113
Người ra đi, lời còn ở lại;
"Sau lưng thềm, nắng lá rơi đầy".
"Sau lưng thềm, nắng lá rơi đầy".
Tóm tắt phần 1: Link tại ĐÂY.
Latuan nói:Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm là một câu Kinh rường cột của bộ Kinh Kim Cang. Hẳn là phần đa người học Phật đều biết đến.
Nay latuan mở topic Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm = ? là những mong các vị thiện tri thức có tâm cầu, tâm truyền chánh pháp mở lời diễn nghĩa cho có phần tương ưng với nghĩa lý câu trên đặng đại chúng học Phật nơi Diễn Đàn này được mở mang chút tri kiến Phật.
Rất mong nhận được sự chia sẻ trao đổi thẳng thắn, thuận nghịch, đa chiều về pháp Phật. Trân trọng! Kính mời!
Trừng Hải nói:Chào trí giả latuan
Xin làm người "khai đề" nhằm nhận MẮT bố thí:
_ Xin hỏi "vô sở trụ" là chỗ "hành hoạt" (hề hề, văn thoại hiện đại gọi là "bản lề") hay "lập cước" (nền tảng)?
Trừng Hải.
Latuan nói:Kính!
Nếu cho rằng vô sở trụ tức thị bản lề hay nền tảng thì phải chăng đã là hữu trụ, thưa bác Trừng Hải?
Rất vui là bác dùng ngôn từ ngày nay để đại chúng và latuan được cùng hưởng điều lợi lạc.
Trừng Hải nói:Chào trí giả latuan
Khi sanh tâm lựa chọn một trong hai mới sa vào chỗ "hữu trụ", nhưng pháp "hành hoạt" hay "lập cước" vốn xuất sanh từ "vô sở trụ" (tức chỗ liễu nghĩa) thì trú ở nơi đâu!
Xin đặt lại câu hỏi vậy: "vô sở trụ" là phương tiện hay là mục đích? (đặt câu hỏi như vậy thì người đọc dễ lậm vào chỗ chữ nghĩa quy ước khởi sanh khuôn mẫu sáo rỗng với câu trả lời là không phương tiện không cứu cánh;vì vậy xin xem câu hỏi đặt lại này chỉ là để bổ trợ cho câu hỏi trước)
Kính, Trừng Hải.
Latuan nói:Khi sanh tâm liền có trụ, ngay nơi ưng vô sở trụ cũng là hữu trụ.
Song Phật pháp chẳng rơi vào biên kiến, nơi hữu biết hữu liền hành vô.
Vô sở trụ là pháp hành vượt thoát phương tiện, rời mục đích, hành nhân hành thâm như gương tiếp vật chẳng động chẳng lay lại chẳng giống gỗ đá vô tri vì còn thân mạng nên ngã, ngã sở hãy còn; lúc bấy giờ chứng ngộ thời nhập Hữu Dư y Niết Bàn.
Đến khi đủ duyên tứ đại giả hợp tan rã thời nhập Vô Dư y Niết Bàn (Thánh đế gượng nói là như vậy).
Trừng Hải nói:Chào trí giả latuan
_ Trừng Hải vốn ngại "tha nhân" rơi vào chỗ lập ngôn ảo ngữ phi hữu vô "không phương tiện không cứu cánh" vậy mà cũng gặp là "răng rứa tề", hề hề.
_ Vậy là đạo hữu cho rằng bốn chữ "Ưng vô sở trụ" là pháp hành có chỗ hoạt dụng là "chiếu soi" như "gương tiếp vật" (pháp hành hoạt).
Nhưng công phu "gương tiếp vật" vốn không có nghĩa THƯỜNG, ví như khi không vật hay "phi hữu" thì gương kia vô dụng!!! Hay nói cách khác thì "gương tiếp vật" không hàm tàng nghĩa THƯỜNG nên không là bát nhã NHƯ NHƯ.
_ "Nơi hữu biết hữu liền hành vô":
Hữu vốn vô tánh nên có "Tướng bất định" lại hằng "Sanh diệt" nên, thiên hình vạn trạng biến ảo khôn lường lại xoay vần không ngưng nghĩ nên làm sao am tường được HỮU, ví như không bao giờ biết số nhỏ nhất (hay lớn nhất) vì bao giờ cũng sẽ có con số nhỏ hơn (hay lớn hơn) trước đời này và đời sau nữa, nữa, nữa...
MẮT này là "nhãn nhục" Trừng Hải còn đủ hai con nên không nhận vậy. Xin chờ để nhận MẮT khác vậy?
_ Tri giả latuan có thể cho biết nghĩa của tám chữ "Ưng vô sở trụ-Nhi sanh kỳ tâm" được chăng?
Cầu cho chúng sanh an lạc, đắc giải thoát đáo Niết Bàn
Trừng Hải.
Latuan nói:Vì bác Trừng Hải dụng nhãn nhục nhìn nên đương nhiên sẽ đặng nhãn nhục vậy?
Ưng vô sở trụ là chỗ latuan chờ kiến giải của chư vị đạo hữu cơ mà.
Ưng vô sở trụ latuan gượng nói không phương tiện cứu cánh chứ không nói là không phương tiện cứu cánh nên không rơi vào phi hữu vô như lời bác Trừng Hải xác quyết vậy.
latuan nói Hành thâm ưng vô sở trụ sẽ như gương tiếp vật chớ không nói "Ưng vô sở trụ" là pháp hành có chỗ hoạt dụng là "chiếu soi" như "gương tiếp vật" của bác Trừng Hải lập ngôn.
Vậy nên lập ngôn vế sau của trưởng bối đã bị lệch lạc chỗ biện giải của latuan mất rồi.
Hữu vốn vô tánh ư ? Là hữu có tánh hữu, chỉ là vạn pháp vô thường chớ chấp là thường, lại chẳng nên chấp vô thường cho rằng vô tánh. Am tường hữu sẽ được gì?
Bác Trừng Hải học Phật để am tường hữu chăng?
Phải chăng là nhân sai biệt quả hư vọng không?
Trừng Hải nói:Chào trí giả latuan
_ Tất nhiên hay hề hề, như nhiên là Trừng Hải chỉ có "nhãn nhục" nên phải dụng "nhãn nhục", bằng như đã có mắt trời, mắt pháp...mà còn cầu được cho MẮT thì há không phải là người tham lam dối người hay sao!!!???
Nhưng "nhãn nhục" vẫn khởi dụng diệu kỳ bởi PHẬT PHÁP VÔ BIÊN, mới là cái thấy "mắt sáng" vượt ngôn từ.
_ GƯƠNG mà không có công dụng chiếu soi thì làm cái gì hả trí giả???!!! Nên chỗ thành lời hai chữ "chiếu soi" là nhằm sáng tỏ lời "chẳng giống gỗ đá vô tri" mà thôi. Nhưng nếu trí giả latuan xem không "như ý" thì cũng xin gạt qua một bên vì cũng chỉ là chỗ "râu ria, mắn muối" thôi.
_ Hữu (Pháp) vô tánh là CHÂN ĐẾ thường hằng, phổ biến bình đẳng như thuyền lớn đưa vạn loại hữu tình đến bờ kia lại không dụng lại dụng chỗ hữu tánh biệt tướng thì như kẻ lấy lá bé cỏn con làm thuyền làm sao vượt biển lớn tử sanh, sanh tử???!!!
Vả lại lời "Nơi hữu biết hữu liền hành vô" không phải là chỗ TRỰC CHỈ bởi phải khởi (gia) hành mà dụng nên đâu phải là chỗ tỏ ngộ đốn giáo của gã tiều gánh củi năm xưa???
Tám chữ "Ưng vô sở trụ-Nhi sanh kỳ tâm" là gì vậy hỡi thế nhân ơi?
Trừng Hải.
Latuan nói:Hi! Xem ra bác Trừng Hải rất tin vào nhãn nhục của mình. Thế cũng tốt! Nếu bác đã tự tin vào trí tuệ của mình, tin rằng đã đủ, đã về đến cố quận thì lời latuan quả thật chẳng đáng để cho bác Trừng Hải nghe.
Lẽ nào... đáng ra latuan nói mặt hồ tiếp vật để tránh vấn nạn như gương tức thị "Phải" chiếu soi nhỉ?
Người cột chuông nên thôi gượng tháo chuông vậy.
Bỏ cả ngôn từ dính mắc Phật học xuống nói bằng văn của người đời dựa trên nền hiểu biết khách quan tự thân, cái biết đó mới chánh chân hơn việc vay mượn tuệ tri xứ người, Kinh điển - Được việc hay không tự lòng ắt rõ.
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nhi sanh thì dễ nhận là sản sinh, phát sinh ra, nghĩa này đã rõ chẳng nhọc lạm bàn thêm;
Kỳ tâm là gì? Ưng vô sở trụ là chi?
Kỳ tâm gượng nói là bản tâm trùm khắp không ngăn ngại phân biệt dính mắc có không, được mất.
Khi hành giả hòa vọng tâm sinh diệt vào bản tâm như như của vạn pháp thì dung chứa được muôn loài, do không điều dính mắc ràng buộc nên đương nhiên an lạc tự tại với vô thường khổ không vô ngã, đây giả lập gọi là Niết Bàn tại thế - Hữu Dư y Niết Bàn.
Do dính mắc ngôn từ nên nói hành giả hòa vào bản tâm tức thì suy nghiệm có trụ kỳ thực khi nhận chân - trực nhận vô minh thì hữu vô đã dừng ngăn ngại, ngay nơi đây là lý sự viên dung chẳng phải trụ lý hay chấp sự vì biết chẳng thể trụ nơi tướng giả hợp gượng nói ưng vô sở trụ chứ thật ra không nói ưng vô sở trụ để hành nhân trụ chấp.
Năm xưa khi tầm đạo Thái tử Tất đạt đa biết đến Áo Nghĩa Thư với atman (tiểu ngã), Braham (Đại ngã) với hành nhân hành trì đặng tiểu ngã trở về đại ngã, Thái tử Tất đạt đa chuyên chú hành trì thiền định quán chiếu để đắc pháp đại ngã, ngay nơi đại ngã người phát minh ra ngay nơi ấy, chỗ trụ tức thị còn đủ đầy phiền muộn nên tự biết chẳng thể vượt thoát luân hồi.
Thấy không xong rồi Thái tử Tất đạt đa lìa thầy rời bạn dấn thân trên đường trung đạo về sau chứng ngộ sinh tử giả hợp chẳng thật do trụ chấp có nên mê.
Thái tử Tất đạt đa liền chứng pháp vô sanh sau rộng truyền giáo lý giác ngộ giải thoát và một trong những yếu quyết quan trọng của hành nhân bát nhã là ưng vô sở trụ.
Nói thêm một chút về sau kẻ hậu học đọc dăm ba câu Kinh, lời kệ rơi vào chấp Không liền rơi vào hữu trụ, lại có kẻ tham cứu Kinh điển chuyên sâu tự thị sự học hơn người dối trên lừa dưới cũng do hữu trụ mà ra.
Nhục nhãn hay trạch pháp nhãn cũng do nơi lòng mà ra.
Trân trọng!
Topic Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm = ? latuan chốt lại.
VNBN nói:Như vậy HT.Thanh Từ đã dịch nghĩa: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm = không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tâm kia = kỳ tâm là tâm thanh tịnh siêu vượt của đại bồ tát. Bởi vậy, VNBN mới nói ưng vô sở trụ là nền tảng để sanh tâm thanh tịnh thuần khiết, Tâm ưng vô sở trụ chính là kỳ tâm đó=tâm thanh tịnh thường hằng.
Còn việc mà Ngài Lục Tổ tại sao nghe tới câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" mà liễu ngộ là do hoàn cảnh được nghe hợp cơ duyên với Ngài, đây xem như cơ duyên đã định. Một thí dụ sơ sài: thì như bình thường nghe câu "công cha như núi thái sơn nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" thấy cũng bình thường; tuy nhiên lúc cha mẹ sắp mất mà ta nghe câu này trong lòng liền rúng động sâu xa. Ngày nay chúng ta thường chủ động tạo ra cơ duyên bằng các phương pháp công án, ... sẽ đẫn đến cơ duyên hội đủ liền liễu ngộ
Chào nhị vị latuan và VNBN đồng quý thành viên DĐPPOL
Bởi người lập chủ đề đã đóng "chốt" nên lời trao đổi giữa Trừng Hải với nhị vị đã là bóng nguyệt quan san (bóng trăng sáng vòi vọi cách nghìn trùng) nên sáng ở xa mà tối ở gần vậy là tuy có mà cũng như không, nhưng vẫn thầm cầu lời như không mà thật ra là có vì đến kỳ ắt sẽ là trăng.
Văn tự không trăng
Là trăng sáng vậy
Cầu cho chúng sanh an lạc, đắc giải thoát đáo Niết Bàn
Trừng Hải.
Duyên khởi phần 2:
Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Tựa:
Huệ Năng quê quán ở Phạm Dương, cha bị giáng chức đến Lãnh Nam, lưu lạc làm dân Tân Châu. Thân thế chẳng may cha lại mất sớm, mẹ là goá phụ, nhà ở Nam Lộ, nghèo khổ phải đi bán củi ngoài chợ. Lúc ấy có vị khách mua củi nhờ mang đến nhà, Huệ Năng được tiền đi ra, gặp một vị khách đang tụng Kinh, Huệ Năng nghe được lời Kinh tâm liền khai ngộ, bèn hỏi khách tụng Kinh gì?
Khách nói: là Kinh Kim Cang.
Hỏi: Ở đâu có Kinh Ðiển này ?
Khách nói: Tôi từ Chùa Ðông Thiền, huyện Huỳnh Mai Kỳ Châu đến. Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ðại Sư chủ hoá, môn đồ hơn ngàn người, tôi đến đó lễ bái lãnh thọ Kinh này.
Ngũ Tổ thường khuyên Tăng tục trì Kinh Kim Cang thì được kiến tánh, trực liễu thành Phật.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật:
Phật cáo Tu Bồ Ðề: Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Ðăng Phật sở, ư pháp hữu sở đắc phủ?
- Phất dã, Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Ðăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.
Tu Bồ Ðề, ư ý vân hà? Bồ Tát trang nghiêm Phật Ðộ phủ?
- Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
Thị cố Tu Bồ Ðề, chư Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm,
bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,
ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.
Dịch:
Phật bảo Tu-bồ-đề: Ý ông thế nào? Xưa kia Như-lai ở nơi Phật Nhiên Ðăng có đắc pháp gì không?
Thưa không, Thế-tôn! Như-lai khi ở nơi Phật Nhiên Ðăng, thật không đắc pháp gì.
Tu bồ-đề! Ý ông thế nào? Bồ-tát có trang nghiêm cõi Phật chăng?
Thưa không, Thế-tôn! Tại sao? Nói trang nghiêm cõi Phật, tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.
Bởi vậy, Tu-bồ-đề, các Bồ-tát Ma-ha-tát, nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh,
bất ưng trụ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm.
ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.
Luận bàn:
Câu trên nói "bất ưng trụ", câu dưới nói "ưng vô sở trụ".
Vậy vô sở trụ này chính là quả của cái nhân bất ưng trụ sắc,...pháp phía trên vậy.
Do không ưng trụ sắc,...,pháp mà lọt vào chỗ "vô sở trụ".
Nhưng chỗ "vô sở trụ" này chẳng phải là cứu cánh, nếu là cứu cánh thì tuyệt nhiên chẳng thể "nhi sanh kỳ tâm" được nữa.
Bất ưng trụ sắc,...,pháp chính là Tiểu thừa. (phá ngã chấp, dứt công dụng của lục căn, mà lọt vào pháp chấp, pháp chấp này chính là "bất ưng trụ" vậy !)
Kinh Tương Ưng Bộ - Tập IV - Thiên Sáu Xứ, Phần Một - Năm Mươi Kinh Thứ Nhất , I. Phẩm Vô Thường
Link tại ĐÂY.
Thế Tôn nói như sau:
-- Mắt, này các Tỷ-kheo, là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
4) Tai là vô thường...
5) Mũi là vô thường...
6) Lưỡi là vô thường...
7) Thân là vô thường...
8) Ý là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". (cái này là nhân, của quả "nhàm chán, ly tham" ! Nếu ứng dụng giáo quán thân, thọ, tâm, pháp thành tựu; như thật thấy thân, thọ, tâm, pháp là vô thường; thì cái nhân này mới là của mình; không thì cũng chỉ là lời Phật mà thôi ! Đối với chỗ thật chứng của bản thân, chẳng có chút dính dáng gì vậy !)
9) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với ý. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. (Đây chính là nhân của quả "Bất ưng trụ" vậy !). Do ly tham, vị ấy giải thoát.
Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
(Nếu còn có cái "Ta đã giải thoát", thì cái giải thoát này chưa phải cứu cánh ! Chỗ giải thoát chỉ là "không còn trở lui trạng thái này nữa", chứ chưa phải là ""sanh tử tự tại", vì sao biết được ? Vì còn có cái "vô thường" và "giải thoát" vậy !)
Ưng vô sở trụ chính là Trung thừa. (phá pháp chấp, lọt vào Không chấp, không chấp này chính là "vô sở trụ" vậy !)
Kinh Giải Thâm Mật - Link tại ĐÂY.
Thiện hiện, Như lai đã nói cái thanh tịnh sở duyên nơi toàn thể năm uẩn chính là thắng nghĩa;
Như lai đã nói cái thanh tịnh sở duyên nơi toàn thể mười hai xứ, mười hai duyên khởi, bốn thực, bốn đế, mười tám giới, bốn niệm trú, bốn chính đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám thánh đạo, chính là thắng nghĩa.
Cái thanh tịnh sở duyên ấy, nơi toàn thể năm uẩn, Nó là đồng nhất tính vị, không có dị biệt; như nơi toàn thể năm uẩn, thì nơi toàn thể mười hai xứ, cho đến nơi toàn thể tám thánh đạo, Nó cũng là như vậy, đồng nhất tính vị, không có dị biệt.
Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩa là phổ biến toàn thể, đồng nhất tính vị.
Thứ nữa, Thiện hiện, các vị Bí sô tu quán, thấu hiểu chân như thắng nghĩa vô ngã nơi một uẩn, thì không cần tìm cầu chân như thắng nghĩa ấy riêng biệt nơi các uẩn khác, nơi mười hai xứ cho đến nơi tám thánh đạo. Và chính cái trí thích ứng với chân như thắng nghĩa bất nhị này làm căn cứ mà thẩm cứu tiến chứng chân như thắng nghĩa phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị . Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩa là phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị.
Sau nữa, Thiện hiện, như năm uẩn thì triển chuyển khác nhau, như mười hai xứ cho đến tám thánh đạo thì cũng triển chuyển khác nhau, nếu chân như thắng nghĩa vô ngã của toàn thể các pháp ấy mà cũng khác nhau, thì chân như thắng nghĩa này đáng lẽ cũng có nhân tố, do nhân tố xuất sinh; nếu do nhân tố xuất sinh thì đáng lẽ là hữu vi, nếu là hữu vi thì đáng lẽ không phải thắng nghĩa, nếu không phải thắng nghĩa thì đáng lẽ phải tìm cầu thắng nghĩa nào khác nữa. (Nhưng), Thiện hiện, do chân như thắng nghĩa vô ngã không có nhân tố, không phải nhân tố xuất sinh, cũng không phải hữu vi, mà đích là thắng nghĩa, (nên) chứng ngộ thắng nghĩa ấy rồi thì không còn tìm cầu thắng nghĩa nào khác nữa, mà (thấy) chỉ có thường xuyên, vĩnh viễn,
Như lai xuất thế hay không xuất thế, pháp tánh các pháp vẫn an lập, pháp giới các pháp vẫn an trú . Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩa là phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị.
Nhi sanh kỳ tâm chính là Đại thừa. (phá Không chấp, Phật Tánh hiển lộ, cũng gọi là "sanh kỳ tâm"; chữ "sanh" này phải hiểu là hiển lộ, chứ không phải nhân duyên sanh như: ưng trụ sắc, sanh tâm; ưng trụ thanh sanh tâm...tâm sanh do trụ sắc...pháp này là tâm thức, tức nhãn thức, nhĩ thức..., ý thức. "Kỳ tâm" này là tâm trí, chẳng phải tâm thức !)
Kinh Lăng Nghiêm - Quyển 4.
Nếu ngươi chẳng duyên theo thế gian, nghiệp quả, chúng sanh, ba thứ phân biệt này xoay chuyển liên tục, ba duyên đã diệt thì ba nhân chẳng sanh, tánh điên của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ngươi tự dứt, dứt tức là Bồ Đề.
Vậy diệu tâm sáng tỏ vốn khắp pháp giới, chẳng từ người khác mà được, chẳng nhờ nhọc nhằn tu chứng mà có.
Trọn vẹn đoạn Kinh này, nói lên sự kế thừa, tính nhân quả, mối liên hệ khăng khít trong công phu, quả vị của Tam thừa trong Phật giáo vậy !
Ngoài ra, đoạn Kinh trên còn nói rõ chỗ rốt ráo cùng tột của Phật Quả, tức chẳng Phật Quả, tạm đặt tên là Phật Quả.
Công hạnh trang nghiêm Tịnh độ của chư Bồ Tát, tức chẳng trang nghiêm Tịnh độ, tạm đặt tên là trang nghiêm mà thôi !
Đây là cái thấy của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật vậy ! Là Tối thượng thừa, cũng tức là Phật thừa !