- Tham gia
- 13/8/18
- Bài viết
- 959
- Điểm tương tác
- 216
- Điểm
- 43
CÂU CHUYỆN HAY
Kiếp trược chuyển đến gần kề,
Thân người nhỏ bé, nghiệp mê ngút ngàn.
Năm trược, ác nghiệp chứa chan,
Tâm như rắn độc, lời gian rồng tà.
Vô minh phiền não tràn ra,
Nhiều như bụi cát, khó mà dứt tan.
Ghét thương nghịch thuận lầm bàn,
Như núi cao chập, khó tàn lòng sân.
Tà kiến cháy rực muôn phần,
Như rừng đầy gai, không cần đạo chân.
Người tin niệm Phật bị khinh,
Bị nghi, bị phá, bị sinh thù hằn.
Mạng trược đoạn mệnh tức thì,
Báo thân – y báo lụi đi không còn.
Lưng quay Chính Pháp mỏi mòn,
Theo tà, loạn khởi, xô dồn nhiễu nhương.
Năm trăm năm cuối đoạn trường,
Nếu không tin Phật bản nguyện bi tâm –
Thoát ly sanh tử mịt tăm,
Không còn cơ hội thoát lầm trần ai.
....
KINH ĐẠI BI QUYỂN 4 - SỐ 380
A-nan, đời vị lai có các chúng sinh xưa kia ở chỗ Ta đã thành thục, nhưng vì nghiệp ác nên đọa trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.
Sau khi Ta diệt độ, những chúng sinh đó ở nơi ây mạng chung, sinh trong loài người có các căn thành thục tăng trưởng, ở trong pháp ta tâm sinh kính tín, có người được xuất gia, có người tại gia, có người đặc quả Tu-đà-hoàn, cho đến có người đắc quả A-la-hán; có người ở học địa mà mạng chung, có người đối với Phật địa mà khởi lòng tin sâu sắc, có người gieo các căn lành cối trời, người.
A-nan, họ sẽ được đây đủ lợi ích như vậy. A-nan, có người được tâm kính tín, nói thê này: Đức Từ Phụ của thế gian khéo phó chúc cho chúng ta, làm cho chúng ta tăng trưởng thêm lòng kính tín. A-nan, Ta vì những chúng sinh đó nên đem pháp bảo này phó chúc cho ông, ông nên làm cho những chúng sinh đó được nghe tạng pháp bảo đây vậy.
Do đó A nan, ông nên đem tạng pháp bảo vĩ đại của Ta làm cho những người thiện nam, thiện nữ tịnh tín... được nghe pháp vậy.
VÃNG SINH THẬP NHÂN CỦA VĨNH QUAN SỐ 2682 - TẬP 84 - ĐẠI CHÁNH TẠNG
Vào sáng ngày mười tám tháng hai, năm Diên Lịch thứ 14 (năm 乙亥 – 795), thầy Nhập Đạo cùng một vị ni sư tắm rửa, tụng kinh, niệm Phật chung với nhau. Đến nửa đêm hôm đó, cả hai đều viên tịch.
Lúc ấy, trong nhà chẳng ai hay biết. Đệ tử là Thắng Như ở bên ngoài gõ trống đồng, xướng danh hiệu Phật. Hàng xóm nghe được thì lấy làm kinh ngạc, liền đến hỏi thăm.
Sau đó, đến giỗ tuần của hai vị, Thắng Như hành trì pháp Bất khinh hạnh (không khinh người), đã lễ bái được hơn 167,600 nhà, lấy công đức ấy mà hồi hướng cho cha mẹ. Trong thời gian hành Bất khinh, mỗi khi đến gần một nhà nào, hương thơm tự tỏa ra quanh cửa. Những người thấy nghe, dù là tục hay đạo, ai cũng lấy làm lạ lùng kỳ diệu.
Về sau, Thắng Như lên chùa Thắng Vĩ (勝尾寺 – Katsuo-ji), theo học với Thượng Nhân Chứng Đạo, thọ giáo cả Hiển – Mật chính giáo, suốt bảy năm.
Sau đó, ông chọn một nơi vắng vẻ, tự dựng một thảo am, tu hành pháp niệm Phật tam muội, kéo dài hơn năm mươi năm. Vì say vị đạo mà quên mỏi nhọc, năm ngày mới ăn một lần, giữ im lặng suốt mười hai năm, không nói một lời. Ngay cả các đồng môn đệ tử cũng rất hiếm khi gặp được ông.
Vào đêm Rằm tháng Tám năm Trinh Quán thứ 8, trên không bỗng vang lên âm nhạc lạ. Trong lúc Thắng Như còn đang trầm tư, có người gõ cửa. Ông chỉ ho nhẹ để cho người ngoài biết có người trong am.
Người ngoài nói:
“Tôi là sa di Giáo Tín, sống ở phía bắc trạm Hạ Cổ, huyện Hạ Cổ, đất Bà Ma (播磨 – Harima no kuni). Nay là lúc tôi vãng sinh Cực Lạc.
Thượng nhân sẽ được nghênh đón vào năm sau, cũng trong tháng và đêm nay. Tôi đến để báo trước việc này.”
Nói xong, một ánh sáng mờ tỏa vào trong am, tiếng nhạc nhỏ dần rồi hướng về phương Tây mà đi.
Thắng Như rất lấy làm kinh dị. Sáng hôm sau, ông sai một vị tăng tên là Thắng Giám đi tìm đến nơi mà Giáo Tín đã nói.
Thắng Giám không quản ngày đêm, tức tốc lên đường đi đến đất ấy. Trên đường, gặp ai đi lại cũng đều hỏi thăm về chuyện vãng sinh của sa di Giáo Tín
Người dân trả lời rõ ràng khi được hỏi về việc vãng sinh của Giáo Tín, không ai không hồi đáp. Dần dần, Thắng Giám đến vùng phía bắc trạm Hạ Cổ. Tại đó, thấy có một thảo am nhỏ. Trên mái am, quạ bay tụ tập, càng đến gần thì thấy bầy chó đang tranh nhau ăn xác người. Bên cạnh tảng đá lớn là một sọ người mới chết, dung mạo không suy hao, mắt và miệng như đang mỉm cười, mùi hương ngào ngạt lan tỏa.
Bên trong am có một bà lão và một đứa trẻ đang cùng nhau khóc than. Thắng Giám hỏi nguyên do, bà lão đáp:
Người trong làng gọi ông là ‘A Di Đà hoàn’ (ý ví như hiện thân của A Di Đà). Hành trì niệm Phật như thế suốt ba mươi năm.“Người chết chính là chồng tôi – sa di Giáo Tín. Đã qua đời đêm rằm cách đây ba ngày. Cả đời ông ngày đêm không ngừng xưng danh Nam Mô A Di Đà Phật, coi đó là sự nghiệp của mình.
Đứa trẻ đây là con của ông. Nay mẹ con tôi mất chỗ nương tựa, không biết tính sao.”
Người dân trong làng, cả tục lẫn đạo, nghe được chuyện Thắng Giám đến dò hỏi việc vãng sinh, đều đổ về xem như hội, tụ họp đông đảo. Mọi người cùng tụng kệ, tán Phật, quay quanh di thể của Giáo Tín mà tán thán công hạnh.
Thắng Giám vội vàng trở về báo lại toàn bộ sự việc.
Thánh nhân (tức Thắng Như) nghe xong thì tự nói:
> “Mấy năm gần đây ta giữ im lặng, chẳng bằng miệng của Giáo Tín suốt đời xưng danh hiệu Phật.
Chợt cảm thấy pháp hành hóa độ người khác của mình còn sơ lược quá.”
Đúng ngày 21 tháng đó, Thắng Như đến thôn xóm, cùng mọi người đồng niệm Phật.
Đến ngày mồng một tháng Tám năm sau, Thắng Như ẩn cư tại chính nơi cũ, đến đúng đêm ấy – ngày Giáo Tín từng báo trước.
Ngài ra khỏi thất, tắm gội, dặn đệ tử:
“Giáo Tín từng hiện đến báo rằng ta sẽ được Phật nghênh tiếp đúng đêm nay, cũng là ngày này năm sau. Hôm nay, những lời thế gian coi như đã tròn một độ. Từ đây, ta sẽ im lặng.”
Ngài rơi lệ, vào trong thất, bày hương hoa, dâng lên Phật, lần lượt như thường lệ tụng niệm.
Lúc ấy, trăng rọi trong, gió thông thổi nhẹ, đồng hồ nước dần điểm đến nửa đêm. Bấy giờ, âm nhạc vi diệu văng vẳng, mùi hương lạ lùng lan tỏa. Thắng Như hòa tiếng với nhạc, cùng niệm Phật. Người nghe đều hoan hỷ không xiết.
Ánh sáng đột nhiên chiếu rọi, mây tía đầy thất. Thượng nhân hướng về Tây phương, kết ấn tay, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch.
Khi ấy, ngài đã 87 tuổi.
Chư đệ tử vừa buồn vừa vui, nước mắt tuôn trào. Có hơn hai trăm người cùng kết duyên pháp hội, ba tuần thất ngày đêm luân phiên quanh thánh thể, không dứt tiếng niệm Phật. Hương thơm trong thất vẫn không hề tan biến.
Sau khi hoàn tất khóa lễ, đưa thi hài đi trà tỳ (hỏa táng). Ấn thủ kết định của ngài không bị đốt cháy, còn nguyên trong tro. Lập tức dựng tháp đá để an trí – gọi là Tháp Tỏa Hỏa (燧石塔). Tất cả đều được ghi chép đầy đủ trong truyền ký của Thượng nhân.
Mặc dù Giáo Tín chỉ là sa di tại gia, còn Thắng Như là thượng nhân xuất gia suốt đời không nói một lời, nhưng đều nương nơi danh hiệu A Di Đà, vốn không thể nghĩ bàn.
Thế thì, “Giáo Tín là ai?” – Há chẳng đáng để chúng ta nỗ lực noi theo sao?
2. TỊNH ĐỘ TÔNG PHÁP MÔN ĐẠI ĐỒ DANH MỤC CỦA NGÀI HÀNH QUAN GIÁC DUNG SỐ 2639 - ĐẠI CHÁNH TÂN TU ĐẠI TẠNG KINH.
Chứng minh bằng các hạng người vãng sinh:
1. Người phạm ngũ nghịch, trọng tội vẫn được nguyện lực nhiếp thọ vãng sinh → thì người phá giới, tội nhẹ lại càng dễ vãng sinh.
2. Người phá giới chỉ cần một niệm nghe danh hiệu, liền được sinh → thì người chỉ phạm mười điều ác nhẹ, lại càng không ngăn ngại.
(Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hy: "Người Hạ Phẩm Trung Sanh ấy: Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới, bát giới và Cụ Túc giới. Người ngu này trộm của vật Tăng-kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tàm quí, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Người tội như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục; lúc lâm chung, các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức, vì lòng đại từ bi, vì người ấy mà khen nói Thập Lực oai đức của đức Phật A Di Ðà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Ðà, cũng tán dương Giới, Ðịnh, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến.
Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát, thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hóa Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy)
3. Người hạ phẩm thượng sinh, chỉ cần một câu niệm Phật là được vãng sinh → thì hạng người thập ác, phá giới, ngũ nghịch chỉ cần hồi tâm đều được vãng sinh.
4. Vậy thì, những người nhân – nghĩa – lễ – trí – tín, làm các thiện nhỏ trong thế gian, há lại không được sinh sao?
5. Người trung phẩm thượng sinh, có giới – có phúc → được vãng sinh nhờ nguyện lực.
6. Người ở các tịnh độ khác, không biết tiểu thừa giới, vẫn được vãng sinh nhờ bản nguyện.
7. Huống nữa là người đại thừa, thượng phẩm hành đạo, tu phúc lớn, sao lại không sinh?
→ Tất cả đều là nhờ bản nguyện mà được sinh, gọi là tha lực vãng sinh.