Ma ảnh thiền (tiếp theo).
II. Ma ảnh thiền :
1.Định nghĩa: Ma ảnh thiền là loại thiền có thể xuất phát từ 1 trong 9 loại thiền đã nói ở phần “Khái niệm thiền học” khi không khách quan được với nội thức, bị nội thức hấp dẫn duyên sinh ảo giới, xa lìa thực tế đắm chìm trong cái ảo giác do nội thức và vô tướng giới duyên sinh (mắc kẹt ở nội thức, mắc kẹt ở ảo cảnh).
2. Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân đưa đến ma ảnh thiền nhưng có lẽ nguyên nhân mạnh nhất đưa ta đến ma ảnh thiền là cuồng tín hoặc thất chí. Dù chánh hay tà, chân hay ngụy, tiểu hay đại, thiên hay viên… nếu cuồng tín hoặc thất chí cũng có thể đưa ta lạc vào ma cảnh. Trạng thái “lú lẫn khi tuổi già” cũng là trạng thái “lạc cảnh giới” vì nội thức quá sâu sắc duyên sinh ảo giới.
3. Hình thái: Tùy loại nội thức mà duyên sinh nhiều ảo giới khác nhau: Địa ngục giới, Ngạ quỷ giới, Cầm thú giới, Atula giới, Nhân giới, Thiên giới, Thinh văn giới, Duyên giác giới, Bồ tát giới, Phật khái niệm giới… nhưng tất cả chỉ là ảo giác duyên sinh ảo giới. Hình thái ấy phong phú đa dạng, khởi niệm liền có, vì thế nó dễ hấp dẫn ta khiến ta say đắm, quên mất thực tại, ma lực ấy khiến ta có cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng như ngây như dại, quên ăn quên ngủ… bào mòn thân xác đến khi “sức cùng lực tận”, hơi thở cuối cùng ra đi không trở lại, liền lúc ấy ảo giới của niệm cuối cùng là chỗ đi về của hành giả.
4. Nhận định: Ma ảnh thiền là loại thiền đưa ta vào ma cảnh nhưng đã không ít người khao khát nó, vì thế người tu hiện tại đa số khi tuổi về già thường bị rơi vào cảnh giới ma ấy, do vậy mà thường có những triệu chứng lơ lơ lãng lãng, khi nhớ khi quên, nói năng loạn xạ hành động không bình thường…
III. Kinh nghiệm bản thân:
Ma cảnh bản thân tôi đã kinh qua không sao kể hết, ở đây chỉ xin kể vài trường hợp điển hình trong 3 lĩnh vực: Phật pháp giới, Chiến tranh giới, Tình cảm giới.
1. Phật pháp giới (Lĩnh vực Phật pháp):
Xuất gia tu hành yên ổn được một thời gian, sau đó sóng gió nổi lên, tôi cố hết sức cũng không thích nghi được nên một hôm tôi đến trước Phật điện bạch rằng:
- Con đã hết cách, không thể tiếp tục mang hình thức tu sĩ nữa, bạch Phật chứng minh cho con được “xả y bát”. Bạch xong tôi vào thiền thất tĩnh tọa ít phút sau tôi thấy một tăng sĩ hình vóc to lớn “mặc áo tràng màu đà” trong tư thế tĩnh tọa hỏi tôi rằng: Thích Ca lỗi hay Di Lặc lỗi? Tôi cố gắng tư duy câu nói ấy nên khái niệm hình thành đưa tôi về với hiện thực. Biết được ý chỉ ấy nên tôi bỏ ý định “xả y bát” và cố gắng tinh tấn hơn, nhưng cũng chỉ cố gắng được đến ngày 24 tháng 10 năm Canh ngọ (1990) tôi phải lần nữa quỳ trước Phật điện bạch rằng:
- Kính bạch đức thế tôn con đã cố gắng hết sức, hôm nay không thể cố gắng thêm được nữa, dù Ngài đồng ý hay không con cũng xin được xả y bát.
Y bát tuy đã xả nhưng tôi vẫn giữ hạnh. Do cùng đường thất chí và làm việc quá sức nên chứng đau gan liên tục hành hạ tôi, tôi ăn ngủ ngày một ít đi, sức khỏe yếu dần, nằm liệt giường không đi đâu nữa.
Một hôm cha tôi đến thăm, thấy bàn thờ bụi bặm bảo tôi rằng: Sao không lau bàn ghế lại để dơ thế này? Tôi bảo rằng: Bệnh quá có tu hành được nữa đâu, thôi để các ngài đi đâu thì đi!
Lau bàn ghế đốt hương xong cha tôi vô nhà trong. Tôi nằm thiếp đến chừng nửa buổi sáng chợt thấy cửa chánh điện tự nhiên mở rộng, sau đó có rất nhiều người từ trong chánh điện đi ra tôi choàng ngồi dậy nhìn lên chánh điện thấy cửa vẫn đóng, không thấy gì cả… tôi tiếp tục nằm xuống. Mãi đến trưa tôi thấy đứng bên giường tôi nằm là Ngài Sư Tử Hống Bồ tát tay cầm pháp khí hàng ma và đứng chắn ngang cửa vào thiền thất là Ngài Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ tát. Tôi mở mắt ra xem thử không thấy gì, tôi thầm nghĩ: Các Ngài đến từ biệt mình rồi đó! Tôi nhắm mắt lại nằm yên; đến chiều tối, tôi thấy hai người mặc quần áo đen đi vào bằng cửa thiền thất, tôi mở mắt ra nhìn không thấy ai, tôi lẩm bẩm: Vậy là đã đến lúc rồi đó! Từ đó ma cảnh xuất hiện, người đến đông nghẹt cả trong lẫn ngoài… yêu cầu tôi thuyết pháp; tôi thuyết giảng từ lúc bắt đầu tối mãi đến gần sáng… không biết thuyết giảng như thế được bao lâu, một hôm chị tôi bảo rằng: Nói gì mà nói suốt đêm, không cho ai ngủ vậy? Tôi bảo: Có người yêu cầu mới nói chứ, nếu không cho nói nữa, tôi đi đến chỗ khác để nói. Từ đó tôi bắt đầu đi lang thang…
Lang thang vô định mỏi mệt lại trở về tịnh thất ngủ, Má tôi tuy lúc nào cũng dọn cơm sẵn cho tôi nhưng có lúc tôi ăn, có lúc tôi đổ. Bà đi bốc thuốc về cho tôi uống nhưng chẳng kết quả gì, khi thì ngủ ly bì không sao thức dậy được, khi thì thức trắng đêm không sao chợp mắt, trong khi ấy nhiễu âm và nhiễu ảnh (ảo ảnh) cứ khuấy động mãi làm cho tôi ngày mỗi xa rời thực tế. Một hôm Má tôi bưng bát thuốc đưa tôi, tôi bưng bát thuốc ném ra rào, miệng bảo rằng: Bệnh gì không chẩn mạch mà lại bốc thuốc? Từ ấy tôi không phải uống thuốc nữa, Cha, má, chị và các em tôi lại chạy theo thầy bùa thầy ngải, ông đồng bà bóng…
Một ngày nọ tôi nằm trên tấm phản đặt dưới đất trong một căn nhà gỗ ở phía đông, khi ấy có một bà đồng đến đứng dưới chân tôi, tôi đạp chân bảo rằng: Đi đi đứng đó tao đá bây giờ! Bà đồng vội vàng rút lui.
Bệnh tôi ngày một nặng thêm, một hôm nằm trong thiền thất, miệng tôi niệm danh hiệu các Đức Phật trong khi tay phải tôi đưa ra lướt nhẹ từ thấp lần đến cao (vì khi ấy tôi thấy có người lênh đênh trên mặt biển nên tôi đưa tay ra vớt). Liền khi ấy một tên thầy bùa thầy ngải gì đó bước đến chụp vào bụng tôi, tôi ngồi bật dậy và nói rằng: Sao lại chụp vào người tôi, tên ấy liền đứng sang một bên, tôi đi thẳng lên chánh điện rút then gỗ cài cửa cầm trên tay, mở cửa chánh điện bước ra sân đứng gần cây mận, miệng bảo rằng: Có giỏi thì ra đây! Tên ấy bước ra đứng cách tôi chừng 4 đến 5 mét miệng hắn nói: Tao bẻ cổ mày! Tôi bảo: Hãy làm thử coi rồi miệng tôi đọc chú Kim Cang Uế Tích. Tên thầy liền bỏ đi vào nhà cùng cha tôi.
Mấy ngày sau Cha tôi, em trai tôi, em rễ tôi… ra chỗ tôi ở lén chụp bắt tôi rồi đè xuống bóp mũi bắt tôi uống thứ thuốc bùa ngải gì đó, tôi không uống, Cha tôi dùng vật gì đó cậy răng tôi đổ thuốc làm cho môi trái trên tôi bị xướt và răng tôi bị mẻ, đau nhức suốt từ đó (sau này tôi phải đi nhổ 2 cái răng trên và dưới ấy mới thấy êm được).
Gia đình tôi tốn không biết bao nhiêu tiền cho những tay thầy bùa thầy ngải và ông đồng bà bóng nhưng bệnh ngày một nặng thêm. Tôi ngày một yếu và ít đi xa hơn chỉ quanh quẩn ở nhà, không còn cách nào khác nữa, các em của tôi cùng với cha tôi lừa bắt tôi đưa đi bệnh viện, vào bệnh viện có lần tôi trốn ra biển lội thẳng xuống nước nhưng sóng lại đẩy tôi vào bờ, làm như thế đến 3 lần… sóng cũng đẩy tôi vào bờ; tôi quay lưng lại đi theo bờ cát một quảng rồi lên đường… đi tiếp đến một ngã tư… đến một gốc cây to bên cạnh một quán hớt tóc, tôi nằm ngủ một giấc, sau đó thức dậy tiếp tục lang thang; em trai tôi đi tìm gặp tôi chở tôi đến nhà cậu tôi chơi một lúc rồi chở tôi trở về bệnh viện. Từ đó Cha tôi lúc nào cũng bám sát tôi, có lần tôi tính trốn viện, Cha tôi ngăn lại, tôi dùng gạch thẻ đánh Cha tôi chảy máu đầu, rõ thật quá điên khùng!
Nằm viện gần 1 tháng tôi được chạy điện và chích thuốc ngủ dần dần tôi có phần tỉnh hơn. Xuất viện về nhà tôi mặc pháp phục… tiếp tục hành đạo nhưng nhiễu âm và nhiễu ảnh vẫn khuấy động… mạnh nhất là trong những giấc thiền. Tôi đi khắp nơi nhưng vẫn không thể nào ổn định được, tôi đành phải xả y bát lại một lần nữa.
Trở về nhà, đóng cửa thiền thất tĩnh tọa luôn 3 ngày đêm, đến đêm thứ 3 tôi nghe tiếng thuyết pháp, tôi liền chất vấn, cuối cùng không trả lời được câu hỏi của tôi, nhiễu âm nhiễu ảnh liền ẩn và tôi liền thực hành pháp “Liên Hoa Quán”…
Tôi quán tưởng khắp mặt đất mọc đầy những hoa sen lớn dần lớn dần bằng bánh xe rồi quán tưởng đưa những hoa sen ấy lên trời, đến lưng chừng hư không tự nhiên những đóa sen rơi xuống rất nhanh như có ai cột dây kéo xuống, tôi thầm nghĩ: Bị phá nữa rồi! Tôi liền xả thiền và từ đó không dụng công quán tưởng nữa.
Nhờ ăn ngủ bình thường nên tôi tỉnh táo dần, tôi mở lớp kèm học sinh với mục đích không để cho đầu óc ở không. Năm 1993 tôi dỡ tịnh thất, trả lại mặt bằng cho cha má tôi, tôi đến ở hẳn với cô tôi (cô là giáo viên cấp 2 và đã ăn chay trường), phụ giúp cô tôi dạy kèm học sinh cho đến ngày nay.
2. Chiến tranh giới (cảnh giới chiến tranh):
Một đêm trời đất sáng bừng, tôi nghe tiếng giục ra đi, lúc ấy tôi thấy khắp nhà, sân chật ních người. Tôi bước ra sân đứng nhìn về hướng đông, tôi thấy ánh sáng nhấp nháy quanh đầu tôi. Tôi hỏi: Ánh sáng gì vậy? Có tiếng trả lời: Đó là đèn sáng của máy chụp hình trước khi ra trận. Tôi bắt đầu ra đi, đi mãi, đi mãi… tôi thấy hai bên đường lửa cháy hừng hực, nhìn kỹ tôi thấy những chiếc GMC bị đốt cháy. Tôi hỏi: Sao xe bị cháy vậy? Có tiếng đáp: Đây là khu vực mới đánh nhau.
Tôi tiếp tục đi thêm… đến một trường tiểu học, tôi rẽ vào nằm dưới gốc cây to trước trường, nghe tiếng nói chuyện lao xao, tôi hỏi: Tiếng người nói ở đâu vậy? Có tiếng trả lời: Đó là tiếng nói chuyện ở trong các phòng học. Tôi đứng lên, đi vào các phòng học xem thử, chẳng thấy một bóng người nên tôi quay ra. Có tiếng giục tôi tiếp tục đi về phương Nam nhưng tôi không nghe theo và quay gót trở về.
Trên đường về từng loạt ánh sáng nối đuôi nhau không dứt, tôi hỏi: Ánh sáng gì vậy? Có tiếng trả lời: Đó là ánh sáng của đoàn xe về Bắc. Tôi hỏi tiếp: Xe chạy sao không nghe tiếng động cơ? Có tiếng trả lời: Xe bây giờ tối tân lắm, không dùng nhiên liệu xăng nên không có tiếng nổ. Lúc đó chân tôi cảm thấy hơi mỏi, tôi nghĩ rằng: Mình đón xe đi thử xem sao, liền khi ấy có tiếng bảo rằng: Ông nên quăng cây gậy đi, nó mới chịu ngừng. Tôi hỏi vì sao vậy? Có tiếng trả lời: Nó sợ ông đánh nên chẳng dám ngừng đâu! Vừa lúc đó tôi bước lên cầu, tôi liền quăng cây gậy xuống dòng nước rồi tiếp tục đi. Đến cuối cầu, tôi thấy sát lề phải, có một chiếc xe Jeep đứng sẵn ở đó. Tôi lấy tay rờ thử, không thấy gì nên tôi lại tiếp tục đi. Tôi thầm nghĩ: Nếu vội vàng bước lên xe chắc là phải té xuống vực, không chết cũng phải gãy chân, gãy tay chớ chẳng phải chơi…
3. Tình cảm giới (cảnh giới tình cảm):
Trưa ngày 24 tháng 10 năm Canh Ngọ (1990) tôi đến nhà một người nữ và có bảo cô ấy chờ tôi khoảng một thời gian ngắn (tôi tính diễn vai Ngọc Lâm trong tác phẩm “Thoát vòng tục lụy”), nhưng sợ bị sa lầy và xét thấy tuổi đã lớn, sự nghiệp và sức khỏe đều không có, nên một tối nọ khi tôi đến nhà cô, cô ấy đề cập đến… tôi nói lãng đi, không chịu trả lời thẳng vấn đề; vì thế cô và gia đình đều tỏ ra bất mãn, cho tôi là người không đàng hoàng. Thấy cô và gia đình đều không thích tôi nữa, tôi có phần yên tâm và tiếp tục con đường tu của mình, nhưng chướng ngại liền theo sau đó, mỗi khi tôi tĩnh tọa liền nghe tiếng nói rằng: Đầu voi đuôi chuột, hứa với người ta rồi sợ khổ, tìm cách trốn, nó mà chết… nó theo báo suốt kiếp, ở đó mà tính chuyện tu hành! Nhiễu âm xúi giục tôi mãi, cuối cùng tôi cũng phải đến nhà cô ấy.
Hôm đó tôi đi xe đạp đến nhà cô, đến cổng, tôi xuống xe, dắt xe vào nhà, vừa lúc đó chị của cô ấy có mặt trước sân, chị bảo: Ông mà lấy em tôi, tôi đi đầu xuống đất đó! Tôi liền quay xe dắt ra cổng, nhiễu âm lại giục: Cứ vào sợ gì! Tôi lại dắt xe vào, chị ấy lặp lại câu nói vừa rồi một lần nữa. Tôi dắt xe ra cổng và đi luôn, từ đó nhiễu âm thúc giục thế nào tôi cũng không nghe theo nữa.
Một ngày nọ, khi tập thể dục, tôi đưa tay phải lên trời, tôi thấy từ 5 ngón tay xẹt ra những tia sáng bắn thẳng lên trời, vừa lúc đó tôi thấy tro bụi bay ra khắp trời, tôi hỏi: Bụi tro ở đâu vậy? Nhiễu âm đáp: Ông bắn lủng trời nên trời cháy phun ra tro đó! Ngay lúc đó nhiễu âm giục: Đã có thần thông rồi, sợ gì, hãy đến nhà cô ấy xem thử giờ này cô ấy ra sao! Tôi liền nghe theo và đến nhà cô ấy, lúc đó tôi điên lắm rồi, mặc bộ đồ bảo hộ lao động màu xanh dương, ống quần chân phải đã bị cháy một vùng ở phía trước, tôi đi chân đất, tay chống một cây thước tre; đến nhà cô ấy, tôi thấy không có ai, chỉ thấy một mình cô ấy ngồi trên chiếc chõng bành lớn nhìn tôi, tôi bước một chân vào nghạch cửa hông, thoạt nghe tiếng trẻ con khóc thét lên, tôi hỏi: Tiếng con nít ở đâu khóc vậy? Nhiễu âm đáp: Ở trong bụng cô ấy. Tôi nghĩ rằng mình có đụng vào người cô ấy đâu, sao lại có trẻ con trong bụng? Tôi sợ quá, quày quã ra đi… theo quốc lộ thẳng về hướng đông… từ ấy tôi không còn bén mãng đến nhà cô ấy nữa.
Một ngày kia, thấy một chiếc xe lam chở một số người mặc đồng phục màu đen chạy trên đường trước nhà tôi, trong số đó có cô ấy, cô vẫy tay chào tôi và bảo rằng: Em đi công tác… sáng hôm sau nhiễu âm bảo rằng: Hãy ghé qua nhà cô ấy để đưa tang cô, cô ấy đi công tác và bị chết trên dòng sông… tôi liền sang nhà cô ấy, nhà chẳng có ai, chỉ thấy chị của cô ấy ngồi trước hiên nhà, đưa mắt buồn nhìn về hướng tây. Tôi đến trước nhà xem thử coi có quan tài, bài vị… gì không, nhưng tuyệt nhiên không có gì hết. Tôi bảo: Láo toét, đừng hòng gạt tao nữa! Nhiễu âm bảo: Cô ấy lấy chồng ở xóm sau, tang lễ tiến hành ở nhà chồng cô ấy. Tôi ra khỏi nhà cô, vừa đến quốc lộ đã thấy trong con đường nhỏ, có đám đưa tang từ từ đi ra, đi trước quan tài là bà nội cô ấy. Tôi thầm bảo: Cô ấy đã chết thật rồi! Tôi bỏ về nhà, từ đó cứ mỗi tối, tôi thấy trời đất rực sáng và nghe tiếng cô ấy dục tôi đi hành đạo.
Một sáng nọ, tôi nghe tiếng cô ấy bảo rằng: Hãy ra đến số 8 Lý Thường kiệt, Huế ở để hành đạo. Tôi tìm quyển đường thi bỏ vào tay nãi, khoát lên vai rồi đi ra. Đi gần đến đèo, chân thấy hơi mỏi, tôi đón xe nhưng không có một chiếc xe nào chịu ngừng. Tôi bảo: Dẹp, tao không đi nữa! Tôi quay trở về, leo lên một ngọn núi, ngồi xếp bằng dưới cội Bồ đề mà trước kia tôi thường ngồi tĩnh tọa, tôi lấy tập đường thi ra, tay mới vừa lật đã nghe tiếng cô ấy đọc thơ, tôi nhìn vào sách kiểm tra thì đúng y bài thơ ấy. Tôi bảo: Người thuộc hết tập thơ này à? Cô ấy đáp: Dạ, em thuộc hết tập thơ ấy rồi. Tôi bảo: Để ta thử lại lần nữa. Tôi lấy tay lật hờ tập thơ, liền lúc đó tôi nghe tiếng cô ấy đọc. Tôi kiểm tra lại thì y bài thơ tôi đã lật. Tôi bảo: Người chết thật rồi à? Cô ấy trả lời: Dạ, em chết thật rồi. Tôi bảo: Ta thương người lắm nhưng khi đi tu ta đã xác định rồi, ta quay về vì gặp quá nhiều chướng nạn, không vượt qua được, ta tính hỏa thiêu nhưng nghĩ lại đạo nghiệp chưa thành, đốt xác thân này nào có ích gì, hiện tại ta đã lớn tuổi, sự nghiệp không có, sức khỏe thì yếu, nếu lao vào làm sao hạnh phúc được, người thông cảm cho ta, đừng phá ta nữa nhé!
Nhiễu âm giả tiếng cô ấy mãi khuấy động tôi, đến khi xuất viện trở về nhà cũng vẫn còn, nhưng nhờ ăn được ngủ được nên tôi có phần tỉnh hơn. Trực nhận được ý chỉ của thiền học: “Vướng mắc ở nơi nào, phải được tháo gỡ từ nơi ấy” nên tôi tự vạch kế hoạch để thoát ly… tôi viết thư nhờ người gởi cho cô ấy, một hôm Mẹ và chị cô ấy cùng hai người nam đi xe lam đến nhà tôi, 3 người vào nhà, 1 người nam ở ngoài giữ xe. Mẹ và chị cô ấy lấy thư ra đưa cho người nam cùng đi theo đọc cho Cha má tôi nghe, nghe xong không biết Cha tôi nói thế nào mà Mẹ và chị cô ấy nổi trận lôi đình… rồi bỏ ra sau tịnh thất tìm tôi, nhưng lúc đó tôi không có ở nhà. Sau đó tôi có gặp cô ấy mấy lần, lúc nào cô cũng có thái độ khinh ghét tôi, tôi nghĩ: Thế là yên tâm rồi, người như thế làm sao vì tôi mà chết được… lũ ma đừng hòng gạt ta nữa!
Từ đó nhiễu âm không khiến tôi được nữa nên hăm dọa tôi: Ông không thể nào ra khỏi thế lực của ta đâu. Tôi bảo: Đối với ta sống lâu thì khổ nhiều, chết sớm là điều may mắn vì đã thoát ly được cõi đời đau khổ này, còn nghiệp thì còn phải sống để trả nợ, hết nghiệp mới có thể ra đi được. Làm gì cứ thử làm coi! Nhiễu âm dọa: Được, ta sẽ phá gia đình ông để ông phiền não. Tôi bảo: nếu gia đình tôi có nợ với các ông, các ông cứ đòi! Nếu gia đình tôi không có nợ với các ông, các ông tác nghiệp ắt phải thọ báo. Gia đình tôi bị khuấy động liên tục nhưng tôi cố gắng khách quan để không sa bẩy lũ ma. Cuối cùng chúng xuống nước năn nỉ tôi, bảo rằng: Tu lại đi! Ta sẽ hộ cho ông nổi tiếng trở lại. Tôi bảo: Người nào cần giúp thì cứ đến giúp họ, đối với tôi: Không lên cao để khỏi phải xuống thấp vì:
Danh tiếng lẫy lừng, danh tiếng hại.
Tuổi tên lộng lạc, tuổi tên trù.
Bao nhiêu bay nhảy, bao nhiêu dại.
Mấy trận tày khôn, mấy trận ngu.
(Pháp môn tọa thiền - Pháp sư Giác Nhiên)
Nhiễu âm, nhiễu ảnh đến nay thỉnh thoảng vẫn còn nhưng không đáng kể. Hiện tại tôi hành lại “Mật thiền” nhưng “Mật thiền” hiện tại không giống như “Mật thiền” mà trước kia tôi đã hành (năm 1990 về trước).
Mật thiền hiện tại là “Mật thiền xứng tánh niệm trụ”:
- Không liên tục trụ niệm.
- Chỉ trụ Đàlani khi bị khuấy động.
- Không có đàn pháp.
- Không cầu chứng hoặc đắc một cái gì.
- Không cầu trở thành một nhân vật nào khác.
- Chỉ dùng Đàlani để đối phó nhiễu âm, nhiễu ảnh và tạp niệm.
- Không sở đắc trong pháp hành.
- Không so bì với bất cứ một ai dù tăng hay tục.
- Chỉ so bì với Chư Phật, lấy hạnh đức của Chư Phật làm gương soi.
- Không thân thiết với ai và cố gắng không gây hiềm khích với ai.
- Thiền cảnh dù tốt hay xấu, dù đúng hay sai cũng là ma cảnh nên không quá bận tâm với thiền cảnh.
- Cố gắng khách quan và phát hiện “niệm khởi” đúng lúc để hóa giải nó.
Từ ngày hành pháp Mật thiền này, tôi thấy yên ổn và ít lẫn quẫn hơn trước nên mạo muội viết lên trang này với mong mỏi giúp những ai đồng cảnh ngộ… có cơ hội bình thường hóa nội tâm, không còn phải lang thang vô định.
4. Linh tinh giới:
4.1/ Một hôm tôi thấy mình đi đến một hành tinh đất đỏ, dạo một vòng không thấy ai, tôi liền đi đến hành tinh có đất màu xanh lá cây, hành tinh này cũng không có một bóng người, tôi liền đi đến một hành tinh có đất màu đen, cũng không thấy một bóng người nào, tôi lại tiếp tục đi đến hành tinh có đất màu vàng rực như màu vàng y, tôi đi đến nơi cao nhất nhìn thấy tổ sư Minh Đăng Quang đang ngồi tĩnh tọa, sau lưng có một người còn đủ râu tóc cũng đang ngồi tĩnh tọa, tôi liền đến xếp bằng ngồi sau vị ấy. Sau này khi đến mua thuốc ở nhà thuốc bắc, nhìn hình các tổ sư đông y, tôi mới biết người ngồi sau lưng tổ sư Minh Đăng Quang trên kim tinh chính là Hải Thượng Lãn Ông.
4.2/ Có lần tôi ôm chiếu đến ở dưới một gầm cầu, thấy rất nhiều khoen mở nắp bia lon, nhiễu âm bảo tôi nhặt tất cả để dành làm nhẫn trừ tà. Tôi nhặt tất cả các khoen bia ấy, dùng răng cắn làm nhẫn đeo vào cả hai tay, còn lại đem về tôi bắt các em tôi đeo và đeo cho một thương binh (cụt 1 chân) bán cà rem.
4.3/ Một ngày kia tôi đi lạc vào một xứ toàn giống người man rợ chuyên ăn thịt người. Thấy tôi bọn chúng reo hò đứng chặn đường chờ bắt tôi, tôi liền tưởng tượng trên tay tôi cầm một xác người và ném về phía họ, họ giành nhau xé “xác người hóa thân ấy” và ăn, không còn chú ý đến tôi nữa, nhờ vậy mà tôi thoát được nạn.
4.4/ Trước năm 1990 tôi thường cúng cô hồn, từ khi bị bệnh tôi không cúng nữa, bọn cô hồn đến đòi tôi cúng, tôi bảo: Cúng cho tụi mày ăn, tụi mày xúm lại phá tao có ích gì đâu! Chúng nói: Bảo là Đại thừa Bồ tát thương xót chúng sinh vậy mà người ta đói khát xin ăn lại không chịu bố thí. Tôi bảo: Trước kia vật thực tao cúng phần lớn đều do tao tưởng tượng ra thôi, không có thật, bây giờ muốn ăn gì thì cứ tưởng tượng ra rồi ăn, không phải mất công đòi ai cúng cho ăn nữa. Tao thấy bản thân tao trong giấc ngủ cảm thấy đói, sau đó tao thấy được ăn, ăn xong liền no, ăn trong giấc ngủ không có thật mà cũng no, tụi mày không có hình hài cũng có thể ăn như vậy, từ nay muốn ăn gì cứ tưởng tượng ra rồi ăn, đừng kiếm ăn bằng cách quậy phá người khác mà mắc phải tội. Từ đó trở đi chúng cô hồn không đến đòi ăn nữa.
4.5/Một hôm tôi đi bộ trong sân tịnh thất, tôi thấy hai đứa nhỏ đứng trên hoa sen bay theo hai bên hông tôi. Tôi hỏi: Tụi mày con ai mà cứ đi theo tao như thế. Chúng nói: Ba quên con rồi à, con là con của ba, má… Ba nên đến thăm má, má đang bệnh nặng lắm! Tôi nói: Láo toét, tao có đụng đến cô nào đâu… mà có con! Nói xong bọn ấy liền biến mất.
4.6/ Một ngày sau khi xuất viện về nhà, nhiễu âm (giọng nữ) lên tiếng ba hoa chích chòe đủ thứ. Tôi nói: Sao không chịu đi đầu thai, theo tao mãi làm gì? Nhiễu âm nói: Theo ông để sau này làm con ông để ông nuôi dạy cho nên người. Tôi bảo: Tao chẳng lấy vợ đâu! Nhiễu âm nói: Sớm muộn gì ông cũng phải lấy vợ, ông nên đến thăm cô ấy đi, đừng để cô ấy buồn tội nghiệp. Tôi bảo: Đừng có nhảm nhí, chẳng bao giờ đâu!
4.7/ Hôm nọ nhiễu âm (giọng đàn ông trung niên) xuất hiện hỏi đạo. Tôi bảo: Sao phá tao dữ vậy, tao có đạo gì đâu mà hỏi. Nhiễu âm đáp: Thấy ông bay xuyên trái đất rồi bay vòng quanh trái đất nên thử ông, xem đã đắc đạo chưa. Tôi nói: Đó là huyễn pháp gọi là “Du hí thần thông”, ta chỉ tưởng tượng bay xuyên trái đất và vòng quanh trái đất, thật sự ta có bay bao giờ đâu? Nhiễu âm hỏi: Bây giờ phải tu như thế nào? Tôi bảo: Nếu thấy có dính mắc thì nên tháo gỡ, không có dính mắc thì thôi, không có gì là tu và cũng không có gì là không tu vì tự tánh xưa nay vốn rỗng lặng và trong sáng như gương soi, không một vật nào ở ngoài nó và cũng không có một vật nào ở trong nó, tất cả chỉ là ảnh chiếu sinh diệt theo duyên của ngoại vật và nội thức, đó chỉ là khách thể, chẳng phải có cũng chẳng phải không. Cái thật có thường tại không thiên biến là cái rỗng lặng và trong sáng “Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi” vì thế nó là cái không bị hoại diệt trong dòng sinh diệt, đó là cái chân tâm sẵn có trong tất cả chúng sinh.
4.8/ Một tối theo tiếng giục của nhiễu âm tôi đi về hương tây trên tỉnh lộ, tôi đi mãi đi mãi… nhìn phía sau tôi thấy đoàn người rất đông đi theo tôi; đến gần đèo tôi thấy một khối đen to lăn xuống ruộng. Tôi hỏi: Cái gì vậy? Nhiễu âm đáp: Họ tránh đường cho ông đi đó, tiếp tục đi thôi! Tôi quay gót trở về không đi thêm nữa. Khi về đến “mỏ đá”, tôi thấy bên đường (phía bờ sông) nhà cửa chìm trong bóng tối, một đàn chó Becgiê đứng sủa tôi. Đến gần mương nước tôi thấy có một ngọn đèn điện đang sáng, tôi đứng lại nghỉ một lúc rồi tiếp tục trở về nhà…
Đi lạc vào ma cảnh nặng nhất khoảng 3 năm (tổng cộng 10 năm), cảnh giới chứng kiến khá phong phú và đa dạng không sao kể hết.
IV. Kết luận:
Thiền học là môn học giúp ta bình ổn nội tâm để có được cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống. Khát vọng thường làm tâm ta chao đảo, không bình thường vì thế khát vọng có thể là nguyên nhân đẩy nội thức duyên sinh ảo giới hình thành ma cảnh.
Ma cảnh là cảnh giới “không thật có” như là chiêm bao, mộng mị… trong khoảng khắc nó có thể vẽ nên sinh hoạt của cả một đời người…
Chiêm bao là “tiểu mộng” đời người là “đại mộng”, vì thế khi sinh hoạt đời thường không duy trì được bởi cuồng tín hoặc thất chí thì tiểu mộng và đại mộng nhập một, biến thành “đại đại mộng”, hình thành ma cảnh không chỉ một đời mà có khi vĩnh kiếp.
Ma cảnh thiền là loại thiền lạc vào ma cảnh, nếu khát vọng quá lớn, không gian khách quan sẽ quá nhỏ, khó có thể thoát ly ma cảnh.
Ma cảnh là cảnh giới của những sinh hoạt thiếu khách quan, vì thế những sinh hoạt Phật pháp thiếu khách quan cũng có thể đưa ta vào ma cảnh. Ma cảnh không chỉ duyên sinh lục phàm mà có khi duyên sinh cả tứ thánh nếu thiếu khách quan (Đại Bồ tát còn 10 thứ ma nghiệp… / Kinh Hoa Nghiêm).
Người khách quan thường ở trong Phật cảnh, người không khách quan thường không ra khỏi được ma cảnh.
Người tu thiền rơi vào ma cảnh thường vì thiếu khách quan, thiếu khách quan nên dễ sinh cuồng tín, thiếu khách quan nên thường bị chướng ngại, chướng ngại không vượt qua được thường sinh thất chí, vì thế cuồng tín và thất chí dễ dàng dẫn ta vào ma cảnh.
Ngày 01 tháng 08 năm Tân Tỵ (17/09/2001)
Ghi Chú :
* Nội giới: Thế giới nội tâm.
* Ngoại giới: Cảnh giới cụ thể bên ngoài.
* Nhị thừa: Thinh văn thừa và Duyên giác thừa.
- Thinh văn thừa: Giác ngộ từ âm thanh lấy khổ làm đối tượng để tư duy.
- Duyên giác thừa: Giác ngộ từ sắc tướng lấy vô thường làm đối tượng để tư duy
* Nội thức: Ý thức tiềm tàng lưu trú và ý thức phân biệt duyên sinh…
* Lục phàm: Địa ngục, Ngạ quỷ, Cầm thú, Atula, Người, Trời.
* Tứ thánh: Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật khái niệm (Tứ thánh: Ý nghiệp chưa sạch… vì thế là thánh khi kiềm chế được tam nghiệp, là phàm khi không kiềm chế được tam nghiệp; vì lý do này cho nên “thánh, phàm…” là cặp song sinh, không độc lập tồn tại; chỉ có Như Lai Phật Thế Tôn mới vĩnh hẵng bất hoại, mới có thể thị hiện sinh tử mà không sinh tử; chúng ta vì ý nghiệp chưa sạch, vì thế cần phải cảnh giác khi thị hiện sinh tử, phải biết dừng lại đúng lúc… đừng để bị sa lầy!).
Liễu tận Bồ đề chẳng giác, mê…
Thiên chân hạo hạo chẳng đi, về…
Lâm trần nghiệp trói nào hoảng sợ,
Giác tánh thường minh…tọa pháp tòa.
Kiến lập liên đài Tịnh độ tâm,
Dìu dắt muôn linh vượt biển trầm,
Cư trần hòa nhập siêu trần giác,
Luân chuyển ươm mầm giải thoát nhân.
Chân Như Không Tánh cẩn chí!.