vienquang6

Ẩn ý Truyện Tây Du

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 6): Bí ẩn về thân thế thực sự của Đường Tăng

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Tây Du Ký kể rằng, Đường Tăng vốn là Kim Thiền Tử, là đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca. Chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị giáng xuống trần thế, phải qua mười kiếp tu hành, trên đường thỉnh kinh lại trải qua ma nạn trùng trùng, cuối cùng mới có thể chứng đắc Phật quả.
Nhưng trong lịch sử, đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca lại là Mục Kiền Liên, hơn nữa trong số các đệ tử còn lại cũng không có ai tên là Kim Thiền Tử. Vậy dám hỏi Kim Thiền Tử là ai?
Nếu Đường Tăng là Kim Thiền Tử chuyển sinh, vậy Kim Thiền Tử là ai?
Chúng ta biết, Tây Du Ký bao gồm cả các nhân vật huyền thoại (như Lão Quân, Ngọc Hoàng, Tây Vương Mẫu, các chư Phật và Bồ Tát) và các nhân vật lịch sử (như Đường Thái Tông và các danh tướng nhà Đường). Dẫu là nhân vật huyền thoại hay lịch sử, thì câu chuyện về họ đều hết sức rõ ràng, ít nhiều có thể tra lại trong các thư tịch cổ.
Ngay cả Ngộ Không, Bát Giới, và Sa Tăng cũng không phải hoàn toàn là hư cấu của tác giả, mà đều bắt nguồn từ các truyền thuyết trong dân gian. Nhưng riêng câu chuyện về tiền kiếp của Đường Tăng lại là hư cấu, thậm chí còn mâu thuẫn với lịch sử — Phải chăng Ngô Thừa Ân muốn nói với chúng ta rằng: Cái tên “Kim Thiền Tử” (金蟬子) chỉ là một ngụ ý của tác giả?
Trong tiếng Hán, “Kim Thiền” nghĩa là con ve sầu, mượn ý trong “Kim thiền thoát xác” (ve sầu lột xác). Không ít lần Ngô Thừa Ân mượn lời thơ để tiết lộ ý nghĩa của cái tên này:
Hồi thứ 12:
“Rằng năm Trinh Quán mười ba,
Nhà vua hội họp sư về giảng kinh (…)
Chùa xây ơn sắc chỉ vua,
Kim Thiền lột xác tìm về Tây phương.
[1]
Hồi thứ 15:
“Phật thuyết Tam Tạng chân kinh,
Bồ Tát khuyến thiện dân sinh khắp vùng (…)
Kim Thiền thoát xác muốn xong,
Thì Huyền Trang phải dốc công tu hành”.
[2]
Vậy thì, Ngô Thừa Ân muốn nói với chúng ta điều gì qua hình ảnh “kim thiền thoát xác” này?
Nhục thân chỉ là chiếc áo, nguyên thần mới là sinh mệnh chân chính của con người
Phật gia giảng rằng, bản mệnh chân chính của con người là nguyên thần, sinh ra trong không gian vũ trụ. Bởi sinh mệnh lúc ban sơ là thánh khiết, họ phù hợp với đặc tính của vũ trụ nên mới có thể ở trên tầng cao kia. Nhưng rồi qua tháng năm đằng đẵng, một số mang theo những thứ chấp trước và dục vọng khiến thân thể trở nên nặng nề, cuối cùng rớt xuống nơi thế gian ô trọc này. Cũng tại đây nguyên thần bị phong tỏa vào thứ thân xác thịt thấp kém.
Vì có nhục thân, họ không thể phiêu đãng bay lên, cũng không thể hiển thị những thần thông lớn. Vì có nhục thân, họ mới biết thế nào là sinh-lão-bệnh-tử, thế nào là khổ, thế nào là đói bụng, khát nước, nóng lạnh, tê buốt, đau đớn, mệt mỏi, rã rời… Cũng vì có nhục thân, họ mới bị kìm hãm trong các thứ dục vọng và truy cầu về danh, tình, lợi, truy cầu địa vị, quyền thế, truy cầu được sống lâu trăm tuổi, trẻ mãi không già. Và cũng vì có nhục thân, họ mới có thể làm “người”, mới được gọi là “con người”.
Lại nói, nhục thân chỉ giống như một chiếc áo, nhưng lại có thể ức chế và giam hãm nguyên thần. Ví như mặc chiếc áo “động vật” sẽ phải làm kiếp con vật, mặc chiếc áo “con người” sẽ được làm người… Trong truyện kể rằng, Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái chỉ huy hơn 8 vạn thủy binh ở Thiên Hà. Một vị thần oai phong lẫm liệt như thế, nhưng khi đày xuống hạ giới, vì lầm đường rơi vào chuồng heo mà phải mang thân lợn.
Còn Sa Tăng là Quyển Liêm đại tướng trông coi xe loan ở điện Linh Tiêu, cũng vô cùng thần thánh, đến khi bị đày xuống sông Lưu Sa mới mang thân hình gớm ghiếc của yêu quái. Không thể nói rằng Bát Giới là “lợn” hay Sa Tăng là “yêu quái”, bởi vì nhục thân của họ chỉ là chiếc áo ấy thôi, còn nguyên thần mới là bản mệnh chân chính của mỗi người.
Không thể nói rằng Bát Giới là “lợn” hay Sa Tăng là “yêu quái”, bởi vì nhục thân của họ chỉ là chiếc áo ấy thôi, còn nguyên thần mới là bản mệnh chân chính của mỗi người. (Ảnh: youtube.com)
Nhục thân thấp kém, nhưng có nhục thân mới có thể tu hành
Trong Bát Tiên truyền kỳ, vị tiên đứng đầu là Lý Thiết Quải, có thân hình của một ông lão già nua xấu xí với một bên chân khập khiễng. Đã là tiên, vì sao lại có vẻ ngoài khổ sở như vậy? Kể rằng, ông tên thật là Lý Huyền, vốn là một đạo sĩ khôi ngô tuấn tú. Khi chưa hoàn toàn viên mãn, ông đã có thể nguyên thần ly thể, ngao du sơn thủy.
Một ngày, Lý Huyền muốn cùng Thái Thượng Lão Quân đến Hóa Sơn, trước khi đi ông căn dặn đệ tử phải canh giữ xác ông trong 7 ngày, nếu sau 7 ngày mà nguyên thần không về thì hãy thiêu xác. Đến trưa ngày thứ 7, mặc dù nguyên thần của sư phụ chưa về, nhưng người đệ tử vì gấp gáp về nhà lo việc hiếu nên đã mang xác đi thiêu.
Khi Lý Huyền trở về không tìm thấy xác, ông đành phải bay đi tìm một thân xác mới, thấy trong rừng có người ăn mày vừa chết vì đói, ông bèn nhập vào và hoàn dương. Bởi người ăn mày xấu xí, lại thêm cái chân khập khiễng phải chống gậy, nên từ đó Lý Huyền mới có tên là “Thiết Quải”, nghĩa là ‘gậy sắt’.
Câu chuyện trên đã nói rõ một vấn đề: Nguyên thần nếu muốn thăng hoa tầng thứ, thì phải ở nơi cõi người, mang cái nhục thân này mà tu luyện. Nếu hỏi: Kim Thiền Tử vì sao không thể tu luyện ở nơi Phật quốc, mà cứ phải xuống trần làm chi? Đó là bởi có thân người mới có thể tu hành.
“Kim Thiền” thoát xác thăng thiên, ấy là lúc viên mãn trở về
Có thể ví von rằng, nguyên thần bị kìm hãm trong nhục thân cũng giống như viên kim cương mắc kẹt trong bùn lầy. Dẫu rơi vào bùn lầy thì kim cương vẫn mãi là kim cương, nó vẫn thánh khiết như thế, vẫn quý giá như thế, nhưng lại không thể lấp lánh sáng ngời được nữa, vì đã bị bùn kia che lấp mất rồi. Cho nên nói, con người là trân quý, là anh linh của vạn vật, bởi chỉ con người mới có thể tu luyện, tẩy sạch bùn nhơ, như viên kim cương sáng lòa thần thánh.
Người bình thường sau trăm tuổi lâm chung, nguyên thần của họ vẫn tiếp tục trầm luân trong bể khổ luân hồi. Tùy theo nghiệp lực và các loại duyên nợ, họ sẽ phải chuyển sinh, vừa rời khỏi chiếc áo này lại phải khoác lên mình chiếc áo nhục thân mới. Nói một cách hình tượng thì, viên kim cương kia chỉ đang di chuyển từ vũng bùn này sang một vũng bùn khác, chứ chưa thể siêu xuất ra ngoài.
Như trên đã nói, thân nhẹ thì thăng lên, thân nặng nề thì rớt xuống dưới. Nguyên thần của người thường vì trĩu nặng nghiệp lực và các loại dục vọng nên cứ mãi trầm luân nơi trần thế. Nhưng một người tu luyện thì khác, họ sẽ không ngừng tẩy tịnh thân tâm, đề cao tầng thứ, khi đạt đến cảnh giới viên mãn đắc Đạo thì cũng là lúc trút khỏi xác phàm mà thăng hoa. Phải chăng đây chính là ý nghĩa của “Kim thiền thoát xác”, cũng chính là ngụ ý của cái tên “Kim Thiền Tử” của Đường Tăng?
Đường Tăng phải đạt đến cảnh giới viên mãn đắc Đạo, trút khỏi xác phàm mới có thể đi mây về gió, đại hiển thần thông

Đoạn cuối Tây Du Ký kể rằng, khi đến Linh Sơn, Đường Tăng phải tắm gội ở am Ngọc Chân để tẩy sạch bụi trần, rồi qua bến đò Lăng Vân lại phải thoát thai hoán cốt, rũ bỏ xác phàm mới có thể mang cái thân thuần tịnh mà đi gặp Như Lai Phật Tổ. Trong truyện viết:
“Tôn Đại Thánh chắp tay đa tạ, nói: ‘Xin cảm ơn tấm lòng tốt đón tiếp sư phụ tôi. Xin mời sư phụ lên đò nào. Chiếc thuyền này tuy không đáy nhưng vững vàng lắm, nhỡ có sóng to gió cả cũng chẳng lật được’.
Tam Tạng bấy giờ vẫn chưa yên tâm, Hành Giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ ẩy mạnh một cái, Tam Tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước. Tiếp Dẫn Phật Tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đò. Tam Tạng vừa phủi quần áo, vừa giậm chân oán trách Hành Giả. Hành Giả dắt luôn cả Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh đồ xuống đò. Thầy trò đứng cả ở đằng mũi đò. Phật Tổ nhẹ nhàng ẩy con đò ra. Bỗng thấy phía thượng lưu một xác người trôi xuống. Tam Tạng sợ hãi luống cuống.
Hành Giả cười nói: ‘Sư phụ đừng sợ. Xác đó là sư phụ đấy’.
Bát Giới cũng nói: ‘Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!’.
Sa Tăng vỗ tay nói: ‘Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!’.
Tiếp Dẫn Phật Tổ giơ tay làm hiệu nói: ‘Đúng là ngài! Xin chúc mừng! Xin chúc mừng!’.
Ba người cùng đồng thanh họa theo lời Phật tổ. Con đò được chèo đi, trong chớp mắt đã vững vàng rời khỏi bến tiên Lăng Vân sang tới bờ bên kia. Tam Tạng quay người nhẹ nhàng bước lên bờ.
Có bài thơ làm chứng rằng:
“Thoát rồi xương cốt trần gian,
Tương thân tương ái vượt sang Niết Bàn.
Viên mãn thành Phật thỏa lòng,
Từ nay rửa sạch bụi trần lâng lâng”.


Cũng là nói, nhục thân chỉ là chiếc áo tạm bợ để nguyên thần có thể tu hành ở nơi trần thế. Trút bỏ xác phàm, đắc Đạo thăng thiên, ấy mới là mục đích chân chính để làm người…
Hồng Liên
Chú thích:
  • [1] Câu này trong nguyên tác viết: “金蟬脫殼化西涵” (Kim Thiền thoát xác hóa tây hàm).
  • [2] Hai câu cuối trong nguyên tác viết: “致使金蟬重脫殼,故令玄奘再修行” (Trí sử Kim Thiền trọng thoát xác, Cố lệnh Huyền Trang tái tu hành).
(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 7): Bí ẩn tên gọi của Tôn Ngộ Không

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Nhân chuyện kể về thân thế Kim Thiền Tử của Đường Tăng, tiện đây chúng ta hãy cùng đến với tên gọi đại đồ đệ của ngài, đó là: Ngộ Không. Pháp danh này đã được bàn luận khá chi tiết trong kỳ 2 của Tây Du cảm ngộ, nay không nhắc lại nữa, mà chỉ gợi mở từ một góc độ khác…
Trong muôn ngàn đệ tử của Đức Phật Thích Ca, chỉ có mười vị được Ngài coi là ưu tú nhất, xuất sắc nhất, gọi là “Thập đại đệ tử”. Họ vẫn thường được nhắc đến trong các kinh điển Phật giáo, nhiều người trong số họ thậm chí đã trở thành huyền thoại.
Ví dụ như Mục Kiền Liên đệ nhất về thần thông, có thể lên Thiên giới xuống địa phủ, lại có thể hàng phục yêu ma. Hay như Đại Ca Diếp được Phật trao y bát, ông gắn liền với truyền thuyết Ca Diếp nhập định chờ Di Lặc hạ sanh. Hoặc một cái tên quen thuộc khác là A Nan Đà “đa văn đệ nhất”, là vị đệ tử có trí nhớ siêu phàm, người có công lưu lại lời Phật giảng thành các cuốn kinh sách mà chúng ta biết ngày nay. Cũng không thể không nhắc đến Xá Lợi Phất với trí huệ xuất chúng, được Phật giao trọng trách thống lĩnh tăng đoàn.
Và trong số thập đại đệ tử ấy, có một vị là Tu Bồ Đề. Không giống như biết bao đồng môn khác, ông gần như chẳng có gì đặc biệt. Ông không sôi nổi, cũng không có tài năng nào đáng nói, mà chỉ trầm tĩnh, lặng lẽ, rất ít người biết về ông.
Nhưng khi chư thiên trải hoa cúng dường, từng đoá từng đoá hoa trời bay lất phất, thì mưa hoa không chọn ai cả, mà chỉ chọn riêng Tu Bồ Đề.
Cơn mưa hoa cúng dường ấy, ngoại trừ Đức Phật, thì chỉ tôn giả Tu Bồ Đề mới có được vinh dự ấy. Điều ấy nói lên rằng, Tu Bồ Đề bề ngoài chẳng có gì đặc biệt, nhưng kỳ thực lại vô cùng đặc biệt!
Tu Bồ Đề không giống các môn đệ khác, không có gì nổi bật mà lại trầm tĩnh, lặng lẽ.
Chuyện về tôn giả Tu Bồ Đề
Tương truyền, Tu Bồ Đề sinh ra trong một gia đình giàu sang phú quý. Nhưng đúng vào ngày ông chào đời thì toàn bộ mọi tài sản và bảo vật trong nhà đột nhiên biến mất, sau vài ngày tất cả mới trở lại bình thường. Đến khi lớn lên, Tu Bồ Đề lại tỏ ra là một cậu bé kỳ lạ, có bao nhiêu tiền bạc đều đem cho người nghèo, thậm chí gặp kẻ hành khất không có áo mặc, cậu cũng cởi chiếc áo ra cho.
Đến khi gia nhập tăng đoàn, trở thành một Phật tử chân chính, Tu Bồ Đề sớm đã đạt đến cảnh giới ly dục, ly ái, không tranh hơn thua với đời, cũng không mong cầu thứ gì ở thế gian.
Tương truyền, một ngày Tu Bồ Đề ngồi vá áo trong động Kỳ Xà trên núi Linh Thứu, quán thấy Đức Phật du hoá phương xa đang trên đường trở về, ngài bèn buông áo định xuống núi nghênh đón. Nhưng như lời Phật đã dạy: “Nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, là người hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai”, Tu Bồ Đề chợt nghĩ, Phật là bậc vô ngã, đã đạt đến cảnh giới của “Không”, vậy hà tất phải xuống núi mới là đi đón Phật? Nghĩ vậy, ngài lại ngồi xuống bình thản vá áo.
Lúc ấy, vị tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc nhờ có thần thông mà biết được Phật sắp về, nên đã nhanh chân xuống núi trước. Liên Hoa Sắc đang hoan hỷ tự hào rằng mình là người đầu tiên đón Phật. Nhưng Đức Phật chỉ mỉm cười và nói: Này Liên Hoa Sắc, người nghênh đón ta trước tiên chẳng phải là ngươi, mà chính là Tu Bồ Đề. Hiện giờ tại động Kỳ Xà, Tu Bồ Đề đang chiếu quán tính ‘Không’ của các pháp. Người thấy pháp mới là người thứ nhất thấy Phật, người đệ nhất nghênh tiếp Phật.
Liên Hoa Sắc cứ ngỡ mình là người đón Phật đầu tiên, nhưng kỳ thực lại không phải.
Một lần khác, Đức Phật cùng chúng đệ tử đang ở tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, tôn giả Tu Bồ Đề đã đã đứng dậy chắp tay cung kính rằng: “Bạch Thế Tôn, đối với các thiện nam tín nữ khi phát tâm bồ đề thì làm thế nào mới có thể an trụ tâm được? Và khi họ bị các vọng niệm quấy phá thì làm thế nào mới có thể hàng phục tâm được?”.
Đức Phật đã thuyết Kinh Kim Cương, giảng rằng muốn tâm thanh tịnh thì “chẳng nên trụ nơi hình sắc sinh tâm, chẳng nên trụ nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tướng sinh tâm. Nên ở nơi không chỗ trụ mà sinh tâm”. Cuối cùng Đức Phật kết thúc bằng bài kệ:
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán”

Tạm dịch:
“Hết thảy pháp hữu vi,
Như mộng ảo, bọt nước,
Như sương sa, điện chớp.
Nên quán sát như vậy”

Pháp hữu vi như mộng ảo, bọt nước, chỉ có thanh tịnh vô vi mới là cảnh giới tối cao của người tu hành. Lời Phật giảng khiến tôn giả Tu Bồ Đề bừng ngộ, ông cảm động đến rơi lệ: “Bạch Thế Tôn, con từ khi đạt được nhãn huệ cho đến nay chưa từng nghe kinh nào như thế này”. Từ đó ông khai ngộ, minh tỏ cảnh giới “Không”, được Đức Phật gọi là “Giải Không đệ nhất” trong tăng đoàn.
Đạo gia gọi đó là “Vô Vi”, còn Phật gia gọi là “Không”. “Không” không phải là trống rỗng không có gì cả, mà là vô cầu, vô dục, vô chấp trước. Chỉ khi người tu luyện trừ dứt hết thảy mọi dục vọng, truy cầu, buông bỏ mọi chấp trước, xả tận mọi nhân tâm, hoàn toàn không còn chấp vào âm thanh, hình sắc, mùi vị, hay cảm xúc, thì mới không bị mê hoặc giữa nhân gian. Đó cũng chính là cảnh giới của một người Giác Ngộ.
Như vậy, Tu Bồ Đề chứng đắc quả vị của mình không phải thông qua thần thông, tiểu năng, tiểu thuật, cũng không phải vì có trí tuệ siêu phàm, mà chính là nhờ thấu triệt cái lẽ “Không”. Trong hàng ngàn đệ tử của Phật Thích Ca, ngoài Tu Bồ Đề thì chưa có ai thật sự làm được điều này.
‘Không’ không phải là trống rỗng không có gì cả, mà là vô cầu, vô dục, vô chấp trước.
Vậy vì sao chúng ta lại nhắc đến Tu Bồ Đề trong bài viết này?
Đó là bởi, ở đây có một sự trùng hợp khá thú vị: Tên gọi của tôn giả Tu Bồ Đề vừa hay lại giống với tên gọi sư phụ của Ngộ Không — Tu Bồ Đề Tổ sư, hay Bồ Đề Tổ sư. Ông được mệnh danh là “Giải Không đệ nhất”, chứng ngộ về lẽ “Không“, trong khi Bồ Đề Tổ sư cũng lấy chữ “Không” để đặt tên cho Hành giả: Tôn Ngộ Không.
Liệu Bồ Đề Tổ sư có thực sự là tôn giả Tu Bồ Đề, hay chỉ là một cái tên mang ý nghĩa biểu tượng? Tây Du Ký có tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm, vậy nên câu hỏi này hãy coi như một lời mở ngỏ. Nhưng một điều đáng chú ý là, Ngộ Không là vị đệ tử mở đường của Tam Tạng, luôn đi đầu trong các cuộc trảm yêu trừ quái. Phải chăng điều ấy nói với chúng ta rằng, muốn ngộ về “Không”, đạt đến cảnh giới vô dục vô cầu vô nhân tâm, thì người tu hành luôn phải chủ động trảm yêu trừ quái trong tâm mình, cũng chính là: Tự bản thân phải chủ động hàng phục ma tâm của chính mình!
Hồi thứ nhất của Tây Du Ký kết thúc bằng hai câu thơ dưới đây, quả thật khiến người ta suy ngẫm:
“Hỗn mang mới mở vốn không họ,
Phá hết mịt mờ: Phải Ngộ Không!”
Hồng Liên


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 8): Chuyện Tôn Ngộ Không 3 lần đánh Bạch Cốt Tinh có hàm ý gì?


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
‘Tôn Ngộ Không tam đả Bạch Cốt Tinh’ là một trong những câu chuyện ly kỳ, hồi hộp và cũng ấn tượng nhất, được miêu tả trong hồi thứ 27. Kể rằng:
Sau khi rời khỏi Ngũ Trang quán, thầy trò Đường Tăng đến một nơi núi non trùng điệp, nước độc rừng thiêng. Người ta vẫn nói: “Non cao lắm quái, núi hiểm nhiều ma”, nơi này có một ngọn núi cao chót vót tên là Bạch Hổ lĩnh, chính là nơi trú ngụ của Bạch Cốt Tinh.
Biết rằng ăn thịt thánh tăng có thể trường sinh bất lão, Bạch Cốt Tinh liền biến hoá hòng bắt lấy Tam Tạng.
Lần thứ nhất, yêu quái biến thành cô thôn nữ lả lướt đưa tình:
Người đâu trong ngọc trắng ngà,
Áo the hở ngực đẫy đà cặp lê (…)
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Lung linh thược dược như đưa xuân tình
[1]
Rõ là một con yêu quái, nhưng Tam Tạng không nhận ra!
Lần thứ hai, yêu quái biến thành bà cụ già nua gớm ghiếc:
“Mặt quắt tàu lá héo,
Người ngợm gầy trơ xương.
Gò má nhô nhọn hoắt,
Môi trề xuống dị thường”.

Đích thị là con yêu quái, nhưng Tam Tạng lại không nhận ra!
Lần thứ ba, biến thành một ông lão:
Tóc bạc như Bành Tổ – Râu dài như Thọ Tinh.
Nghễnh ngãng tai rền sấm – Lèm nhèm mắt lóe tinh.
Gậy rồng lê từng bước – Áo hạc mặc thùng thình.
Tay lần lần tràng hạt – Lẩm nhẩm Nam mô kinh

Cũng chính là con yêu quái ấy, nhưng Tam Tạng vẫn không nhận ra!
Yêu quái giả làm cô nương tiếp cận ba thầy trò Đường Tăng. (Ảnh: Youtube)
Yêu quái biến ảo khôn lường, may có Ngộ Không kịp thời ngăn lại, nếu không Đường Tăng suýt chút nữa rơi vào nanh vuốt của yêu nữ. Nhưng hiềm một nỗi Đường Tăng không tin đồ đệ, lần nào cũng niệm chú ngăn cản Ngộ Không. Phải đến khi Ngộ Không gọi Thổ Địa, Sơn Thần lên hỗ trợ, rồi vung gậy bổ xuống, yêu tinh mới hiện nguyên hình là một đống xương khô, trên đó khắc bốn chữ: “Bạch Cốt phu nhân”.
Chân tướng hiển hiện rõ ràng đến vậy, nhưng vì sao Đường Tăng vẫn nhất mực không tin, cứ kiên quyết đòi đuổi Ngộ Không về?

Như đã bàn luận trong kỳ 7, đã là người tu luyện thì không thể chấp vào hình sắc, âm thanh, cảm xúc, hay mùi vị, có như vậy mới hy vọng đạt đến cảnh giới “Không” của nhà Phật. Vậy xoay trở lại mà nói, nếu không dứt khỏi chấp trước vào sắc tướng thì điều gì sẽ xảy ra? Câu trả lời chính là ma chướng Bạch Cốt Tinh mà chúng ta đang nói tới.
1. Chấp vào sắc tướng ⇒ lạc bước trong mê
Bạch Cốt Tinh dẫu biến hoá thế nào – xinh tươi lả lướt như cô thôn nữ, hay già cả đáng thương như bà cụ tìm con, hoặc tỏ ra nhân từ như ông lão đang tụng kinh niệm Phật – thì rốt cuộc vẫn là yêu tinh! Có khoác lên mình đủ thứ da tô vẽ, thì xương trắng vẫn chỉ là bộ xương trắng ấy thôi. Người chấp vào hình tướng sẽ chỉ thấy cái lớp da tô vẽ bên ngoài mà không nhìn thấu được bản chất bên trong, cũng chính là bị giả tướng mê hoặc, không thể nhìn ra chân tướng thực sự là gì.
Đức Phật thuyết trong Kinh Kim Cương: “Phàm có hình tướng đều là hư vọng”, cho rằng hết thảy mọi thứ ở nhân gian đều là huyễn tượng, khiến con người lạc bước trong mê. Trước đây có người tu luyện Phật Pháp, một đêm nằm mộng thấy thiếu nữ đẹp tựa tiên sa, mắt phượng mày ngài, dáng vẻ thanh thoát, bẽn lẽn ngượng ngùng bước đến bên cạnh. Quả đúng là: “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không”. Không kìm được, ông động lòng hôn một cái. Nhưng vừa khi chạm vào bờ môi thiếu nữ thì ông giật mình tỉnh dậy, thấy hai tay đang ôm một thanh gỗ mục!
Người ta vẫn nói bậc chính nhân quân tử “toạ hoài bất loạn” (mỹ nữ ngồi trong lòng mà tâm không loạn), vậy đã là một bậc chân tu, sao có thể để hình sắc làm khuấy động tâm mình cho được?
Ngay cả người bình thường chúng ta cũng có câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm” (vẽ hổ chỉ vẽ được da khó vẽ được xương, biết người thì chỉ biết mặt mà không biết lòng), cho nên những gì mắt thấy tai nghe rất có thể không phải là điều chân thật. Ai ai cũng biết là vậy nhưng vẫn để cho giả tướng đánh lừa, nên mới chìm đắm mãi trong mê mà không bao giờ thoát ra được.
Bằng những lời ngon ngọt với nhan sắc phàm nhân, Bạch cốt tinh đã lừa được Đường Tăng rời bước. (Ảnh: Youtube)
2. Chìm đắm trong mê ⇒ tâm sinh ma quỷ
Thấy sư phụ không nhận ra cô thôn nữ là yêu tinh, Ngộ Không bèn nói: “Lão Tôn trước kia, khi còn là yêu ma động Thủy Liêm, lúc nào muốn ăn thịt người đều làm cách như thế này: hoặc biến thành vàng bạc, nhà cửa, hoặc biến thành gái đẹp say người. Kẻ nào ngu si say đắm phải lòng con, là bị con lừa mang về động [3]”. Cũng chính là nói, chỉ những ai dẫn động tâm phàm mới có thể bị quỷ ma sai khiến. Còn những người vững vàng như kim cương bất động, thì yêu ma dẫu tài nghệ cao cường đến đâu cũng không thể làm hại được.
Đường Tăng đã tu hành 10 kiếp, nhưng dẫu sao vẫn chỉ là người đang tu luyện, nên không tránh khỏi giây phút yếu lòng. Trong truyện kể rằng, vừa thấy cô gái xinh đẹp tuyệt trần, trước là Bát Giới lòng dục trỗi dậy, sau là Đường Tăng mủi lòng tin lời dối trá. Vì cả Bát Giới lẫn Đường Tăng đều đã động tâm, nên trong truyện mới hai lần lặp lại câu này: “Rõ ràng là một con yêu tinh, mà Bát Giới/Tam Tạng vẫn không nhận ra!”.
Vậy “yêu tinh” ấy từ đâu ra? Khi Tam Tạng ở chùa Pháp Môn đã từng nói rằng: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; Tâm diệt, chủng chủng ma diệt”. Ma quỷ chẳng phải ở đâu xa xôi, mà chính là từ tâm người mà đến!
Ví dụ như, Bát Giới vừa nhìn thấy mỹ nữ đã khởi tâm sắc dục, vừa nghe nói đến “cơm tám”, “bánh bao” đã hí hửng trong lòng; Còn Đường Tăng thì tin lời ngon ngọt đến mức nổi giận với đồ đệ, không còn suy xét thấu đáo, hồ đồ tin theo lời gièm pha xúc xiểm của Bát Giới, thậm chí cắt đứt cả tình thầy trò với Ngộ Không.
Phật gia cho rằng, con người có cả Phật tính và Ma tính. Biểu hiện của Phật tính là từ bi, lương thiện, chân thật, nhẫn nại,… Còn biểu hiện của Ma tính là tham ăn, háo sắc, giận dữ, nóng nảy,… — Như vậy, chẳng phải Bát Giới và Đường Tăng “tự tâm đã sinh ma” là gì?
Bát Giới vừa nhìn thấy mỹ nữ đã khởi tâm sắc dục, vừa nghe nói đến “cơm tám”, “bánh bao” đã hí hửng trong lòng, thấy Sư huynh đánh chết yêu quái không nhận ra mà còn lớn tiếng quở trách.
3. Ma tâm sai khiến ⇒ lý trí không còn
Đường Tăng đã bao phen rơi vào động quỷ, cũng biết rằng yêu ma thiên biến vạn hoá khó lường, vì sao lần này lại không tin lời Ngộ Không? Đó là bởi Đường Tăng đã để ma tâm sai khiến, nên mới không còn lý trí, thậm chí những điều “vô lý đùng đùng” hiển hiện ngay trước mắt mà vẫn không chịu tỉnh ngộ:
Giữa nơi rừng rú hoang vu, trước chẳng có bản, sau chẳng có làng, cớ sao lại xuất hiện một cô thôn nữ, hơn nữa là đến để dâng cơm chay? Đến khi cô thôn nữ bị đả chết, vì sao cơm tám gạo thơm trong liễn đều biến thành giòi bọ, bánh bao bánh rán chẳng thấy đâu chỉ thấy ễnh ương cóc nhái nhảy tứ tung? Cô thôn nữ tuổi vừa 18, còn bà lão trạc tuổi 80, há chẳng phải nói rằng 60 tuổi vẫn còn sinh con đẻ cái hay sao? Ông lão vừa mới chết liền biến thành xương khô, dòng chữ “Bạch Cốt phu nhân” chẳng phải vẫn còn rành rành ra đó là gì? Ấy vậy mà, Đường Tăng vẫn cứ chấp mê bất ngộ!
Lại nữa, mỗi khi Ngộ Không chỉ ra chân tướng (cơm tám thực ra là giòi bọ, bánh bao thực ra là ễnh ương, ông lão thực ra là bộ xương khô hoá thành), Đường Tăng đã tin được vài phần. Nhưng chỉ cần một lời gièm pha xúc xiểm của Bát Giới, Đường Tăng lại hồ đồ đuổi mắng Ngộ Không. Điều ấy nói nên rằng, khi bị ma tâm khống chế, con người sẽ để cho dục vọng (Bát Giới) lấn át, mà không còn lý trí (Ngộ Không) để suy xét vấn đề.
Đường Tăng dùng mắt thường không nhận ra chân tướng còn từ mặt Tôn Ngộ Không.
Con người sống trên đời, kỳ thực là đang sống cho dục vọng, cho ma tâm, chứ không phải sống cho chính mình. Cho nên ngàn lời nói, cuối cùng cũng chỉ để nói lời này thôi: Con người phải diệt trừ ma tâm, thì mới có thể trở về với bản ngã của chính mình.
Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đạo gia. Đạo gia cho rằng, trong mỗi người đều có ba cái thây ma (“tam thi”), lần lượt là Thượng thi, Trung thi, và Hạ thi. Vì chúng trú ngụ trong thân người, cùng với thân người từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nên mới được ví là trường tồn như Thọ Tinh, sống lâu như Bành Tổ. Chủng thây ma này, do đó, cũng lấy chữ “Bành” làm họ.
Trong Thái Thượng Tam Thi Trung Kinh viết: “Thượng thi tên Bành Cư, thích báu vật, ở trong đầu con người; Trung thi tên Bành Chất, thích ngũ vị, ở nơi bụng con người; Hạ thi tên Bành Kiểu, thích sắc dục, ở trong chân con người” [2]. Vì có chủng thây ma này, nên con người ai ai cũng mê đắm tiền tài vật chất, thích hưởng lạc, lại coi sắc dục là bản tính của mình — Kỳ thực, đó đều là ma!
Chúng ta hãy đọc lại hồi thứ 27 trong Tây Du Ký, Bạch Cốt Tinh khi hoá thân thành ông lão cũng được miêu tả là giống như Thọ Tinh, Bành Tổ. Tiêu đề của hồi thứ 27 cũng gọi Bạch Cốt Tinh là ‘thây ma’: “Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng, Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương”. Ngộ Không tam đả Bạch Cốt Tinh, phải chăng, cũng chính là ba lần diệt trừ thây ma trong thân người?
Hồng Liên
Chú thích:
  • [1] Các đoạn thơ trong bài trích từ bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, NXB Văn Học.
  • [2] Nguyên văn:「上尸名彭倨,好寶物,在人頭中.中尸名彭質,好五味,在人腹中.下尸名彭矯,好色欲,在人足中」.
  • [3] Nguyên văn:「有那等痴心的愛上我,我就迷他到洞裡」.
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 9): Cái tình của Tôn Ngộ Không và Đường Tăng khác nhau ra sao?

Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Sẽ là thiếu sót nếu như chỉ nói đến cái chấp mê bất ngộ của Đường Tăng trong ma nạn Bạch Cốt Tinh, mà quên mất rằng, vẫn còn đó một Ngộ Không nuốt lệ, cúi đầu, nén chặt thương đau chẳng nỡ xa rời.
Bởi vậy, để tiếp nối câu chuyện Bạch Cốt Tinh trong kỳ 8, chúng ta hãy nán lại đôi lời để lắng nghe tiếng lòng của chính người trong cuộc:
“Nuốt nước mắt giã từ sư phụ,
Nén đau thương nhắn nhủ Sa Tăng
Sườn non rẽ cỏ băng băng,
Hai chân đi khắp xa gần đó đây.
Khắp trời đất vần xoay mọi nhẽ,
Vượt bể non tài nghệ nhất đời,
Phút giây bóng dáng xa vời,
Lối xưa nẻo cũ về rồi, từ nay…”

Phút cuối chia ly không lời nhưng đã nói lên rất nhiều. Cái tâm tình sâu lắng của Ngộ Không khi đặt bên cạnh sự thờ ơ lạnh nhạt của Đường Tăng, phải chăng cũng nhắn nhủ điều gì với chúng ta hôm nay?
Phút cuối chia ly, cái tâm tình sâu lắng của Ngộ Không khi đặt bên cạnh sự thờ ơ lạnh nhạt của Đường Tăng…
Cái tình của Đường Tăng: Hồ đồ, mê muội, cố chấp
Trong 81 nạn trên đường thỉnh kinh, chẳng có cái nạn nào như cái nạn này: Yêu quái chỉ dùng một kịch bản (gia đình cô thôn nữ), sử dụng cùng một kế (miệng lưỡi + biến hoá), trên cùng một bối cảnh (nơi núi thẳm rừng sâu, trước chẳng có bản sau chẳng có làng), mà vẫn khiến Tam Tạng ba lần mắc mưu, lại là liên tiếp trong thời gian ngắn ngủi. Vì sao lại như vậy?
Ấy là bởi một chữ: “Tình”.
Là con người, sinh ra đã ở trong tình, cả đời sống vì tình, vui buồn vì tình, hạnh phúc vì tình, đau khổ vì tình, bi luỵ vì tình, yêu ghét vì tình, mà tuyệt tình tuyệt nghĩa thì vẫn chỉ là cái tình ấy thôi. Do đó, đeo đẳng nhất là tình, mà khó bỏ nhất cũng là tình. Yêu quái vì nhắm trúng vào điểm yếu này của con người nên Tam Tạng mới dễ dàng mắc mưu đến vậy.
Lần thứ nhất, biến thành cô thôn nữ xinh đẹp ngọc ngà, ấy là khơi dậy sắc tâm, đại diện cho chấp trước vào tình nam nữ — tức là “Dục“.
Lần thứ hai, biến thành bà cụ tìm con, ấy là khơi dậy tình mẫu tử, “cốt nhục khó phân ly”, đại diện cho chấp trước vào tình thân quyến — tức là “Ái“.
Lần thứ ba, biến thành ông lão nhân từ, tay lần lần tràng hạt, miệng tụng niệm nam mô, chống gậy lê từng bước đi tìm vợ con, ấy là nghĩa phu thê, là tình phụ tử, là thiện cảm khi nhìn thấy bậc lão niên thiện lương đáng kính, đại diện cho cái tình nói chung giữa người với người — tức là “Tình“.
Ma quái trên đường thỉnh kinh là biến hoá từ tâm chấp trước của Đường Tăng, nên từ khía cạnh tình mà nói, Bạch Cốt Tinh là tượng trưng cho Dục – Ái – Tình… (Ảnh: youtube.com)
“Tâm sinh, chủng chủng ma sinh”, bởi ma quái trên đường thỉnh kinh là biến hoá từ tâm chấp trước của Đường Tăng, nên từ khía cạnh tình mà nói, Bạch Cốt Tinh là tượng trưng cho Dục – Ái – Tình, cũng chính là sợi dây trói buộc con người mạnh mẽ nhất. Vì đâu Phật tử, tăng ni phải vào chùa quy y, và vì đâu các đạo sĩ xưa nay phải ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc, vào trong hang động, ẩn nơi núi sâu để một mình thanh tĩnh độc tu? Người thường khó mà hiểu cho được, cứ mỉa mai rằng: “Tu luyện kiểu gì mà lại dứt bỏ tình thân, sao chẳng chịu nhận mặt cha mẹ vợ con thế này?”. Ấy là bởi, không đoạn dứt tình duyên thì không thể tu luyện, không buông bỏ cái tình này, thì có tu cũng chẳng thể tu thành!
Với người bình thường, “tình” là điều gì đó rất đẹp đẽ, rất thiêng liêng, vừa là điểm tựa tinh thần, vừa là điểm yếu nhưng cũng là sức mạnh. Nhưng tình ấy, dẫu sao vẫn chỉ là con người: Có yêu thì có hận, có thương thì có ghét, có ấm áp thì có lạnh lùng, có nhiệt huyết thì cũng có lãnh đạm vô tình… Thậm chí, ngay cả khi yêu thì người ta cũng lựa chọn để mà yêu, chỉ yêu những người thân thiết, nào ai đủ rộng rãi bao la để yêu thương hết thảy muôn người cho được? Do đó, tình dẫu cao cả đẹp đẽ đến đâu, thì suy cho cùng vẫn chỉ là cái tình vị tư, cái tình ích kỷ của con người.
Nhưng đã là người tu luyện thì phải vượt qua con người để đạt đến cảnh giới siêu thường của bậc Giác Giả, lúc này cái tình kia không còn nữa, mà đã thăng hoa lên trở thành “từ bi”. Chỉ có từ bi, người ta mới có thể yêu thương mà không cần lựa chọn, không cần điều kiện, cũng không cần phân biệt ai với ai. Cho nên, tình chỉ là trạng thái của người phàm, còn từ bi mới thực sự là cảnh giới siêu phàm của các bậc Giác Giả.
Đường Tăng vì vẫn còn cái tình nên mới bị tình dẫn động, đến mức mê muội, hồ đồ. Kỳ 8 đã bàn về cái mê muội hồ đồ này rồi, nay không nhắc lại nữa. Nhưng hãy thử nghĩ xem: Đường Tăng một mặt thương xót cho người, mặt khác lại cạn tình cạn nghĩa, một mặt nhân từ độ lượng với người, mặt khác lại băng giá vô tình, đó chẳng phải rất mâu thuẫn sao?
Đường Tăng vì vẫn còn cái tình nên mới bị tình dẫn động, đến mức mê muội, hồ đồ. (Ảnh: youtube.com)
Cái tình của Ngộ Không: Bao la quảng đại, vì đại nghĩa quên mình
Khi kiên quyết đuổi Ngộ Không về, Đường Tăng đã tỏ ra lạnh lùng sắt đá. Nhưng sư phụ dù có sắt đá đến mấy, lạnh lẽo vô tình đến mấy, thì Ngộ Không vẫn không đổi dạ thay lòng. Tình thâm nghĩa nặng của Hành Giả khi đứng trước cái tuyệt tình tuyệt nghĩa của Tam Tạng đã tạo nên hai hình ảnh tương phản:
Một người quay lưng, một mực cắt đứt tình thầy trò từ đây – một người canh cánh trong lòng khôn nguôi: Quên ơn chẳng phải là quân tử, ơn nghĩa sư phụ bao giờ mới có thể đáp đền?
Một người quyết không tha thứ cho lỗi lầm của đối phương – một người vì lo lắng cho người mà day dứt trong lòng không yên: Gặp nơi ma thiêng nước độc, ta đi rồi, ai sẽ bảo vệ sư phụ, ai sẽ diệt quái trừ yêu?
Một người nhất quyết ruồng rẫy – một người níu kéo, ngậm ngùi bịn rịn chẳng muốn xa rời.
Một người lạnh lùng quay lưng mà đoạn tuyệt ân tình – một người chan chứa lệ rơi mà vẫn phải đành lòng chia xa…
Trong cái buồn vô tận tưởng như không bao giờ có thể nguôi ngoai ấy, ta thấy một Ngộ Không thật cao cả phi thường: Chịu nỗi hàm oan nhưng không uất hận, mà chỉ lo nghĩ cho thầy, cũng không oán trách, không tủi phận mình, mà chỉ e “giữa đường dang dở, công quả chẳng thành”. Tâm tư ấy của Ngộ Không so với Đường Tăng dù chỉ cách nhau ở một niệm (một bên là vị kỷ – một bên là vị tha; một bên hành xử theo nhân tâm – một bên hành xử theo Pháp lý), nhưng lại là sự khác biệt giữa “tình” và “từ bi”, cũng là khoảng cách giữa hai cảnh giới, hai tầng trời!
Trong cái buồn vô tận tưởng như không bao giờ có thể nguôi ngoai ấy, ta thấy một Ngộ Không thật cao cả phi thường… (Ảnh: youtube.com)
Có thể có người nghĩ: Phải chăng người viết đã quá ‘thiên vị’ Ngộ Không mà ‘hạ thấp’ Tam Tạng? Đường Tăng dẫu có phần đáng trách, nhưng vẫn chỉ là người trần mắt thịt, bị dẫn động bởi cái tình thì cũng là dễ hiểu – làm sao có thể so sánh với Ngộ Không mắt lửa ngươi vàng cho được?
Thực ra không phải vậy. Nếu như Đường Tăng và Ngộ Không chỉ là hai khía cạnh của cùng một cá nhân, thì đó không phải là hạ thấp một người để nâng cao một người. Ngược lại, ấy là nói: Trong mỗi người đều có tình và từ bi. “Từ bi” là thiên tính mà ai cũng có từ khi sinh ra, là phần thánh khiết không ô nhiễm bụi trần; còn “tình” không phải là bản tính, mà là hình thành qua tháng năm đằng đẵng chìm trong “thùng thuốc nhuộm” của xã hội này.
Điều ấy có ý nghĩa như thế nào?
Cả Phật gia và Đạo gia đều giảng rằng, con người có cả phần “Thần” và phần “Người”, phần Thần mang theo Phật tính, còn phần Người thì mang theo nhân tính. Nếu như nhân tính (có “tình”) khiến người ta mê muội, hồ đồ, để cho dục vọng làm chủ bản thân, thì Phật tính (có “từ bi”) lại giúp con người đề cao đạo đức, thăng hoa tầng thứ, trở thành bậc Thánh nhân quân tử. Do đó, chỉ gìn giữ Phật tính, buông bỏ nhân tâm mới khiến con người trở nên thuần khiết, thanh cao.
Trở lại với nỗi lòng của Ngộ Không, ta thấy một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm, có bi mà không luỵ, có sầu mà không thảm, có cúi đầu mà không hạ thấp bản thân mình. Nỗi buồn ấy, buồn thật, nhưng lại nâng người ta lên một cảnh giới vô cùng thánh khiết, vô cùng thanh cao – đó là từ bi.
Nhưng có dùng cạn lời thì ngòi bút cũng trở nên bất lực, vậy nên người viết mạn phép mượn lời bài hát trong tập phim “Tam đả Bạch Cốt Tinh” để thay cho lời kết. Đây là một bài hát vô cùng đặc biệt, tác giả ca khúc chỉ qua vài dòng ngắn ngủi mà dường như đã thấu tỏ hết thảy tâm tư thầm kín của Ngộ Không. Bài hát xoay quanh một chữ “sầu”, và cũng vấn vương mãi một chữ “sầu”. Chữ “sầu” (愁) ấy là chữ “thu” (秋) đè lên trái tim (心), và cả bài hát lẫn bối cảnh tập phim đều diễn ra vào mùa thu, do đó đã tạo nên sự đồng điệu và thấu hiểu với tâm hồn người trong cuộc…
Trở lại với nỗi lòng của Ngộ Không… Nỗi buồn ấy, buồn thật, nhưng lại nâng người ta lên một cảnh giới vô cùng thánh khiết, vô cùng thanh cao – đó là từ bi. (Ảnh: dkn.tv)
Bài hát: Thổi không tan được nỗi sầu này
Chia tay bất ngờ đến như vậy
Một đi không quay đầu như thế
Sắp ra đi mới biết tình sâu nặng
Bao nhiêu hồi ức vẫn trong lòng
Ah… non vời vợi, nước vời vợi
Một làn gió thu trên đường
Thổi không tan chút nỗi sầu này
Ah… chút nỗi sầu này…

Hồng Liên


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 10): Kẹt ở Hoả Diệm Sơn, vì sao Ngộ Không không mời Bồ Tát tưới nước cam lồ dập lửa?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Quan Âm Bồ Tát từng dùng nước cam lồ giúp thầy trò Đường Tăng trị “Tam muội chân hoả” của Hồng Hài Nhi. Khi thầy trò kẹt ở Hoả Diệm Sơn, vì sao Tôn Ngộ Không không một lần nữa mời Bồ Tát tưới nước cam lồ dập lửa?
Trên hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng nhiều lần gặp nạn liên quan đến lửa. Ở hồi 40-41, Hồng Hài Nhi dùng “Tam muội chân hoả” đánh bại cả Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, nước của Long Vương tứ hải cũng không dập tắt được. Cuối cùng, phải cậy nhờ đến Quan Âm Bồ Tát, rưới nước cam lồ từ trong bình tịnh thuỷ, trị thứ lửa Tam muội của yêu tinh.

Đến hồi 59, năm thầy trò lại nghẽn lối ở Hoả Diệm Sơn:
“Lửa bốc ngùn ngụt tám trăm dặm, bốn xung quanh một tấc cỏ cũng không mọc được. Đi qua ngọn núi ấy à, dù có mình đồng da sắt cũng chảy ra nước hết”. Để dập lửa, Tôn Ngộ Không phải 3 lần lặn lội đi mượn quạt Ba Tiêu từ Thiết Phiến công chúa (còn gọi là Bà La Sát), mẹ của Hồng Hài Nhi, vì căm hận Ngộ Không chia lìa mẹ con bà nên kiên quyết không cho mượn quạt. Tôn Ngộ Không hết đấu sức lại đấu trí với Thiết Phiến công chúa và Ngưu Ma Vương, nếu không nhờ chư Phật chư Thiên tương trợ thì không mượn nổi quạt về. Tại sao Ngộ Không phải nhọc sức như vậy? Đến Nam Hải, cầu xin Quan Âm dùng nước cam lồ dập lửa như lần trước chẳng nhanh hơn sao?
Đường Tăng dặn dò đồ đệ tìm cách dập lửa tại Hỏa Diệm Sơn cứu dân đang chết khát.
1. Oan có đầu, nợ có chủ
Trong ma nạn ở Hoả Diệm Sơn, người phải bôn ba vất vả nhất là Tôn Ngộ Không, còn Tam Tạng và Sa Tăng từ đầu đến cuối đều ngồi đợi, hầu như không can thiệp gì, Bát Giới thì mãi gần cuối mới tới trợ giúp.
Thầy trò Đường Tăng trải qua 81 nạn mới đắc được chân kinh, thiếu một nạn cũng không được, phải bổ sung vào. Những khó nạn này có hai mục đích: Một là để trừ bỏ ma tính của người tu luyện, hai là để người tu luyện tiêu trừ tội nghiệp, tịnh hoá bản thân. Bởi vì con người sống trên đời là tạo nghiệp, trong bao kiếp luân hồi có thể đã từng gây nhiều tội ác, nên trong quá trình tu luyện cần trả hết tội nghiệp mới có thể thân nhẹ tâm nhẹ mà viên mãn.
Lại nói chuyện Ngộ Không phải lao nhọc mấy phen, kỳ thực cũng là an bài để Ngộ Không tiêu trừ tội nghiệp gây ra từ trước. Tội nghiệp đó là gì?

“Thổ địa nói:
– Lửa ấy chính là do Đại Thánh gây ra đấy. Hành Giả tức giận, nói:
– Ta có ở đấy đâu mà nhà ngươi nói bậy như vậy? Ta mà lại là cái phường phóng hỏa à?
Thổ địa nói:
– Chính Đại Thánh cũng không nhận ra cả tôi đấy thôi. Vùng này vốn không có quả núi ấy, năm trăm năm về trước, hồi Đại Thánh đại náo thiên cung, bị Hiển Thánh bắt, mang giải tới chỗ Lão Quân. Lão Quân quẳng Đại Thánh vào lò bát quái nấu luyện. Luyện xong mở vạc ra, bị Đại Thánh đạp đổ cả lò luyện đơn, mấy viên gạch có dính ít lửa bị rớt xuống và những tàn lửa ấy rơi xuống đây biến thành Hỏa Diệm Sơn. Còn tôi vốn là đạo nhân giữ lò ở cung Đâu Suất, bị Lão Quân trách tội không giữ nổi lò, bèn đẩy tôi xuống đây làm thổ địa núi Hỏa Diệm Sơn vậy”.
Lửa ấy chính là do Ngộ Không gây ra, nên chính Ngộ Không phải đi dập lửa. Thế nên giới tu luyện có câu rằng: Tội nghiệp gây ra thì tự mình gánh chịu, Thần Phật cũng không gánh đỡ hết cho được. Nếu Quan Âm Bồ Tát lại dốc nước trong bình tịnh thuỷ dập lửa cho, thì còn đâu cơ hội để Ngộ Không trả món nợ ngày xưa?
Tôn Ngộ Không giật mình khi biết rõ nguồn cơn lửa ở Hỏa Diệm Sơn là do năm xưa bản thân đạp đổ lò Bát Quái mà nên.
2. Muốn lửa giận lắng lại, phải điều tức tu Tâm
Kinh sách Phật giáo có câu: “Nhất sân chi hoả, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, nghĩa là, một mồi lửa sân hận có thể đốt cháy muôn mẫu rừng công đức. “Hoả” (lửa) thường được ví với tâm sân hận của con người, với người tu luyện đây là một đại quan ắt phải vượt qua thì mới có thể đạt đến tâm thanh tịnh, tỉnh giác.
Trong truyện, thái độ của Bà La Sát và Ngưu Ma Vương lột tả hết sức sinh động tâm sân hận này:
“La Sát nghe nói tới ba chữ “Tôn Ngộ Không”, khác nào muối bỏ vào lửa, lửa đổ thêm dầu, bụng hầm hầm nổi giận, mặt căm tức đỏ bừng, miệng hét lên: – Con khỉ khốn kiếp hôm nay mới tới!”

Còn Ngưu Ma Vương thì: “Con khỉ khốn kiếp ấy giết con ta, lừa vợ ta, bao phen làm điều vô đạo, ta giận không được nuốt cả người hắn vào bụng, để cho hắn tiêu hóa thành phân nuôi chó, chứ đâu lại chịu đưa bảo bối cho hắn mượn!”.
Truyện viết: “Ngưu Vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu Ma Vương vốn do tâm biến hoá ra); con trai Ngưu Ma Vương là Hồng Hài Nhi cũng tượng trưng cho tâm hỏa; vợ của Ngưu Ma Vương là La Sát phu nhân giữ Hỏa Diệm Sơn cũng là chỉ về tâm hỏa. Có thể thấy gia đình nhà Ngưu Ma Vương đều có liên quan đến tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”. Như vậy, ma nạn ở Hoả Diệm Sơn là phản ánh của quá trình người tu luyện diệt trừ lửa sân hận, tu tâm dưỡng tính mà thôi.
“Tây Du Ký” miêu tả hành trình tu luyện theo Phật gia, nhưng lại hàm chứa rất nhiều điều của Đạo gia, ví như bắc lò luyện đơn, thông chu thiên, v.v. Còn nhớ khẩu quyết của Thiết Phiến công chúa dùng để biến lớn quạt Ba Tiêu là “xi-hư-ha-hấp-hi-suy-hô”. Mấy chữ này tương đồng với một cách hô hấp nạp thải khí trong tu Đạo gọi là “lục tự ca quyết”, gồm có “hư, ha, hô, xi, suy, hi”, ứng với tạng phủ kinh lạc lần lượt là “can, tâm, tì, phế, thận, tam tiêu”. Trong tu luyện đều cần phải “đáp Thước Kiều” (nối cầu Hỉ Thước), chính là lưỡi đặt hàm trên. Khi hít khí vào lưỡi chạm hàm trên, khi thở khí ra bởi vì phải làm khẩu hình tương ứng với âm thanh phát ra, nên đầu lưỡi tự nhiên cũng rời khỏi vị trí hàm trên. Uy lực của quạt Ba Tiêu lớn như thế, kỳ thực cũng là chỉ bộ phận lưỡi của người. Lưỡi được mệnh danh là ‘tâm chi miêu’ (gốc của tâm), trong ngũ hành thuộc tâm, thuộc tính hỏa, do đó nói dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn chính là mượn điều tức để đạt đến ‘bình tức tâm hỏa’ (khiến lửa giận lắng lại).
Dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Hỏa Diệm Sơn, điều này lại vừa phù hợp với câu nói trong tu luyện của Đạo gia là “thủy hỏa ký tế” (nước lửa đã xong). Cho nên khi câu chuyện này kết thúc, trong “Tây Du Ký” có viết rằng: “Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi riêng một con đường, nước lửa đã cứu xong, tiết trời trở nên mát lạnh, mượn được quạt quý thuần âm, quạt hơi lửa nóng để qua núi”.
“Bà La Sát nghe nói tới ba chữ “Tôn Ngộ Không”, khác nào muối bỏ vào lửa, lửa đổ thêm dầu, bụng hầm hầm nổi giận, mặt căm tức đỏ bừng.
3. Thần Phật khổ công an bài, cả nhà quy y chính quả
500 năm trước, Tề Thiên Đại Thánh trổ 72 phép thần thông biến hoá, đại náo thiên cung, khiến thiên binh thiên tướng một phen lao đao vất vả, Phật Tổ Như Lai phải đích thân tới giúp Ngọc Đế thu phục yêu hầu, phạt đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm. Nhờ Quan Âm Bồ Tát từ bi khuyến thiện, Ngộ Không cải tà quy chính, nguyện ý phò tá Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh, cuối cùng tu thành chính quả.
Ngưu Ma Vương vốn là anh em kết nghĩa với Tôn Ngộ Không, cũng có đủ 72 phép thần thông biến hoá, pháp lực phi thường, được mệnh danh là Đại Lực Vương. Tôn Ngộ Không dùng sức đánh với Ngưu Ma Vương không thắng được, dùng mưu lừa Thiết Phiến lấy quạt Ba Tiêu lại bị họ Ngưu giả làm Trư Bát Giới nẫng về. Sau phải nhờ tới Bát Pháp Kim Cương, Thắng Chi Kim Cương, Đại Lực Kim Cương, Vĩnh Trụ Kim Cương, Thác Tháp Lý Thiên Vương cùng Na Tra thái tử dẫn Ngư Đỗ Dược Soa, Cự Linh thần tướng vây kín trên không cùng hợp sức mới thu phục được Lão Ngưu.
Cuối cùng, Ngưu Ma Vương “không có cách nào trốn thoát, đứng im không nhúc nhích, chỉ còn biết van xin: – Đừng hại tính mạng tôi! Tôi xin tình nguyện quy y nhà Phật!”.
Bà La Sát – vợ Ngưu Ma Vương sau cùng cũng cúi lạy thầy trò Đường Tăng mà nói: “Cái việc ngày hôm nay có hối cũng đã muộn, chỉ vì không lường trước, nên phải vất vả sai quân khiển tướng. Chúng tôi bấy nay cũng tu theo đạo người, có điều chưa theo chính quả. Giờ đây chân thân hiện tướng đã về Tây, tôi không dám làm càn nữa. Xin Đại Thánh trả lại chiếc quạt, từ nay xin đổi khác, chỉ tu thân dưỡng tính mà thôi”. Từ đó Bà La Sát tu hành, “sau này cũng thành chính quả, lưu danh muôn thuở trong kinh tạng”.
Trước đó Hồng Hài Nhi đã được Quan Âm Bồ Tát thu phục, làm Thiện Tài đồng tử, tiêu diêu núi Phổ Đà. Một nhà 3 người đều đã quy y cửa Phật, thật là việc tốt lành hiếm có xưa nay. Tôn Ngộ Không và chư Thần Phật vất vả phen này, cũng tựa như thiên thần khó nhọc 500 năm trước đây, khiến yêu tinh cải tà quy chính, chẳng cũng chính là tiêu diệt yêu quái đó sao?
Thanh Ngọc

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 11): 500 năm bị đọa đày dưới Ngũ Hành Sơn, Tôn Ngộ Không chờ đợi điều gì?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong tiểu thuyết trường thiên vĩ đại Tây Du Ký, một trong những tình tiết xúc động, bâng khuâng, ám ảnh nhất chính là 500 năm Tôn Ngộ Không bị giam dưới Ngũ Hành Sơn, mỏi mòn chờ đợi người đi lấy kinh.
Tôn Ngộ Không là con khỉ đá do Trời Đất sinh ra, bẩm sinh căn cơ tốt phi thường, sớm ngộ lẽ vô thường, tầm sư học Đạo, trở thành một Thái Ất kim tiên. Được Thượng Đế sắc phong làm Tề Thiên Đại Thánh, ngao du khắp chân trời góc biển, hưởng phúc lành cõi thần tiên. Chỉ vì sinh lòng ngông ngạo, đại náo thiên cung, bị Phật Tổ phạt giam dưới núi Ngũ Hành 500 năm, “đói thì cho ăn viên sắt, khát cho uống nước rỉ đồng”.

Trong bộ phim truyền hình Tây Du Ký (1986), quãng thời gian đằng đẵng chịu khổ đợi chờ này được tái hiện đầy ám ảnh qua giai điệu bài hát “500 năm bãi bể nương dâu”:
“Năm trăm năm bãi bể biến nương dâu
Tảng đá cứng cũng phủ rêu phong
Cũng phủ rêu phong…
Chỉ còn một trái tim là chưa chết
Nhìn lại quá khứ tiêu dao, tự tại
Tiêu dao tự tại
Nào sợ lửa nội đốt thiêu
Nào sợ băng tuyết che phủ
Chí hướng vẫn hiên ngang không đổi
Niềm tin vẫn vẹn nguyên không sờn”
500 năm là quãng thời gian Tôn Ngộ Không đợi chờ Kim Thiền Tử xuất thế, Đường Tăng đi thỉnh kinh, qua đây giải cứu mình. Tuy nhiên, “Văn dĩ tải Đạo”, một tác phẩm vĩ đại như Tây Du Ký lại càng có nhiều ẩn ý thâm sâu đằng sau mỗi tình tiết. 500 năm ấy, Tôn Ngộ Không thực sự chờ đợi điều gì?

Mau mau trả nghiệp lên đường hồi thăng
Trong hồi 14 “Đại thánh trốn khỏi lò bát quái/ Hầu vương giam dưới núi Ngũ Hành”, có một đoạn trích mà người viết từng băn khoăn không hiểu:
“Như Lai bèn cáo từ Thượng đế và các vị thần cùng hai tôn giả ra khỏi cửa trời. Lúc ấy, ngài lại phát tâm từ bi, niệm thần chú, gọi cả Thổ địa, Thần kỳ, cùng Ngũ phương Yết đế dặn canh giữ núi Ngũ Hành, thấy khi nào Đại thánh đói thì cho ăn viên sắt, khát cho uống nước rỉ đồng, đợi bao giờ hết hạn tai ách, tự khắc có người đến cứu”.
Ăn viên sắt, uống nước rỉ đồng, khác gì tra tấn cho khổ thêm, sao lại nói rằng Như Lai “phát tâm từ bi”? Nếu quả là “từ bi” thật, Phật Tổ phải dặn “đói thì cho ăn cơm, khát cho uống nước” mới phải chứ!
Nên mới nói, chớ dùng tâm phàm mà đo lường cảnh giới của đấng Giác ngộ. Tôn Ngộ Không lừa Trời, dối chủ, tội nghiệp thiên đại như thế, lẽ nào có thể phủi tay sạch nợ? Đức Như Lai phạt giam Tôn Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành 500 năm, trải bao phen nắng đốt mưa dầm, uống rỉ đồng ăn viên sắt, cốt là để mau mau trả hết tội nghiệp, lên đường hồi thăng!

Đức Như Lai phạt giam Tôn Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành 500 năm, cốt là để mau mau trả hết tội nghiệp, lên đường hồi thăng!
Vậy nên mới có thơ rằng:
“Phúc quả dành cho người lương thiện
Hành vi cuồng vọng trời tha đâu
Nhãn tiền chưa gặp, gặp mai sau
Hỏi Đông quán vì sao, mà nay nhiều tai ách?
Chỉ tại kiêu căng khinh trời đất,
Dưới trên bất kể loạn cương thường”.
Và:

“Quen thói ác, thân bị lèn,
Song le căn thiện Phật hiền vẫn thương
Bao giờ thoát khỏi tai ương,
Ấy ngày sư thánh nhà Đường sinh ra”.

Ngẫm về con người hiện đại lên chùa bái Phật, lại cầu xin sung sướng an nhàn, trong khi cõi người là bể khổ, sinh lão bệnh tử, làm gì có sung sướng an nhàn thực sự đây? Thần Phật độ người thoát khỏi bể khổ, vĩnh viễn không còn chịu luân hồi trong tam giới nữa, nên cho rằng con người chịu khổ nhiều một chút, hoàn nghiệp nhanh hơn, trở về nhanh hơn, vốn là điều tốt. Người không hiểu Thần Phật, cứu độ thật khó thay.
Tôn Ngộ Không chịu khổ 500 năm dưới núi Ngũ Hành, cũng là chờ đợi nghiệp chướng tiêu trừ đó thôi!
Vùi chôn trong cõi hồng trần, ngày kia tỉnh ngộ đạo tâm sáng ngời
Nhiều độc giả đọc Tây Du Ký đều ngộ ra rằng, 5 thầy trò Đường Tam Tạng vốn chỉ là một người mà thôi. Trong hồi cuối “Về thẳng phương Đông/ Năm thánh thành Phật” có một bài thơ nói rõ hơn ý tứ đó, trong đó bốn câu mở đầu là:
“Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.
Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, cũng là chủ nguyên thần, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Tôn Ngộ Không do thiên địa hoá dục mà thành, trước đây tự tại tiêu dao, hàm ý rằng sinh mệnh con người vốn được sinh ra trong không gian vũ trụ, hưởng phúc lành trên thiên giới, chỉ vì biến đổi trở nên xấu đi mà rơi rớt xuống trần gian.
Tôn Ngộ Không do thiên địa hoá dục mà thành, trước đây tự tại tiêu dao, hàm ý rằng sinh mệnh con người vốn được sinh ra trong không gian vũ trụ…

Đạo gia cho rằng vạn sự vạn vật trong tam giới đều cấu thành bởi ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, nên núi Ngũ Hành tượng trưng cho tam giới, một không gian đặc thù trong vũ trụ mà các sinh mệnh trong đó đều phải chịu luân hồi.
Nếu như vậy, 500 năm Tôn Ngộ Không chờ đợi Đường Tăng dưới núi Ngũ Hành cũng chính là 500 năm sinh mệnh lênh đênh chìm nổi trong lục đạo luân hồi, đến ngày Đường Tăng xuất sinh cũng là ngày may mắn đắc được thân người. Ngày Ngộ Không gặp được Đường Tăng đi thỉnh kinh, cũng là ngày chủ nguyên thần giác ngộ lẽ vô thường của thế gian, chính thức bước trên con đường tu luyện, phản bổn quy chân, trở về thiên quốc. Bởi thế mà Ngũ Hành Sơn còn được gọi là “Lưỡng Giới Sơn”, giới tuyến phân biệt giữa người thường và người tu luyện.
Mỗi người chúng ta trên thân đều cõng một “Ngũ Hành Sơn” mà không hay không biết, có người còn cảm thấy cuộc sống hiện giờ rất tự tại tiêu dao. Ấy là bởi ta đã quên, bởi tháng năm đằng đẵng “bãi bể hoá nương dâu” đã khiến ta không còn nhớ tháng ngày tự tại tiêu dao nơi thiên quốc. 500 năm, hay 5000 năm, thậm chí là ức vạn năm, ta bị giam hãm chôn vùi nơi trần thế, cũng chỉ là đợi Chính Pháp khai truyền, đắc thân người tu luyện, trở về gia viên đích thực của mình mà thôi.
“Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu,
Đời người, bọt nước khác gì đâu.
Sớm còn thắm đỏ đôi gò má
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.
Giấc điệp tàn rồi, đời ảo cả
Cuốc kêu da diết hãy quay đầu…”
Thanh Ngọc

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 12): Nước Tỳ Kheo thương trẻ bị moi tim; Điện Kim Loan giận vương triều vô đạo

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Ở hồi 78 “Nước Tỳ Kheo thương trẻ, khiến âm thần/ Điện Kim Loan biết ma, bàn đạo đức”, thầy trò Đường Tăng đi qua nước Tỳ Kheo. Quốc vương nước này vì tham đắm nữ sắc nên tinh khí suy kiệt, nghe lời quốc trượng moi tim 1111 trẻ em để làm thuốc dẫn cầu trường sinh. Câu chuyện mang màu sắc thần thoại, nhưng ẩn chứa dự ngôn cho thời đại chúng ta.
Rời khỏi thành Sư Đà, đoàn thỉnh kinh đến địa phận nước Tỳ Kheo:
“Hàng ăn quán nước ồn ào,
Quán trà rực rỡ, lầu cao cuốn rèm.
Nghìn nhà vạn hộ xênh xang,
Phố phường chợ búa chật hàng bán buôn.
Chen nhau bán gấm mua vàng,
Tranh lời đoạt lãi vì tiền cả thôi.
Trang nghiêm, lễ độ nơi nơi,
Sóng trong biển lặng chung vui thái bình”.
Trong lời thơ phảng phất nụ cười ẩn ý của tác giả. Vẻ ngoài phồn vinh náo nhiệt, “trang nghiêm lễ độ”, “chung vui thái bình” của vương quốc Tỳ Kheo kỳ thực đang che đậy nhân tâm ích kỷ: “Tranh lời đoạt lãi vì tiền cả thôi”. Chuyện không dừng lại ở đó…
Bí quyết trường sinh không thể tìm thấy ở bên ngoài
“Bốn thầy trò dắt ngựa, gánh hành lý, bước đi trên đường phố một lúc lâu, ngắm cảnh phồn hoa mãi không chán mắt, thấy nhà nào nhà nấy đều treo một cái lồng ngỗng trước cửa”. “Trong mỗi lồng đều có nhốt một đứa trẻ, đứa lớn chưa đầy bảy tuổi, đứa nhỏ độ năm tuổi”, “toàn là trai, không có gái”. Đường Tăng cảm thấy rất kỳ lạ, bèn gặng hỏi viên dịch thừa, mới hay tỏ ngọn ngành.
Thì ra ba năm về trước, một đạo sỹ tiến cống mỹ nữ cho quốc vương, khiến quốc vương quyến luyến mê mệt không rời. Đạo sỹ được phong làm quốc trượng, cô gái làm Mỹ hậu, còn quốc vương thì từ đó tinh thần mệt mỏi, thân thể gầy mòn, giờ đây tính mệnh sắp nguy. Quốc trượng dâng lên phương thuốc bí truyền giúp quốc vương được trường sinh, nhưng phải có 1111 quả tim trẻ con để làm thuốc dẫn. Những đứa trẻ đặt trong lồng đều đã được lựa chọn nuôi nấng dùng làm thuốc.
Được biết những đứa trẻ đặt trong lồng đều đã được lựa chọn nuôi nấng dùng làm thuốc, Tam Tạng sợ quá bủn rủn cả người, bất giác hai hàng nước mắt ứa ra lăn xuống má…
“Tam Tạng sợ quá bủn rủn cả người, bất giác hai hàng nước mắt ứa ra lăn xuống má, rồi buột miệng than thở:
– Đồ hôn quân! Đồ hôn quân! Chỉ vì nhà ngươi quá ham mê sắc đẹp đến nỗi bệnh tật, cớ sao lại giết chết oan uổng tính mạng bao nhiêu đứa trẻ vô tội như vậy? Khổ quá! Khổ quá! Ta đau xót đến chết đi được!
Có bài thơ làm chứng rằng:
Vua ngu tối gian tà bất chính,
Sắc dục say chẳng tỉnh hại thân.
Cầu trường thọ, hại nhi đồng,
Tìm phương thoát nạn, hại dân trăm bề.
Sư thương xót tái tê lòng dạ,
Quan nói ra nhỏ lệ khôn ngăn.
Trước đèn sùi sụt thở than.
Nỗi đau đến thắt ruột gan kẻ thiền!”
Mỗi tình tiết trong Tây Du Ký dường như đều ẩn chứa huyền cơ. Mấy trăm năm sau, trên mảnh đất Thần Châu đại địa, một tội ác tương tự với quy mô lớn hơn nhiều đã thực sự phát sinh. Năm 2009, ông David Kilgour, cựu quốc vụ khanh Canada, và ông David Matas, luật sư nhân quyền, đã xuất bản cuốn sách “Thu hoạch đẫm máu”, tiết lộ nạn mổ cướp nội tạng tại Trung Quốc, mà nạn nhân là những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, một pháp môn tu luyện tính mệnh song tu của Phật gia. Tim, thận, võng mạc, v.v. của các nạn nhân đều bị cướp đoạt khi họ còn đang sống. Người khởi xướng cuộc bức hại đẫm máu này là Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, một người vướng nhiều bê bối về tình dục.
Vì sao lão quốc trượng (vốn là yêu tinh biến hoá thành) lại xúi giục quốc vương moi tim trẻ em làm thuốc dẫn trường sinh? Lão ta đã gián tiếp tiết lộ lý do sau khi gặp Đường Tam Tạng:


“Lão hòa thượng ở phương Đông được nhà vua sai đi lấy kinh ấy, tôi thấy lão dáng người thanh cao, dung nhan đoan chính là người đã trải qua mười kiếp tu hành xuất gia từ nhỏ, khí nguyên dương chưa bị tiết ra, còn bổ gấp vạn lần so với lũ trẻ. Nếu lấy được quả tim của lão làm thuốc dẫn, uống lẫn với thuốc tiên của tôi, thì có thể thọ tới vạn năm”.
Lão quốc trượng đã thay đổi ý định khi gặp được Tam Tạng.

Vì các hài tử nam còn giữ trọn vẹn “khí nguyên dương”, nên yêu quái muốn lợi dụng nhà vua thu nguyên khí ấy. Người tu hành giới cấm tà dâm nên cũng bảo tồn nguyên khí đầy đủ. Trong truyện, tác giả nhiều lần đề cập đến việc bảo tồn “khí nguyên dương”. Ở hồi 55 “Dâm tà bỡn cợt Đường Tam Tạng/ Đứng đắn tu trì chẳng hoại thân”, nữ quái động Tỳ Bà ra sức quyến rũ Đường Tăng:

“Ả kia giọng hứng tình uốn éo,
Người này giữ lòng dạ sắt son.
Ả kia muốn áp má, gác đùi quấn quýt phượng loan,
Người này chỉ tâm niệm, Đạt Ma quay đầu về núi

Nữ quái nói: “Thà rằng chết bên hoa, làm ma tinh phong tình vẫn giữ”.
Đường Tăng nói: “Chân dương là quý nhất, đâu mê phường son phấn trăng hoa”…!”
Dù là Phật gia hay Đạo gia, xưa nay đều chú trọng “thanh tâm quả dục”, giữ gìn tinh khí. Chẳng thế mà về sau, Tôn Đại Thánh đã có lời khuyên quốc vương nước Tỳ Kheo rằng:
“Mong bệ hạ từ nay in ít sắc dục, tích ân đức nhiều nhiều. Phàm mọi việc nên lấy dài bổ ngắn. Được như vậy tự khắc sẽ vô bệnh sống lâu. Đó là lời giáo huấn đấy”.
Minh Thành Tổ Chu Lệ cũng từng vì muốn có được tiên đơn trường sinh bất lão mà thỉnh cầu gặp mặt Trương Tam Phong. Trương Chân Nhân từ chối gặp, chỉ nhắn lại mấy lời rằng: “Dám đem lời mọn phiền Thánh đế, Thanh tâm quả dục phép trường sinh”.
Ngày nay, thế đạo suy đồi, những thứ sắc tình hạ lưu được tung hô hưởng ứng, có người còn dại dột dùng thuốc để tìm kiếm, tăng cường cảm giác nhục dục. Những người này sau đó đều cảm thấy mệt mỏi rã rời, tinh thần suy kiệt, thậm chí mắc bệnh. Họ lãng phí sinh mệnh của mình trong sắc dục, sau đó lại tìm thuốc thang bên ngoài để chữa chạy kéo dài mạng sống. Hành vi ấy có gì khác với quốc vương nước Tỳ Kheo?
Tu luyện là hành trình tu bỏ các tâm chấp trước
Lại nói chuyện lão quốc trượng xúi giục quốc vương moi tim Đường Tam Tạng làm thuốc trường sinh. Tôn Ngộ Không lập mưu cứu thầy, biến thành Đường Tăng giả, ung dung đi vào đại điện.
“Đường Tăng giả cầm dao trong tay, cởi luôn quần áo, ưỡn ngực tay trái xoa bụng, tay phải cầm dao xoẹt một tiếng, rạch đứt đôi da bụng, rồi từ ổ bụng một đống tim tuồn tuột chảy ra, làm cho quan văn tái mặt, tướng võ hoảng hồn. Quốc trượng đứng trong điện thấy vậy nói:
– Hòa thượng này sao lắm tim thế!
Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem, thấy toàn là những quả tim đỏ, tim trắng, tim vàng, tim tham lam, tim danh lợi, tim đố kỵ, tim mưu mẹo, tim hiếu thắng, tim hãnh tiến, tim khinh mạn, tim sát hại, tim độc ác, tim sợ sệt, tim tà vọng, tim vô danh, tim mờ ám… toàn là các loại tim xấu xa, chẳng thấy có một quả tim đen nào”.
Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem.
Những quả tim này tượng trưng cho những tâm chấp trước mà người tu luyện phải tu bỏ trên con đường viên mãn đắc Đạo. Chẳng thế mà ở hồi 19, Ô Sào Thiền Sư truyền thụ cho Đường Tăng “Bát nhã ba la mật đa tâm kinh” (gọi tắt là “Tâm kinh”), lại nói thành là “Đa tâm kinh”. Về sau khi Đường Tăng gặp ma nạn hay có chấp trước trong tâm, mặc dù nói là niệm “Tâm kinh”, nhưng tác giả lại viết thành “Đa tâm kinh”.
Ví dụ trong hồi thứ 20
“Núi Hoàng Phong, Đường Tăng gặp nạn/ Giữa rừng thẳm, Bát Giới lập công”, khi Bát Giới và Ngộ Không đại chiến với yêu tinh hổ, trong truyện có viết: “Tam Tạng ngồi dậy, run rẩy sợ hãi, luôn miệng lẩm bẩm niệm Đa tâm kinh”. Trong lòng nếu còn tâm sợ hãi, tức là tâm thần hỗn loạn, thì niệm ra cũng chỉ có thể là “Đa tâm kinh” thôi. Mãi đến sau này khi đến nước Thiên Trúc, tâm chấp trước của Đường Tăng về cơ bản đã trừ sạch rồi, lúc này tác giả mới viết rằng Đường Tăng niệm chính là “Tâm kinh”.
Trên hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng đã gặp rất nhiều yêu ma cản đường nghẽn lối. Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”. Từ đó thấy rằng, yêu ma ấy chính là do các tâm chấp trước của người tu luyện diễn hoá ra. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt.
Quá trình trừ yêu diệt quái kinh thiên động địa là vậy, vì thế cũng chỉ là quá trình người tu luyện diệt trừ ma tính, tu bỏ nhân tâm của mình mà thôi. Vậy nên hồi 78 mới có thơ rằng:
“Một niệm nảy sinh đấy vạn ma,
Tu trì vất vả khó khăn là.
Đã đành tắm gội không vương bụi.
Vẫn phải dầy công khổ luyện mà…”

Người tu luyện tâm không tại thế gian nhưng vẫn cần tế thế cứu người, diệt trừ tà ác
Trong tu luyện Đạo gia giảng “vô”, tức là vô vi, Phật gia giảng “không”, không còn chấp trước truy cầu gì trên thế gian này nữa. Ấy vậy nhưng trên hành trình đi lấy kinh, thầy trò Đường Tăng đã không ít lần “can thiệp” vào “chuyện người khác”: khi thì giải thoát công chúa nước Bảo Tượng khỏi người chồng yêu quái, lúc lại cứu sống quốc vương nước Ô Kê bị chìm dưới đáy giếng đã 3 năm, khi thì diệt 3 đạo sỹ yêu tinh cứu 500 nhà sư nước Xa Trì, giờ đây lại phơi bày bộ mặt thật của quốc trượng yêu tinh, cứu hơn ngàn đứa trẻ.
Trên bước đường tu luyện người tu luyện sẽ găp các quan nạn, yêu ma quỷ quái, đây cũng chính là quá trình tu tâm cũng là tạo dựng uy đức và tiến về viên mãn.
Ấy là bởi trên con đường đi về viên mãn, người tu luyện không chỉ biết mỗi mình mình, mà còn phải tế thế cứu người, diệt trừ tà ác. Trong khi diệt trừ tà ác thì vứt bỏ các tâm con người như sợ hãi, lười biếng…; trong khi cứu người thì gây dựng uy đức cho bản thân. Có người có thể thắc mắc: Giết chết yêu quái có từ bi không?
Ở hồi 57 “Núi Lạc Già Hành Giả thật kể khổ/ Động Thủy Liêm, Hầu Vương giả đọc văn”, kỳ thực đã có câu trả lời rồi.

Tôn Ngộ Không giết sạch mấy tên giặc cỏ cướp đường, Đường Tăng vô cùng đau xót, trách Ngộ Không là “cực kỳ độc ác” “bất nhân”, rồi niệm “khẩn cô nhi chú” và một mực đuổi đi. Ngộ Không bèn bay đến núi Lạc Già tìm Quan Thế Âm Bồ Tát, được Bồ Tát khai thị rằng:
“Bọn giặc cỏ ấy tuy là phường bất lương, nhưng rút cục chúng vẫn là con người, không nên đánh chết. Còn so với loài thú dữ chim hung, yêu ma quỷ quái thì lại khác. Đánh chết chúng, thì nhà ngươi có công”
.

Trong vũ trụ này, chính – tà đồng thời tồn tại, trong mỗi con người lại cũng có Phật tính và ma tính. Quá trình tu luyện là không ngừng diệt trừ ma tính, nuôi dưỡng Phật tính, để cuối cùng đạt đến Phật tính tròn đầy (“viên mãn”), đắc Thiện quả. Nếu một người tu luyện dung dưỡng cho ma tính, không kiên quyết diệt trừ chúng, thì sẽ tự huỷ hoại bản thân mình. Tương tự, nếu người tu luyện thấy những tội ác như giết người phóng hoả mà vẫn thờ ơ giả câm giả điếc, lại viện cớ là “vô vi”, thì anh ta chẳng những không tích được chút công đức nào, mà còn không đạt tiêu chuẩn người tu luyện. Vậy nên đoạn thơ phía trên mới kết bằng 4 câu là:
“Quét sạch vạn duyên về cõi tịch,
Diệt phăng nghìn quái chẳng buông tha.
Rồi đây thoát khỏi vòng vây hãm,
Viên mãn bay lên cõi Đại La”.
Thanh Ngọc

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 13): Ẩn ý ít người biết đằng sau chuyện vua Đường dạo chơi âm phủ

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Hồi 11 của Tây Du Ký là câu chuyện nói về chuyến đi Âm phủ của vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Nếu không có chuyến đi này, thì cũng sẽ không có chuyện thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh. Vậy chuyến dạo chơi của vua Đường có gì đặc biệt?
Có bài thơ rằng:
“Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu,
Đời người, bọt nước khác gì đâu.
Sớm còn thắm đỏ đôi gò má.
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu.
Giấc điệp tàn rồi, đời ảo cả.
Cuốc kêu da diết hãy quay đầu,
Xưa nay làm phúc đều tăng thọ,
Ở thiện trời thương, lọ phải cầu”.
Thật thú vị, mỗi bài thơ ở đầu mỗi hồi của Tây Du Ký chính là tinh thần của hồi truyện đó. Hiểu được thơ là ta hiểu được ý tứ mà tác giả gửi gắm trong nội dung của hồi truyện. Đó là nét đặc sắc của Tây Du Ký.
Hồi 11 của Tây Du Ký là câu chuyện nói về chuyến đi Âm phủ của vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Đây có thể nói là màn khai diễn trước chuyến đi thỉnh kinh của thầy trò Đường Tam Tạng. Thực ra, không có chuyến đi Âm phủ của vua Đường thì cũng không có chuyến thỉnh kinh. Tuy nhiên, lần lại lý do dẫn đến việc vua Đường phải “chơi” Âm phủ, chúng ta sẽ thấy nhiều điều thú vị.
Nếu vua Đường không xuống Âm phủ, tận mắt chứng kiến là có Âm phủ thật, nơi đó những kẻ gian ác lọc lừa đều bị báo ứng thảm khốc bằng nhiều hình phạt ghê sợ nơi 18 tầng địa ngục thì ngài có tin vào cái lý “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” hay không? Một vị vua bách chiến bách thắng đang có một sự nghiệp lừng lẫy, có được giang sơn gấm vóc từ thanh gươm yên ngựa thì có chịu tin rằng dù ngài là kẻ vô địch ở cõi người cũng không thể thoát khỏi một ngày bị phán xét công và tội bởi một thế lực khác còn quyền lực hơn: Âm phủ?

Nếu vua Đường không xuống Âm phủ, tận mắt chứng kiến là có Âm phủ thật, thì liệu ngài có tin vào cái lý “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” hay không?

Từ đó mới thấy rằng: Cuộc đời ngắn lắm, và vinh quang nơi cõi trần cũng thế, chỉ tựa như bóng dáng một con tuấn mã phi vụt qua khung cửa sổ, chớp mắt đã mất dạng, hay như một bong bóng nước vừa sủi lên đã vỡ tan. Một đời người có thể tóm gọn trong một ngày, như câu đố của nhân sư: Con vật gì sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân.
“Ngày tháng trăm năm tựa bóng câu
Đời người bọt nước khác gì đâu
Sớm còn thắm đỏ đôi gò má
Chiều đã bạc phơ nửa mái đầu”.
Bởi vậy, sau khi về lại dương thế, ngài mới tin rằng đời người chỉ như giấc mộng mà thôi. Như giấc mộng nổi tiếng của Trang Chu, nằm mơ hóa bướm nên gọi là giấc điệp. Không biết Trang Chu nằm mơ hóa bướm hay bướm mộng hóa Trang Chu? Rốt cuộc có là kiếp bướm hay kiếp Trang Chu thì cũng đều là mộng, mỗi kiếp chúng sinh cõi trần cũng chỉ là một giấc mộng mà thôi. Nếu đời là giấc mộng ngắn ngủi thì còn tranh giành làm chi vô ích, chỉ tạo thêm nghiệp dữ để chịu hình phạt nơi Âm phủ. Chi bằng hãy hồi tâm chuyển ý làm việc thiện để tích đức, đừng như vua Đỗ Vũ, mất nước rồi hóa thành chim Cuốc kêu khắc khoải.
“Giấc điệp tàn rồi đời ảo cả
Cuốc kêu da diết hãy quay đầu
Xưa nay làm phúc đều tăng thọ
Ở thiện trời thương lọ phải cầu”.
Trở về từ Âm phủ, vua Đường như biến thành một con người khác, ngài năng làm việc thiện: Ban lệnh đại xá thiên hạ, tha tử tù, thả cung nữ về quê lấy chồng, lại treo bảng cầu hiền. Đáng lẽ dương số của ngài đã tận, về lý thì nhờ Thôi phán quan giúp sửa sổ sinh tử nên thêm được hai mươi năm tuổi thọ. Nhưng nếu ngài không làm việc thiện thì sao xứng với số dương thọ tăng thêm? Chính là hợp với thiên ý: “Xưa nay làm phúc đều tăng thọ”.
Trở về từ Âm phủ, vua Đường như biến thành một con người khác, ngài năng làm việc thiện: Ban lệnh đại xá thiên hạ, tha tử tù, thả cung nữ về quê lấy chồng, lại treo bảng cầu hiền.

Nếu người xuống Âm phủ không phải vua Đường mà là một người khác, thì làm sao khi hồi dương có được ảnh hưởng đến cả nước đều làm việc thiện? Làm sao có đủ quyền hạn, sức mạnh quốc gia để tổ chức “đại hội thủy lục” như đã hứa để siêu độ cho những nạn nhân chết trận khi ngài đuổi hươu ở Trung Nguyên? Và đã làm việc thiện ấy thì ắt phải tôn Phật giáo lên hàng quốc giáo, phải có sẵn cao tăng Huyền Trang để nắm Phật Giáo với câu chuyện gia đình mà vua Đường biết rõ. Vì có tâm sốt sắng muốn làm việc thiện, tạo công đức cho muôn dân cõi Trung thổ thì mới cử Huyền Trang đi lấy kinh Tam Tạng của Đức Phật Tổ Như Lai ở Thiên Trúc.
Hình như ngài ngẫu nhiên vào vai người bảo trợ Phật Giáo và cuộc thỉnh kinh chăng?
Nếu bạn đọc chịu khó lần lại mạch truyện kể từ Hồi thứ 8, khi Tôn Ngộ Không sắp hết nạn 500 năm núi đè, thì Phật Tổ Như Lai mới hội chư Phật ở Linh Sơn và nói về ý định truyền kinh Tam Tạng cho người Nam Thiệm Bộ Châu. Từ đó, hai thầy trò Quan Âm Bồ Tát mới lĩnh mệnh để hội đủ các nhân vật sau này có mặt trong đoàn lấy kinh: Đầu tiên là ngựa bạch, rồi Sa Tăng, Bát Giới, Ngộ Không. Rồi xuất hiện Kim Thiền Tử – đồ đệ thứ hai của Đức Phật Như Lai kiếp này đã đầu thai làm nhà sư Huyền Trang. Tất cả họ đều từng là những Thần Phật vì buông lơi tâm tính mà bị giáng hạ xuống cõi trần. Đi lấy kinh là cơ hội để họ lập công chuộc tội, trở về và thậm chí vượt cảnh giới cũ. Đấy là những người đã được lựa chọn từ lâu lắm. Có nghĩa là ai có sứ mệnh của người ấy và đã đến lúc họ tái xuất.
Rồi “bỗng nhiên” xuất hiện hai anh đồ gàn ngâm vịnh thơ vui thú tiêu dao nơi núi non, miền sông nước ở ngoại thành Tràng An. Vui miệng rồi hai chàng lại “tình cờ” đề cập chuyện thầy bói Viên Thủ Thành giúp xem bói để ngày nào cũng đánh được cá. Cũng lại “tình cờ” nơi quãng vắng ấy một tên quỷ Dạ Xoa nghe được về báo lại Long Vương Kinh Hà. Ông này đánh cuộc với người thầy bói về chuyện mưa nắng và vì “tình cờ” có lệnh làm mưa của Ngọc Hoàng Thượng Đế đúng như người thầy bói đã đoán nên ông ta sẽ thua cuộc. Vì cố tình trái mệnh trời để mong thắng cuộc, Long Vương Kinh Hà phạm tội bị chém đầu. Và “tình cờ” người chém đầu hắn lại là thừa tướng Ngụy Trưng, sủng thần của vua Đường. “Tình cờ” hơn nữa, dù vua Đường đã triệu Ngụy Trưng vào cung nhưng ông này đã chém đầu Long Vương Kinh Hà trong giấc mộng. Và như vậy mới dẫn đến chuyện vua Đường bị kiện phải xuống Âm ty để đối chất. Ở đó, “tình cờ” đã có người bạn vong niên của Ngụy Trưng là Thôi phán quan nâng đỡ. “Tình cờ” là Long vương Kinh Hà cũng đã hết số trong sổ sinh tử nên vua Đường không bị rầy rà gì. Phần sau thì bạn đọc đã biết.
Liệu có thể chừng ấy nhân vật, chừng ấy sự việc tiếp nối liên hoàn nhau theo một logic chặt chẽ như vậy lại có thể là những việc “tình cờ” hay không? Giống như một vở kịch có lớp lang hoàn chỉnh nhất. Bạn đọc chắc cũng đã tự có câu trả lời.
Cho nên trên đời này không có việc gì là ngẫu nhiên, tình cờ hết. Đức Phật Tổ Như Lai là người đã an bài cho đoàn lấy kinh kể từ những sự việc đầu tiên cho đến 81 nạn mà sau này thầy trò Đường Tăng gặp phải. Nhưng trong sự an bài ấy, các Thần Phật là nhìn vào thái độ, tâm tính và hành động của những người lấy kinh để đánh giá ai đạt ai không.
Trên đời này không có việc gì là ngẫu nhiên, tình cờ hết. Đức Phật Tổ Như Lai là người đã an bài cho đoàn lấy kinh kể từ những sự việc đầu tiên cho đến 81 nạn mà sau này thầy trò Đường Tăng gặp phải.

Có lẽ vì đã nhìn thấy an bài ấy ngay từ đầu nên Bồ Đề tổ sư, người thầy Đạo gia của Tôn Ngộ Không mới đặt pháp danh cho khỉ đá là Ngộ Không, một Pháp danh đậm chất nhà Phật, tức là ngộ ra cái lẽ “Sắc tất thị Không, Không tất thị Sắc” theo Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Rồi sau khi Ngộ Không thành đạo, ngài vội vã đuổi Ngộ Không đi sau khi tiên đoán những điều kinh thiên động địa về tương lai của y.
Ấy mới là:
“Đúng thay, thật đúng thay!
Ở lành quả gặp hay.
Lòng lành thường tha thiết,
Đường đẹp mở ra ngay.
Đừng có làm điều ác,
Hẳn ít chuyện chông gai.
Đừng bảo không báo ứng.
Quỷ thần đã an bài”.
Bình Nguyên

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 14): Lá bùa trấn yểm Tôn Ngộ Không trên núi Ngũ Hành có dụng ý gì?


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trở lại với câu chuyện Ngộ Không giam dưới núi Ngũ Hành, hầu hết độc giả đều thấy bâng khuâng, ngậm ngùi, và nuối tiếc cho cái thuở vàng son “chọc trời khuấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết trên đầu có ai?”. Nhưng dường như chúng ta đã bỏ quên một chi tiết, một chi tiết rất nhỏ thôi nhưng lại hàm chứa biết bao Pháp lý uyên thâm của Phật gia, đó chính là lá bùa dán trên đỉnh núi.
Vì có lá bùa ấy, Ngộ Không mới phải chịu 500 năm đày đoạ. Lại cũng vì có lá bùa ấy, mà Đường Tăng mới có thể giải thoát Ngộ Không. Một lá bùa uy lực như thế, lại được nhắc đến ba lần trong nguyên tác, mà lần nào cũng gắn liền với một dấu mốc trên con đường giác ngộ của Ngộ Không, thì hẳn cũng mang diệu pháp nào chăng?
Lần đầu tiên, là khi Đại Thánh vì phạm luật trời mà bị giam dưới Ngũ Hành. Trong truyện viết:
Mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng có viên linh quan đi tuần chạy vào báo: “Bẩm, Đại thánh lại thò đầu ra”.
Phật tổ nói: “Không sao, không sao!”. Và rút trong tay áo ra một tờ giấy, trên có sáu chữ vàng Úm Ma Ni Bát Mê Hồng đưa cho A Nan dặn mang đi dán lên đỉnh núi. A Nan vâng lệnh cầm đạo bùa, ra khỏi cửa trời, đến thẳng đỉnh núi Ngũ Hành, dán chặt đạo bùa vào tảng đá bốn cạnh vuông vức. Quả núi tức thì mọc rễ khép liền lại, chỉ để một lỗ thông hơi. Đại thánh bị quả núi đè chặt, chỉ thở được, và chân tay thò ra cựa quậy được mà thôi. [1]
Phật tổ trao lá bùa cho A Nan.

Lần thứ hai, là sau đó 500 năm, Ngộ Không phát nguyện tu hành khi gặp lại Bồ Tát sang phương Đông tìm người lấy kinh. Trong truyện viết:
Bồ Tát dẫn Mộc Soa hành giả vượt qua ngọn núi, tiếp tục lên đường sang phương Đông. Đi được một lát, bỗng thấy muôn đạo hào quang, nghìn tia khí đẹp phóng ra. Mộc Soa nói: “Sư phụ ạ, chỗ hào quang phát ra kia là núi Ngũ Hành, Như Lai có dán một đạo bùa yểm ở đấy”.
Bồ Tát nói: “Tề Thiên đại thánh quấy rối hội Bàn Đào, đại náo thiên cung ngày xưa, nay bị giam giữ ở đấy đấy”.
Mộc Soa nói: “Thế ạ, thế ạ!”.
Thầy trò bèn cùng nhau trèo lên đỉnh núi ngắm nghía đạo bùa, thấy trên đạo bùa có sáu chữ Úm Ma Ni Bát Mê Hồng, cứ lưu luyến mãi không thôi, rồi làm một bài thơ. [2]
Lần thứ ba, là khi Ngộ Không chính thức phò giá Đường Tăng sang Tây Thiên thỉnh kinh. Trong truyện viết:
Con khỉ nói: “Trên đỉnh núi có đạo bùa chữ vàng của Như Lai yểm. Ngài lên đó bóc đạo bùa ấy đi là con được thoát”. (…)
Bá Khâm đành gọi người nhà, dắt ngựa, đỡ Tam Tạng trèo lên đỉnh núi. Họ vin cây bám cành trèo lên tới đỉnh, quả nhiên thấy một tảng đá vuông hào quang chói lọi, mây lành rực rỡ, trên tảng đá dán một đạo bùa có sáu chữ vàng Úm Ma Ni Bát Mê Hồng. [3]
Đường Tăng leo lên núi gỡ lá bùa xuống giải cứu Ngộ Không.
Lá bùa mang sáu chữ vàng
Trên lá bùa là sáu chữ bí ẩn: “Úm Ma Ni Bát Mê Hồng”, còn được viết là “Om Mani Padme Hum” [4]. Đây là câu chân ngôn cổ xưa do Bồ Tát Quan Âm truyền lại, được ghi chép trong quyển 4 Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm của Mật tông Tây Tạng. Người Tây Tạng gọi đó là “Lục tự đại minh chân ngôn”, nghĩa là câu chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ.
Cũng cần phải nói thêm rằng, lời của Giác Giả chính là Pháp, trong đó mỗi câu, mỗi chữ, thậm chí mỗi âm tiết đều là thiên ý, là diệu lý huyền cơ. Chúng ta dùng ngôn ngữ của người phàm, lại theo lối tư duy của người phàm, sao có thể diễn giải tâm ý của bậc Giác Giả đây? Cho nên, bản thân sáu chữ vàng đã diễn tả một cách trọn vẹn mà không thứ ngôn ngữ nào khác có thể diễn đạt được.

Tuy nhiên, vì để cùng độc giả tìm hiểu dụng ý của Ngô Thừa Ân thông qua lá bùa sáu chữ ấy, người viết mạn phép được đàm đạo bằng đôi lời thô kệch. Cũng mong rằng, quý độc giả hãy coi những gì viết ra sau đây chỉ là ngu ý thô thiển của một kẻ thường nhân, còn ý nghĩa thật sự và nội hàm chân chính, thì đều nằm trong câu chân ngôn ấy rồi.
Nếu phân tách ra từng chữ, thì có thể hiểu rằng:
Om: Nghĩa là ‘quy mệnh’, cũng chính là quay trở về với bản mệnh nguyên sơ, trở về với sự thuần khiết thanh tịnh của mình.
Mani: Nghĩa là ‘viên ngọc như ý’.
Padme: Nghĩa là ‘bên trong hoa sen’.
Hum: Nghĩa là ‘tự ngã thành tựu’, cũng chính là tu luyện để thăng hoa cảnh giới, đề cao tầng thứ, thành tựu sinh mệnh của chính mình.
Như vậy, câu chân ngôn giống như một lời nhắc nhở, như một nguyện ước tu thành. Con người sinh ra giữa đất trời, đến nơi thế gian ô trọc này, làm người không phải là bản nguyện, mà bản nguyện chân chính của sinh mệnh chính là tu luyện, và chỉ có tu luyện mà thôi.
Nhưng vì sao câu chân ngôn lại nhắc đến ‘viên ngọc trong hoa sen’? Lần giở lại các kinh điển của Phật gia, ta sẽ tìm thấy câu trả lời.
Trong pháp môn Tịnh Độ của Phật giáo có thuyết “Liên hoa hoá sanh”. Ấy là, người tu hành nếu phát nguyện vãng sinh về Cực Lạc, thì trong ao sen thất bảo nơi Phật quốc sẽ mọc lên một búp sen. Cùng với quá trình người tu kiên trì niệm kinh, thăng hoa tầng thứ, đoá sen kia cũng dần dần lớn lên, đồng thời bên trong đoá sen sẽ xuất sinh một Thánh thai. Thánh thai ấy chính là Phật thể, còn hoa sen là quả vị của người tu hành. Đợi đến khi nhập niết bàn, người tu sẽ vãng sanh trong liên hoa, trở thành một chúng sinh của Tây phương Cực Lạc.
Còn Đại Pháp của Phật gia thì giảng về “Nguyên Anh”. Người tu trong quá trình đồng hoá với đặc tính Chân-Thiện-Nhẫn của vũ trụ thì bên trong thân thể sẽ xuất sinh một Nguyên Anh, ngồi toạ trên đài sen sắc vàng. Nguyên Anh ấy là “thể kim cương bất hoại” mà Phật gia nói đến, cũng chính là Phật thể của người tu khi đạt viên mãn, đắc Đạo. Một Phật thể kim cương bất hoại ngự trên đài liên hoa, nào có khác chi ‘viên ngọc như ý trong hoa sen’ mà câu chân ngôn nói đến?
Nếu xem xét thứ tự xuất hiện của từng chữ Om-Mani-Padme-Hum, sẽ thấy toàn bộ câu chân ngôn cũng giống như một con đường tu luyện trọn vẹn: Bắt đầu từ phản bổn quy chân, trở về với bản tính nguyên sơ thuần tịnh của mỗi người (“Om”), cùng theo quá trình đề cao tâm tính, thăng hoa tầng thứ, trong thân thể xuất sinh một Phật thể ngự trên đài liên hoa (“Mani Padme”), đến cuối con đường tu luyện cũng là lúc chứng đắc quả vị, thành tựu sinh mệnh, viên mãn công thành (“Hum”).
Sáu chữ trên lá bùa ẩn chứa nội hàm thật sâu xa…
Vậy thì, câu chân ngôn sáu chữ trên đỉnh Ngũ Hành muốn nói với chúng ta điều gì?
Chúng ta biết rằng, Ngộ Không bị đè dưới Ngũ Hành Sơn cũng giống như sinh mệnh trên thượng giới bị rớt xuống nơi thế gian ô trọc này, chịu sự phong toả của Ngũ Hành, cũng tức là bị Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ khống chế. Muốn thoát khỏi Ngũ Hành, trở về thiên quốc, thì phải “quy mệnh”, bước trên con đường tu luyện, quay trở về với bản mệnh nguyên sơ ban đầu của mình.
Nhưng hàm ý của câu chân ngôn không phải là “tu hành”, mà chính là “tu thành”. Chỉ khác nhau một âm tiết, nhưng lại cách nhau một vực trời. Vì sao nói như vậy? Nguyện ước “tu hành” chỉ là bước khởi đầu, nhưng “tu thành” mới đích thực là khát khao mạnh mẽ, là ý chí kiên định không gì lay chuyển được. Trên con đường tu luyện, có người sẽ đi trọn đến đích, nhưng lại có người lỡ dở giữa chừng.
Người lỡ dở giữa chừng có thể vì ý chí không vững vàng, vì tín tâm chưa đủ, vì ngại khó ngại khổ, hoặc vì một nguyên nhân nào khác mà khiến giữa đường dang dở, công quả chẳng thành. Chỉ những ai tinh tấn thực tu, đi trọn đến cuối con đường mới chứng đắc được quả vị, mang theo Nguyên Anh, cũng tức là ‘viên ngọc như ý trong hoa sen’ – nhưng lúc này không gọi là Nguyên Anh nữa mà gọi là “Phật thể” – để trở về thiên quốc của chính mình.
Đối chiếu với tình huống của Ngộ Không sẽ thấy rõ điều ấy. Trước khi bị đè dưới núi Ngũ Hành, Ngộ Không đã từng tu luyện: Từ Hoa Quả Sơn vân du đi tìm Đạo, cuối cùng gặp được Bồ Đề Tổ Sư, bái làm sư phụ, Ngộ Không đã học được 72 phép biến hoá, âu cũng là đã đạt được một chút thành tựu. Nhưng dẫu có thần thông quảng đại đến đâu, thì hết thảy cũng chỉ là tiểu năng tiểu thuật, Ngộ Không vẫn chỉ là du thần tản tiên, tiêu diêu tự tại trong Tam Giới, vẫn chưa xuất khỏi Ngũ Hành. Trong truyện nhiều lần gọi Ngộ Không là “Thái Ất tản tiên”, cũng là có ý này. Cho nên, nếu theo thế gian tiểu đạo, thì mãi mãi vẫn chỉ là “tu” mà chưa “thành”, chỉ là “tu Đạo” mà chưa “đắc Đạo”, chưa viên mãn vậy.
Như vậy, câu chân ngôn mang sáu chữ vàng của Như Lai Phật Tổ cũng giống như một lời nhắc nhở dành cho Ngộ Không: Con nhất định phải tu thành!
Cho nên, ngay khi vừa dán lá bùa lên đỉnh núi, Như Lai đã an bài mọi sự cho con đường tu luyện sau này của Ngộ Không. Và như một lời căn dặn: “Trải qua tháng năm đằng đẵng, cũng đừng quên nguyện ước tu thành”, câu chân ngôn ấy đã theo Ngộ Không suốt 500 năm bãi bể nương dâu, 500 năm phong ba tuế nguyệt, lúc đói phải ăn viên sắt, khi khát phải uống nước rỉ đồng, quả thực là muôn vàn cực khổ, cay đắng không lời. Đến khi nghiệp chướng trả xong, cũng là lúc Ngộ Không nguyện sẽ “dốc lòng tu hành”, thì khi ấy lá bùa đã làm tròn sứ mệnh của mình, và lại trở về với Đức Như Lai.
Thì ra, ngay khi vừa dán lá bùa lên đỉnh núi, Như Lai đã an bài mọi sự cho con đường tu luyện sau này của Ngộ Không.
Sáu chữ vàng điểm hoá Ngộ Không, cũng là điểm hoá chúng ta ngày hôm nay
Có một bậc cao tăng đã khai mở thiên mục nhìn thấy cảnh tượng như thế này: Con người là anh linh của vạn vật, và chỉ trong con người mới tồn tại hai thứ mà không một loài vật nào có được, đó là Đan Điền và Nê Hoàn Cung, cũng chính là thể tùng quả. Trong Đan Điền tồn trữ khí tiên thiên của vũ trụ gọi là “nguyên khí”, là thứ vô cùng trân quý. Còn Nê Hoàn Cung? Đó không chỉ là nơi phong ấn nguyên thần con người mà còn có thụ ấn của Phật để lại, nên mới nói con người có Phật tính. Nhưng cụ thể hơn nữa thì “thụ ấn” ấy là gì? Chúng ta không thể biết, chỉ biết rằng nhờ có Đan Điền và thụ ấn này, con người mới có thể tu luyện, mới xứng được nghe Phật Pháp. “Nhân thân nan đắc”, thân người trân quý chính là trân quý ở chỗ này.
Trở lại với Ngộ Không, trong truyện kể rằng Ngộ Không vừa sinh ra đã mang theo linh khí của đất trời, tinh hoa của nhật nguyệt, lại sớm có tâm cầu Đạo. Lên rừng, xuống bể, lội suối, trèo đèo, lại phải lênh đênh trên biển cả, qua biết bao năm tháng dày công khổ luyện, ấy vậy mà cuối cùng vẫn phải trầm luân nơi nhân thế. Mãi đến khi phò giá Đường Tăng, quy y theo giáo lý nhà Phật, lúc ấy mới thực sự là tìm được Chính Pháp, tu theo Chính Đạo, chứng đắc Phật quả, viên mãn hồi thiên.
Vậy, nếu như lá bùa phong ấn trên đỉnh Ngũ Hành là lời nhắc nhở Ngộ Không: “Trải qua tháng năm đằng đẵng, cũng đừng quên nguyện ước tu thành”, thì phải chăng cũng tương ứng với thụ ấn của Phật, ấy là để chỉ dẫn cho con người thế gian: Đã bao kiếp bao đời, trầm luân nơi nhân thế, dẫu trong luân hồi đã từng làm vương tôn thánh giả, làm tăng hay làm đạo, làm vua hay làm tôi, thì cuối cùng cũng chỉ là để đợi chờ đến khi Đại Pháp khai truyền. Chỉ có tu trong Đại Pháp, mới có thể viên mãn trở về nhà…
Ấy chính là:
“Tiếu khán thiên niên sự,
Mộng lý cố nhân si.
Vạn cổ tầm Đại Đạo
Kim triêu chứng quy kỳ”. [5]
Nghĩa là:
“Ngàn năm chốn trần thế,
Mộng thấy cố nhân mê.
Vạn cổ tìm Đại Đạo,
Hôm nay thấy ngày về”.
Hồng Liên
Chú thích:
  • [1] Xem Tây Du Ký, hồi thứ bảy
  • [2] Xem Tây Du Ký, hồi thứ tám
  • [3] Xem Tây Du Ký, hồi thứ mười bốn
  • [4] Câu chân ngôn sáu chữ viết bằng tiếng Phạn: “ॐ मणिपद्मे हूँ”, tiếng Tây Tạng: “ཨོཾ་མ་ནི་པ་དྨེ་ཧཱུྃ་”, tiếng Anh: “Om Mani Padme Hum”, và tiếng Trung: “唵嘛呢叭?吽”, hay “唵嘛呢叭咪吽”. Âm Hán-Việt đọc là Úm Ma Ni Bát Mê Hồng, hoặc Án Ma Ni Bát Ni Hồng.
  • [5] Trích bài thơ “Kim triêu chứng quy kỳ” của tác giả Lam Không, đăng trên Chánh Kiến Net.
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 15): Bí ẩn đằng sau câu thần chú Kim Cô khống chế Tôn Ngộ Không

Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Sau khi Đường Tăng gỡ tấm bùa trấn yểm trên núi Ngũ Hành, Tôn Ngộ Không được giải thoát, nguyện ý hộ giá Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh. Nhưng đường xa vạn dặm, nguy hiểm trập trùng, Ngộ Không vẫn còn tính hung hăng càn quấy mà Đường Tăng thì yếu nhược. May nhờ có bài niệm chú vòng Kim Cô màu nhiệm, nên Đường Tăng mới sai bảo được Ngộ Không.
Món quà của Bồ tát

Hồi thứ mười bốn
“Lòng vượn theo đường chính/ Sáu giặc mất tăm hơi”, Tôn Ngộ Không cuối cùng đã được vùng vẫy tự do sau năm trăm năm đợi chờ đằng đẵng. Bấy giờ, tính tình nóng nảy hung hăng vẫn còn, sau khi đập một gậy chết tươi con hổ dữ khiến Đường Tam Tạng sợ quá suýt ngã ngựa, Ngộ Không lại giết chết 6 tên cướp chặn đường, lột lấy quần áo và tiền bạc, cười khanh khách.
Đường Tăng mắng:
“Vô cớ đánh chết người ta, thì làm Hòa thượng sao được? Người xuất gia “quét nhà còn lo con kiến chết, sa đèn thương hại cái thiêu thân”, nhà ngươi chẳng nghĩ phải trái giết tất cả, không có một lòng từ bi hiếu sinh nào”.
“Lúc ấy do nhà ngươi không ai thu phục cai quản, hoành hành ở chốn nhân gian, dối trời lừa trên, cho nên mới bị giam năm trăm năm. Nay trở thành sa môn rồi, mà vẫn giữ thói hành hung như ngày xưa, một mực giết người, thì không sang nổi phương Tây, không làm được Hòa thượng đâu. Ác quá! Ác quá!” [1]
Ngộ Không thấy Tam Tạng lải nhải mãi, không nén được bực tức, nói:
“Con không làm được Hòa thượng, không sang được phương Tây, thì việc gì phải càu nhàu mắng con mãi, con trở về là xong!”
Đoạn, bay vút về phương Đông.
Khi Ngộ Không đã bỏ Đường Tăng mà đi, Quán Âm Bồ tát hoá thân làm bà lão, tặng cho Đường Tăng chiếc vòng Kim Cô cùng bài “Khẩn cô nhi chú” để kiềm chế Ngộ Không.
Ngộ Không tính tình ngang ngạnh không nghe lời nên Bồ Tát đã tặng đường tăng chiếc vòng Kim Cô cùng bài “Khẩn cô nhi chú”.

Nguồn gốc và bí ẩn đằng sau “Khẩn cô nhi chú”
Bồ Tát nói:
“Đây lão còn có một bài chú gọi là “Định tâm chân ngôn”, bài ấy còn có tên nữa là “Khẩn cô nhi chú”. Ngài nhẩm cho thuộc, nhớ cho kỹ, chớ có tiết lộ cho ai biết. Lão sẽ đuổi kịp hắn, bảo hắn quay lại với ngài, rồi ngài đưa bộ mũ áo này cho hắn mặc. Nếu hắn không nghe lời sai bảo, ngài hãy niệm bài chú ấy, là hắn không dám hành hung và không dám bỏ đi nữa đâu”.
Vì sao bài thần chú vòng Kim Cô còn có tên là “Định tâm chân ngôn”? Vì Tôn Ngộ Không trong hình tượng con khỉ đá tượng trưng cho cái Tâm của con người. Tâm con người dễ bị dục niệm can nhiễu, bất ổn định, nhảy nhót lăng xăng như khỉ, nên mới gọi là “tâm viên ý mã”. Người tu luyện trong tu luyện gian khổ, kiềm chế cái tâm của bản thân mình mà không ngừng tăng cường định lực. Định tâm rồi, thì trí huệ sinh, như Phật Thích Ca Mâu Ni đương thời giảng pháp tu “Giới – Định – Huệ”. Vì thế, bài chú mà Bồ tát truyền cho Đường Tăng mới có tên là “Định tâm chân ngôn”, cũng gọi là “Khẩn cô nhi chú” (Bài chú dùng khi khẩn cấp).
Chiếc vòng Kim Cô này nguyên là của Phật Tổ Như Lai truyền cho Bồ tát. Ở hồi thứ tám: “Phật Tổ tạo kinh truyền cực lạc/ Quan Âm vâng mệnh đến Tràng An”, Phật Tổ Như Lai dặn dò Bồ tát tìm người phương Đông đi thỉnh kinh và ban cho năm thứ bảo bối. Một là chiếc áo cà sa gấm, mặc vào thì thoát khỏi luân hồi; hai là cây gậy tích trượng chín vòng, cầm vào thì không bị hãm hại; và cuối cùng là ba chiếc vòng:
“Bảo bối này gọi là “Khẩn cô nhi”, tuy ba cái giống nhau nhưng công dụng khác nhau. Ta lại có ba bài “Kim khẩn cấm” nữa. Nếu trên đường gặp phải yêu ma có phép thần thông biến hóa, đệ tử hãy khuyên hắn học đạo, đi theo người lấy kinh làm đồ đệ. Nếu hắn không chịu sai khiến, thì chụp cái vòng ấy lên đầu hắn, cái vòng sẽ mọc rễ cắm chặt vào thịt, mỗi khi niệm câu thần chú, là hắn sẽ đau đầu nhức mắt, đầu óc cứ như bị vỡ tung ra, bắt hắn phải chịu làm môn đệ của ta ngay”.

Trong ba chiếc vòng này thì chiếc đầu tiên ở trên đầu Tôn Ngộ Không, tên là “Khẩn cô nhi”. Hàm ý là một người trước hết phải nguyện ý quản chắc cái tâm của mình, thì mới tính là bắt đầu chân chính tu luyện. Chiếc thứ hai đeo lên đầu Hắc Hùng Tinh (yêu tinh gấu đen), tên là “Cấm cô nhi”. Trong ngũ hành, màu sắc mà thận tạng đối ứng là màu đen, tinh dịch tồn tại ở thận của con người; Hắc Hùng Tinh chỉ tinh dịch của người tu luyện, cho nên cần phải “cấm”. Do đó, Hắc Hùng Tinh bị Bồ Tát thu phục mang đi, đó là thủ pháp nghệ thuật tượng trưng của tác giả, muốn nói rằng Đường Tăng đã đạt đến cảnh giới “cấm dục”.
Khi Bồ Tát thu phục Hồng Hài Nhi, chiếc vòng cuối cùng Ngài dùng là “Kim cô nhi”. Hồng Hài Nhi là hình tượng hóa cho tâm hỏa quá vượng của Tôn Ngộ Không. Trong truyện, khi nói về Tôn Ngộ Không có dùng từ “kim công”, cũng là dùng để chỉ cái tâm, bởi vì tâm thuộc tính hỏa, hỏa khắc kim, Hồng Hài Nhi cũng nhiều lần dùng lửa thiêu đốt Ngộ Không. Tu luyện Đạo gia giảng rằng tu luyện “phục quy vu anh nhi” (quay trở về hình hài trẻ sơ sinh), một khi anh nhi bị thu phục, cũng chính là chỉ tâm hư hỏa (lửa giả) đã tu bỏ đi rồi, mà một bộ phận tâm tu thành cũng đã là “kim thân bất hoại” rồi, cho nên “Kim cô nhi” mới được đeo trên đầu của Hồng Hài Nhi.


Mỗi chiếc vòng đều là những ngưỡng cửa tuy khó khăn nhưng thần thánh mà Đường Tăng phải trải qua.
Nỗi đau của Ngộ Không có hàm ý gì?
Mỗi lần Đường Tăng niệm “Khẩn cô nhi chú” là một lần Ngộ Không “đau tưởng chết đi được, quằn quại lăn lộn, đỏ mặt tía tai, hai mắt trợn ngược, thân mình tê dại”. Nỗi đau đớn của Ngộ Không khi bị niệm chú Kim Cô là ẩn dụ cho nỗi thống khổ giày xéo tâm can của con người trên hành trình tu luyện.
Phàm là con người, ai cũng bị trói buộc bởi danh – lợi – tình. Có người chấp trước vào ái tình, đối với họ, phải xa lìa người mình yêu thương còn đau đớn hơn cái chết. Có người sống vì danh dự và thể diện, họ không thể nhẫn chịu bất cứ sự đả kích nhục nhã nào. Còn có người coi tiền bạc hơn mạng sống, như anh chàng trong câu chuyện “Năm quan vẫn đắt, thà chết còn hơn”. Một con người phàm tục với đầy đủ thất tình lục dục như thế, mà muốn tu thành Phật, Bồ tát tuyệt đối kiền tịnh, không còn chấp trước thế tục thì khó đến chừng nào? Khó, chính là khó và khổ, không kém gì nỗi đau tan xương nát thịt của Ngộ Không.
Tu luyện là gian khổ phi thường, vì sao trong lịch sử xưa nay vẫn có biết bao người không nề hà gian khổ, dấn thân trên con đường tu luyện? Đường Tăng từng cảm thán rằng:
“Xuất gia lập chí phi thường,
Ái ân rũ sạch mọi đường xưa nay.
Ngoại vật coi nhẹ, nhàn thay
Âm dương vũ trụ đủ đầy trong ta.
Công quả viên mãn chan hòa,
Sáng lòng thấy tính trở về cố hương.
Gấp trăm tham dục người phàm,
Những túi da thối, ai màng chi đâu!”
Bởi vì chỗ lập chí của người tu luyện cao xa, cao xa hơn tất cả những thành tựu nơi thế gian này; đó chính là công thành viên mãn, vượt thoát sinh tử luân hồi, trở thành sinh mệnh vĩnh hằng nơi Thiên quốc. Thế nên, người tu luyện mới nguyện ý đeo lên tâm mình chiếc vòng Kim Cô, nhẫn chịu mọi đau đớn, tự khắc chế bản thân, dứt trừ hết thảy dục vọng và ngu kiến.
Người tu luyện có chí hướng vượt ra ngoài thế gian vậy nên cần trải qua đau đớn để dứt trừ dục vọng và ngu kiến giống như đội chiếc vòng Kim Cô vậy.

Sau này, Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh bị Tam Tạng giận dữ đuổi đi, Ngộ Không đã xin thầy niệm “túng cô nhi chú” để cởi chiếc vòng Kim Cô ra. Đường Tăng cả sợ nói: “Ngộ Không, khi ấy Bồ Tát chỉ trao cho ta bài chú “khẩn cô nhi”, chứ không có bài chú “túng cô nhi” nào cả”. Ấy là bởi một khi hành trình tu luyện chưa tới đích, thì không phút giây nào được phóng túng thân tâm. Chỉ tới khi thầy trò đặt chân lên đất Phật, công thành viên mãn rồi, chiếc vòng Kim Cô mới tự động biến mất đi.
Chiếc vòng Kim Cô khiến Ngộ Không vướng víu và đau đớn, thực ra là món quà vô giá của Phật Tổ và Bồ tát. Đường Tăng nói: “Đội chiếc mũ ấy [3], chẳng học kinh cũng biết niệm kinh. Mặc chiếc áo ấy, chẳng cần học lễ cũng biết làm lễ”. Phải chăng, hàm ý chính là khắc khổ tu tâm rồi, sẽ dần dần đề cao tâm tính và cảnh giới tinh thần, cuối cùng tự nhiên thấu tỏ Pháp lý, trở nên lễ độ từ bi, đạt tới cảnh giới của Phật, Bồ tát?
Ấy chính là:
“Du du vạn thế hành, tầm tha thiên bách độ.
Duyên giả đăng quy đồ, Pháp quang tán mê vụ.
Tuệ giả tâm tự thanh, khổ trung lạc trường trú.
Tục thế hồng lưu tỉnh, phương kinh thiên địa thù”.
Dịch nghĩa:
“Hành trình biết bao đời, tìm kiếm trăm nghìn lần.
Người có duyên trở về, Pháp quang xóa mây mù.
Người trí tuệ tâm sáng, trong khổ vẫn thường vui.
Thức tỉnh trong cõi tục, mới biết vẻ đất trời” [2].


Chú thích:
[1] Các lời thoại của nhân vật trong bài viết được trích từ bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh.
[2] Lời bài hát “Đăng quy đồ”, nguồn chanhkien.org.
[3] Chiếc mũ có vòng Kim Cô bên trong.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 16): Trư Bát Giới háo sắc, ham ăn, ham ngủ vì sao vẫn được làm Thần Tiên?


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong danh tác “Tây Du Ký” của Ngô Thừa Ân, Trư Bát Giới dường như là nhân vật rắc rối nhất của đoàn thỉnh kinh. Đã háo sắc lại còn ham ăn, ham ngủ, Bát Giới khiến cho Đường Tam Tạng nhiều lần rơi vào bẫy của yêu quái, đường đến Tây Thiên cũng vì thế mà chậm trễ nhiều phen. Ấy thế mà chàng ta vốn là Thiên Bồng Nguyên Soái uy phong trên Thiên đình, sau này lại tu thành Tịnh Đàn Sứ Giả! Thật khó hiểu: Một kẻ háo sắc, ham ăn, ham ngủ như lão Trư sao có thể làm Thần Tiên được?
Trước tiên xin nói một chút Thần Tiên là gì. Trong Hồi thứ nhất:
“Gốc thiêng ấp ủ, nguồn rộng chảy; Tâm tính sửa sang, đạo lớn sinh”, Tôn Ngộ Không được bầy khỉ tôn làm đại vương, hưởng phúc ở Hoa Quả Sơn thấm thoắt đã ba bốn trăm năm. Nhưng một hôm, Hầu vương bỗng trở nên phiền não, nước mắt giàn giụa, lo sợ một mai tuổi già sức yếu, bị lão Diêm Vương quản thúc. Cả bầy khỉ cũng khóc thút thít vì nỗi sợ vô thường.

“Bỗng trong ban bệ, một con vượn lưng thẳng nhảy ra, lớn tiếng thưa rằng:
– Đại vương biết lo xa như thế, vậy là đạo tâm thực đã khai phát rồi đấy. Hiện nay ngoài năm giống [1] thì có ba bậc danh sắc là không bị Diêm vương cai quản.
Hầu vương nói:
– Nhà ngươi có biết ba bậc ấy không? Con vượn thưa:
– Đó là ba bậc: Phật, Tiên và Thần Thánh, thoát khỏi luân hồi, không sinh không diệt, thọ ngang cùng trời đất, núi sông”.

Tóm lại, Thần Tiên là những bậc trường sinh bất tử, họ sở dĩ có thể thoát khỏi sinh tử là vì đã dứt bỏ hết thảy những dục vọng của con người, được giải thoát.
Nhưng mà Trư Bát Giới thì ngược lại. Thiên Bồng Nguyên Soái vì phóng túng dục niệm, trêu ghẹo Hằng Nga nên bị Ngọc Hoàng Thượng Đế xử tội chết. May nhờ Thái Bạch Kim Tinh lạy xin cho nên cuối cùng chỉ bị phạt hai nghìn gậy đến mức “da bươm, thịt nát”, rồi đày xuống hạ giới, phải mang thân lợn để đền bù tội nghiệp.
Điều này chứng tỏ rằng Thiên giới là nơi thuần tịnh, không thể chứa chấp một sinh mệnh bất thuần có dục vọng dơ bẩn. Đổi lại mà nói, trước đây, Trư Bát Giới phải như thế nào thì mới được gia nhập hàng ngũ Thần Tiên, nắm quyền đại tướng chứ?
Trư Bát Giới khi còn là Thiên Bồng Nguyên Soái.
Trong Hồi thứ 19:
“Động Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới; Núi Phù Đồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh”, Tôn Ngộ Không nhận lời của Cao lão (“cha vợ” hụt của Bát Giới) nên đuổi theo giao chiến cùng tên “yêu quái” mặt lợn. Chẳng dè “yêu quái” hiên ngang giới thiệu thân thế và lai lịch, mới biết đây là Thần Tiên giáng trần! Mà hành trình tu thành Thần Tiên của Bát Giới cũng thật khiến người nghe cảm khái!
“Yêu quái nói:

– Nhà ngươi chưa biết tài nghệ của ta à? Lại đây, đứng cho vững mà nghe ta nói. Ta đây:
Từ nhỏ sinh ra vốn vụng về,
Ưa nhàn lười biếng chẳng làm chi.
Chẳng thích tu tâm cùng dưỡng tính,
Hỗn độn, ngu si sống thỏa thuê.



Bỗng hôm nhàn nhã gặp chân Tiên,
Hay dở đường tu, kể chuyện liền.
Khuyên hãy quay đầu, đừng trụy lạc,
Thương sinh thì sẽ chịu oan khiên.
Một sớm lâm chung về địa phủ,
Tám nạn ba đường chẳng lối lên.


Ta nghe đổi ý xin tu luyện,
Quyết chí vâng lời, học đạo Tiên.
Có phúc gặp người sư phụ giỏi,
Chỉ cho địa quyết với thiên quan.
Luyện suốt đêm ngày, không biết mỏi,
Thầy lại truyền cho cửu chuyển đơn.
Từ cung nê hoàn trên đỉnh thóp,
Tới giữa bàn chân huyệt dũng tuyền.
Rồi từ thận thủy hoa trì nhập,
Đê mê dược bổ ấm đan điền.
Thủy ngân, chì, âm dương phối hợp,
Nhật nguyệt đôi vầng rõ rệt cho.
Ly rồng, Khảm hổ điều hòa khéo
Rùa thiêng hút hết nước kim ô.
Quy căn đỉnh thóp ba hoa nở,
Nguyên thông thấu triệt mây lành che.


Công thành danh toại lên trời ở,
Người Tiên từng cặp đón đưa về.
Dưới chân bỗng hiện mây năm sắc,
Kim khuyết cung Tiên ở suốt đời.
Ngọc Hoàng bày tiệc chư Tiên họp,
Khách mời, ai nấy đã chia ngôi.
Sắc phong nguyên soái quản thiên hà,
Tổng đốc thủy binh ấy chính ta!”


Qua lời tự bạch của lão Trư, có thể thấy rằng Trư Bát Giới trước đây đã trải qua quá trình giác ngộ về sự vô thường của đời người, xuất tâm tu luyện, kiên trì tinh tấn và cuối cùng đạt quả vị. Sự điều hoà Âm Dương Ngũ Hành, thông mạch, luyện đan… được miêu tả phía trên song hành với quá trình một người tu luyện dần dần trừ bỏ các dục vọng và chấp trước, tu tâm dưỡng tính đạt đến trạng thái thanh tĩnh vô vi. Trong Đạo gia, hình ảnh “đỉnh thóp ba hoa nở” đánh dấu rằng một sinh mệnh đã tu xuất Tam giới, chính thức thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Có thể nói rằng Trư Bát Giới tại thời điểm tu thành đó đã đạt được tiêu chuẩn tâm tính của sinh mệnh trên Thiên giới, vậy nên được mây ngũ sắc nâng bước chân, được lên Trời ở, và còn có Thần vị là Thiên Bồng Nguyên Soái, Tổng đốc thuỷ binh. Đây mới chính là “công thành danh toại” thực sự vĩnh hằng, chứ không phải là đạt được chức vị gì đó ở cõi trần tạm bợ.
Tiếc là trải qua thời gian lâu dài, Thiên Bồng Nguyên Soái dần dần bị ô nhiễm, không còn đáp ứng tiêu chuẩn tâm tính của Thần Tiên nữa. Vì thế, ông đã bị đày xuống trần gian, tu luyện lại từ đầu thông qua quá trình phò tá Đường Tăng đi thỉnh kinh, “dọc đường chịu khó gánh hành lý, lội nước cũng có công”, cuối cùng tu thành Tịnh Đàn Sứ Giả. Tuy rằng không đắc quả vị Phật như Đường Tăng và Ngộ Không, nhưng cũng thoát khỏi thân heo, trở thành sinh mệnh cao cấp.
Bồn thầy trò Đường Tăng khi đã tu thành chính quả.
Ở Hồi thứ 99:

“Tám mươi mốt nạn yêu ma hết; Vẹn tròn công quả đạo về nguồn”, khi mấy thầy trò được họ Trần thết đãi ăn uống linh đình, “Bát Giới không như trước kia, cũng đặt bát xuống. Hành Giả nói:
– Chú ngốc không ăn à? Bát Giới đáp:
– Chẳng biết vì sao dạo này tỳ vị kém lắm”.
Thực ra là dục vọng của lão Trư đã bị tu rớt rồi.
Đến hồi thứ 100: “Về thẳng phương Đông Năm Thánh thành Phật”, Ngô Thừa Ân mới tiết lộ rằng Trư Bát Giới thực ra đã đắc quả vị Bồ Tát:
“Bấy giờ bốn vị Chiên Đàn Phật, Đấu Chiến Phật, Tịnh Đàn Sứ Giả và Kim Thân La Hán đã đều thành chính quả, con Long Mã cũng được trở về với chân như. Có bài thơ làm chứng rằng:
Một thể chân như lạc xuống trần,
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch,
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn.
Chính quả chiên đàn theo đại giác,
Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân,
Kính truyền thiên hạ ân vô lượng,
Năm Thánh ngồi cao bất nhị môn”.

Và mọi người cùng chắp tay niệm chư Phật ở tất thảy thế giới, trong đó có: “Nam Vô Tịnh Đàn Sứ Giả Bồ Tát”.
Thanh Ngọc

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 17): Trư Bát Giới hoàn toàn không phải kẻ phàm phu tục tử


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Đọc “Tây Du Ký”, người ta đều đã quá quen thuộc với hình ảnh một Lão Trư tham ăn tục uống, biếng lười trốn việc, không ra thể thống người tu hành. Nhưng cũng có lúc chú ngốc ấy thể hiện ra một quyết tâm tu luyện sắt đá vô cùng. Như ở trong câu chuyện dưới đây…
Trong “Tây Du Ký”, tâm cầu đạo của Đường Tăng là rất lớn. Nó cũng chính là kim chỉ nam cho mọi quyết định, hành động của ông trên đường lấy kinh, dù là yêu ma quỷ quái, dù là nữ sắc bạc tiền cũng không lay chuyển được. Còn Bát Giới lại có vẻ như là một mẫu hình đối nghịch hoàn toàn: lười biếng, háo sắc, ý chí rất kém, thường đòi “chia hành lý” mỗi khi gặp quan nạn. Thế nhưng ít người biết rằng, từ trong sâu thẳm của mình, Bát Giới cũng là kẻ có tâm cầu đạo không hề nhỏ.

Bát Giới vốn được coi là hình tượng của kẻ háo sắc tham ăn trong Tây Du Ký.
Bát Giới xuất hiện từ hồi thứ 18, dưới hình dạng yêu ma tác quái ở Cao lão trang. Ngộ Không phải thân chinh đi hàng phục, trải qua một trận chiến lở đất long trời, từ đêm đến sáng, Bát Giới liệu chừng không địch nổi, bỏ chạy vào trong động chẳng dám ra ngoài. Tôn Hành Giả thấy Bát Giới cố thủ bên trong động Vân Sạn nên tạm lui về Cao lão trang trình báo với sư phụ. Hồi thứ 19 “Tây Du Ký” kể rằng:
“Hai bên đánh nhau từ canh hai cho mãi tới khi phương Đông trời sáng bạch. Yêu quái không địch nổi bỏ chạy, lại biến thành một trận cuồng phong vào thẳng hang động, đóng chặt cửa, không ra nữa. Hành Giả đứng ngoài cửa động nhìn thấy có tấm bia đề ba chữ “Động Vân Sạn”, lại thấy yêu quái không ra, mà trời đã sáng rõ, trong bụng nghĩ thầm rằng:
– E sư phụ đợi lâu, phải trở về báo cho sư phụ biết đã, rồi quay lại bắt nó cũng không muộn.
Đoạn nhảy lên mây, trong giây lát, đã về tới thôn Cao lão.
Lại nói chuyện Tam Tạng trò chuyện cổ kim với mấy cụ già suốt đêm chẳng ngủ, đang mong Hành Giả thì đã thấy Hành Giả từ trên không hạ xuống, đứng ngay ngoài sân, Hành giả cất gậy sắt, sửa lại quần áo bước vào nói:

– Thưa sư phụ con đã về.
Mấy cụ già sợ hãi, đứng cả dậy cúi chào, nói:
– Ngài vất vả, khó nhọc quá!
Tam Tạng hỏi:
– Ngộ Không, con đi suốt đêm, bắt được yêu quái ở đâu rồi?

Hành giả đáp:
– Thưa sư phụ, yêu quái không phải là ma quỷ dưới trần, cũng không phải là yêu tinh trong núi. Hắn nguyên là Thiên Bồng nguyên soái giáng trần, chỉ vì đầu thai lầm, nên mặt mũi hình thù giống loài lợn, song linh tính vẫn còn. Hắn nói hắn lấy hình dạng mà đặt họ tên là Trư Cương Liệp. Bị lão Tôn rút gậy sắt đánh ngay ở nhà sau, hắn biến thành một trận cuồng phong trốn đi, Lão Tôn nhắm ngọn gió đánh một gậy, hắn lại biến thành những tia lửa hồng, chạy lọt vào động, vác cây đinh ba chín răng ra đánh nhau với lão Tôn suốt đêm. Khi trời sáng rõ, hắn khiếp đảm bỏ chạy vào động đóng chặt cửa không ra nữa. Lão Tôn định phá vỡ cửa, quyết cùng hắn một phen sống mái, nhưng sợ sư phụ thắc thỏm mong chờ, nên quay về báo tin đã.

Tôn Ngộ Không giao đấu với Chư Bát Giới.
Trong câu chuyện của Ngộ Không với sư phụ đã thể hiện mấy điểm này. Một là Bát Giới không phải loại yêu tinh quỷ quái, lang trùng hổ báo tầm thường chỉ chuyên hại người. Hắn vốn là Tiên trên Trời vì mắc tội mà bị đày xuống trần, chính là trích Tiên. Hai là dẫu phải đầu thai thành loài súc sinh (mặt lợn) nhưng chân ngã và linh tính của một vị Tiên thì vẫn còn. Quả thực, Bát Giới ở Cao lão trang tuy có manh động bắt giam con gái nhà lành nhưng chưa từng ra tay hại người. Hắn ăn khỏe, tốn chút cơm gạo nhưng bù lại rất chăm chỉ làm lụng, giúp nhà Cao lão trở thành giàu có trong vùng.
Chính Bát Giới cũng từng có lần phân trần thế này với người vợ hờ của mình (khi ấy là Hành Giả biến hóa thành để dụ):
Nàng bực gì vậy? Tại sao lại chán đời? Từ khi tôi về nhà nàng, tuy có tốn ít cơm ăn trà uống, nhưng có ăn không bao giờ! Tôi từng quét nhà, thông cống, xới vườn, trồng ruộng cấy lúa, gây dựng cơ nghiệp. Ngày nay nàng được mặc gấm đeo vàng, bốn mùa hoa quả đầy đủ, tám tiết rau dưa ngon lành, thế mà nàng còn bực mình, lại thở ngắn than dài, kêu chán đời nữa là cớ sao?”. Thế mới biết chú ngốc quả cũng là tay thật thà, chất phác vậy.
Khi Ngộ Không đại náo động Vân Sạn lần thứ hai, phá vỡ cửa động, Bát Giới liền ra mắng nhiếc không thôi. Lời qua tiếng lại một hồi, Bát Giới mới vỡ lẽ ra rằng Ngộ Không đã không còn là con khỉ đá ngang tàng đại náo Thiên Cung năm nào, giờ theo Đường Tăng sang Tây Trúc lễ Phật cầu kinh. Chà, bạn bảo chú ngốc nghe xong mới bàng hoàng thế nào!

Yêu quái nghe nói như vậy, vội vàng vứt đinh ba, dạ một tiếng thật to, rồi nói:
– Người lấy kinh ở đâu? Phiền anh đưa tôi đến gặp mặt.
Hành giả nói:
– Nhà ngươi định gặp làm gì?
Yêu quái nói:
– Tôi vốn được đức Quan Âm Bồ Tát khuyến thiện, nhận giới hạnh của người, dặn tôi ở đây ăn chay giữ giới để sau này theo người lấy kinh sang phương Tây lễ Phật cầu kinh, lập công chuộc tội trở về với chính quả. Tôi đã đợi ở đây mấy năm ròng mà chẳng thấy tin tức gì. Hôm nay mới biết anh là đồ đệ của ngài, thế sao anh không nói sớm, chỉ cậy hung bạo đến đây đánh tôi!
Hành giả nói:
– Nhà ngươi chớ có trí trá lừa dối ta hòng tìm kế thoát thân. Nếu nhà ngươi thực lòng muốn bảo vệ Đường Tăng, không chút dối trá thì hãy ngẩng mặt lên trời mà thề thì ta mới dẫn đi gặp sư phụ ta.
Yêu quái vội vàng quỳ xuống, dập đầu lia lịa như giã gạo, nói:
– Nam mô A Di Đà Phật, nếu tôi không thành tâm thực ý, phạm vào tội trời, thì thân này bị băm làm muôn mảnh.
Hành Giả thấy hắn khấn vái thề nguyền, bèn nói:
– Đã như vậy, nhà ngươi hãy châm lửa đốt cháy hang động nhà ngươi ở thì ta mới dẫn đi.
Yêu quái liền nhặt ngay những cây lau sậy, gai góc, châm lửa đốt trụi động Vân Sạn như một lò ngói vỡ, rồi nói với Hành Giả:
– Bây giờ tôi không còn vướng vít gì nữa nhé, anh dẫn tôi đi thôi!


Chư Bát Giới vui mừng khi gặp được sư phụ.
Đọc đoạn này, nhiều người dễ bỏ qua những chi tiết đắt giá về ngộ tính của Bát Giới. Thứ nhất, mới nghe tên người lấy kinh là Đường Tăng, hắn đã quăng ngay binh khí, đổi giận làm vui, ngoan ngoãn, thành tâm muốn gặp sư phụ. Thứ hai, Bát Giới nhận giới hạnh của Quan Âm Bồ Tát và được dặn dò là phải chờ bằng được người lấy kinh đi qua. Suốt mấy năm trời mịt mùng không một tin tức, Bát Giới vẫn ăn chay giữ giới, không phạm giới luật, vẫn đợi người lấy kinh để mong theo sang phương Tây lập công chuộc tội. Thứ ba, khi Hành Giả vẫn còn nghi hoặc bắt Bát Giới phải thể hiện lòng thành, chú ngốc đã vô cùng thành tâm quỳ gối phát lời thề độc, thậm chí còn phóng hỏa đốt cháy cả động Vân Sạn chẳng khác gì tự tay châm lửa đốt nhà.
Ấy là tỏ ý dứt khoát bỏ chỗ tối về với chỗ sáng, một lòng một dạ theo Đường Tăng sang Tây. Chưa kể sau đó, vì muốn thể hiện sự ăn năn hối lỗi, Bát Giới còn mặc cho Hành Giả tước lấy binh khí, trói quặt tay lại và giải về Cao lão trang. Sau khi về đến Cao lão trang, lạy tạ sư phụ và nhận pháp danh Bát Giới, chú ngốc bèn từ tạ “nhạc phụ” và cô vợ hờ quyết chí lên đường thỉnh kinh. Kể từ đây, trên dặm dài thỉnh kinh Tây Trúc, đoàn người lại có thêm một hộ vệ được việc ra trò nữa!

Câu chuyện Bát Giới mấy năm đằng đẵng chờ Đường Tăng đến nhận làm đệ tử thực ra không có gì lạ. Chính Ngộ Không cũng từng phải trải qua 500 năm bãi bể nương dâu, sương tuyết phôi pha, chịu đè dưới Ngũ Hành Sơn mà chờ sư phụ đến giải cứu. Rồi sau này, Sa Ngộ Tĩnh cũng mòn mỏi chờ Đường Tăng ở sông Lưu Sa đến độ đã ăn thịt cả thảy 9 người lấy kinh (cũng là 9 kiếp trước của sư phụ), đến người lấy kinh thứ 10 mới gặp được cơ duyên.
Như vậy, có thể nói rằng muốn đắc được chính Pháp, chính Đạo người ta đều phải trải qua một quá trình tu luyện trường kỳ gian khổ, nhiều lúc là nhìn không thấy hy vọng, đợi chờ mòn mỏi cũng chẳng biết con đường đang đi là đúng hay sai. Điều này, đối với một người tu hành mà nói quả thực là khó khăn phi thường, thử thách phi thường.
Lại mới thấy tín tâm của Bát Giới thực cũng không hề nhỏ, bên trong bộ dạng ma chê quỷ hờn kia là sự kiên định phi thường. Trước khi cùng Ngộ Không và Đường Tăng sang Tây lấy kinh, Bát Giới nào có biết trên đường đi sẽ gặp nguy hiểm gì, cũng nào có biết tới Linh Sơn phải mất bao nhiêu năm. Ấy vậy mà chú ngốc vẫn quyết tâm rời Cao lão trang, bỏ lại nhạc phụ và cô vợ hờ, bỏ lại những ngày tháng ăn sung mặc sướng để xông pha trên đường gió bụi.
Người ta thường nói: “Tin trước thấy sau”. Bát Giới đã tin rằng chỉ cần sang Tây lễ Phật cầu kinh là có thể thành chính quả, xóa được tội lỗi cũ. Dù trên đường thỉnh kinh không phải lúc nào Bát Giới cũng giữ được sự tỉnh táo trước những cám dỗ về sắc tình, danh lợi hay sự ngáng trở của quỷ quái yêu ma nhưng trước sau chú ngốc vẫn là một mực tin tưởng, chưa từng rời bỏ đoàn lấy kinh. Ngược lại, ta thú vị nhận ra một điều rằng chính Ngộ Không, người được coi là có chính kiến kiên định nhất lại mấy lần rời đoàn lấy kinh mà bỏ đi vì mâu thuẫn với Đường Tăng. Tất nhiên, trên đường đi, Ngộ Không và Đường Tăng làm được tốt hơn Bát Giới nên liền được thăng thượng làm Phật. Còn Bát Giới tuy rằng có bản tính lương thiện nhưng tu tập không tinh tấn, đành chỉ làm Tịnh đàn sứ giả mà thôi.
Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của các dịch giả: Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội – 1988

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 18): Tôn Ngộ Không tài phép biến hóa vì sao vẫn phải chịu đại kiếp nạn?

“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong Tây Du Ký, vì lo sợ khi chết phải xuống địa ngục mà Tôn Ngộ Không đã vượt qua biết bao sông dài biển rộng, tìm đạo cầu Tiên. Cuối cùng, y gặp được Tổ sư Bồ Đề, theo học 72 phép thần thông biến hóa, thoát được vòng sinh tử, luân hồi. Thế nhưng, kết cục của Ngộ Không lại khá bi đát, dù học được đạo trường sinh bất lão nhưng lại bị Phật Tổ Như Lai dùng đại lực thần thông đè suốt 500 năm dưới Ngũ Hành Sơn. Vậy thì ta hãy suy ngẫm một chút, mục đích của tu hành có phải chỉ vì để được sống lâu, tăng thọ?
Lại nói chuyện Ngộ Không thuở còn ở Hoa Quả Sơn hưởng lạc, vui thú, sống đời ung dung tự tại, khác nào bậc Thần Tiên. Sau khi trở thành thủ lĩnh dẫn dắt bầy khỉ, Mỹ Hầu vương của chúng ta “sớm dạo chơi núi Hoa Quả, đêm về ngủ động Thủy Liêm, cùng nhau đồng lòng, chẳng lẫn vào đàn chim bay, không theo vào loài thú chạy, độc lập xưng vương, rất là thích thú” (Tây Du Ký hồi 1). Cảnh thái bình, vui vẻ ấy kéo dài đến mấy trăm năm. Trong Tây Du Ký kể rằng:

Hầu vương hưởng phúc vui vẻ, thoắt đã ba bốn trăm năm. Một hôm, Hầu vương đang cùng bạn bè yến tiệc vui vẻ, bỗng nhiên trở nên phiền não, nước mắt giàn giụa. Lũ khỉ thấy thế sợ hãi sụp lạy, hỏi:
– Đại vương làm sao thế?
Hầu vương nói:
– Ta tuy trong lúc vui thích, nhưng có một điều phải lo xa, cho nên phiền não.
Lũ khỉ lại cười, nói:

– Đại vương thực không biết thế nào là đủ. Chúng ta đang ngày ngày hưởng sung sướng ở nơi phúc địa non tiên, thần châu cổ động, không chịu kỳ lân cai trị, phượng hoàng quản lý, lại chẳng bị vua chúa nhân gian câu thúc, tự do tự tại, thực là vô cùng hạnh phúc, việc gì phải lo xa, chuốc lấy phiền não nữa!
Hầu vương nói:
– Ngày nay tuy không phải theo pháp luật của vua chúa, không sợ oai quyền của thú muông, nhưng một mai tuổi già sức yếu, lão Diêm vương vẫn ngấm ngầm quản lý. Một ngày kia chết đi, chẳng hóa uổng công sinh ở thế gian, không được hưởng mãi phúc trời ư?
Lũ khỉ nghe nói như thế, con nào con nấy cúi đầu che mặt khóc thút thít, lo sợ về nỗi vô thường.
Thói thường, người ta sống trong hạnh phúc thì đâu dễ gì nghĩ tới lúc buồn đau. Rõ ràng, Hầu vương đang sống vô cùng thoải mái, có đủ thiên thời, địa lợi và nhân hòa nhưng cớ sao y vẫn còn không cảm thấy đủ? Rõ ràng ở đây, Ngộ Không đã hiểu được lạc thú chốn nhân gian tuy vô cùng quyến rũ song chẳng thể dài lâu. Một đời qua đi như chớp mắt, đến khi cái chết gõ cửa thì ai cũng như ai, đều trở nên quá bé nhỏ trước sự vô thường. Bị lão Diêm Vương ngấm ngầm cai quản có nghĩa là vẫn còn nằm trong vòng sinh tử luân hồi, đó đương nhiên chưa phải là hạnh phúc thực sự. Cái mà Hầu vương truy tầm chính là sự trường sinh đúng nghĩa, thọ ngang Trời Đất, hoàn toàn không còn bị bất kể ai thao túng.

Khi nghe lũ khỉ nói về ba bậc danh sắc không bị Diêm Vương cai quản là: Phật, Tiên và Thần thánh, Ngộ Không như người chết đuối vớ được cọc, lớn tiếng tuyên bố: “Ngày mai ta sẽ từ giã các ngươi xuống núi, đi khắp góc biển chân trời, quyết tâm tìm cho được ba đấng ấy, học lấy phép sống mãi không già, để tránh nạn Diêm vương”.
Chỉ một lời ấy đã nói lên nhiều điều. Thứ nhất, tâm cầu đạo của Ngộ Không đã khai phát, nguyện vọng muốn theo bậc Tiên Thánh tu luyện quả thực quý giá không gì sánh bằng. Phật gia thường giảng: “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”, một khi người ta xuất ra Phật tính, xuất ra tâm tu luyện thì mười phương thế giới đều chấn động, các Giác Giả có thể giúp đỡ họ hoàn thành nguyện vọng ấy. Thứ hai, trong tâm trí ngây thơ của Ngộ Không, tu luyện chính là để được sống lâu trường thọ, vượt khỏi luân hồi, và chỉ thế mà thôi. Tất nhiên đó là những suy nghĩ ban đầu cực kỳ chất phác nhưng không ngờ cũng chỉ vì ý nghĩ ấy mà y phải chịu rất nhiều kiếp nạn, tai ương sau này. Thực ra tu luyện không hề đơn giản, cũng đâu phải là chuyện truy cầu sự trường sinh bất tử đơn thuần?

Đến khi gặp sư phụ đầu tiên là Tổ sư Bồ Đề, dù được Tổ sư gợi ý cho học những môn chữ Thuật, chữ Lưu, chữ Tĩnh, chữ Động… nhưng lần nào Ngộ Không cũng từ chối với cùng một lý do: đó là môn không dạy cách sống lâu! Cuối cùng, khi được Tổ sư truyền khẩu quyết về đạo sống lâu màu nhiệm ở cửa sau đạo quán, rồi lại đích thân dạy cho 72 phép thần thông Địa Sát, Ngộ Không mới thực sự thỏa mãn. Bấy giờ, Ngộ Không đã hoàn toàn vượt ra ngoài sinh tử, luân hồi, lấy làm vô cùng đắc chí.
Sau khi xuống núi, ra khỏi vòng quản thúc của Tổ sư Bồ Đề, Ngộ Không dường như thích gì làm nấy, chẳng biết kiêng dè một ai. Y rẽ nước xuống biển đòi Long Vương gậy Như Ý cùng bảo giáp, lại đại náo Địa phủ ép Diêm Vương phải xóa tên hầu tộc khỏi sổ sinh tử. Vì có phép Tiên, lại được binh khí Thần, Ngộ Không tới đâu là ở đó phải dập đầu quỳ gối mà vâng mệnh. Thế nên y càng tỏ ra hống hách, kiêu căng, thậm chí còn dựng cờ “Tề Thiên Đại Thánh” ở núi Hoa Quả, đại náo điện Linh Tiêu trên Thiên cung, cuối cùng còn dám thách đố cả Như Lai Phật Tổ.
Phép trường sinh mà Hầu vương học được lợi hại nhường nào? Xin hãy đọc lại đoạn trích dưới đây trong Tây Du Ký:

Lại nói chuyện Tề Thiên đại thánh bị thiên binh áp giải đưa đến đài trảm yêu, trói chặt vào cột hàng yêu, đao chém, búa bổ, kiếm xỉa, giáo đâm, mà thân thể không hề sây sát. Nam Đẩu tinh quân lệnh cho các thần ở bộ Hỏa, phóng lửa đốt cũng không cháy. Lại sai các thần ở bộ Lôi lấy roi sét đánh, cũng chẳng đứt một sợi lông. Đại Lực quỷ vương cùng mọi người tâu lên Thượng đế:
– Muôn tâu thánh thượng, không biết Đại thánh học được phép hộ thân ở đâu, mà bọn thần dùng dao chém, búa bổ, sét đánh, lửa thiêu, thân thể hắn cũng không mảy may thương tổn. Vậy làm thế nào bây giờ?
Thượng đế nghe xong, nói:
– Nó đã như vậy, các khanh xem nên xử trí thế nào?
Thái Thượng Lão Quân thưa:
– Con khỉ ấy ăn đào tiên, uống rượu ngự, xơi cả linh đơn. Năm vò rượu thuốc ngâm của thần cũng bị nó tu hết vào ruột. Nó lại luyện thân thể bằng thứ lửa tam muội nữa, nên người tựa một khối kim cương rắn chắc, không vật gì hại được. Hay là để thần mang nó về bỏ vào lò bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường dùng để luyện linh đơn, thì người nó nhất định sẽ biến thành tro bụi.

Nhưng chính Thái Thượng Lão Quân và chiếc lò Bát Quái của mình cũng thất bại trong việc hành quyết Ngộ Không. Sau 49 ngày, Ngộ Không đạp đổ lò, lại đại náo Thiên cung một lần nữa, gây bao sóng gió chốn Thiên đình. Nhưng chính vào lúc ma tính đại phát cũng là khi Ngộ Không phải gánh chịu những nghiệp quả của mình. Thất bại trong cuộc thách đấu với Phật Tổ Như Lai, y bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn, mất hết thần thông pháp lực, chẳng khác nào một phế nhân. Năm qua tháng lại, xuân tàn đông đến, Hầu vương kiêu dũng năm nào giờ chỉ còn biết nằm một chỗ nhấm nháp nỗi cay đắng, đói thì ăn viên sắt, khát thì uống nước rỉ đồng, cực khổ không tả xiết. Tây Du Ký thuật lại rằng:
Mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng có viên linh quan đi tuần chạy vào báo:
– Bẩm, Đại thánh lại thò đầu ra.
Phật tổ nói:
– Không sao, không sao!
Và rút trong tay áo ra một tờ giấy, trên có sáu chữ vàng “Úm-ma-ni-bát-mê-hồng đưa cho A Nan dặn mang đi dán lên đỉnh núi. A Nan vâng lệnh cầm đạo bùa, ra khỏi cửa trời, đến thẳng đỉnh núi Ngũ Hành, dán chặt đạo bùa vào tảng đá bốn cạnh vuông vức. Quả núi tức thì mọc rễ khép liền lại, chỉ để một lỗ thông hơi. Đại thánh bị quả núi đè chặt, chỉ thở được, và chân tay thò ra cựa quậy được mà thôi. A Nan trở về báo:
– Đã dán xong ạ.
Như Lai bèn cáo từ Thượng đế và các vị thần cùng hai tôn giả ra khỏi cửa trời. Lúc ấy, ngài lại phát tâm từ bi, niệm thần chú, gọi cả Thổ địa, Thần kỳ, cùng Ngũ phương Yết đế dặn canh giữ núi Ngũ Hành, thấy khi nào Đại thánh đói thì cho ăn viên sắt, khát cho uống nước rỉ đồng, đợi bao giờ hết hạn tai ách, tự khắc có người đến cứu.

Đại thánh chịu giam thân ở Ngũ Hành Sơn chính là đại kiếp nạn nhưng vừa hay cũng là một cơ hội để trầm tĩnh lại, tu bỏ cái tâm hiếu thắng và ma tính của mình. Vả chăng, ấy mới là sự tu luyện thật sự. Có phép thần thông, vượt vòng sinh tử âu cũng chỉ là những tiểu năng tiểu thuật nhất thời, sẽ không bền vững, một ngày nào đó sẽ mất đi nếu người ta không thể ước thúc được ma tính của mình.
Những sự tình sau này đã chứng minh việc Ngộ Không bị giam dưới Ngũ Hành Sơn hóa ra lại là hảo sự. Suốt 500 năm ăn gió nằm sương, cuối cùng Hầu vương cũng đợi được đến ngày người lấy kinh đi ngang cứu giúp. Tây Du Ký kể về chuyện 4 thầy trò Đường Tăng sang Tây thỉnh kinh, đúng. Nhưng cũng có thể nói rằng Tây Du Ký chính là một bản nhật ký tu luyện của Ngộ Không, trong đó Hầu vương của chúng ta chậm rãi, chậm rãi tu bỏ ma tính của mình cho đến khi viên mãn thành Phật. Đến khi được phong làm Đấu Chiến Thắng Phật, Ngộ Không mới thực sự là trường sinh bất tử, tiêu diêu tự tại, mới thực là đạt đến cảnh giới không còn chịu sự ước thúc của sinh mệnh nào khác ngoại trừ chính bản thân mình.
Như vậy, nói một thôi một hồi thì ta có thể kết luận lại như thế này:
Tự do đích thực của một sinh mệnh không phải là thoải mái làm xằng làm bậy mà chính là khai phát Phật tính, từ bi đối đãi được với tất cả mọi vật trên đời. Và mục đích lớn nhất của tu luyện cũng không phải để sống lâu trường thọ, hết bệnh khỏe thân, mà chính là trừ bỏ ma tính, thành tựu sinh mệnh vĩnh hằng của mình…
Vậy mới là:
Trước đi thân thể nặng nề
Tu hành đắc đạo nay về nhẹ không
Ít ai lập chí bền lòng
Bền lòng tu đạo, đạo bừng sáng soi
Xưa đi khó vượt trùng khơi
Nay về lướt gió thảnh thơi nhẹ nhàng
Bên tai lời dặn còn vang
Biển Đông khoảnh khắc đã sang đến bờ…

(Thơ Tây Du Ký)
Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của các dịch giả: Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội – 1988

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 19): Vì sao Tôn Ngộ Không bị sư phụ đuổi, mất áo cà sa và gậy Như Ý?


“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Tôn Ngộ Không từ khi giác ngộ lẽ vô thường, quyết chí vân du tìm Đạo để thoát khỏi luân hồi. “Lênh đênh vượt biển, lang thang trên bộ mười mấy năm trời”, cuối cùng gặp được Bồ Đề Tổ sư, học Đạo trường sinh bất tử. Thế nhưng chỉ vì một lần biểu diễn trò biến hoá trước chúng bạn, Tôn Ngộ Không đã bị Tổ sư đuổi đi.
Có người có thể nghĩ: Tôn Ngộ Không chỉ vui đùa nghịch ngợm một chút, cùng lắm là phạt đòn, cớ gì Tổ Sư phải nghiêm khắc vô tình như vậy?
Sau này Tôn Ngộ Không bảo hộ Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh, hai thầy trò ghé qua Viện Quan Âm, Tôn Ngộ Không đem áo cà sa ra khoe với nhà sư già, liền bị chúng sư tăng trong chùa phóng hoả ám hại để cướp áo cà sa. Ngộ Không tuy bảo vệ được sư phụ khỏi chết cháy, nhưng lại để yêu tinh gấu lấy cắp mất áo cà sa.
Khi đi qua huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không dùng phép cân đẩu vân, nhảy lên không trung biểu diễn võ nghệ trước các vương tử và quan viên lớn nhỏ, khiến họ sụp đầu bái phục. Ba người Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng còn thu nhận 3 tiểu vương tử làm đồ đệ, truyền thụ võ nghệ, sai rèn binh khí giống hệt của mình. Cuối cùng hào quang của binh khí dẫn dụ yêu quái Hoàng Sư, gậy Như Ý, đinh ba chín mũi và bảo trượng hàng yêu đều bị cuỗm sạch.
Ngộ Không mắc phải 3 nạn này, đều bởi cùng một cái tâm “hiển thị”.
Tâm hiển thị vì sao lại mang đến hậu quả tai hại là thế? Trong nguyên tác, Ngô Thừa Ân tiên sinh đã lần lượt cung cấp những ẩn dụ vén mở câu trả lời.
1. Hiển thị → xa rời chân tính
Trong hồi thứ 2 “Thấu lẽ Bồ Đề là diệu lý/ Bỏ ma về gốc ấy nguyên thần”, Tôn Ngộ Không vì có ngộ tính cao, lập chí lớn, nên được Bồ Đề Tổ sư bí mật truyền thụ đạo trường sinh cho. Ngộ Không từ đó “ngấm ngầm giữ gìn”, chăm chỉ luyện tập, nhanh chóng thuộc làu 72 phép thần thông biến hoá và cân đẩu vân.
Thế nhưng, trong một lần vui chuyện hoan hỷ, Tôn Ngộ Không đã biến thành cây tùng cho mọi người xem, cả bọn nói cười ầm ĩ. Tổ sư nhìn thấy, quát đuổi tất cả đi, và gọi Ngộ Không lại mắng rằng: “… Giả sử ngươi thấy người khác có, ắt phải cầu người ta. Người khác thấy ngươi có, ắt phải cầu ngươi. Nếu ngươi sợ tai vạ, ắt phải truyền cho người ta. Nếu không truyền sẽ bị hại, tính mệnh nhà ngươi khó mà giữ nổi”.
Rồi đuổi Ngộ Không đi. “Ngộ Không nghe nói, ứa hai hàng lệ, nói:
– Tôn sư bảo con đi đâu?
Tổ sư nói:
– Nhà ngươi từ đâu đến thì hãy về đấy!”
Câu nói này của Tổ sư là một ẩn dụ độc đáo, cũng là một lời tiên tri, một lời khuyên bảo với Ngộ Không.
Tổ sư ngụ ở núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. “Linh Đài” là cách gọi của đạo Lão về chữ Tâm; còn “Tà Nguyệt Tam Tinh” (trăng khuyết và ba vì sao), ứng với ba nét chấm và một nét móc nằm ngang của chữ “Tâm” (心). Bản thân chữ “Bồ Đề” là phiên âm từ “Bodhi” trong tiếng Phạn, nghĩa là “tỉnh thức”, “giác ngộ”. “Tâm Bồ Đề” thường được nhắc tới như là bản tính tiên thiên, thuần chân lương thiện của con người. Quá trình Ngộ Không học Đạo với Bồ Đề Tổ sư vì vậy là ẩn dụ cho hành trình tu tâm, hướng thiện, tìm lại chân tính của con người. Giờ đây Tổ sư đuổi Ngộ Không đi, phải chăng ý nói rằng Ngộ Không đã xuất tâm hiển thị, xa rời bản tính chân thật, rơi rớt tầng thứ mất rồi?
Chỉ vì một phút bốc đồng hiển thị mà xa rời Đạo, thật nguy hiểm lắm thay!
“Nhà ngươi từ đâu đến thì hãy về đấy!”, vậy Tôn Ngộ Không đến từ đâu? Trong truyện viết: “Con từ động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu đến đây”. Kỳ thực, đây có phải quê hương của Ngộ Không chăng?
Giới tu luyện giảng rằng, con người trên thế gian đều đến từ thiên thượng. Bởi xuất hiện tâm phàm mà sinh mệnh trở nên dơ bẩn, nặng nề, dần dần rơi rớt xuống cõi trần gian. Tu luyện là hành trình buông bỏ tâm phàm, tịnh hoá thân tâm, quay trở về thiên thượng – quê nhà thực sự của chúng ta. Bồ Đề Tổ sư mắng một câu, dường như là đang điểm hoá Ngộ Không hãy tìm đường tu luyện trở về. Tổ sư sớm đã biết sau này Ngộ Không gây hoạ bị đày dưới Ngũ Hành Sơn, rồi bảo hộ Đường Tăng đi Tây Trúc, cuối cùng chính đắc Phật quả, thực sự trở về nơi mà Ngộ Không từ đó đến.

2. Hiển thị → lơi lỏng chính niệm, dẫn khởi tà tâm
Ở hồi 16 “Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối/ Núi Hắc Phong, yêu quái lấy trộm cà sa”, một lần nữa tâm hiển thị khoe khoang của Ngộ Không đã chiêu mời ma nạn.
Lời trách mắng của Đường Tăng trong đoạn này rất giống với lời của Bồ Đề Tổ sư trước kia: “Người xưa nói: “Những vật quý báu chớ có để cho kẻ gian tham trông thấy”. Nếu khoe cho họ xem, họ sẽ sinh lòng tham, tìm mưu kế cướp đoạt. Lúc ấy, mình sợ tai vạ đành phải chiều theo họ. Bằng không sẽ hại thân mất mạng cũng chỉ vì thế”.
Yêu quái trộm cà sa, Ngộ Không tìm mọi cách lấy lại không chỉ vì đó là bảo bối Quan Âm Bồ tát ban cho. Chiếc áo cà sa này có một ý nghĩa đặc biệt. Bồ tát khi đến Tràng An tìm người đi lấy kinh đã nói rằng:
“Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang. Đó là chỗ quý. Còn như lũ sư dâm ô, cười vui trước đau khổ người khác; bọn hòa thượng giữ giới không nghiêm; hạng phàm phu hủy kinh nhạo Phật, thì khó lòng nhìn thấy được áo cà sa của ta. Đó là chỗ không quý”.
Theo lời Bồ tát, áo cà sa này chẳng phải là chính niệm của người tu hành đó sao? Khi trong tâm giữ vững chính niệm, thì không bị đắm chìm trong dục vọng, tâm địa thuần khiết như vậy không địa ngục nào chứa nổi. Những kẻ “miệng nam mô bụng bồ dao găm”, hay kẻ phàm phu huỷ kinh nhạo Phật, trong tâm chứa đầy tà niệm và dục vọng, nên khó lòng nhìn thấy được chính niệm này.
Tôn Ngộ Không vì chưa bỏ được tâm hiển thị nên đánh mất áo cà sa, ngụ ý là tâm hiển thị khiến người tu hành xa rời chính niệm. Chính niệm mất rồi thì nhất định phải đi tìm lại, phải khó nhọc một phen. Lấy lại được chính niệm rồi mới có thể lên đường thỉnh kinh bái Phật.
3. Hiển thị → mê mờ trí tuệ
Ở hồi 88 “Thiền đến Ngọc Hoa thi võ nghệ/ Ba trò xin phép nhận môn đồ”, khi thầy trò đến huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không đã trở nên chín chắn, nhu hoà, thuần thiện hơn rất nhiều thuở đầu đi lấy kinh. Tuy nhiên, bất kể nhân tâm nào còn sót lại cũng không thành chính quả, Tôn Ngộ Không còn vương một chút tâm hiển thị nên đã để binh khí tênh hênh ngoài xưởng rèn, chiêu mời yêu quái sư tử tới lấy trộm.

Gậy Như Ý của Tôn Ngộ Không vốn là “Định hải thần châm” trấn đáy thiên hà, tượng trưng cho định lực của người tu luyện. Trong Phật giáo, “định” là nhân tố then chốt để sinh “huệ”, nếu không thể an định cái tâm này thì khó lòng khai mở trí huệ. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi có một thanh gươm chặt đứt mọi phiền não, được gọi là “thanh gươm trí tuệ”. Như vậy, việc Tôn Ngộ Không để mất binh khí ấy, phải chăng là ngụ ý cho trí tuệ đã bị mê mờ rồi?
Nên cuối hồi này mới có mấy câu rằng:
“Đạo một phút không rời
Nếu rời không phải đạo
Thần binh bị mất ráo
Phí cả đời tu hành!”
Cái tâm hiển thị này nhìn bề ngoài thì không có gì nghiêm trọng, nhưng thực ra lại là tâm rất nguy hiểm, là ma tính lớn mạnh mà người tu luyện nhất định cần tu bỏ. Tâm hiển thị thường đi kèm với tâm hoan hỷ (biểu diễn trò biến hoá), tâm hư danh (khoe áo cà sa), tâm kiêu ngạo tranh đấu (trổ tài võ nghệ)… nên đôi khi rất khó nhận ra.
Khi còn ở chỗ Bồ Đề Tổ sư và ở viện Quan Âm, Ngộ Không hoàn toàn không nhận ra cái tâm này. Tuy nhiên, đến huyện Ngọc Hoa, trải qua muôn vàn ma nạn, Tôn Ngộ Không đã minh tâm kiến tính, nên khi nghe tin binh khí mất, chẳng nói chẳng rằng tự nhủ: “Chỉ tại mình cả thôi. Đã cho họ xem mẫu rồi, thì cất béng vào bên mình, đằng này lại quẳng cả ở đấy cơ! Bảo bối phát hào quang rực rỡ, chắc làm kinh động bọn người xấu, chúng lợi dụng đêm tối lấy đi đó thôi”.
Từ xưa có câu: “Chân nhân chẳng lộ tướng, lộ tướng chẳng phải chân nhân”, những người chân tu xưa nay đều khiêm nhường, bề ngoài thậm chí chẳng có gì nổi bật. Khi Lão Tử đi qua ải Hàm Cốc, chỉ có Doãn Hỷ nhận ra Ngài là bậc Thần tiên. Thần Phật không vô duyên vô cớ hiển thị cho con người, nếu vô duyên vô cớ hiển thị thì chỉ có thể là Phật giả ăn dầu đèn như ở phủ Kim Bình mà thôi. Thiết nghĩ, chỉ những ai có tâm trong sáng, một lòng hướng thiện quy chân, mới có thể có cơ hội nhìn thấy, nhận ra vị chân Phật giữa thế gian này.
Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của các dịch giả: Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội – 1988

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Cảm ngộ Tây Du (Kỳ 20): Huyền cơ ẩn sau tình tiết thầy trò Đường Tăng lạc vào chùa Lôi Âm giả

Hành trình thỉnh kinh trải qua muôn vàn gian khổ.
“Văn dĩ tải Đạo”, người xưa viết văn là để gửi vào đó những đạo lý cao thâm. Tây Du Ký kể về quá trình tu luyện của một người trên con đường viên mãn đắc Đạo, do đó cũng mang tầng tầng ý nghĩa, lớp lớp nội hàm. Thậm chí một cái tên, một địa danh, hay một tình tiết nhỏ trong truyện đều là ngụ ý của tác giả. Về nội hàm và ý nghĩa của Tây Du Ký luôn có nhiều cách nói khác nhau, không đồng nhất. Vậy nên trong loạt bài cảm ngộ này, người viết chỉ mạn phép đưa ra một số lý giải về Tây Du Ký từ góc độ tu luyện, mong được cùng độc giả gần xa góp ý, thảo luận.
Trong Tây Du Ký, hồi thứ 65: “Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả; Thầy trò đều gặp ách nạn to”, thầy trò Đường Tăng lạc vào chùa “Tiểu Lôi Âm” do yêu quái Hoàng Mi biến hoá thành. Đây là một trong những ma nạn lớn nhất trên hành trình thỉnh kinh, Tôn Ngộ Không đã trổ hết thần thông, đi mời Thần Thánh khắp trời cứu giúp mà vẫn không hạ được yêu quái.
Trong ma nạn này, trạng thái cảm xúc của Tôn Ngộ Không được đẩy lên đến cao độ, so với cảnh hàm oan vì đánh Bạch Cốt Tinh mà bị Sư phụ đuổi đi năm xưa thì không kém phần đau xót.
“Lại nói chuyện Tôn Hành Giả nhảy lên không trung thoát chết, thấy bọn tiểu yêu quay về, cờ quạt cuốn lại, biết mọi người đã bị bắt, bèn hạ mây lành bước xuống đỉnh núi phía đông, nghiến răng căm giận, nước mắt lã chã nhớ thương Đường Tăng, đoạn lại ngửa mặt lên trời, cất tiếng khóc thất thanh ai oán:
– Sư phụ ơi, sư phụ tạo nghiệp truân chuyên từ đời kiếp nào, mà kiếp này mỗi bước đi đều gặp yêu tinh? Hoạn nạn này khó thoát quá, biết làm thế nào bây giờ?”.
Nếu như nói Tây Du Ký là một “thiên cổ kỳ thư”, thì câu chuyện bốn thầy trò lạc vào chùa Lôi Âm giả hẳn chứa huyền cơ trong đó. Nhất là, một đại ma nạn khiến chư Thần Phật bốn phương hiệp trợ, bao nhiêu Thiên Thần cũng vì thế mà bị yêu quái bắt mất, thì có lẽ không phải một nạn tầm thường, không khỏi khiến người đời cảm khái! Ở đây, người viết chỉ xin chia sẻ đôi lời tâm đắc về tình tiết mấy thầy trò bị lừa vào chùa Lôi Âm giả, chứ chưa bàn đến câu chuyện trừ yêu diệt quái về sau.
“Đường Tăng thấy tượng lạy cho nhanh”
Trước tiên, Tây Du Ký miêu tả chùa Tiểu Lôi Âm như một chốn bồng lai tịnh độ, với những “lầu vàng cung tỏa ngọc”, “chuông khánh ngân nga”, “trúc xanh mây phủ”, “hào quang rực rỡ”… Đến cả mắt Thần của Ngộ Không từ xa cũng còn “thấy phía ấy thật là một nơi tốt lành”. Tuy vậy, Ngộ Không dù sao cũng đã trải qua tu hành, có linh tính, nên nhận ra “trong đám khí lành hào quang ấy lại có chút hung khí”. Nhưng Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng thì không được như vậy, nên nỗi nhận lầm yêu quái là Phật Tổ.

“Hành Giả mắt tinh biết rõ rành
Đường Tăng thấy tượng lạy cho nhanh.
Sa Tăng mù quáng hùa theo lạy,
Bát Giới ngu si vội cúi mình.
Yêu quái ra oai lừa bản tính,
Ma vương tính ác dối thiên linh.
Thực là đạo nhỏ yêu ma lớn,
Lầm gặp bàng môn, uổng phí mình”.
Ở đây, bức tượng Phật Tổ hoá ra chỉ là con yêu quái, nhưng đoàn thỉnh kinh (trừ Ngộ Không) cứ thấy tượng là “lạy cho nhanh”, “hùa theo lạy”, “vội cúi mình”, phải chăng là ẩn dụ chỉ những người tín Phật, người tu hành bị chấp mê vào hình tướng bên ngoài của tôn giáo, của tu luyện?
Nếu như nói ở đâu có chùa là có Phật, thế thì gạch đá xi măng là mời được Phật sao? Nếu nói đúc tượng, xây chùa, in ấn kinh sách, làm các Phật sự… là có thể thành Phật, thế thì làm Phật cũng có giá cả sao?
Người xưa giảng rằng “Phật tại tâm trung”, theo ý hiểu của người viết thì một người phải chân chính hướng vào bên trong tu cái tâm của mình, không ngừng thăng hoa cảnh giới, thì mới có thể thành Phật. Chứ không phải theo đuổi các hình tướng, sự vụ hữu vi bên ngoài thì có thể thành Phật, đó chỉ là “mò trăng đáy nước” mà thôi.
Ở một tầng nghĩa khác, yêu quái giả danh Phật tổ cũng là một phép ẩn dụ cho ma tính của con người, lợi dụng Phật Pháp để che đậy bản chất xấu xa của mình. Một số người tu hành vẫn còn nhân tâm dính mắc chưa từ bỏ, mang cái tâm bất thuần mà học kinh Phật, sẽ dễ diễn giải loạn kinh Phật để bao che cho phía ác của nhân tính. Ví dụ, người tu còn cái tâm cầu tài, chấp vào tiền bạc, sẽ lấy cớ Phật giảng cúng dường Tam Bảo được phúc báo mà kêu gọi tín chúng quyên góp thật nhiều, thỏa mãn ham muốn danh lợi của bản thân. Thế nhưng ở trong chấp trước lại không hay không biết, chẳng hề nhận ra mình bị ma tính dẫn dắt, vẫn cho rằng mình đang duy hộ Phật Pháp.
Như Tây Du Ký viết:
“Ma vương độc ác lừa chân tính
Chân tính ôn nhu địch khó là
Trăm kế trổ ra không thoát khổ
Nghìn phương diệu dụng chẳng sao hòa”.
“Phóng hỏa đốt sạch sành sanh lầu vàng gác ngọc, đài báu gác cao”
Tây Du Ký không chỉ hấp dẫn bởi nội hàm tu luyện thâm sâu, mà còn được yêu thích bởi những áng văn thơ tuyệt tác. Đoạn miêu tả cảnh sắc chùa Tiểu Lôi Âm là một ví dụ.
Chùa Tiểu Lôi Âm nằm ở chân núi Cửu Hoa, thuộc tỉnh An Huy.
“Tùng thắm đượm mưa che gác ngất,
Trúc xanh mây phủ rợp giảng đường
Long cung ráng đẹp chiếu mênh mang.
Hào quang rực rỡ trùm sa giới
Lầu son và gác tía
Cột chạm với kèo hoa
Giảng kinh hương ngát tòa
Đọc sách trăng lồng bóng”.
Người ở trong cảnh này không khỏi thốt lên lời tán thán:
“Vị tu thiền sảng khoái
Y thoát tục lâng lâng
Cõi tiên chẳng vướng chút bụi trần
Tịnh Thổ nơi đây đạo tràng tuyệt!”
Có lẽ vì thế mà Đường Tăng không mảy may nghi ngờ cho rằng đây đã là Lôi Âm Tự, là núi Linh Sơn, là thắng địa Phật quốc.
“Đường Tăng nói:
– Đã là cảnh chùa Lôi Âm, mà lại không phải Linh Sơn sao? Con chớ có nghi ngờ tấm lòng thành của ta làm lỡ cả ý muốn đến đấy của ta.
Hành Giả thưa:
– Không phải! Không phải! Đường đến Linh Sơn, con cũng đã đi qua mấy lần, không phải thế này đâu!
Bát Giới nói:
– Dù không phải, thì cũng là chỗ ở của người tốt”.
Nhưng mà, rốt cuộc đây lại là nơi ở của yêu quái! Là cảnh mê hoặc của ma tà diễn hoá ra, đánh lừa người tu hành. Đường Tăng vì cái tâm nôn nóng muốn bái Phật, muốn tu thành, mà đã “nhận giặc làm cha”.
Nhờ Đức Đông Lai Phật Tổ cứu giúp, thầy trò Đường Tăng mới vượt qua nạn này.
Đọc đến đoạn này, người viết không khỏi chấn động, vì trên con đường tu luyện, bất kể nhân tâm chấp trước nào, bao gồm cả chấp trước đạt viên mãn, cũng đều là ma chướng khiến không thể tu thành. Người tu chính Pháp, nếu vẫn còn truy cầu viên mãn, thì có nguy cơ lạc sang đường tà.
Con đường tu luyện thật mỹ diệu thù thắng, mỗi một tầng thứ đều đẹp đẽ phi thường. Nhưng người tu luyện lại không thể lưu luyến bất kể tầng thứ nào, nhầm tưởng đó là nhà của mình thì sẽ bị hãm ở đó, không thể đi đến đích. Dù trải nghiệm trạng thái tốt đẹp đến đâu, cũng không nên khởi tâm hoan hỷ, cho rằng mình đã tu tốt rồi, đắc Đạo rồi. Nếu không thì cái tâm bất thuần này sẽ chiêu mời ma quỷ tới. Chỉ có kiên trì giữ một cái tâm hướng thượng, tâm tu luyện không bao giờ thay đổi, thì mới có cơ hội viên mãn công thành.
Có lẽ vì thế mà kết thúc hồi 66, mấy thầy trò “phóng hỏa đốt sạch sành sanh lầu vàng gác ngọc, đài báu gác cao”, nhắm Tây Thiên thẳng tiến.
Ngày xưa xem Tây Du Ký chỉ chú ý Tôn Ngộ Không trừ yêu diệt quái, sau này đọc Tây Du Ký mới hiểu được phần nào đạo lý thâm sâu. Có người nói Ngô Thừa Ân được Thần khải thị mà viết nên tác phẩm này, cũng không phải là nói quá.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây du ký: Sư già trộm áo cà sa và bi kịch của người tu lạc vào ma đạo

Phú quý công danh,
Số duyên đã định.
Chính đại quang minh
Lọc lừa nên tránh.
Tây du ký*
kể rằng,
sau khi Đường Tăng thu nhận Tôn Ngộ Không và thu phục Bạch Long Mã, tâm ý hợp nhất, tinh tấn hướng về Tây. Suốt hai tháng trời đi một đoạn đường bình yên, tháng ngày thấm thoắt đã sang tiết xuân, núi rừng khoe màu biếc, cây cỏ nảy mầm xanh. Một buổi chiều tà, xa xa trong hẻm núi có bóng lâu đài thấp thoáng, điện gác lờ mờ, hai thầy trò dừng chân tá túc ở Quan Âm Thiền Viện.
Một nhà sư già bước ra đón tiếp thầy trò Tam Tạng, chuyện trò thăm hỏi mới biết lão sư này đã 270 tuổi. Tạm không bàn đến việc Hành Giả nói: “Vẫn chỉ là hạng cháu vạn đời của ta”, Tây du ký, hồi thứ 16 “Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối, Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa” có viết:

“Nhà sư già cũng chỉ cho là câu nói ngớ ngẩn không để ý và không hỏi nữa, đoạn sai pha trà. Một tiểu đồng bưng ra một chiếc khay ngọc màu mỡ dê, trên có ba chiếc chén lam bịt vàng. Lại thấy một tiểu đồng khác bưng một chiếc ấm đồng bạch rót ra ba chén trà hương.
Thật là:
Sắc ngời hoa lựu đỏ,
Hương ngát tựa quế hoa.

Tam Tạng trông thấy, khen ngợi rối rít.
– Bộ ấm chén đẹp quá! Thật là đồ đẹp thức ngon!

Nhà sư già nói:
– Đâu có, đâu có! Ngài ở thượng quốc thiên triều thiếu gì của báu, bộ ấm chén này có gì đâu mà ngài quá khen! Ngài từ thượng quốc đến đây, chắc là có bảo bối, cho chúng tôi xem một tý.
Tam Tạng nói:
– Đáng tiếc là tôi từ phương Đông sang đây, chẳng có vật gì quý cả. Vả lại, nếu có thì đường xa dặm thẳm cũng không mang đi được.
Hành Giả đứng bên cạnh, nói:

– Thưa sư phụ, hôm trước con thấy ở trong tay nải có tấm áo cà sa không là vật quý sao? Lấy ra cho mọi người xem một chút!
Các nhà sư nghe nói tấm áo cà sa, đều cười. Hành Giả nói:
– Các người cười cái gì?
Vị viện chủ nói:
– Ngài vừa mới nói rằng tấm áo cà sa là vật quý, thì buồn cười thật. Áo cà sa ấy, chúng tôi đây cũng có hai mươi ba chiếc. Còn như sư tổ chúng tôi làm hòa thượng ở đây hai trăm sáu mươi năm, dễ có tới bảy tám trăm chiếc.

Rồi nhà sư già ấy gọi:
– Mang ra đây cho các ngài ấy xem.
Nhà sư già ấy cũng muốn khoe khoang, bèn gọi lão nhân mở kho. Bọn tiểu đầu đã khiêng ra mười hai chiếc hòm đặt ở giữa nhà, mở khóa ra, chăng dây mắc giá áo khắp bốn xung quanh nhà, rồi vắt từng chiếc lên, mời Tam Tạng xem. Thật là:
Khắp nhà gấm vóc,
Bốn phía lụa là”.

Thế nhưng sau khi nhìn thấy tấm áo cà sa toả hào quang lấp lánh của Đường Tăng, thì mới biết “bộ sưu tập” kia chỉ toàn hạng tầm thường cả.
“Nhà sư già thấy tấm áo quý giá quá, quả nhiên nảy lòng tham, bước lên, quỳ trước mặt Tam Tạng, chảy nước mắt, nói:
– Đệ tử tôi thật là vô duyên!
Tam Tạng đỡ dậy, nói:
– Ngài nói gì vậy?
Nhà sư già nói:
– Tấm áo cà sa của ngài vừa lấy ra cho xem, thì trời tối sập, mắt tôi kèm nhèm nhìn không được rõ chẳng là vô duyên sao?
Tam Tạng nói:
– Thắp đèn lên để ngài xem lại.
Nhà sư già nói:
– Bảo bối của ngài đã sáng lắm rồi, đốt đèn thì mắt tôi càng chói, không nhìn kỹ được đâu.
Hành Giả hỏi:
– Vậy như thế nào, thì ngài mới xem kỹ được?
Nhà sư già nói:
– Mong ngài rộng lòng làm ơn cho tôi mượn mang vào phòng sau xem kỹ một đêm. Sớm mai tôi xin trả lại ngài, để ngài sang phương Tây. Chẳng hay ý ngài thế nào?
Tam Tạng nghe nói, giật mình, ngầm trách Hành Giả, nói:
– Chỉ tại con, chỉ tại con! Hành Giả cười, nói:
– Sợ cái gì! Để con gói lại đem đi cho họ xem. Cớ việc gì xảy ra, lão Tôn xin chịu cả.
Tam Tạng ngăn không được, Hành Giả đưa cà sa cho nhà sư già, nói:
– Ngài cứ xem đi. Sáng mai đúng hẹn trả tôi. Chớ có làm bẩn đấy.

Nhà sư già mừng rỡ, sai tiểu đồng mang áo cà sa đi ngay. Lão còn dặn các nhà sư khác quét dọn chùa trước sạch sẽ, kê hai chiếc giường mây đầy đủ chăn gối mời hai thầy trò đi nghỉ. Một mặt lại sai sửa soạn cơm chay để sáng mai tiễn chân, rồi, ai nấy rút lui.
Thầy trò Tam Tạng đóng cửa đi ngủ. Chuyện không nói nữa. Lại nói chuyện nhà sư già kia lừa hai thầy trò Tam Tạng cầm được áo cà sa trong tay, mang về phòng sau nhìn tấm áo khóc gào đau khổ, làm các sư trong chùa sợ hãi, không dám đi ngủ trước. Bọn tiểu đồng cũng chẳng hiểu vì sao, vội chạy đi báo với các sư rằng:
– Sư tổ khóc mãi đến canh hai vẫn chưa thôi.
Hai đồ đệ được nhà sư già ấy yêu quý nhất bước vào hỏi:
– Thưa sư tổ, vì sao ngài lại khóc?
Nhà sư già nói:
– Ta khóc vì ta vô duyên, không nhìn được bảo bối của Đường Tăng.
Hai nhà sư trẻ nói:
– Tổ sư tuổi cao đức trọng. Tấm áo cà sa của họ đã đặt trước mặt, ngài cứ việc giở ra mà xem, việc gì phải khóc.
Nhà sư già nói:
– Nhưng xem không được lâu. Năm nay ta đã hai trăm bảy mươi tuổi, mặc qua hàng trăm tấm áo cà sa nhưng đâu được như tấm áo cà sa này, đâu được làm Đường Tăng!
Nhà sư trẻ nói:
– Sư phụ nói sai rồi. Đường Tăng chỉ là một nhà sư lang thang bỏ quê bỏ quán. Ngài tuổi cao hưởng phúc nhiều là tốt lắm rồi, lại còn muốn làm một nhà sư lang thang làm gì?
Nhà sư già nói:
– Ta tuy tại gia thảnh thơi, vãn cảnh vui thú nhưng chẳng được mặc tấm áo ấy. Giá mà ta chỉ được mặc một ngày thôi, thì chết cũng thỏa, cũng đáng đi tu ở thế gian này.
Các nhà sư khác nói:
– Ngài thật lẩn thẩn, muốn mặc áo của họ thì khó gì? Ngày mai chúng ta giữ lại một ngày, là ngài được mặc một ngày; giữ họ lại mười ngày là ngài được mặc mười ngày. Việc gì phải khóc lóc khổ sở?
Nhà sư già nói:
– Dù có giữ họ hàng năm, thì cũng chỉ được mặc như thế thôi, chẳng được lâu dài.
Đang bàn bạc, bỗng có một vị hòa thượng trẻ là Quảng Trí ló đầu ra nói:
– Thưa sư tổ, muốn được lâu dài cũng rất dễ. Nhà sư già tươi tắn lên, hỏi:
– Con có cao kiến gì chăng?
Quảng Trí thưa:
– Hai thầy trò Đường Tăng đi đường xa vô cùng mệt nhọc vất vả, lúc này đang ngủ say. Chỉ cần mấy tay lực lưỡng cầm đao, thương, mở phòng ra giết quách đi, vùi xác ở vườn sau. Chỉ có chúng ta biết mà thôi. Chiếm nốt cả con ngựa bạch, hành lý, và cả tấm áo cà sa làm của báu gia truyền. Như thế chẳng phải là mưu kế lâu dài cho con cháu sao?
Nhà sư già nghe nói, mừng lắm, vội lau nước mắt, nói:
– Hay lắm, hay lắm! Kế ấy tuyệt diệu! Bèn sai chuẩn bị đao, thương.
Trong bọn ấy lại có một hòa thượng trẻ tên gọi Quảng Mưu, cũng là sư đệ của Quảng Trí bước ra nói:
– Kế ấy chưa hay. Nếu muốn giết họ phải suy nghĩ kỹ đã. Cái lão mặt trắng thì còn dễ. Còn tên mặt lông lá thì khó đấy. Vạn nhất giết không nổi, thì thành ra mình lại rước vạ. Con có một kế chẳng phải dùng đao, thương gì hết không biết ý ngài thế nào?
Nhà sư già nói:
– Con có kế gì?
Quảng Mưu thưa:
– Cứ như ý con, hội họp mọi người lớn nhỏ bên các phòng phía đông, mỗi người phải có một bó củi khô chất xung quanh ba gian chùa kia, rồi phóng hỏa đốt. Thầy trò họ muốn chạy cũng không có lối thoát, cả ngựa cũng cháy trụi. Như vậy, những nhà ở phía trước núi, sau núi nhìn thấy, sẽ cho rằng tự họ không cẩn thận làm cháy cả ngôi chùa của chúng ta. Còn hai hòa thượng kia lại không bị thiêu chết hay sao? Chúng ta bịt được đầu mối. Lúc ấy tấm áo cà sa là bảo bối gia truyền của chúng ta.
Các nhà sư nghe nói, ai nấy mừng rỡ, đều nói:
– Khá lắm, khá lắm! Kế này tuyệt vời! Tuyệt vời!
Bèn sai người các phòng vác củi đến”.
Than ôi! Chỉ vì tấm áo cà sa mà các nhà sư ở thiền viện Quán Âm đã mưu giết người, cướp của, nói dối, phạm vào ba trong năm đại giới cấm của nhà Phật. Nhà sư già đặc trưng cho hạng người chuộng hình thức, sa vào hình thức, giả tu, lạc vào ma đạo. Đức Phật Thích Ca từng dự ngôn rằng vào thời mạt Pháp, các tăng nhân “ở trong Pháp ta, tuy cạo đi tóc râu, mặc lên áo cà sa, huỷ phá giới cấm, hành xử không như Pháp, là Tỳ Kheo giả”, quả là ứng với trường hợp này.
Nhà sư già nói: “Giá mà ta chỉ được mặc một ngày thôi, thì chết cũng thỏa, cũng đáng đi tu ở thế gian này”. Hoá ra, vinh diệu của người tu hành chỉ là ở chỗ được mặc cà sa báu thôi sao? Người tu luyện tu tâm dưỡng tính, buông bỏ chấp trước vào danh lợi tình, bồi đắp thiện tâm, một mai Phật tính tròn đầy chính là viên mãn. Có thể thấy bản lai diện mục thánh thiện và từ bi chính là vinh diệu của bậc tu hành, chứ mặc áo cà sa đẹp có ý nghĩa gì đâu?
Nhà sư già có sở thích sưu tập bảo bối, đây là một sở thích mà nhiều người thường cũng có, mới nghe qua chưa thấy trầm trọng gì. Nhưng so với tôn chỉ “thanh tâm quả dục”, lối sống đạm bạc đơn giản của nhà Phật thì tính là sai rồi. Lòng tham hóa thành ngọn lửa thiêu rụi Quan Âm Thiền Viện, thiêu rụi rừng công đức. Hơn nữa, nhà sư già đã sống đến 270 tuổi mà chấp trước này không bỏ, càng ngày càng phình to. Có câu rằng: “Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”, chỉ một sở thích không phù hợp với đức hạnh của người tu cũng có thể khiến mê mờ lý trí, dẫn tới tội ác cực đại.

Câu chuyện này là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với người tu luyện: Bất kỳ chấp trước nào dù nhỏ đến đâu, nếu không thể nghiêm túc buông bỏ thì sẽ ngày một bành trướng, cuối cùng dẫn người tu lạc vào ma đạo. Có người tu luyện viết sách, viết báo hồng dương Phật Pháp, nâng niu từng bài viết của mình. Nâng niu thì không vấn đề gì, nhưng nếu quá chấp trước vào bản thân những bài viết ấy, thì sẽ dễ như nhà sư già sưu tập áo cà sa, cận kề nguy hiểm. Cũng có người tu luyện lập ra các hạng mục công việc để hộ trì Phật Pháp, nhầm tưởng sự thành công của các dự án kia là thành tựu trong tu luyện, mà quên mất rằng Pháp hữu vi chỉ như trăng trong đáy nước mà thôi. Chỉ có hướng nội tu tâm, sẵn sàng buông bỏ mọi truy cầu chấp trước, kể cả bản thân các “Phật sự” ấy, thì mới có thể thành chính quả.
Đôi câu đối mở đầu hồi thứ 16:
“Viện Quan Âm, các sư lừa bảo bối, Núi Hắc Phong, yêu quái trộm cà sa” có ẩn ý sâu sắc. “Lừa” đối với “trộm” là cùng một tính, mà “các sư” với “yêu quái”, “viện Quan Âm” với “núi Hắc Phong” lại có gì chênh vênh. Làm người tu luyện mà ý niệm, ngôn hành bất chính thì không khác nào yêu quái, Đạo quán Phật đường cũng biến thành sào huyệt của tà ma. Trong hồi thứ 17, khi Quán Âm Bồ Tát giả trang làm yêu quái để thâm nhập vào động quỷ, Tôn Ngộ Không đã khen ngợi: “Tuyệt quá, tuyệt quá! Ngài là Bồ tát yêu tinh, hay là yêu tinh Bồ tát đấy? Bồ tát cười, nói: Ngộ Không, Bồ tát, yêu tinh đều là ý niệm cả. Nếu bàn cho đến gốc, thảy đều không có”. Người tu luyện cần cẩn trọng với từng ý niệm của chính mình, giữa Bồ tát và yêu tinh đôi khi chỉ khác nhau một niệm.
Một niệm nảy sinh đấy vạn ma,
Tu trì vất vả khó khăn là.
Đã đành tắm gội không vương bụi.
Vẫn phải dày công khổ luyện mà.
Quét sạch vạn duyên về cõi tịch,
Diệt phăng nghìn quái chẳng buông tha.
Rồi đây thoát khỏi vòng vây hãm,
Viên mãn bay lên cõi Đại La.


*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Chuyện Bát Giới lấy vợ hụt và giấc mộng đẹp của đời người

Theo chính tu hành nên cẩn thận,
Rửa lòng ái dục để quy chân.

Sau khi thu phục Sa Ngộ Tĩnh, vượt qua Lưu Sa hà, Đường Tăng cùng các đồ đệ thẳng đường lớn tiến về phương Tây. “Trải mấy non xanh nước biếc, ngắm khắp cỏ nội hoa rừng”, một tối mùa thu nọ đến một trang viên nguy nga tráng lệ, mấy thầy trò định xin ngủ nhờ một đêm. Chẳng ngờ, chủ ngôi nhà này lại là một thiếu phụ nhan sắc mặn mà, cùng ba cô con gái xinh tươi đều đang muốn kén chồng làm chủ gia nghiệp. Tây du ký*, hồi thứ 23 viết:

“Người đàn bà lại nói:

– Nhà tôi đây có hơn ba trăm mẫu ruộng cấy, hơn ba trăm khoảnh ruộng màu, trang trại vườn tược cũng hơn ba trăm mẫu, trâu bò hơn một nghìn con, lừa ngựa hàng đàn, lợn dê vô số, bốn phía đông tây nam bắc có đến sáu bảy mươi cánh đồng cỏ, thôn trang, thóc lúa trong kho dùng tám chín năm không hết, lụa là mặc chục năm nay vẫn còn, tiền của tiêu xài suốt đời thừa thãi, đủ mọi thứ gấm vóc lụa là, bạc vàng châu báu. Nếu thầy trò nhà ngài đổi tâm chuyển ý, làm rể nhà này thì sẽ được thoải mái tự do, vui hưởng vinh hoa phú quý, chẳng hơn sang phương Tây vất vả sao?
Tam Tạng vẫn cứ như ngây như dại, chẳng nói chẳng rằng. Người đàn bà nói tiếp:
– Tôi sinh năm Đinh Hợi, ngày ba tháng ba, vào giờ Dậu, chồng tôi hơn tôi ba tuổi. Năm nay tôi bốn nhăm. Con gái lớn của tôi tên gọi Chân Chân, năm nay hai mươi tuổi; cháu thứ hai là Ái Ái, mười tám tuổi; cháu út là Liên Liên, mười sáu tuổi. Cả ba cháu đều chưa hứa gả bán cho ai. Tôi tuy xấu xí, nhưng các cháu đều có chút nhan sắc, việc nữ công thêu thùa đều giỏi cả. Vì chồng tôi hiếm hoi không có con trai, nên nuôi nấng dạy dỗ các cháu như con trai vậy. Lúc nhỏ các cháu cũng được đi học, cũng biết làm câu đối, thơ phú. Tuy ở núi rừng, nhưng cũng khác xa hạng quê mùa thô kệch, tưởng cũng xứng đáng kết duyên cùng các ngài được. Các ngài hãy vứt bỏ ý muốn cũ, để tóc dài, ở đây làm chủ nhà này, ăn sung mặc sướng, chẳng hơn áo thâm bát sành, giày rơm nón lá sao?
Tam Tạng ngồi ở đằng trước khác nào đứa trẻ sợ tiếng sấm, cò sợ gặp mưa, ngây ngây dại dại, ngả người lơ mơ đưa cặp mắt trắng nhìn lên trời. Bát Giới nghe nói đến gái đẹp, giàu sang như thế trong lòng thấy ngứa ngáy không yên, ngồi trên ghế mà như kim châm vào đít, ngả nghiêng nhấp nhổm, nhịn không nổi, bèn chạy lên níu lấy sư phụ nói:
– Thưa sư phụ, cô nương đây đã thưa chuyện với sư phụ, sao sư phụ cứ lặng thinh, phải chiếu cố một chút chứ!

Tam Tạng ngẩng phắt đầu, hừ một tiếng, mắng Bát Giới:
– Đồ nghiệt súc! Chúng ta là người xuất gia, há lại để giàu sang động tâm, gái đẹp loạn trí, thì còn ra thể thống gì nữa?
Người đàn bà cười nói:
– Khổ lắm, đi tu thì sướng nỗi gì?
Tam Tạng hỏi lại:

– Thưa bà, thì người tại gia cũng sướng nỗi gì?
Người đàn bà đáp:
– Xin trưởng lão ngồi yên, để tôi nói cái sướng của người tại gia cho trưởng lão nghe. Ngài không thấy sao, có bài thơ làm chứng rằng:
Mùa xuân tha thướt bộ quần là
Mùa hạ thưởng sen mặc áo sa
Thu tới làm men ngâm rượu nếp
Đông về sưởi ấm ở lầu hoa
Bốn mùa hưởng thụ đều sung sướng,
Tám tiết ăn chơi đủ ngọc ngà.
Trướng gấm màn the đèn nến tỏ,
Còn hơn mỏi miệng niệm Di Đà.

Tam Tạng nói:

– Thưa bà, người tại gia hưởng vinh hoa phú quý, ăn sung mặc sướng, con trai con gái đầy nhà. Sướng thật. Nhưng bà không biết người xuất gia cũng có chỗ sướng. Bà không biết sao? Có bài thơ làm chứng rằng:
Xuất gia lập chí phi thường,
Ái ân rũ sạch mọi đường xưa nay.
Ngoại vật coi nhẹ, nhàn thay
Âm dương vũ trụ đủ đầy trong ta.
Công quả viên mãn chan hòa,
Sáng lòng thấy tính trở về cố hương.
Gấp trăm tham dục người phàm,
Những túi da thối, ai màng chi đâu!

Người đàn bà nghe xong, nổi cáu nói:
– Lão hòa thượng này thật vô lễ! Ta không nể nhà ngươi từ phương Đông xa xôi tới đây thì sẽ tống cổ ra. Ta đã thực lòng thực dạ, mang cả gia tài mời các người ở rể, thế mà nhà ngươi lại khích bác ta. Nhà ngươi đã thụ giới, phát nguyện, suốt đời không hoàn tục nữa thì thôi, còn trong số đồ đệ, để cho nhà ta một người cũng được, tại sao lại cứ khăng khăng từ chối thế?
Tam Tạng thấy người đàn bà nổi cáu, chỉ biết ậm ờ cho qua, rồi bảo Ngộ Không:
– Ngộ Không, con ở lại đây nhé!
Hành Giả thưa:
– Con từ bé không biết làm việc đó, sư phụ bảo Bát Giới ấy.
Bát Giới nói:
– Anh đừng đùa thế. Phải bàn bạc cho kỹ chứ.
Tam Tạng nói:
– Hai con không chịu, để ta bảo Ngộ Tĩnh ở lại vậy.
Sa Tăng nói:
– Sư phụ, nghe con nói đây. Con chịu ơn Bồ Tát khuyến hóa, đã chịu giới hạnh, chờ đợi sư phụ. Từ ngày đội ơn sư phụ thu nhận con, được sư phụ dạy dỗ, đi theo sư phụ chưa đầy hai tháng, chưa tiến được nửa phân công quả nào, con đâu dám mưu đồ phú quý! Con thà chết để sang phương Tây, quyết không chịu làm việc dối lòng như thế.
Người đàn bà thấy mọi người từ chối cả, vội vàng quay ngoắt người trở vào sau tấm bình phong, đóng chặt cửa lại, bỏ mấy thầy trò ở bên ngoài, cơm nước không có, chẳng một bóng người. Bát Giới trong lòng bực bội, oán giận Đường Tăng, nói:
– Sư phụ chẳng biết suy tính, cứ nói thẳng ruột ngựa làm hỏng bét cả. Sao sư phụ không tinh ý một chút, cứ ừ ừ bằng lòng để kiếm chút cơm ăn, hưởng một đêm khoan khoái đã, rồi ngày mai nghe hay không nghe là do thầy trò mình chứ. Bây giờ họ đóng chặt cửa không ra nữa, còn lại chúng ta bếp lạnh tro tàn, chịu sao nổi đêm nay!”.
Bát Giới quả là “biết suy tính”! Trên hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, mấy thầy trò trải qua 81 nạn, nào ma bắt quỷ vồ, nào lửa to sóng dữ, muôn ngàn thống khổ, nhưng dường như hiếm có “nạn” nào lại thảnh thơi sung sướng như nạn này. Cả giàu sang và vợ đẹp đều có dễ như trở bàn tay. Thế mới biết, khó khăn khổ sở là ma nạn, mà dễ dàng sung sướng cũng là ma nạn. Thậm chí trong thuận cảnh, người ta còn dễ đánh mất mình hơn, dễ rơi rớt hơn.
Phản ứng khác nhau của mấy thầy trò trước lời mời mọc của thiếu phụ đã bộc lộ ra cảnh giới tâm tính của mỗi người. Đường Tăng, Ngộ Không và Sa Tăng đều một lòng một dạ tu hành, riêng Bát Giới không giữ nổi mình trước giàu sang và sắc đẹp. Vì thế, chú ngốc đã lấy cớ chăn ngựa để ra cửa sau gạ gẫm ‘mẹ vợ’, hoàn toàn quên mất việc đi lấy kinh. Bát Giới bị dục vọng mê hoặc, chẳng thèm xin phép sư phụ, cũng chẳng màng gì lễ nghĩa, trùm khăn lên đầu, quờ quạng tứ tung để chọn vợ, cuối cùng chẳng bắt được cô nào cả. Tây du ký, hồi thứ 23 viết:
“Bát Giới nói:
– Mẹ ạ, các em không chịu lấy con, hay là mẹ lấy con vậy.
Người đàn bà nói:
– Con rể giỏi nhỉ! Chẳng kể trên dưới, dám đòi lấy cả mẹ vợ? Ba đứa con gái ta khéo tay lắm, đứa nào cũng có móc một chiếc áo lót bằng sợi gấm trân châu, con mặc vừa áo của đứa nào, thì mẹ gả đứa ấy cho.
Bát Giới nói:
– Vâng, vâng! Mẹ mang ngay cả ba chiếc áo ra đây để con mặc thử, con mặc vừa tất là con sẽ lấy tất đấy.
Người đàn bà quay vào trong nhà, rồi chỉ mang ra một chiếc đưa cho Bát Giới. Chú ngốc cởi ngay chiếc áo gấm xanh đang mặc ra, giật lấy chiếc áo lót, mặc vào người, chưa kịp thắt dây, thì phốc một cái, ngã quay ra đất. Thì ra mấy sợi thừng đã trói chặt lấy người, Bát Giới đau đớn không sao chịu nổi. Mấy mẹ con người đàn bà cũng không thấy đâu cả.
Lại nói chuyện Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ngủ dậy, đã thấy phương đông trắng bạch, mở mắt ngẩng đầu nhìn xung quanh, chẳng thấy lâu đài nguy nga tráng lệ đâu nữa, thì ra mấy thầy trò ngủ giữa rừng thông. Tam Tạng hốt hoảng gọi Hành Giả. Sa Tăng nói:
– Anh ơi, đúng là chúng ta gặp ma rồi!
Tôn Ngộ Không biết rõ cả, chỉ tủm tỉm cười, nói:
– Chú nói sao?
Đường Tăng hỏi:
– Con xem, chúng ta ngủ ở đâu thế này?
Hành Giả thưa:
– Ngủ trong rừng thông thích thật. Nhưng không biết chú ngốc ta chịu tội ở đâu rồi?
Tam Tạng hỏi:
– Sao, ai chịu tội? Hành Giả cười, đáp:
– Mẹ con mấy cô gái nhà này hôm qua, hẳn là Bồ Tát biến hóa thử thách chúng ta, chắc đã đi từ nửa đêm rồi, chỉ khổ cho Bát Giới phải chịu tội thôi”.
tien-nu-5.jpg

Chỉ qua một đêm mà lâu đài nguy nga biến mất, người đẹp xinh tươi chẳng còn. Đây là phép màu của Bồ Tát, hay là sự thật hiển nhiên mà phần đông con người chẳng nhận ra? Có câu rằng: “Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất”, so với sự vô cùng của trời đất và vĩnh hằng của sinh mệnh, thì một kiếp người này cũng chỉ là cái chớp mắt mà thôi.

Phật gia giảng: Đời người như giấc mộng, quán trọ ấy trần gian, qua một đêm thức dậy, tất cả những gì ta tích cóp đều tan thành mây khói cả. Con người đến thế gian này với hai bàn tay trắng, ra đi cũng hoàn toàn trắng tay. Tiền bạc, địa vị, vợ đẹp con khôn… đều không mang nổi xuống hoàng tuyền. Thế mà người ta lại lao tâm khổ tứ, giành giật đấu tranh vì chúng, suốt đời tạo nghiệp, thật mê mờ lắm thay!
Hình ảnh Bát Giới cởi chiếc áo tu hành để mặc vào chiếc áo lót gấm trân châu mà “mẹ vợ” đưa cho là một ẩn dụ sâu sắc. Giữa Thần và người, Bát Giới đã rời xa Thần để bước về phía con người. Để rồi “chưa kịp thắt dây, thì phốc một cái, ngã quay ra đất. Thì ra mấy sợi thừng đã trói chặt lấy người, Bát Giới đau đớn không sao chịu nổi”. Ái dục và phú quý chốn nhân gian nhìn thì như chiếc áo lót gấm mềm mại gợi tình, nhưng kỳ thực là dây thừng trói buộc, khiến con người không thể giải thoát, vĩnh viễn chìm đắm trong biển khổ luân hồi.
Nói về sức mê hoặc của vật chất và sắc dục, trong hồi thứ 27 “Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng, Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương”, Tôn Ngộ Không sau khi một gậy bổ đầu Bạch Cốt Tinh cũng đã nói với sư phụ rằng: “Lão Tôn trước kia, khi còn là yêu ma động Thủy Liêm, lúc nào muốn ăn thịt người đều làm cách như thế này: hoặc biến thành vàng bạc, nhà cửa, hoặc biến thành gái đẹp say người. Kẻ nào ngu si say đắm phải lòng con, là bị con lừa mang về động. Lúc ấy, thì tùy ý con, hoặc nấu hoặc kho, ăn không hết, con phơi khô để dành phòng lúc mưa dầm”. Nghe thì huyền hoặc đáng sợ, nhưng trong chừng mực nào đó, những người mê đắm trong danh lợi ái tình đều quên mất bản tính, không thể tu thành Phật, sau trăm năm tấm thân này mục rữa, bị côn trùng sâu bọ rỉa xác, nào khác gì bị yêu tinh ăn thịt.
Trong chúng ta đây có người là người xuất gia tu luyện, nhưng đa số là sống giữa cuộc đời bình thường, cũng có gia đình, có nhà cửa ruộng vườn. Làm như Đường Tăng cắt hết duyên trần, y bát vạn dặm thì không phải ai cũng làm được, nhưng nếu chúng ta có thể dần buông bỏ những truy cầu ham muốn về danh, lợi, tình, sống đơn giản tuỳ duyên, để tâm hồn ngày một nhẹ nhàng, tĩnh lặng, thì đó đã là cởi bớt những sợi dây thừng trói buộc, đến gần hơn với cảnh giới thanh tịnh vô vi rồi.
Kết thúc cố sự này, Đường Tăng, Bát Giới và Sa Tăng mới biết là do các vị Bồ Tát biến hoá ra để thử lòng người tu luyện. Mấy câu tụng viết trên tờ thiếp bay phấp phới trên cành cây bách cổ thụ là lời nhắn nhủ cho đoàn người thỉnh kinh, cũng là lời nhắc nhở cho mỗi người mang tâm cầu Đạo:
“Lê Sơn lão mẫu ngại chi phàm
Bồ Tát Quan Âm cũng giáng trần
Thêm cả Phổ Hiền, Văn Thù nữa
Biến thành gái đẹp thử lòng tăng.
Đường Tăng đức trọng không nhơ tục
Bát Giới lòng phàm vẫn nặng căm.
Nhắn nhủ từ đây nên sửa đổi
Nếu không chính quả khó muôn phần!”
*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Đường Tăng bị ép cưới công chúa nước Thiên Trúc: Một niệm chiêu mời yêu ma đến

Cảnh phim Tây du ký 1986: Đường Tăng rối bời khi bị kén làm phò mã Thiên Trúc.

Khởi niệm là liền có ái,
Dậy tình ắt sẽ sinh tai.

Trong Tây du ký, Đường Tăng thường xuất hiện với diện mạo trang nghiêm thanh tịnh, lời lẽ từ bi hoà ái. Nhưng trên hành trình thỉnh kinh, có một ma nạn mà trong đó ông luôn miệng mắng nhiếc đồ đệ, sự mắng nhiếc này không khỏi khiến người đọc… phì cười, vì đó là khi ông “lớ ngớ” bị kén làm phò mã nước Thiên Trúc. Công chúa giả nước Thiên Trúc vốn là Thỏ Ngọc trên cung Quảng biến hoá thành, cố ý ném tú cầu trúng vào người ông, ép Đường Tăng phải kết duyên chồng vợ.
Còn nhớ trước đây, nữ vương của Tây Lương nữ quốc từng muốn sánh đôi cùng Đường Tăng, tỳ bà tinh cũng muốn cùng ông vui vầy hoan ái… Chúng ta không khỏi thắc mắc, Đường Tăng đã không còn ham luyến nữ sắc, vì sao hết lần này lần khác Phật Tổ và Bồ Tát an bài quan ải ái dục cho ông? Thực ra, mỗi một nạn của người tu luyện đều nhắm vào một chủng tâm phàm tục mà đến, Đường Tăng tuy không mê đắm nữ sắc, nhưng lần này ông đã động niệm thế tục. Tây du ký, hồi 94 có viết:

“Tam Tạng thấy xung quanh không còn ai, bèn oán trách Hành Giả, giận dữ nói:
– Con khỉ già Ngộ Không kia, nhà ngươi hại ta bao phen rồi! Ta đã bảo chỉ đi đổi điệp văn thôi, chứ đừng đi về phía lầu hoa, nhà ngươi lại cứ một mực đòi đưa ta tới đó xem! Bây giờ xem đã sướng chưa? Cớ sự này thì biết làm sao bây giờ?
Hành Giả cười khành khạch nói:
– Sư phụ chẳng bảo “tiên mẫu cũng do gieo quả cầu thêu gặp nhân duyên cũ, nên vợ nên chồng” đó sao? Sư phụ có ý hoài cổ như thế, lão Tôn mới dẫn đi chứ…”
Mặc dù Tôn Ngộ Không lúc này đang trêu đùa sư phụ, thực ra Hành Giả bày kế “ỷ hôn hàng quái” (mượn việc kết hôn mà hàng phục yêu quái), nhưng lời nói đùa cũng có đạo lý: Nếu không phải Đường Tăng khởi tâm động niệm ái tình, thì đã không chiêu mời phiền phức. Giới tu luyện có câu: “Nhân tâm câu đích quỷ thượng môn”, quả không sai.

Phật gia giảng phải xả tận thế gian, sau khi xuất gia rồi thì cha mẹ cũng gọi là “thí chủ”, người tu Phật là thiện đãi tất cả chúng sinh chứ không vì tình ruột thịt mà thiên vị một người nào. Vậy nên ý nghĩ thoáng qua của Đường Tăng về duyên vợ chồng của cha mẹ, bề mặt thì dường như không vấn đề gì, nhưng với người tu luyện mà nói thì đã là thoát ly khỏi Đạo, là nghiêm trọng rồi. Cổ ngữ có câu: “Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri”, ý rằng mỗi tư mỗi niệm của con người thì Trời Đất đều biết tường tận. Khi tu đến cảnh giới của Phật thì niệm nào cũng phải chính, dẫu một tà niệm còn sót lại cũng không được bước vào thiên quốc. Lúc này, Đường Tăng đã gần đến Linh Sơn, yêu cầu càng phải nghiêm khắc, một niệm vương vấn thế tục cũng không được phép giữ, cũng tạo thành khổ nạn lớn.

Còn đối với Thần Tiên, người trên thiên quốc thì một niệm thế tục cũng khiến họ bị rơi rớt tầng thứ, đoạ xuống làm người, làm yêu. Thiên Bồng Nguyên Soái trêu ghẹo Hằng Nga nên bị đày thác sinh cửa lợn; Quyển Liêm Đại Tướng làm vỡ chén ngọc lưu ly nên phải làm yêu quái sông Lưu Sa; đây đều do không giữ được chính niệm, khởi tà niệm vẩn vơ mà thành. Trong hồi này, công chúa thật của nước Thiên Trúc cũng không phải vô duyên vô cớ mà gặp nạn.
Thái Âm Tinh Quân nói:
“– Đại Thánh không biết đấy thôi. Công chúa con quốc vương, cũng không phải người phàm. Nàng là Tố Nga ở trong cung Quảng. Mười tám năm về trước nàng có đánh con thỏ ngọc một cái tát, rồi lại nhớ phàm trần xuống hạ giới. Một điểm sáng linh thiêng giáng sinh. Còn con thỏ vẫn mang cái thù bị tát, nên năm ngoái lẻn trốn khỏi cung xuống trần, cướp ném Tố Nga ra đồng nội, định lấy Đường Tăng làm chồng…”
Đạo Trời tuy thưa mà khó lọt, nhân quả như bóng theo hình, quả thực khiến người ta khởi tâm kính sợ!
Quay trở lại việc Đường Tăng trong ma nạn này luôn miệng quát mắng đồ đệ, bên cạnh yếu tố nghệ thuật hài hước của tác phẩm thì có lẽ còn ngụ ý rằng ông thật sự rất coi trọng tu bỏ chấp trước ái dục.

“Tam Tạng quát mắng:
– Câm đi, đừng bẻm mép nữa! Nay họ cố tình kén ta làm phò mã thì khu xử thế nào?
Hành Giả nói:
– Chúng ta cứ đợi tới hôm mười hai là hôm cưới, nhất định công chúa phải ra làm lễ lạy cha mẹ. Lúc ấy lão Tôn sẽ đứng cạnh quan sát. Nếu quả đúng là công chúa thật, thì sư phụ cứ việc làm phò mã, ở lại hưởng vinh hoa phú quý.
Tam Tạng nghe xong, càng tức giận quát mắng:

– Con khỉ già kia, nhà ngươi định hại ta sao! Như lời Ngộ Năng nói đấy, leo cau đã tới buồng rồi, nhà ngươi lại còn uốn lưỡi dụ ta à? Câm ngay miệng lại, đừng há họng ra nữa. Còn vô lễ, ta sẽ niệm bài khẩn cô nhi chú cho nhà ngươi biết tay!
Hành Giả nghe nói tới niệm chú, sợ quá quỳ xuống van xin:
– Sư phụ đừng niệm! Đừng niệm! Nếu đúng là công chúa thật thì tới lúc làm lễ hợp cẩn chúng con sẽ đại náo hoàng cung đưa sư phụ đi”.

Quý độc giả có thể đã biết rằng hình tượng năm thầy trò (kể cả Bạch Long Mã) thực ra là chỉ một người, trong đó Đường Tăng là chủ nguyên thần, là chủ thể của người tu luyện. Việc Đường Tăng không ngừng mắng nhiếc đồ đệ có lẽ là phản ánh của quá trình không ngừng sám hối và sửa lỗi, diệt trừ ma tính của bản thân chăng?
Thật may, cuối cùng Đường Tăng cũng thoát khỏi mối oan duyên này. Đây mới đúng là:
Thanh tịnh trong veo sạch bụi trần,
Chính quả siêu thăng lên thượng giới.


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Kết cục của 3 loại yêu quái lớn trong Tây Du Ký ẩn chứa thông điệp gì?



Ảnh ghép minh họa: Đại Kỷ Nguyên.

Có câu cửa miệng rằng: Thái độ thế nào thì sẽ quyết định kết quả như thế ấy. Kết cục khác nhau của các loài yêu quái trong “Tây Du Ký” vừa khéo đã chứng minh rõ cho câu nói này.
Khác biệt lớn nhất của các lộ yêu quái trong Tây Du Ký

Yêu quái trong “Tây Du Ký” đại khái có thể chia làm ba loại lớn như vầy: Một loại là vật cưỡi hay thú cưng của các lộ Thần Tiên, bởi an bài đặc biệt nên xuống hạ giới tạo thành quan nạn cho thầy trò Đường Tăng tu hành hoàn trả nghiệp lực. Một loại khác là có những vị Thần bởi quyến luyến phàm trần nên xuống thế gian, bởi quan hệ nhân duyên cũng đã trở thành một khảo nghiệm trên con đường tu luyện của thầy trò Đường Tăng. Một nhóm khác chính là yêu ma quỷ quái nơi thế gian, chuyên môn làm điều ác hại người.

Trong ba loại hình yêu quái kể trên, hai loại trước thông thường sau khi hoàn thành sứ mệnh, kết thúc nhân duyên thì đều quy vị, nhưng còn loại sau cùng kia thì hầu như toàn bộ đều bị đánh chết cả. Đây không phải chỉ bởi nguồn nguyên lai sinh mệnh của chúng khác biệt, mà còn bởi thái độ khác nhau của họ đối với việc tu luyện này.
Trong “Tây Du Ký”, thầy trò Đường Tăng đi sang đất Phật thỉnh cầu chân kinh, thật ra cũng chính là quá trình tu luyện tìm Đạo cầu Đạo của con người ta, nợ nghiệp của tự thân mỗi người dẫn đến trùng trùng quan nạn trên con đường tu luyện. Những yêu quái “có lai lịch” ngăn trở họ, một mặt xem như giúp họ tiêu trừ nợ nghiệp, một mặt khác cũng là khảo nghiệm cái tâm hướng Phật của họ có kiên định hay không, chứ không có thật sự ngăn trở họ tu luyện. Hơn nữa, không kể loại yêu quái này hành ác như thế nào, một khi nhìn thấy chủ nhân của mình (các lộ Phật, Đạo, Thần) đều hết sức cung kính hiện lại nguyên hình.
Còn những yêu ma quỷ quái thật sự kia thì bản chất lại là tà ác, ngăn trở thầy trò Đường Tăng cầu Chính Pháp phổ độ chúng sinh, không chỉ làm hại chúng sinh, mà còn có tâm bất kính đối với Thần Phật, thế nên kết cục cuối cùng đều bị diệt trừ hoàn toàn.
Hàm ý Tây Du Ký: Tín Phật cầu Chính Pháp là con đường đúng đắn nhất của đời người
Từ xưa đến nay, con người tu luyện cầu Chính Pháp đều được xem là một việc thần thánh, Thần Phật đều sẽ âm thầm giúp đỡ. Còn như ngăn cản con người ta tu luyện tìm cầu Chính Pháp ắt là tà ma, nếu cứ một mực khăng khăng cố chấp làm vậy, cuối cùng sẽ bị tiêu diệt.

Nhưng Phật gia giảng duyên phận, cũng giảng phổ độ chúng sinh, vậy nên Thần Phật đối với những sinh linh còn có thiện niệm (bao gồm cả yêu quái), đều mở cho một lối thoát. Ví như Hồng Hài Nhi, tuy tiểu yêu vương đó cuồng vọng vô tri, nhưng Quan Âm Bồ Tát niệm tình y còn có duyên phận có thể cứu độ được, bèn độ hóa y thành Thiện Tài Đồng Tử, từ đây sống cuộc sống tiêu diêu tự tại nơi cõi Phật.
Tuy Thần Phật đều là lấy từ bi làm gốc, nhưng không phải sinh mệnh nào cũng đều có thể cảm niệm từ bi của Thần, cũng như trân quý duyên phận này. Bò cạp tinh chính là như vậy. Nói đến bò cạp tinh này, thì nó cũng được tính là sinh mệnh có duyên với Thần Phật, có đạo hạnh tu hành cả nghìn năm, còn có duyên đến chùa Lôi Âm nghe Phật Như Lai giảng Pháp. Nếu nó có thể thành tâm hướng Phật, tu bỏ ma tính, hẳn cũng có thể tu thành chính quả. Nhưng nó lại không biết trời cao đất dày, không những không thành kính tu hành, còn lấy oán báo ân đốt Như Lai một cái.
Đúng là nhân nào quả nấy, mặc nó có nghìn năm đạo hạnh và Phật duyên không tệ, bất kính Thần Phật thì không còn tương lai có thể nói nữa. Thế là, nguyên là sinh mệnh với duyên phận có thể được hóa độ, cuối cùng bị Mão Nhật Tinh Quan đoạt đi sinh mệnh. Có bài thơ làm chứng:
Cổ dài mào đỏ lông mơ,
Cựa dài, móng sắc mắt đưa lộn sòng,

Năm đức tỏ rõ oai phong,
Ba canh báo sáng, tiếng đồng xa ngân
Phải đâu tông giống gà trần.
Vốn là tinh tú ân nhân cõi trời.
Ác độc tu luyện công toi,

Hoàn nguyên bản tướng đi đời nhà ma!
Vậy nên, thái độ đối với Thần Phật cũng chính là quyết định tương lai của chúng sinh. Một sinh mệnh nếu cứ một mực cuồng vọng làm điều gian ác, bất kính đối với Thần Phật, thậm chí ngăn trở con người ta tu luyện Chính Pháp, nghịch thiên hành sự, thế thì vô luận nó có bản sự lớn đến đâu, cuối cùng cũng đều khó tránh khỏi Trời phạt, tự nhận lấy ác quả của mình. Cũng như bò cạp tinh trong “Tây Du Ký”, tự cậy mình yêu lực cao siêu, thậm chí ngay đến cả Tôn Ngộ Không, Quan Âm Bồ Tát cũng đều không thể đối kháng trực diện với nó, nhưng cuối cùng cũng khó thoát khỏi cái chết.
Nếu một sinh mệnh có thể ôm giữ thiện niệm đối với Thần Phật và Chính Pháp, đó cũng là trân quý bản thân vậy. Người thông tuệ thường hay biết mượn những câu chuyện xưa mà ngẫm lại mình, như câu người xưa thường hay nói: “Lòng người sinh một niệm, trời đất đều tỏ tường. Thiện ác nếu không báo, càn khôn ắt vị tư”.
Theo secretchina.com
Thuận An biên dịch


(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Thành viên BQT
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Tây Du Ký: Một thiện niệm hóa giải cơn đại hạn, cứu nạn dân khỏi cái chết cận kề

Người bình thường chúng ta, đối với một suy nghĩ, một ý niệm nào đó thông thường không quá để tâm. Một niệm thiện hay một niệm ác có sức mạnh lớn đến thế nào, mang đến điều gì cho bản thân thì lại càng không ai bận tâm. Nhưng trong Tây Du Ký, chỉ một niệm thiện, Quận hầu quận Phượng Tiên đã hóa giải được đại hạn, cứu giúp dân chúng khỏi cảnh khô hạn, ly hương.
Tây Du Ký, hồi thứ 87:
“Quận Phượng Tiên khinh trời bị hạn, Tôn Đại Thánh khuyến thiện làm mưa”, thầy trò Đường Tăng tiến vào quận Phượng Tiên, nước Thiên Trúc, nhìn thấy quan sai đang dán bảng cáo thị. Bốn thầy trò nhìn bảng cáo thị mới biết được rằng quan sai đang tìm kiếm pháp sư cầu mưa cho dân chúng. Đường Tăng nói với ba đồ đệ:
– Ai biết cầu đảo thì cầu một trận mưa ngọt cho họ để cứu muôn dân. Đó là một việc rất thiện đấy. Bằng không thì đi ngay kẻo nhỡ độ đường.
Hành Giả nói:
– Cầu đảo có gì là khó! Lão Tôn đây lật sông dốc biển, đổi vật dời sao, phun mây nhả mù, đuổi trăng gánh núi, lật trời đào giếng hô gió gọi mưa. Những việc ấy chỉ là trò trẻ con, có gì là ghê gớm?
Thế là thầy trò Đường Tăng bèn lưu lại nơi đây, tới của Quận hầu bàn đại sự. Trong truyện kể rằng, Ngộ Không bắt quyết niệm chân ngôn đã mời được lão long vương Đông Hải là Ngao Quảng tới, nhờ cho một trận mưa lành. Nhưng bởi vì không có thánh chỉ của Ngọc Đế, Long Vương không dám tùy tiện cho mưa xuống. Ngộ Không liền tìm tới Thiên cung xin thánh chỉ. Chẳng ngờ lên tới nơi, Hành Giả mới hiểu được nguyên nhân thực sự vì sao quận Phượng Tiên gặp đại hạn lâu như vậy.
Thượng đế nói:
– Ba năm trước đây, vào ngày hai mươi nhăm tháng mười hai, trẫm xuất hành đi du lãm muôn phương, ngao du ba cõi, trẫm thấy tên Thượng Quan ấy đang làm việc bất nhân, quẳng những thứ để thanh khiết cúng Thượng Đế cho chó ăn, miệng lại nói những lời bẩn thỉu, mắc tội mạo phạm. Trẫm lập tức sai làm ba việc ở trong điện Phi Hương. Các ngươi hãy dẫn Tôn Ngộ Không vào xem, nếu thấy ba việc đó đổ hỏng cả thì sẽ xuống chiếu cho phép làm mưa. Bằng không thì đừng có nói cho rườm lời.
Chính là bởi vì vợ của Quận Hầu quận Phượng Tiên dùng lời ác ngôn tranh cãi với chồng. Hai vợ chồng họ sau một hồi tranh cãi đã nhất thời giận dữ đẩy ngã bàn thờ, bài vị, đập vỡ bát hương. Vợ ông không ngừng dùng lời lẽ xú uế, bẩn thỉu mạo phạm Thượng đế và cuối cùng đã gọi chó đến ăn mâm cỗ cúng tế Thần linh bị xô đổ xuống đất. Hai vợ chồng họ quả thực đã phạm tội với Thượng Thiên. Vậy ba việc mà Ngọc Hoàng lập ra là gì?
Trong truyện kể rằng, khi bốn Thiên sư dẫn Hành Giả vào trong điện Phi Hương xem xét, thấy có một tòa núi gạo cao chừng mười trượng, một tòa núi bột cao chừng hai mươi trượng. Bên tòa núi cao có một con gà nhỏ bằng nắm tay đang thủng thẳng mổ gạo ăn. Bên tòa núi bột có một con chó sư tử lông vàng đang thong thả liếm bột. Bên trái kê một chiếc giá sắt, trên giá treo một chiếc khóa vàng dài chừng một thước ba bốn phân. Cần khóa to bằng ngón tay, bên dưới đặt một chiếc đèn đang thắp sáng, ngọn lửa cháy tới cần khóa.
Các Thiên sư giải thích với Hành Giả rằng:
– Người ấy xúc phạm Thượng Thiên, Thượng Đế bèn nghĩ ra ba việc này. Chừng nào con gà mổ hết gạo, con chó liếm hết bột, ngọn đèn đốt đứt cần khóa, lúc ấy mới làm mưa.
Tôn Ngộ Không nghe xong sợ hãi tái mặt, không dám thưa chuyện, đành xấu hổ bước ra ngoài điện. Tôn Ngộ Không trước đây từng vì “đại náo thiên cung” mà phạm tội bất kính với trời, cuối cùng bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt ở dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm. Hơn ai hết, Hành Giả hiểu rõ rằng không có tội nào lớn hơn tội bất kính với Thượng Thiên. Chính vì hiểu được điều đó nên Ngộ Không cũng chẳng dám đi bái kiến Ngọc Đế. Nhưng nếu không cầu được mưa thì dân chúng quận Phượng Tiên phải chịu cảnh khổ cực mà chết dần. Phải làm sao đây?
Lúc bấy giờ, bốn Thiên sư cười cũng nhắn nhủ lại với Hành Giả một điều quan trọng, có thể giúp Quận hầu quận Phượng Tiên “đoái công chuộc tội”:
– Đại Thánh đừng buồn. Việc này chỉ có làm việc thiện mới giải được thôi. Một ý nghĩ thiện, kinh động cả Thượng Thiên, núi gạo núi bột khi ấy sẽ sụp đổ, cần khóa cũng sẽ đứt. Đại Thánh cứ về khuyên hắn theo thiện, thì phúc quả tự khắc sẽ đến.
Ngộ Không trở về hạ giới liền nói nguyên nhân cho Quận hầu và khuyên nhủ rằng:
– Ngài đã hồi tâm hướng thiện thì hãy niệm Phật tụng kinh ngay đi, có gì ta sẽ giúp cho. Còn nếu cứ giữ thói cũ chẳng chịu sửa đổi, thì ta chẳng thể cứu nổi, và chẳng bao lâu nữa, chính ngài cũng bị trừng phạt, tính mạng khó toàn.
Quận hầu vốn là người tốt, lập tức lĩnh ngộ ra ngay, cúi đầu lạy thề nguyện quy y. Ngay hôm ấy cho mời hết tăng đạo trong vùng, dựng một đạo tràng, mọi người thảo bức sớ tâu với tam thiên. Quận hầu dẫn mọi người tới thắp hương lễ bái, tạ ơn trời đất nhận hết lỗi lầm. Tam Tạng cũng tụng kinh giúp họ. Mặt khác, lại phi báo cho dân chúng khắp thành, bất kể già trẻ gái trai đều phải thắp hương niệm Phật. Từ lúc ấy, tiếng thiện vang khắp nơi.
Thiện niệm ấy một khi khởi lên thì đã kinh động đến tận Thượng Đế. Chỉ trong chớp mắt núi gạo, núi bột bỗng nhiên sụp đổ, xích khoá cũng tự đứt rời. Ngọc Đế thấy Quận hầu thành tâm sửa đổi tâm tính nên lập tức truyền chỉ cho các chính Thần ban mưa cho dân chúng nơi đây.

Tích truyện nổi tiếng này của Tây Du Ký có lẽ đã được nhiều người biết đến. Nhưng ý nghĩa thâm sâu của nó thì lại không mấy người tỏ tường. Câu chuyện cho ta thấy rằng, mỗi một khổ nạn, tai hoạ mà người ta phải chịu đều không hề ngẫu nhiên, đều là có nguyên nhân sâu xa cả. Khi đạo đức bại hoại, chuẩn mực tâm tính của con người đi xuống, làm sao mà Trời cao có thể nhắm mắt làm ngơ đây? Mọi khổ ải trong đời người đều là do tự mình chuốc lấy. Cái lý nhân quả báo ứng cũng cùng là một ý như thế này.
Tuy nhiên, là con người xuống đến thế gian này ai mà không gây tội nghiệp đây? Ở trong cõi mê, người ta thậm chí không thể tự ý thức được rằng mình đang tạo ra tội lỗi. Nhưng Trời cao có đức hiếu sinh, Thần Phật cũng luôn mở một lối quay về cho con người. Khi con người thực sự có thể xuất ra thiện niệm thì sức mạnh ấy là to lớn vô cùng, có thể đánh động đến cả Thần linh.
Thần Phật luôn từ bi và luôn cho con người thật nhiều cơ hội để tự cải biến nhân tâm của mình. Mọi khổ nạn trong đời, chỉ có thể dùng thiện niệm, lòng từ bi để hoá giải. Vậy nên người xưa mới có câu: “Phật tính nhất xuất chấn động thập phương thế giới” (Phật tính một khi xuất ra thì chấn động mười phương thế giới).
Tiểu Lý – Mai Trà
Tham khảo: Secret China

(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Users search this thread by keywords

  1. https://diendanphatphap.com/diendan/threads/an-y-truyen-tay-du.38049/
Top