Ẩn ý Truyện Tây Du

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Bình «Tây Du Ký» từ góc độ người tu luyện (III)


Facebook
Tác giả: Kim Cung

[Chanhkien.org]
Người Trung Quốc có câu thành ngữ, gọi là “tâm viên ý mã”, có nghĩa là mơ tưởng hão huyền, muôn vàn tâm tư, suy nghĩ vẩn vơ, v.v. Trong «Tây Du Ký», câu này lại để chỉ Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã, ám chỉ rằng khi tu luyện, Huyền Trang không được phép nới lỏng họ, nếu không ở không gian người thường sẽ có biểu hiện chính là không nhập định được, chưa đủ tâm thanh tịnh; còn tại một không gian khác lại có biểu hiện là Huyền Trang vì tự bản thân không buông bỏ được tâm chấp trước, hoặc là tâm chấp trước của Ngộ Không chưa được vứt bỏ, dẫn đến thầy trò tạm thời chia lìa.
Ngộ Không vừa mới khởi hành đã gặp phải sáu tên cướp chặn đường, đại biểu cho “lục căn” mà người tu luyện không thể bị mê hoặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Ngộ Không vừa trừ căn chúng, Huyền Trang đã không chịu nổi, bèn lên tiếng dạy bảo Ngộ Không. Huyền Trang lấy Thiện ngôn để khuyên giải, chỉ rõ đạo lý tu Thiện cho Ngộ Không; tuy nhiên “lục tặc” này thực ra là thể hiện của chấp trước ở không gian khác, tương đồng với nghiệp lực, không thể lưu tình với chúng. Huyền Trang dạy bảo một hồi thì biểu lộ tâm lo lắng rất nặng, không còn là Thiện tâm thuần chính nữa; cộng thêm Ngộ Không tuy trừ ác dương Thiện, nhưng vẫn còn chấp trước, khiến thầy trò chia ly lần thứ nhất, lần đầu tiên “tâm viên” bị thả ra.
Cũng may Ngộ Không ngộ tính tốt, được Long vương dùng điển cố “ba lần dâng giày ở Cầu Dĩ” cảm động, quyết tâm trở về bảo hộ Đường Tăng tiếp tục tu luyện. Đường Tăng lúc này đã được Quan Âm Bồ Tát ban cho Vòng Kim Cô và thần chú “Định Tâm” để sau này hàng phục Ngộ Không. Quả nhiên Ngộ Không vừa về đã phải chịu khổ để kiềm chế tâm kiêu ngạo, một lòng theo Đường Tăng đi về Tây. Còn tâm “hành Thiện với tà ác” của Huyền Trang sau này cũng khiến ông chịu rất nhiều đau khổ.
Tới lúc thu phục Bạch Long Mã, bởi vì tâm kiêu ngạo của Ngộ Không trỗi dậy rất mạnh, không nói rõ danh tính mà đã tranh đấu với Bạch Long Thái tử, tự dưng thêm vào một nạn nữa. Bồ Tát giúp Ngộ Không hàng phục Bạch Long xong mới giảng ra cái Lý này, Huyền Trang từ đó cũng thu được “ý mã”.
Ngộ Không lúc đầu chính là vì khởi tâm hiển thị mà bị Bồ Đề Tổ sư đuổi khỏi sư môn, lần này tại Quan Âm viện cũng là vì đem khoe áo cà sa nên mới bị yêu quái gấu đen lấy trộm mất. Đồng thời Kim Trì trưởng lão khẩu Phật tâm ma, hại mình hại người, đã mất mạng còn bị cháy mất tự viện, tu hành nửa chừng, vẫn bị đọa luân hồi. Đúng là một khi khởi tâm chấp trước liền lập tức chiêu mời ma.
Lúc Bồ Tát hạ sơn theo Ngộ Không vào hang gấu hàng ma, đã chiểu theo mưu kế của Ngộ Không mà biến thành yêu quái sói xám. Sau khi biến hóa, Ngộ Không nói: “Bồ Tát yêu tinh hay yêu tinh Bồ Tát đây?” Bồ Tát cười điểm ngộ: “Bồ Tát hay yêu tinh, âu chỉ một niệm.” Có thể thấy tu thành Phật hay đọa đường ma đều là do tự bản thân mình cả. Sai biệt một niệm dẫn đến kết quả khác nhau.
Bát Giới sau khi được thu phục vẫn không cải biến sắc tâm. Tham ăn lười biếng, oán thán đầy bụng, hoàn toàn không giống người tu luyện. Ngộ Tịnh quy y tại Lưu Sa hà, gia nhập đoàn thỉnh kinh. Để thử tâm mấy thầy trò xem có kiên định hay chăng, Lê Sơn Lão mẫu cùng ba vị Đại Bồ Tát biến hóa thành gia đình bà quả phụ. Khi Lê Sơn Lão mẫu đề xuất việc kén rể, tâm mỗi người lập tức sáng tỏ ngay: Tâm lấy kinh của Tam Tạng tuy vững như bàn thạch, nhưng tâm sợ hãi và lo lắng vẫn đi theo ông như hình với bóng; Ngộ Không trời sinh vô tâm sắc dục, vả lại biết rõ việc này là các vị Bồ Tát thử tâm mấy thầy trò nên càng bất động tâm; Sa Tăng thần thông có hạn, căn cơ bình thường, nhưng tâm tu luyện thì vô cùng kiên định; chỉ duy Bát Giới vẫn còn sắc dục, đã ham phú quý lại thiếu siêng năng, cuối cùng vấp ngã rất nặng.
Kế đó tới Ngũ Trang quán, là một đại kiếp nạn, tuy nhiên nạn này cùng với tâm chấp trước chưa buông bỏ được của đoàn thỉnh kinh có quan hệ mật thiết với nhau. Chủ Ngũ Trang quán là một vị Chân Nhân của Đạo gia, đạo hạnh thâm sâu, tầng thứ rất cao, tuy nhiên Ngộ Không lại chưa biết tiếng nên mới gây ra mầm tai họa xuất phát từ tâm kiêu ngạo và oán hận của mình. Đồng thời tâm sợ hãi và lo lắng của Tam Tạng cũng châm ngòi sự việc: vì ông sợ ăn Nhân Sâm quả mà khiến đồ đệ phải hái trộm. Tâm tham ăn của Bát Giới càng đổ thêm dầu vào lửa, xui khiến Ngộ Không trộm Nhân Sâm quả. Ăn xong Nhân Sâm quả rồi, ba người lại chối cãi, Tam Tạng khuyên giải một hồi để Ngộ Không hồi tâm chuyển ý, thừa nhận sai lầm, chẳng qua vì Ngộ Không sơ ý mà dẫn tới hiểu nhầm, khiến hai đạo đồng chửi rủa ầm lên. Kỳ thực cũng bởi Ngộ Không tính Nhẫn quá thấp, một chút uất ức cũng không chịu được, nếu không giải quyết có khó gì? Sau khi đánh bật gốc cây tiên, tội lại thêm tội, đoàn thỉnh kinh lại không muốn chịu trách nhiệm, muốn đào tẩu. Đến lúc Trấn Nguyên Tử quay về rồi, bắt bốn người trói lại đó chờ xử phạt. Ở đây lưu ý điểm này, Trấn Nguyên Tử là bậc Chân Nhân đắc đạo, tuyệt không phải là vì phẫn nộ mà trả thù bốn thầy trò Tam Tạng, mà là sau khi tươi cười nghe hai đạo đồng thuật lại rồi mới làm, không hề nổi nóng. Mà việc ông làm cũng phù hợp với đạo lý thường tình: Làm sai thì phải hoàn lại, đánh bật gốc cây tiên rồi thì phải tìm cách chữa trị. Ông chỉ là duy hộ cái Lý tại cảnh giới của tầng thứ ấy mà thôi, chứ không như người thường vẫn tưởng. Sau khi Ngộ Không nhờ được Pháp lực của Quan Âm Bồ Tát chữa lành cho cây, Trấn Nguyên Tử lập tức thi hành lời hứa, kết giao cùng Ngộ Không, qua sự việc này cũng khiến Ngộ Không minh bạch hậu quả nghiêm trọng của việc “không thể Nhẫn” là như thế nào.
(Còn tiếp)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/3/24/36158.html
Ngày đăng: 09-03-2011
(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Bình «Tây Du Ký» từ góc độ người tu luyện (IV)


Facebook
Tác giả: Kim Cung

[Chanhkien.org]
Bạch Cốt Tinh ba lần trêu Đường Tăng, khiến ông đuổi Ngộ Không, cũng là lần thứ hai ông để sổng “tâm viên”. Một là Huyền Trang thiện tâm không thuần, bất phân thị phi, trong mệnh vốn đã có nạn này; hai là Bát Giới tâm tật đố, sắc tâm không bỏ xúi bẩy gây chuyện; ba là Ngộ Không phải gặp kiếp nạn này để trừ bỏ tâm kiêu ngạo: trên đường tu luyện người tu luyện phải gặp oan ức lớn như vậy, rõ ràng cứu người, trừ ác dương thiện, vậy mà bị đối xử bất công như vậy, liệu tâm tu luyện còn kiên định bất di, tự mình ma luyện, không oán không hận hay không? Ngộ Không tuy bị Huyền Trang đuổi đi, song trong tâm vẫn muốn tu luyện, về sau trên đường đi Tây Thiên đã có chuẩn bị; vừa về thì thấy Hoa Quả Sơn gặp nạn, Ngộ Không nhân cơ hội này quét sạch lũ thợ săn, trùng tu đất cũ, có lẽ đây cũng là số Trời.
Sau khi Huyền Trang gặp nạn ở rừng Hắc Tùng, mọi người bó tay không có cách nào, Bạch Long Mã thỉnh cầu Bát Giới đi mời Ngộ Không trở lại bảo vệ Đường Tăng. Ngộ Không không chấp chuyện cũ, thu được tâm kiêu ngạo và cuồng vọng, qua được quan ải tâm tính này; còn Huyền Trang chịu đợt khổ này, cuối cùng cũng vượt quan.
Trước lúc sang Tây Thiên thỉnh kinh, chúng tăng hỏi đường xá xa xôi hiểm ác thế nào, Huyền Trang đáp: “Tâm sinh, đủ loại ma sinh; tâm diệt, đủ loại ma diệt“. Có thể nói điều này thể hiện lĩnh ngộ của Huyền Trang đối với kinh Phật. Tuy nhiên khi trên đường, mỗi quan đều gặp ma, tính mệnh thường nguy hiểm, tâm người thường của ông lại thường lộ rõ. Từ đó có thể thấy tu luyện không chỉ là có thể lý giải lý luận hay không, mà nhất định phải thực tại và chân chính từ bỏ những tâm ấy. Cũng may có Ngộ Không hết lần này đến lần khác điểm hóa ông, bảo hộ ông, khích lệ động viên ông, ông mới có thể từ bỏ một số tâm.
Lại nói về chuyện hàng yêu ở nước Ô Kê, mặc dù yêu tinh chiếm ngôi vua, nhưng không có quan hệ nhân duyên thì cũng không cho phép. Chính bởi vì quốc vương năm ấy khiến tăng nhân mà Văn Thù Bồ Tát biến thành phải chịu khổ ba ngày, nên mới dẫn tới tai họa ba năm dưới đáy giếng ngày nay. Song ông Trời rất công bình, tuy trừng phạt quốc vương, để yêu quái sư tử thế chỗ ba năm, nhưng cai trị quốc gia mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, không hề phạm vào cung tần, không hoại nhân luân.
Lúc Huyền Trang lộ ra tâm nhớ nhà, Ngộ Không lập tức điểm ngộ đạo lý “bỏ công tất có thành quả”. Tuy nhiên năm ấy Quan Âm Bồ Tát hóa thân đến Đông Thổ tìm người thỉnh kinh có nói rằng trong hai ba năm là có thể đến Tây phương Tịnh Độ rồi, câu nói này cũng là một khảo nghiệm cho đoàn thỉnh kinh: phải chăng vẫn còn chấp trước vào thời gian viên mãn? Liệu muốn tìm đường tắt ư? Chẳng ngờ quá trình tu luyện là quá trình liên tục tống khứ tâm chấp trước; tâm khứ nhanh thì viên mãn nhanh; tâm khứ chậm thì thời gian trì hoãn mãi. Bởi vậy muốn mau chóng lấy được chân kinh thì chỉ uổng công, tu luyện tâm tính là một chút cũng không được qua loa. Có lẽ nếu Huyền Trang và các đồ đệ thật sự vứt bỏ tâm chấp trước, quyết tâm sang Tây Thiên thì chắc chỉ hai ba năm là đến rồi.
Sau đó rất nhiều quan và nạn không hề trực tiếp nhắm vào đoàn thỉnh kinh mà đến, hoặc là lê dân chịu nạn, hoặc là chúng tăng gặp kiếp. Làm người tu luyện thì không thể khoanh tay đứng nhìn, đối với những sự việc liên quan đến nhân mạng, nếu như không quản mà cứ đi thẳng về Tây thì e rằng vẫn chưa qua được quan ải tâm tính ấy.
Sau đó, Huyền Trang lại một lần nữa để sổng “tâm viên”, đây là một lần tối nghiêm trọng. Ngộ Không nổi hung tâm đánh chết mấy tên cướp, Huyền Trang niệm chú xiết vòng Kim Cô không ngừng, Ngộ Không lại một lần nữa bị đuổi. Ngộ Không đến Bồ Tát cáo trạng, Bồ Tát phán xử theo lẽ công bằng, nói về tội sát sinh, nhưng Ngộ Không lần này muốn bỏ tu luyện, về Hoa Quả Sơn làm người thường. Trong «Tây Du Ký» tuy nói không nhiều, rất ít bình luận, nhưng thiết tưởng có một tâm tối nghiêm trọng mà người tu luyện đại kỵ, đó chính là phản bội sư môn, một khi xuất tâm loại này là có thể không tu luyện được nữa, hậu quả nghiêm trọng như vậy. Ngộ Không tuy chưa bỏ hẳn nhưng đã phải trả một giá rất đắt: cùng Lục Nhĩ Mỹ Hầu biến thành giả Ngộ Không đánh nhau đến mức tối trời mịt đất. Kỳ thực ở không gian bề mặt chính là tranh đấu giữa Phật tâm kiên định tu luyện và ma tâm, cuối cùng phải nhờ Như Lai mới có thể hóa giải nạn này. Có thể thấy một khi sản sinh tâm loại này thì sẽ tạo thành ma nạn lớn đến thế nào.
Đoạn về Hỏa Diệm Sơn tả rất rầm rộ sôi nổi, mà ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn đúng lúc ngăn trở đường sang Tây Thiên, cũng là bốn thầy trò muốn tu luyện thì nhất định phải vượt qua quan này. Ngộ Không dùng mưu lấy được quạt Ba Tiêu, nhưng vì khởi tâm hoan hỉ nên bị lừa đoạt lại, mãi đến khi vứt bỏ tâm này mới thu phục được Ngưu Ma Vương, lấy được quạt Ba Tiêu cắt đứt hỏa căn, đạt được tâm thanh tịnh.
Bởi vì Kim Thiền Tử nguyên do khởi tâm thất lễ với Phật Pháp mà bị giáng hạ, do vậy khi tu luyện trong mê lần này ông có lĩnh hội, phát nguyện “gặp chùa bái Phật, gặp tháp quét tháp”, tâm kính Phật kính Pháp quả là vô cùng thuần tịnh kiên định.
Sau đó tại Mộc Tiên Am luận thơ, nạn này kỳ thực chính là do Huyền Trang mãi không khứ tâm cầu an dật mà dẫn tới. Huyền Trang cùng đám yêu cây ngâm thơ chính là tâm truy cầu thú vui của người thường, vả lại được đám yêu tán tụng, càng thêm lâng lâng tự đắc, dẫn khởi yêu tinh Hạnh Tiên tới cám dỗ sắc dục. Cũng may ý chí khứ sắc tâm của Huyền Trang mười phần kiên định, như vừa tỉnh mộng, mới thoát được nạn này. Nhưng tâm cầu an nhàn này kéo dài và trở thành tâm cầu viên mãn của người tu luyện, từ đó dẫn tới cú vấp ngã lớn tại chùa Tiểu Lôi Âm.
Phật vì năm người mà an bài một nạn này để tất cả cùng đề cao tâm tính mà vượt qua. Tâm sợ hãi của Đường Tăng một lần nữa bị yêu ma lợi dụng. Hết nạn này, đến khi Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới nhận ba hoàng tử làm đồ đệ, tự mình làm “sư phụ” dạy họ thì lập tức chiêu mời yêu quái “sư tử” tới, có thể thấy trở ngại do tâm muốn làm thầy người khác là lớn như thế nào. Do vậy tất nhiên nguyên nhân ba người bị mất binh khí cũng chính là xa rời Pháp, nên mới khiến sư tử quái ăn trộm binh khí. Như vậy đủ thấy làm người tu luyện thì thời thời khắc khắc không thể ly khai Pháp, nếu không lập tức xuất hiện phiền phức.
(Còn tiếp)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/3/26/36188.html
Ngày đăng: 11-03-2011
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Bình «Tây Du Ký» từ góc độ người tu luyện (V)


Facebook
Tác giả: Kim Cung

[Chanhkien.org]
Trên đường đi, Đường Tăng bộc lộ rõ ràng nhất là tâm sợ hãi và lo lắng, thế nhưng mãi không khứ được, vẫn cứ sợ bị yêu ăn thịt, tâm tư rối loạn. Một lần ông trông thấy có núi cao chặn đường, lại sợ có yêu quái. Ngộ Không thấy nơi đây đã gần đến Tây Thiên, nên nói rằng ở gần đất Phật thì không có yêu để trấn an ông. Nhưng Đường Tăng vẫn mãi băn khoăn đường xa đường gần, Ngộ Không bèn hỏi xem ông còn nhớ “tâm kinh” không, Đường Tăng nói rằng vẫn chưa quên, Ngộ Không nói rằng cứ niệm thì không việc gì là không giải được. Pháp lý ở tầng thứ cao thì không có cách nào dùng ngôn ngữ mà nói xuất lai được, nhưng có thể thấy rằng nếu thuộc kinh văn rồi thì có thể thật sự thiểu theo yêu cầu Pháp lý mà làm, ấy chính là “Sự sự đối chiếu, Tố đáo thị tu” vậy!
Nạn cuối cùng mà bốn thầy trò và Bạch Long Mã phải trải qua để đến được Tây phương Tịnh Độ rất đáng để người ta suy ngẫm: Không phải là yêu ma cản đường, cũng không phải là hôn quân diệt Phật, mà lại là một điều rất “vụn vặt” chẳng oanh liệt gì. Trên đường đi có Khấu viên ngoại, hay thiện trai tăng, phát nguyện bố thí cơm chay cho một vạn vị tăng. Vừa đúng lúc bốn thầy trò tới, cũng vừa đủ số một vạn, viên ngoại ân cần khoản đãi. Bởi vì Bát Giới trước sau không khứ được tâm tham ăn, lại gặp viên ngoại hào phóng, thế là cứ ngồi ăn luôn không muốn đi tiếp nữa. Còn ba người kia tâm hướng Linh Sơn, phải lo lên đường sớm. Cuối cùng Đường Tăng “mắng” bắt Bát Giới lên đường, viên ngoại thì bày tiệc lớn, phô trương lãng phí để tống biệt chúng tăng. Kết quả làm đám cường đạo thèm đến nhỏ dãi, ban đêm chúng xông vào cướp, đá chết viên ngoại, vợ viên ngoại tức quá hóa giận, vu oan hãm hại bốn thầy trò là hung thủ, báo quan bắt giam bốn thầy trò. Về tai họa giam ngục này Ngộ Không đã sớm biết rõ, nguyên Đường Tăng là phải chịu nạn này. Nhưng đã là thường nhân gặp nạn, tất sẽ có người không rõ chân tướng hoài nghi về Thiên Lý “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, cho rằng Khấu viên ngoại trai tăng một vạn nhưng phải gặp bất trắc. Bởi vậy đoàn thỉnh kinh nhất định phải hóa giải nạn này, đưa chân tướng phơi bày trước toàn thiên hạ. Kỳ thực hành vi lương thiện của viên ngoại đã cải biến vận mệnh của ông, người thường cũng chính là cần phải trong mê và luân hồi mà chịu khổ. Giả sử viên ngoại không kính Phật trai tăng, vận mệnh của ông có lẽ là trăm tuổi rồi chuyển thế theo nghiệp lực luân báo. Nhưng thiện niệm thiện hành của ông đã khiến tai nạn mà ông phải gặp đến trước thời hạn, đưa ông đến một nơi tốt đẹp: tạm làm chưởng án giữ sổ bộ thiện duyên của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đồng thời Tam Tạng vẫn còn tâm chấp trước: quá coi trọng chiếc áo cà sa bằng gấm. Ngộ Không mượn cơ hội để giúp ông vứt bỏ tâm này, lại khiến quan phủ vì thấy vật này mà biết đoàn thỉnh kinh thân phận không phải tầm thường, chuẩn bị sửa lại án sai. Cuối cùng viên ngoại trở về Dương gian, án oan được giải, đồng thời chứng thực Thiên Lý “thiện ác hữu báo”, bốn thầy trò tiếp tục lên đường.
Đến Tây Thiên rồi, Tiếp Dẫn Phật Tổ dùng thuyền không đáy chở người qua sông, Ngộ Không giúp Đường Tăng vứt bỏ chấp trước sinh tử, rũ bỏ nhục thân, thoát thai hoán cốt.
Chấp trước vào chiếc áo cà sa bằng gấm chẳng khác gì dùng quan niệm và cái “tình” của con người để đối đãi với Giác Giả; chấp trước vào cái bát vàng (Ghi chú: vật báu mà Đường Thái Tông tặng Đường Tăng trước lúc lên đường, sau này A Nan và Ca Diếp đòi cái bát rồi mới cấp chân kinh; độc giả vẫn nhầm tưởng đây là chuyện “nhận hối lộ”.) cũng chính là cái tình “trung với Vua” của người thường. Tất nhiên người thường cần phải có quan niệm luân lý như vậy, nhưng người tu luyện thì không chấp trước vào chúng. Hơn thế nữa chân kinh khó đắc, qua sự việc này mới khiến người ta thấy nó trân quý, đồng thời cũng khiến Đường Tăng vứt nốt chấp trước vào cái bát, lại để ông vượt qua thêm một nạn “kinh không chữ” nữa, cuối cùng lấy được chân kinh.
Để xem có thể viên mãn hay chưa, Bồ Tát bấm tay và phát hiện thấy vẫn còn thiếu một nạn nữa, sau đó bèn bổ sung, khiến đoàn thỉnh kinh gặp nạn rơi xuống nước. Lúc phơi kinh làm rách mấy tờ giấy, Đường Tăng đang thương tiếc thì Ngộ Không điểm ngộ ông: “Ấy là tại Trời Đất bất toàn. Bộ kinh này vốn không đầy đủ, nay dính rách, âu cũng là một điều huyền diệu ứng với sự không trọn vẹn đó thôi. Sức người làm sao giữ được!” Nạn này là do Như Lai và Bồ Tát thêm vào lúc sau, kỳ thực cũng là ở trong tầm kiểm soát của các Giác Giả. Mà phàm là người tu luyện Đại Pháp, càng thấy cảm khái trước sự khiếm khuyết và bất toàn của cựu vũ trụ; nếu như không phải Sư Tôn mang theo Pháp Lý như ý viên dung vĩnh viễn mà đến thế gian, cựu vũ trụ có dùng hết sức cũng không có cách nào tự cứu vãn.
Lúc này tâm tính mỗi người đã đến chỗ cao nhất mà họ có khả năng tu đến rồi, do đó lúc mang chân kinh về đến Trung Thổ Đại Đường thì Bát Giới cũng không còn chấp trước nặng vào ăn uống nữa, Ngộ Không thì đã khiêm nhường nhã nhặn, hiểu rõ lễ nghi.
Lấy kinh xong, là lúc mọi người quy vị. Chiểu theo tâm tính cá nhân cao thấp ra sao mà mỗi người nhận quả vị cũng bất đồng. Đường Tăng được phong làm Chiên Đàn Công Đức Phật, Ngộ Không làm Đấu Chiến Thắng Phật, Sa Tăng làm Kim Thân La Hán, Bạch Long Mã làm Bát Bộ Thiên Long, Bát Giới làm Tịnh Đàn Sứ Giả. Ngộ Không trong toàn bộ quá trình tu luyện thì cả tâm tính và ngộ tính đều rất cao, Huyền Trang biểu hiện kém hơn khá nhiều, vì sao cuối cùng vẫn đắc quả vị tương đồng? Kỳ thực bởi vì Ngộ Không tu luyện thì dường như không tồn tại vấn đề “mê”, hết thảy đều nhìn một cái liền rõ ngay; còn Huyền Trang căn cơ rất tốt, rất có lai lịch, nhưng mê rất nặng, trên thực tế là rất khổ. Điều gì nhìn cũng không thấy, điều gì nghe cũng không biết, điều gì cũng không rõ, chính là chỉ một mực tu luyện bản thân; tu trong mê mà biểu hiện tâm tính cũng không thấp, chịu khổ nhiều hơn, do đó sau khi viên mãn thì ngược lại được quả vị cao. Sa Tăng căn cơ và ngộ tính có hạn, nhưng kiên định tu luyện, không oán không trách, tâm tính tu luyện một điểm cũng không qua loa, cuối cùng đắc được La Hán chính quả. Bạch Long Mã tuy rằng trên đường cực khổ, nhưng hầu như không tu luyện tâm tính, cũng như những người chịu khổ trong núi sâu rừng già mà tu, tu rất chậm, tu không cao, cuối cùng không xuất khỏi Tam Giới. Còn Bát Giới tuy có cơ hội tu luyện tâm tính, nhưng bản tính quá mê, tâm sắc dục và đố kỵ mãi không khứ được, không đắc chính quả cũng là đương nhiên.
Đến đây quá trình tu luyện đã chấm dứt, trên đường đi đã cân bằng các chủng nguồn gốc ân oán, diệt trừ rất nhiều yêu tinh hại người, trừng trị rất nhiều hôn quân vô đạo, tỏ rõ Thiên Lý nhân duyên “thiện ác hữu báo”, hồng dương Phật giáo là chính giáo, đưa Đại thừa Phật giáo quảng truyền tại Trung Nguyên, cũng là gây dựng nền văn hóa tu luyện bác đại tinh thâm trong chỗ sâu thẳm linh hồn người Trung Quốc, đặt định cơ sở văn hóa tín Phật kính Trời để Đại Pháp quảng truyền trong tương lai. Mặc dù trong hơn 50 năm ác đảng Trung Cộng thống trị bằng máu, toàn bộ lịch sử và luân lý đạo đức đã bị bóp méo, những cố sự trong «Tây Du Ký» cũng khó thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng tùy theo sự biến hóa của hình thế Chính Pháp, con người tương lai đều sẽ thấy được lịch sử chân chính, trong đó cũng bao gồm những lý giải và đánh giá các cố sự trong «Tây Du Ký» một cách chính diện.
Bản thân là người tu luyện đồng thời cũng là người yêu thích «Tây Du Ký», tôi đã dùng lý giải của bản thân để phân tích ngắn gọn các cố sự tu luyện trong «Tây Du Ký». Nhưng dù sao tầng thứ cũng có hạn, nội hàm thâm sâu hơn còn phải đợi các đồng tu chỉ rõ.
(Hết)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2006/3/28/36209.html
Ngày đăng: 12-03-2011
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (1)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org] “Tây Du Ký” từ khi ra đời đến nay vẫn luôn nhận được sự yêu mến của mọi người. Người ta không chỉ yêu thích các hình tượng nhân vật trong đó, tình tiết trong đó, mà cả tinh thần lạc quan hướng thiện thể hiện trong tác phẩm. Nhận thức của người Trung Quốc đối với tu luyện, Thần Phật, thế giới thiên quốc, yêu ma quỷ quái, rất nhiều đều có liên quan với “Tây Du Ký”. Về nội hàm và ý nghĩa chính của “Tây Du Ký” luôn có nhiều cách nói khác nhau và phức tạp, khó có thể đưa ra được kết luận. Sau khi tu luyện, tôi đã có một tầng nhận thức tương đối sâu, hôm nay chỉnh lý lại, mong muốn chia sẻ cùng quý độc giả.
I. Quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không
1. Bản lai diện mục của Tôn Ngộ Không

Mở đầu Tây Du Ký là nói về xuất thân của Tôn Ngộ Không, do một tảng đá tiên hấp thụ linh khí của trời đất và tinh hoa của nhật nguyệt mà sinh ra, theo cách nói của Bồ Đề Lão Tổ thì là “Trời Đất sinh ra”. Mục đích tác giả viết về Thạch Hầu này cũng được nói rất rõ ràng, trong truyện có câu thơ như sau: “Tá noãn hóa hầu hoàn Đại Đạo, Giả tha danh tính phối đan thành.” Lại nói, “Lịch đại nhân nhân giai chúc thử, Xưng thánh xưng vương nhậm tung hoành.” Vậy nên từ góc độ này mà nói, tác giả viết về quá trình Thạch Hầu cầu Đạo và tu luyện, cũng là đang giảng giải về quá trình tu luyện của một người.
Mỹ Hầu Vương từ Đông Thắng Thần Châu, đi qua Nam Thiêm Bộ Châu, cuối cùng tìm được Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hạ Châu. Con đường xa xôi thế này dù sao cũng chỉ là quá trình một người cầu Đạo trải qua, nhưng cuối cùng tìm được Tổ Sư ở nơi nào? Trong truyện viết là, “Linh Đài Phương Thốn sơn, Tà Nguyệt Tam Tinh động”. Ý hai câu này là nói về một chữ “tâm”, từ xưa người ta thường nói tâm thành “Linh Đài”, còn “Phương Thốn” cũng là để chỉ tâm, “Tà Nguyệt Tam Tinh động” lại càng dễ hiểu hơn, “Tam Tinh” (ba ngôi sao) chính là ba nét chấm của chữ “tâm” (心), “Tà Nguyệt” (vầng trăng khuyết) chính là nét móc nằm ngang. Mỹ Hầu Vương trải qua bao nhiêu gian khổ nguy hiểm, cuối cùng trong tâm của mình đã tìm được “chân Pháp” để tu luyện.
Câu nói này rất phù hợp với cách nói của Phật gia, chính là “Phật tại tâm trung”, tức “tâm là Phật”. Nhưng không phải nói rằng trong tâm có ông Phật, mà là nói phải hướng nội mà tu, hướng vào trong tâm của mình mà tu, thì mới tu thành Phật được. Bước đường Mỹ Hầu Vương dù đi qua được bao nhiêu, trải qua bao nhiêu năm tháng, cuối cùng tự trong tâm mình đã ngộ được chân Pháp chân Đạo. Vậy sư phụ Tu Bồ Đề Tổ Sư của Tôn Ngộ không là ai? Ông lẽ nào lại có thể ở trong tim của Mỹ Hầu Vương?
Trong truyện viết về Tôn Ngộ Không, có rất nhiều chỗ đều nhắc đến chữ “tâm viên” (tâm viên – ví một người nông nổi, tâm trí bất an như loài khỉ loài vượn luôn chạy nhảy). Hồi thứ 7 “Bát Quái lư trung đào đại thánh, Ngũ Hành sơn hạ định tâm viên” còn một câu tụng nữa: “Viên hầu đạo thể giả nhân tâm, Tâm tức viên hầu ý tứ thâm.” Vậy thì, Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của ai? Thực ra Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã, năm vị này hợp lại chính là một người. Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho cái tâm của Đường Tăng.
Xét về Tôn Ngộ Không không thể xét một cách đơn nhất riêng lẻ, Tôn Ngộ Không là những mảnh ghép tượng trưng cho nhiều hình tượng. Một mặt là thể hiện hình tượng hóa của cái tâm con người, mặt khác lại thể hiện ra một người trong tu luyện với ý chí và thân thể mạnh mẽ (cương dương), trong truyện dùng chữ “kim công” chính là để chỉ về Tôn Ngộ Không. “Kim công” là theo cách nói về ngũ hành đối ứng với ngũ tạng trong thân thể người; thỉnh thoảng còn dùng nó để nói về dục trong “lục dục”, ví dụ như, câu thơ mở đầu hồi thứ 17 viết: “Lục bàn thể tương lục bàn binh, Lục dạng hình hài lục dạng tình; Lục ác lục căn duyên lục dục, Lục môn lục đạo đổ thâu doanh”. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, và ba yêu ma khác chính là chỉ lục dục của con người. Khi Bồ Đề Lão Tổ đặt tên cho Tôn Ngộ Không, ông đã nói: “Tử giả, nhi nam dã; hệ giả, anh tế dã. Chính hợp anh nhân chi bổn luận. Giáo nhĩ tính ‘Tôn’ bãi”. Điều này xét từ góc độ khác có thể thấy rằng một người khi tu luyện đến một tầng thứ nhất định nào đó, thì nguyên anh được sinh ra tại đan điền. Đối với Hoa Quả sơn và Thủy Liêm động mà nói, đó chính là tượng trưng cho thân thể và trái tim của Tôn Ngộ Không. Thạch Hầu sau khi nhảy qua tấm màn bằng nước đã vào được trong Thủy Liêm động, Thủy Liêm được nhắc đến trong truyện, chính là, “Kiều hạ chi thủy, xung quán vu thạch khiếu chi gian, đảo quải lưu xuất khứ, già bế liễu kiều môn” (Nước dưới cây cầu, xông qua huyệt giữa núi đá, chảy ngược ra ngoài, che lấp đi cửa lên cầu), đây cũng là miêu tả hình tượng hóa chữ “tâm”. Tôn Ngộ Không sau khi ngộ Đạo và trong cuộc đại chiến với Thiên binh Thiên tướng, đã phong hai con Xích Khào Mã Hầu và hai con Thông Bối Viên Hầu làm kiện tướng, đó cũng là tứ chi của Tôn Ngộ Không. Cho nên trong khi đại chiến với các vị thần, 72 yêu vương đều có thể bị bắt đi, nhưng 4 kiện tướng này bao gồm cả bầy khỉ, không có một con nào bị bắt đi. Nhưng trước khi Tôn Ngộ Không bị bắt giữ, bốn kiện tướng và bầy khỉ đã bị làm cho phân tán rời rạc.
Tôn Ngộ Không là “tâm viên” của Đường Tăng, Tu Bồ Đề lại ở trong tâm của Tôn Ngộ Không, vậy rốt cuộc Đường Tăng và Tu Bồ Đề có quan hệ thế nào? Trong “Tây Du Ký” nói rằng Đường Tăng là đồ đệ thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni – Kim Thiền Tử – chuyển sinh. Nhưng trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại không có người nào tên Kim Thiền Tử, điều này nói rõ rằng tác giả dùng cái tên “Kim Thiền Tử” không có thật chỉ là để lấy ý trong “Kim Thiền thoát xác”. Mà trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lại đúng có vị tên là “Tu Bồ Đề”. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn khi đó là thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Từ khi Tôn Ngộ Không sinh ra đến khi sinh tâm học Đạo đã ở trong núi trải qua hơn 500 năm, rồi đến khi cầu Đạo học Đạo lại trải qua mấy chục năm, cứ tính như thế, thì Tôn Ngộ Không chính là sinh ra trong thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp. Từ một góc độ khác mà xét, Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn 500 năm, cũng vừa khớp với thời gian Đường Tăng tu hành 9 kiếp trước. Lai lịch nguyên gốc của Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Tu Bồ Đề là cùng một thời đại, thông qua miêu tả như trong truyện, ba vị này cũng có thể xem là một người.
Bồ Đề Lão Tổ dùng thước đánh vào đầu Ngộ Không ba cái, Ngộ Không liền ngộ được rằng Tổ Sư muốn bảo mình rằng sau canh ba đi học nghệ. Thực ra chuyện này xuất phát từ điển cố “Lục Tổ đàn kinh”, Lục tổ Huệ Năng từng làm bài kệ, “Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài; Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nặc trần ai?” (Bồ Đề vốn chẳng phải cây, Gương sáng cũng chẳng phải đài; Xưa nay không có vật gì, Nơi nào không dính bụi trần?) Sau khi Ngũ tổ thấy được Huệ Năng đã có thể ngộ được bản tính, ông sợ Huệ Năng bị người khác hại, nên đã xóa bài kệ đi. Hôm sau, Ngũ tổ lặng lẽ tìm đến Huệ Năng, thấy Huệ Năng đang giã gạo, Ngũ tổ nói vài lời xong, rồi dùng thiền trượng gõ vào cối đá ba cái, đoạn rời đi. Lúc đó Huệ Năng đã hiểu được ý của Ngũ tổ, nên đến canh ba nửa đêm, ông lặng lẽ đến chỗ của Ngũ tổ; Ngũ tổ dùng áo cà sa che ánh sáng của ngọn đèn trước cửa sổ, và giải thích kinh “Kim Cương” cho Huệ Năng. Huệ Năng cuối cùng đã ngộ được hết vạn pháp, không rời tự tính. “Tự tính” ở đây chính là chỉ bản tính của con người, trong “Kim Cương Kinh”, “tự tính” được gọi là “Bồ Đề”. Tâm Bồ Đề được nói đến trong Phật giáo chính là để chỉ bản tính tiên thiên thuần khiết của con người.
Mà “Kim Cương Kinh” chính là ghi lại lời đối thoại của Phật Thích Ca Mâu Ni với tôn giả Tu Bồ Đề. Tu Bồ Đề vốn là đệ tử thứ mười của Phật Thích Ca, được gọi là “Giải không đệ nhất”, Bồ Đề Tổ Sư đặt tên cho Ngộ Không là “Ngộ Không” cũng là điều dễ hiểu. Thực ra từ góc độ khác mà nói, đây cũng là Ngộ Không tự đặt tên cho mình mà thôi. Ngay cả Đường Tăng cũng khen Tôn Ngộ Không, nói rằng “tâm không” mà Tôn Ngộ Không giải được là “vô ngôn ngữ văn tự, nãi thị chân giải” (không có lời nói chữ viết, chính là giải được thật sự). Đương nhiên, Kim Thiền Tử và Tu Bồ Đề có phải là một người hay không, chúng ta không cần phải đưa ra kết luận này. Đúng cũng được mà không đúng cũng được, họ chỉ là có mối quan hệ như vậy, Phật gia giảng chính là một chữ “không”, là cái gọi là “vạn Pháp không tướng”. Kỳ thực tác giả sắp đặt như vậy, còn có dụng ý sâu xa hơn nữa, chúng ta hãy từ từ bàn luận.
2. Sự tu luyện của Tôn Ngộ Không
Mấu chốt của tu luyện chính là tu tâm. Khi Bồ Đề Tổ Sư hỏi Ngộ Không tên là gì, Ngộ Không nói: “Ngã vô danh, nhân nhược mạ ngã, ngã dã bất não, nhược đả ngã, ngã dã bất sân, chỉ thị bồi cá lễ nhi tựu bài liễu. Nhất sinh vô tính” (Con không có danh tính. Nếu người khác chửi con, con không thấy phiền não; nếu người khác đánh con, con cũng không tức giận; chỉ là lấy lễ đáp lại là được. Một đời không có tên.) Điều này xem ra giống như vô ý đổi chủ đề, nói về Ngộ Không trong quá trình cầu Đạo cũng đã là đang tu tâm rồi. Chính vì có tâm tính cao như vậy, nên Ngộ Không mới có thể nhanh chóng ngộ Đạo.
Bồ Để Lão Tổ truyền thụ cho Ngộ Không “Hiển mật viên thông chân diệu quyết”, từ tên gọi mà nói, chính là gộp mật quyết tu luyện của cả hiển giáo và mật giáo trong Phật giáo làm một. Nhưng nội dung trong đó lại hoàn toàn là nội dung tu luyện của Đạo gia. Trong đó: “Nguyệt tàng ngọc thố nhật tàng ô, tự hữu quy xà tương bàn kết. Tương bàn kết, tính mệnh kiên, tức năng hỏa lý chủng kim liên. Toàn thốc ngũ hành điên đảo dụng, công hoàn tùy tác Phật hòa Tiên.” Ở đây bao hàm các thuật ngữ và quy luật tu luyện của Đạo gia. “Nguyệt tàng ngọc thố, nhật tàng ô” có ý là, khi chu thiên vận hành thì nước ở bể thận dâng lên, khí ở tim giáng xuống, từ đó mà đạt được thủy hỏa hòa hợp, cũng chính là nói thủy hỏa ký tế (ký tế – một quẻ trong Bát Quái). Bởi vì thủy thuộc quẻ Khảm trong Bát Quái, nên dùng chữ “nguyệt” (mặt trăng) để hình dung. Hình quẻ của quẻ Khảm (☵) là một hào dương ở giữa hai hào âm, “ngọc thố” chính là chỉ một hào dương kia. Tim trong ngũ hành thuộc về hỏa, nên dùng “nhật” (mặt trời) để ví, hỏa là quẻ Ly (☲), hình quẻ Ly là một hào âm ở giữa hai hào dương, một hào âm kia cũng chính là “ô” (con quạ). Quy xà tương bàn kết, là chỉ âm dương hòa hợp. “Ngũ hành điên đảo dụng” là chỉ thủy thăng hỏa giáng, mộc chìm xuống, kim nổi lên, mà lại dùng thổ (đất) để điều hòa. Điều này cũng là phù hợp với thuyết “hậu thiên trở về tiên thiên” trong tu luyện của Đạo gia. Kết hợp với điều nói ở phần sau của “Tây Du Ký” là “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” thì có thể hiểu được ngay: Đạo gia cho rằng, con người trước khi sinh ra, thận tạng đối ứng với quẻ vị là Khôn (☷), tâm tạng đối ứng là Càn (☰), quẻ Khôn là ba hào âm tạo thành, quẻ Càn do ba hào dương tạo thành. Con người khi sinh ra, quẻ Khôn liền biến thành quẻ Khảm, quẻ Càn biến thành quẻ Ly. Từ đó quẻ Khảm lấy dương bổ sung vào trong quẻ Ly, quẻ Ly biến thành quẻ Càn. “Kim Ô huyết” trong cách nói “Linh Quy hấp tận Kim Ô huyết” là chỉ hào âm trong quẻ Ly, đặt trong quẻ Khảm, liền biến thành quẻ Khôn. Đây chính là thuyết hậu thiên quay trở về tiên thiên, cũng chính là ý trật tự ngũ hành thay đổi.
Kỳ thực, sau khi Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ phương pháp tu luyện cho Tôn Ngộ Không, sư đồ Đường Tăng tu luyện trong khi đi thỉnh kinh, thì trên cơ bản chiểu theo phương pháp tu luyện này mà đi. Bồ Đề Tổ Sư truyền thụ cho Tôn Ngộ Không cách tránh “tam tai” trong “thiên lôi, âm hỏa, bị phong”, trong đó toàn là thuật ngữ tu luyện của Đạo gia. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến Tôn Ngộ Không tu thành “Thái Ất tản tiên”.
Ngộ Không học Đạo trở về, việc làm đầu tiên chính là tiêu diệt “Hỗn thế ma vương”. Giới tu luyện giảng, con người có Phật tính, cũng có ma tính, tu luyện chính là quá trình trừ bỏ ma tính, củng cố Phật tính. Vậy Ngộ Không ngộ được bản tính, đương nhiên cần phải thanh trừ ma tính của chính mình. “Hỗn thế ma vương” này chính là tượng trưng cho ma tính của Ngộ Không. Thực ra từ chính mỗi người mà nói, ai mà không có tư tưởng và đặc trưng của hỗn thế (thế gian hỗn loạn). Trong truyện nói rằng Hỗn thế ma vương trú ở phía Bắc Hoa Quả sơn trong“Tam giới khảm nguyên sơn, Từ dưỡng ngũ hành thủy tạng động” thực ra chính là chỉ về bộ phận thận tạng. Thận tạng của thân thể con người trong ngũ hành là thuộc về tính thủy. Mà “Khảm” (☵) trong tám quẻ của Bát Quái lại là chỉ thủy, phương vị thuộc hướng Bắc. Từ chỗ này chúng ta có thể nhìn ra Hoa Quả sơn chính là tượng trưng cho thân thể của Tôn Ngộ Không. Tên hiệu của Hỗn thế ma vương kia và ma tính trong thân người cũng rất phù hợp với nhau. Cho nên, Ngộ Không tiêu diệt Hỗn thế ma vương cũng là một phương diện trong tu luyện của bản thân. Tiêu đề trong hồi này: “Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý, Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần”, chính là nói rõ về vấn đề này.
Quá trình Ngộ Không lấy của Long Vương cây Kim Cô bổng, miêu tả làm cho người ta cảm thấy như thân ở trong cảnh, kỳ thực đó cũng chỉ bất quá là tầng thứ tu luyện của Ngộ Không biểu hiện ra như ý mà thôi. Trong truyện nói Ngộ Không từ Thủy Liêm động dưới cầu Thiết Bản mà trực tiếp xuống đáy biển, dưới đáy biển nhìn thấy cây sắt “Định hải thần châm”, cũng gọi là “Như ý Kim Cô bổng”. Ở đây tác giả dùng một cách nói ẩn dụ, là chỉ về định lực và tầng thứ của Tôn Ngộ Không. Bình thường mà nói, thông thường gọi huyệt hội âm là đáy biển, Tôn Ngộ Không từ Thủy Liêm động nhảy trực tiếp xuống biển, đó là nói lên hình tượng hóa của Tôn Ngộ Không khi nhập định. Lại nói về cây sắt định hải thần châm, nó chính là định sự nông sâu của sông biển, làm binh khí cũng chính là thành gậy sắt như ý.
Tôn Ngộ Không được phong làm Bật Mã Ôn cũng là có dụng ý. Trong sách ví Tôn Ngộ Không là “tâm viên”, ví Bạch Long Mã thành “ý mã”, có câu thơ như thế này: “Mã viên hợp tác tâm hòa ý, Khẩn phược thuyên lao mạc ngoại tầm”. Trong câu tiêu đề khái quát nội dung của “Tây Du Ký” có câu, “Ý mã ức tâm viên”, cũng là đạo lý này. Tôn Ngộ Không ở trên trời trông nom thiên mã (ngựa trời), ý nghĩa chính là chỉ tâm của một người cần phải quản chắc cái ý của chính mình, không được để tâm mình suy nghĩ lung tung.
Sau khi Tôn Ngộ Không được phong làm Tề Thiên Đại Thánh, trong Tề Thiên Đại Thánh phủ còn thiết lập ra hai ti: một ti gọi là ‘An Tịnh ti’, một gọi là ‘Ninh Thần ti’. An tịnh và ninh thần chính là để cho Ngộ Không an tâm định thần. Từ một góc độ khác mà nói, Tôn Ngộ Không tự phong làm “Tề Thiên Đại Thánh” cũng có đạo lý. Đạo gia tu luyện coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sau khi người ta tu luyện đắc Đạo, chính từ tự thân mà nói, thì thọ mệnh của người đó sánh ngang với trời, hợp nhất với trời, gọi là Tề Thiên Đại Thánh cũng chính là chỉ ý này. Có điều “Tây Du Ký” là một tác phẩm văn học, là lấy hình thức văn nghệ để truyền tải nội dung, cho nên biểu hiện bề mặt viết rất hấp dẫn và phức tạp, thực chất biểu hiện ra lại là có dụng ý khác. Lại nói thêm, việc Tôn Ngộ Không tự đặt biệt hiệu cho mình, cũng là để cho bản tính kiêu ngạo được biểu hiện ra.
Tôn Ngộ Không sau khi bị bắt cho vào lò Bát Quái để luyện, đó cũng là biểu hiện của một loại hình thức tu luyện khác, Hỏa nhãn kim tinh (đôi mắt lửa sáng ánh kim), Đồng đầu thiết tý (đầu cứng như đồng, tay dẻo như thiếc), cũng là trải qua quá trình luyện trong lò Bát Quái mà thành.
Bảy hồi đầu của “Tây Du Ký” viết về xuất thân và quá trình tu luyện của Tôn Ngộ Không. Xem sự dũng mãnh và uy lực mạnh mẽ của Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, đó cũng là một hình thức biểu hiện của tu luyện. Trong toàn cuốn sách, phần này là hấp dẫn người đọc nhất, Thần tướng khắp trời mà không làm thế nào bắt được một con khỉ. Xem Tôn Ngộ Không học Đạo tiên, mượn binh khí, ăn đào tiên, uống ngự tửu, trộm tiên đan, đánh bại Na Tra, đại chiến Nhị Lang, trong lò Bát Quái luyện mắt vàng, chơi đùa hung dữ trong tay Phật Tổ, thật làm cho người ta hét lên khoái chí. Trong hình thức biểu hiện nhiều lần lặp lại tình huống, điều ẩn giấu chính là nội hàm của một người tu luyện.
Tu luyện Đạo gia coi thân thể người là một tiểu vũ trụ, sự tu luyện của Tôn Ngộ Không là hoàn thành chính trên thân thể mình. Thực ra, sự tu luyện của bất kỳ ai cũng là tu luyện thân và tâm của chính mình. Vậy Thiên Cung mà Tôn Ngộ Không đại náo nằm ở đâu? Đó chính là đầu của Tôn Ngộ Không, sau khi nhảy ra từ lò Bát Quái, Tôn Ngộ Không nói với Phật Như Lai rằng muốn ngồi ở Linh Tiêu Bảo Điện, thay thế Ngọc Hoàng Đại Đế. Linh Tiêu Bảo Điện nằm ở đâu? Chính là Nê Hoàn Cung của con người, chủ nguyên thần của người ta chính là ở đó. Tôn Ngộ Không muốn đuổi Ngọc Hoàng Đại Đế đi, làm sao được cơ chứ? Giống như một người, nếu không có chủ nguyên thần, thì những điều khác chẳng cần bàn tới nữa; chủ nguyên thần làm chủ và điều khiển hết thảy tâm và thân một người, sự ngông cuồng của Tôn Ngộ Không chính là tới mức không biết trời cao đất dày là gì, vậy thì đến lúc bị mắc kẹt dưới núi Ngũ Hành Sơn rồi.
3. Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không
Sự kiêu ngạo của Tôn Ngộ Không thật đáng để chúng ta bàn luận một chút. Tôn Ngộ Không xuất thân tại nước Ngạo Lai ở Đông Thắng Thần Châu, điều này nói rõ rằng Tôn Ngộ Không vốn sinh ra đã kiêu ngạo. Vào đến Thủy Liêm Động được bầy khỉ bái làm Vương. Bản thân là một con khỉ đá, lại tự xưng là “Mỹ Hầu Vương”. Trên Thiên Đình được phong làm Bật Mã Ôn, kiêm chức quan nhỏ, đại náo Thiên Cung, rồi tự xưng là Tề Thiên Đại Thánh, cuối cùng cuồng vọng đến mức muốn đuổi cả Ngọc Hoàng Đại Đế đi, để ngồi thay vị trí của ông. Trong tay Phật Như Lai nhảy cân đẩu vân, cho rằng đã đến tận cuối trời, để lại ký hiệu cũng ghi là “Tề Thiên Đại Thánh đã đến nơi đây”, cái tâm ngạo mạn đã lộ rõ ra ngoài.
Thực ra cái tâm ngạo mạn của Tôn Ngộ Không cũng là ám chỉ và nhắc nhở con người thế gian. Con người sống ở thế gian, theo cách nói của tôn giáo thì đều là có “tội” cả. Nhưng mà, thế gian lại vốn là một không gian mê, con người lại không biết tất cả những gì của bản thân mình đều là do Thần Phật trông nom bảo hộ, một khi có được bản sự rồi, liền bắt đầu cho rằng mình là duy nhất. Đặc biệt trong tu luyện, sự ngạo mạn này chính là bất kính đối với Thần Phật. Với người tu luyện, tất cả mọi thứ của bản thân mình đều là do Thần Phật an bài, diễn hóa, chăm nom bảo hộ, cũng là nói bản thân mình chính là một sinh mệnh mà Thần Phật tạo ra. Một người có cái tâm kiêu ngạo rồi, lại không chỉ là kiêu ngạo đối với một sự việc nào đó thôi, mà là trong tất cả các hành vi của người đó đều thể hiện ra tâm ngạo mạn. Trong “Tây Du Ký” có nói, Đường Tăng là Kim Thiền Tử – đệ tử thứ hai của Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ vì khinh mạn Phật Pháp mà bị đọa xuống hạ giới. Kim Thiền Tử vì sao khinh mạn Phật Pháp, đó chẳng phải là ông có tâm kiêu ngạo mới dẫn đến việc ông dám khinh mạn Phật Pháp hay sao? Kết cục cuối cùng là bị đày xuống hạ giới, tu hành lại từ đầu. Sự cuồng ngạo của Tôn Ngộ Không cũng rơi vào kết cục là bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn trong 500 năm.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128188
Ngày đăng: 27-03-2014

(Sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (2)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
II. Thỉnh kinh và tu luyện

“Tây Du Ký” là truyện kể về thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, đúng hơn thì đây là một câu chuyện về tu luyện. Khó khăn và sự ma luyện trên đường đi thỉnh kinh, chính là những ma nạn mà một người trong quá trình tu luyện ắt phải trải qua. Tại sao lại nói là ma nạn ắt phải gặp? Ví như thất tình lục dục của một người, đó là điều mà ai ai cũng có, như trong “Tây Du Ký” dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để hình dung về thất tình. Những ma nạn này, bề mặt thì thấy là những nhân tố bên ngoài, nhưng rốt cuộc đều có liên quan đến tự thân, cũng chính là ma nạn của bản thân mỗi người. Trong giới tu luyện gọi việc trừ bỏ ma tính của bản thân là “luyện ma”. Tiêu trừ ma tính, chính là dựa vào Phật tính của chính mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân ở bảy hồi đầu lại chú trong về miêu tả Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không chính là tượng trưng cho Phật tính của Đường Tăng.
1. Ngũ vị nhất thể, trong đó ẩn chứa nhân tố tu luyện
Năm vị, gồm thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, có thể coi như là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn về vấn đề này, trong đó bốn câu mở đầu là: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận.” “Nhất thể chân như” chính là chỉ một người; “hợp hòa tứ tướng”, là thuật ngữ trong tu luyện. Trong tu luyện của Đạo gia cổ xưa, thường lấy huyền vũ, chu tước, thanh long, bạch hổ để lần lượt chỉ thận, tim, gan, phổi. Trong ngũ hành chúng lần lượt thuộc thủy, hỏa, mộc, kim. Tương sinh trong ngũ hành, đó là mộc sinh hỏa, kim sinh thủy; trong “Tính Mệnh Khuê Chỉ” nói rằng, long mộc sinh hỏa, thuộc về tâm. Hổ kim sinh thủy, cùng một hệ với thân thể. Tâm không động, thì nguyên khí tụ lại; thân không động, thì tinh khí tụ lại. Tinh ngưng khí tụ, tức là chỉ kim mộc thủy hỏa trộn lẫn với nhau trong thổ (đất). “Hợp hòa tứ tướng” tức là chỉ về điều này.
Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng, Bạch Long Mã đối ứng với thuộc tính của ngũ hành lần lượt là thủy, kim, mộc, thổ, hỏa. Trong truyện thường dùng “kim công” để chỉ Tôn Ngộ Không, “mộc mẫu” để chỉ Trư Bát Giới. Đối ứng với “mẫu” và “công” cũng chính là âm và dương. Còn có một hàm ý nữa, bởi vì hỏa sinh kim, nên gọi là “kim chi công”, do đó “kim công” cũng là chỉ về hỏa; bởi vì thủy sinh mộc, nên gọi là “mộc chi mẫu”, cho nên “mộc mẫu” cũng hàm chứa thủy trong đó. Từ thuộc tính âm dương mà nói, mộc và thủy cùng thuộc âm, kim và hỏa lại đều thuộc về dương, âm dương hợp lại tất do thổ tương trợ, thổ tức chỉ Sa Hòa Thượng, còn được gọi là “hoàng bà”. Cho nên quá trình đi thỉnh kinh trong “Tây Du Ký”, đều là do ba vị – Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng – trảm yêu trừ ma. Quá trình trảm yêu trừ ma cũng chính là quá trình tu luyện.
Sự đối ứng từ trong nội tạng cho đến thân thể của thầy trò Đường Tăng cũng không chỉ là máy móc như trên. Đường Tăng thuộc thủy, ứng với thận tạng. Nhưng Đường Tăng là chủ nguyên thần của người, nơi trú ngụ của chủ nguyên thần chính là trong Nê Hoàn Cung của con người. Trư Bát Giới làm mộc mẫu, cũng là chỉ về thủy, ở vị trí thận tạng. Trong “Tây Du Ký” có mượn lời của Trư Bát Giới để thuyết minh, nói Trư Bát Giới được “Noãn Nhị Thư” kén làm rể. Vị Noãn Nhị Thư này chính là ví như hai quả thận của người ta vậy. Bộ phận tì tạng (lá lách) chính là đối ứng của Sa Hòa Thượng. Bởi vì tác dụng của tì tạng là vận hóa thủy cốc (chuyển hóa thức ăn), vận chuyển phân bố và vận hành thủy dịch. Do đó nơi ở Lưu Sa Hà của Sa Hòa Thượng mới là “Nga mao phiêu bất khởi, Hồ hoa định để trầm”. Tôn Ngộ Không ở bộ vị tâm tạng thì không cần nói nữa, Bạch Long Mã cũng ứng với chỗ này (tâm), bởi vì mã thuộc về hỏa, đối ứng với nội tạng là tâm tạng, lại nói rằng tâm và ý là cùng một thể.
Trong “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới luôn tranh đấu, đố kỵ, châm chọc không dứt, đó chính là âm dương giao phối trong quá trình tu luyện. Trong đó Sa Hòa Thượng đóng vai trò điều hòa. Mãi đến cuối cùng, ba vị này mới đạt đến trạng thái điều hòa một cách hài hòa nhất trí. Trong truyện còn có câu thơ như sau: “Ngũ hành tứ phối hợp thiên chân, Nhận đắc tòng tiền cựu chủ nhân. Luyện kỉ lập cơ vi diệu dụng, Biện minh tà chính kiến nguyên nhân. Kim lai quy tính hoàn đồng loại, Bản khứ cầu tình cộng phục luân. Nhị thổ toàn công thành tịch mịch, Điều hòa thủy hỏa một tiêm trần.”
Năm trăm năm trước Tôn Ngộ Không đã tu luyện thành Tiên, Đường Tăng cũng là người tu hành mười kiếp, vậy còn Bát Giới và Sa Tăng? Bát Giới từng kể với Ngộ Không về quà trình tu hành đời trước: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời xuyết. Thượng chí đỉnh môn Nê Hoàn Cung, Hạ chí cước bản dũng tuyền huyệt. Chu lưu thận thủy nhập hóa trì, Đan điền bổ đắc ôn ôn nhiệt. Anh nhi sá nữ phối âm dương, Duyên hống tương đầu phân nhật nguyệt. Ly long khảm hổ dụng điều hòa, Linh quy hấp tận kim ô huyết. Tam hoa tụ đỉnh đắc quy căn, Ngũ khí chiêu nguyên thông thấu triệt.” Sa Tăng cũng đã từng bộc bạch rằng: “Nhân thử tài đắc ngẫu Chân Nhân, Dẫn khai đạo kim quang lượng. Tiên tương anh nhi sá nữ thụ, Minh đường thận thủy nhập hoa trì. Trọng lâu can hỏa đầu tâm trạng, Tam thiên công mãn bái thiên nham, Chí tâm chiêu lễ minh hòa hướng.”
Còn một vấn đề nữa cần phải nói rõ, đó chính là tại sao năm vị này lại bị đọa xuống hạ giới? Đường Tăng, Ngộ Không đều là vì ngạo mạn; Trư Bát Giới vì trêu ghẹo Hằng Nga; Sa Hòa Thượng vì lỡ tay làm vỡ chén lưu ly; Tiểu Bạch Long vì phóng hỏa đốt viên minh châu. Những tội này tại góc độ con người thế gian mà xét, xem ra cũng chưa là gì, nhưng ở một cảnh giới cao hơn mà xét, đó là vì những sinh mệnh này đã trở nên bất thuần. Từ góc độ tu luyện mà xét thì con người cần phải tu luyện đến vô lậu mới có thể viên mãn. Thế nào là vô lậu? Đó chính là không còn có bất kỳ tâm chấp trước nào, từng suy nghĩ đều là thuần chính, thì mới có thể đắc đạo thành Tiên thành Phật được. Tương ứng như vậy, những vị Tiên gia tu luyện thành tựu tại các quả vị khác nhau, tư tưởng cảnh giới của họ cũng đều là thuần chính cả. Chỉ cần có một chút sai sót thì cũng không thể ở tại tầng thứ đó nữa. Tội của Sa Hoà Thượng xem thì giống như một chút tội nhỏ, nhưng mà một chút tội nhỏ này lại là điều căn bản mà tại cảnh giới đó không được xảy ra. Tại sao lại lỡ tay được đây? Đó chẳng phải là thất thần rồi hay sao? Chẳng phải là trong tâm có tạp niệm hay sao? Từ góc độ này mà nhìn về tu luyện, thấy là việc vô cùng nghiêm túc.
Quan hệ nội tại của sư đồ Đường Tăng trong truyện cũng có ám chỉ: Đường Tăng là người tu hành mười kiếp; Tôn Ngộ Không là đồ đệ đời thứ mười của Bồ Đề Tổ Sư; ngay cả vòng đeo ở cổ của Sa Tăng cũng là chín cái đầu lâu của người đi thỉnh kinh.
Từ khía canh khác mà nói, bốn thầy trò Đường Tăng lần lượt nói rõ chi tiết về những phương diện của người tu luyện. Đường Tăng bề ngoài nhìn thì không có chút năng lực gì, yếu đuối lại còn nhát gan, nhưng có một niềm tin đi thỉnh kinh vững như bàn thạch; Tôn Ngộ Không là tâm viên, hoạt bát, thông minh lanh lợi, không bị bó buộc, có thể phân biệt rõ thật giả, lại có khả năng trảm yêu trừ ma; Bát Giới thì rất giống lợn, hay ăn không hay làm, lại còn háo sắc, thích an nhàn, muốn chiếm phần hơn, đố kỵ với người giỏi hơn mình; Sa Hòa Thượng biểu hiện cần cù, chăm chỉ, biết thân biết phận, làm tròn bổn phận, thanh tịnh mà lại nhân hậu; Bạch Long Mã tuy không miêu tả nhiều, nhưng cũng lại là một hình tượng âm thầm lặng lẽ, chỉ tiến về phía trước, không ngại gian khổ nguy hiểm.
2. Ngũ Hành Sơn, Lưỡng Giới Sơn và sự hạn chế thần thông của Tôn Ngộ Không
Tôn Ngộ Không bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn còn có một ẩn ý, Tôn Ngộ Không tượng trưng cho sự tu luyện Đại Đạo cũng đã hoàn thành quá trình tu luyện của mình (cùng Bồ Đề Tổ Sư) rồi. Theo Phật gia giảng, thì Tôn Ngộ Không đã “minh tâm kiến tính rồi” (tâm đã sáng tỏ, đã thấy được bản tính thật sự của mình); đương nhiên, sau khi “minh tâm kiến tính” chính là “kiến tính thành Phật” (thấy rõ được bản tính của mình thì thành Phật), nhưng đây lại không chỉ đơn giản giống như hai câu nói này. Sau khi Tôn Ngộ Không ngộ Đạo, trở về Hoa Quả Sơn tại sao cần phải thanh trừ Hỗn thế ma vương? Tại sao lại phải đại náo Thiên Cung? Ở trong lò Bát Quái tại sao lại còn phải tu luyện thêm nữa? Cho nên mới nói, mặc dù quá trình tu Đạo của Tôn Ngộ Không đã hoàn thành, nhưng vẫn cần phải tiếp tục tu luyện, để ma tính của bản thân (ví như tâm tự kiêu) phải hoàn toàn ma luyện cho mất đi, thì mới có thể chính thức tu luyện thành công được. Tôn Ngộ Không bị đè dưới núi Ngũ Hành Sơn chính là để cho anh ta trải qua ma nạn.
Ngũ hành trong Ngũ Hành Sơn ý nói là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cũng là nói, trước đây Tôn Ngộ Không tượng trưng cho người tu luyện Đại Đạo, hoàn toàn là là từ góc độ của “tâm viên” mà biểu hiện ra quá trình tu luyện của một người. Mà khi cuồng ngạo rồi bị đè dưới Ngũ Hành Sơn rồi, Tôn Ngộ Không cũng giống như bị chôn vùi nơi trần thế. Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi Ngũ Hành Sơn, nhưng không không phải là Tôn Ngộ Không đã thoát khỏi được nơi trần thế, mà là nói chủ thân thể đã bắt đầu tu luyện, tượng trưng cho cái tâm của Tôn Ngộ Không tự nhiên cũng hợp nhất với chủ nhân mà bắt đầu tu luyện. Trong đó vẫn còn một vấn đề nữa. Rất nhiều người tu Đạo đều hiểu rằng, trước khi một người tu luyện, nói không chừng đời trước của vị ấy, thậm chí đời đời kiếp kiếp vẫn còn đang trong tu luyện, đương nhiên người tu luyện kia, cũng giống với Tôn Ngộ Không ở bảy hồi trước đó, có thể có được những thần thông to lớn. Nhưng một khi người đó chuyển thế, thì ở đoạn thời gian không tu Đạo trước đó, người này giống như đang ngủ, hoàn toàn mê mờ trong người thường. Nếu như bắt đầu tu luyện, phía mặt bản tính của anh ta tỉnh ngộ, thì mới cố thể chân chính tu Đạo. Từ đó quay trở về, có người phải trải qua nhiều lần mới có thể tu luyện viên mãn được. Đường Tăng chính là người tu hành mười đời.
Đương nhiên, khi giới thiệu thế này, đã tiết lộ một vấn đề khác, đó là thần thông của Tôn Ngộ Không; tại sao trước khi đi thỉnh kinh cùng Đường Tăng, Thần tướng đầy khắp trời không làm được gì Tôn Ngộ Không, nhưng khi vừa đi cùng Đường Tăng, vì sao lại có nhiều việc không như ý. Đó chính là vì trước khi đi cùng Đường Tăng, biểu hiện của Tôn Ngộ Không hoàn toàn là tâm tính của một người tu luyện, do đó mới để cái tâm tu luyện biểu hiện ra hết, vậy đương nhiên có thể không có bất kỳ sự hạn chế nào trên trời dưới biển. Nhưng khi đi cùng Đường Tăng, cũng bằng như nhiều hơn một nhục thân, do đó thần thông của Tôn Ngộ Không cũng chịu sự hạn chế. Còn một vấn đề nữa, ma nạn trên đường đi thỉnh kinh, bề ngoài thì trông giống như nhắm vào Đường Tăng, nhưng trong tình huống tâm chấp trước của Đường Tăng chưa vứt bỏ, bản sự của Tôn Ngộ Không có lớn đến mấy cũng không thể thi triển ra được. Giống như trận chiến giữa Tôn Ngộ Không và Hồng Hài Nhi, Hồng Hài Nhi là tượng trưng cho tâm hỏa quá vượng của Đường Tăng, cũng có thuộc tính của tâm, thậm chí có thể nói là một bộ phận của tâm. Bởi vì Tôn Ngộ Không tượng trưng cho tâm nên làm sao một gậy có thể đánh chết được Hồng Hài Nhi? Bởi vậy phải đợi mời Bồ Tát đến, sau khi trừ bỏ tâm hỏa, thì tâm mới có thể quy chính được.
Ngũ Hành Sơn vì sao lại đổi thành Lưỡng Giới Sơn? Biểu hiện là giới tuyến quốc gia, nhưng thực chất là giới tuyến trước và sau của một người tu luyện.
3. Tám mươi mốt nạn từ đâu đến
Lúc đầu Đường Tăng đi thỉnh kinh, trên đường qua chùa Pháp Môn có nói: “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt.” Điều thấy được là tất cả ma nạn đều từ tâm của Đường Tăng mà sinh ra. Cách nói này rất đúng. Chỉ cần có nhân tâm, liền sinh ra ma nạn tương ứng. Ví dụ khi Đường Thái Tông ban cho Đường Tăng hai tùy tùng và ngựa, Đường Tăng rất vui mừng. Điều này lộ rõ một loại tâm ỷ lại, do đó, mãi vẫn loay hoay không ra được biên giới quốc gia, hai người tùy tùng kia liền bị bò tinh, gấu tinh, và hổ tinh ăn thịt. Cần biết rằng, khi qua chùa Pháp Môn ông có nói, “Tâm sinh, chủng chủng ma sinh; tâm diệt, chủng chủng ma diệt”, khi ấy hai người tùy tùng liền cùng đi cùng Đường Tăng. Cũng chính là nói, một người nếu tu luyện sẽ có rất nhiều tâm về căn bản không ý thức được. Tu luyện vốn là việc cá nhân, chỉ có thể hướng nội mà tu cái tâm của bản thân, làm sao có thể ỷ lại vào người khác đây?
Bởi vì Đường Tăng bắt đầu tu luyện từ người thường, ông không giống với những đồ đệ của mình, dù cho Ngộ Không có nói với ông là ma đang cản trở, ông cũng không tin. Ma tính của người ta ẩn giấu rất sâu, có một số ma tính khi sinh ra đã có rồi; cũng chính là nói, chỉ cần làm người, trước khi tu luyện đắc Đạo, thì đều có các loại ma tính. Ví dụ, khi Tôn Ngộ Không giết Bạch Cốt Tinh, Bạch Cốt Tinh lần lượt biến thành mỹ nữ, bà lão, ông lão, Đường Tăng làm sao biết được? Tuy nhiên Bạch Cốt Tinh này thì trong mỗi người đều có, gọi là “thây ma”. Đạo gia cho rằng, mỗi người đều có ba cái thây ma, cho nên mới có việc Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh.
Trong hồi thứ 50, Tôn Ngộ Không đi xin đồ ăn chay, người ta không cho, Tôn Ngộ Không liền múc trộm một bát cơm. Mà ở bên này, Bát Giới, Sa Tăng trong một nơi người ta bỏ hoang nhìn thấy áo lót bằng bông, hai người lấy mỗi người một cái, kết quả dẫn đến ma nạn, con yêu ma này lại lấy trộm cái Kim Cương Trác của Thái Thượng Lão Quân xuống nhân gian tác quái.
Ví dụ tiếp là Ngưu Ma Vương, có vợ có con, có bạn có bè, những yêu ma này từ đâu mà đến? Tôn Ngộ Không nói rất rõ ràng: “Tự đáo Tây phương vô đối đầu, Ngưu Vương bản thị tâm viên biến. Kim phiên chính hảo hội nguyên lưu, Đoạn yếu tương trì tá ngọc phiến.” Ngưu Ma Vương sao lại là do tâm của Ngộ Không biến hóa? Điều này không thể lý giải ở bề mặt được, ý nghĩa là Đường Tăng có tâm chấp trước, trong tâm tự nhiên liền sinh ra một con yêu ma như vậy. Vậy thì, Thiết Phiến công chúa, Hồng Hài Nhi, Như Ý chân tiên chẳng phải là do sự biến hóa của tâm viên sao?
Có tâm chấp trước nào thì chiêu mời ma nạn đúng như thế. Đường Tăng làm sư phụ, đây là một cái tâm. Tại nước Ô Kê, Sư Tử lông xanh bị dồn ép đến nỗi rất lo lắng, cũng biến thành một Đường Tăng. Ở huyện Ngọc Hoa nước Thiên Trúc, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Hòa Thượng mỗi người nhận một hoàng tử để truyền thụ võ nghệ, kết quả cái tâm thích làm sư phụ của người khác lại dẫn họ đến một hang của Sư Tử.
Có những tâm chấp trước ẩn giấu rất sâu, người tu luyện thật không dễ mà phát giác được. Ví dụ, thầy trò Đường Tăng đi đến nước Thiên Trúc, Đường Tăng nghe nói công chúa nước Thiên Trúc đang ném tú cầu kén phò mã, liền nói với Ngộ Không: “Ta nghĩ người mẹ tục gia của ta cũng là nhờ ném tú cầu kén chồng mà gặp được duyên cũ, kết thành vợ chồng.” Điều này giống như một câu nói vô tình nhưng cũng là một chấp trước, kết quả đã chiêu mời ma nạn đến.
Đương nhiên những nạn này là tất nhiên phải xảy ra, cũng có thể nói là định sẵn rồi. Phần cuối “Tây Du Ký” viết về ba con tê giác tinh sau khi bắt Đường Tăng đi, Tôn Ngộ Không từng nói với vị hòa thượng, “sư phụ ta phải có những nạn này”. Hồi thứ 97, bốn thầy trò bị hiểu lầm nhốt vào trong ngục, Tôn Ngộ Không nghĩ: “Sư phụ phải có nạn một đêm trong tù này, cho nên lão Tôn không mở miệng tranh biện, không dùng pháp lực, bịt tai này lại không nghe nữa. Nay đã qua hết canh tư, tai nạn sắp hết, ta phải đi chuẩn bị, trời sáng còn ra khỏi nhà lao nữa.
Đường đi Tây Thiên ma nạn trùng trùng, cớ sao thầy trò Đường Tăng không chọn đi con đường khác? Khi gặp Hỏa Diệm Sơn cản đường đi của Đường Tăng, Bát Giới từng oán trách nói muốn quay trở về nhà vợ cho rồi. Nhưng Thổ Địa lại nói: “Dù có chuyển hướng đi, thì cũng phải vào cửa bên cạnh.” Lại nói, “Sư phụ ngài ngồi ngay ở đường chính, nóng lòng mong chờ các ngài thành công trở lại!
Bao gồm cả nạn bổ sung thứ 81, trở về đi qua sông Thông Thiên, lão rùa hỏi Đường Tăng về việc ông nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai đến khi nào ông mới đắc được thân người, Đường Tăng “không biết nói thế nào, lại không dám lừa dối, trầm ngâm một hồi không đáp lời”, kết quả bị lão rùa hất rơi xuống nước. Trong nạn này, biểu hiện của Đường Tăng chính là cái tâm hư danh đang nổi lên. Việc này cùng với lời nói của Đường Tăng khi qua sông Thông Thiên năm xưa, “Việc thế gian duy có danh lợi là coi trong nhất. Tựa như một người vì lợi, quên cả sống chết, đệ tử của tôi phụng chỉ toàn trung, cũng chỉ là vì danh, thì có khác gì với người kia chứ!” lại hoàn toàn khớp.
Tại sao lại có biết bao nhiêu yêu ma muốn ăn thịt Đường Tăng? Từ đây chúng ta có thể nhìn ra, bản thân sự tồn tại của yêu ma, khi một người không tu luyện, nó nằm ở trong thân thể người đó, sau khi người đó chết đi, nó liền rời khỏi thi thể người đó. Những ma này chính là khởi tác dụng này. Cho nên, “bệnh” cũng là ma, “chết” cũng là ma, ma tính của chính bản thân chính là ma. Tuy nhiên khi người ta muốn tu luyện một cách chân chính, thì cần phải trừ bỏ những ma chướng này, đương nhiên ma sẽ không chịu để nó bị tiêu trừ. Nó cũng biết, con người nếu tu luyện thành Thần Phật, thì thân thể người đó sẽ vĩnh viễn là thân thể bất hoại. Trong quá trình nhục thân của người thường chuyển hóa thành thân thể của Thần Phật thì bản thân ma tính cũng không chịu để yên, cho nên nó liều mạng ngăn cản người ta tu luyện. Khi thân thể con người chuyển hóa như vậy, những yêu ma kia lại không thật sự nghĩ để cho thân thể người chuyển hóa thành thân thể của Thần rồi mới ăn hay sao? Chúng ăn không được, bởi vì sau khi chuyển hóa xong thì đã là thân thể kim cương bất hoại rồi, yêu ma không thể động tới được, đây cũng là nguyên nhân Đường Tăng không bị ăn thịt. Thân thể trước lúc tu luyện chỉ là thân thể người thường, đó cũng là nơi mà yêu ma sống nhờ; thân thể sau khi tu luyện tốt đã được phong kín lại rồi. Đây là hiểu biết thông thường trong giới tu luyện.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128189
Ngày đăng: 03-04-2014
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (3)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
4. Luân hồi và nhân quả

Đường Tăng tu hành mười kiếp, đương nhiên là trong luân hồi chuyển sinh thành người mười lần để tu hành. Đường Thái Tông sau khi từ địa phủ trở về, ông thấy được con người đều có sinh tử luân hồi. Đường Thái Tông khi ở địa phủ còn đến nơi gọi là “Lục đạo luân hồi”, trong truyện nói về lục đạo luân hồi như sau: “Người hành thiện được thăng hoa lên Tiên đạo, người tận trung siêu sinh vào Quý đạo, người có hiếu tái sinh vào Phúc đạo, người công bằng vẫn được sinh vào Nhân đạo, người tích đức chuyển sinh vào Phú đạo, kẻ ác độc phải vào Quỷ đạo”.
Nói về luân hồi, ắt phải bàn về nhân quả, các ví dụ về phương diện này trong truyện có rất nhiều. Đường Tăng vì khinh mạn Phật Pháp, nên phải trải qua tu hành mười kiếp. Trong hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư” có nói rằng, bởi vì Đường Tăng không nghe Phật giảng Pháp mà lại ngủ gật, nên lỡ chân dẫm phải một hạt gạo, do đó mới bị ốm ba ngày. Tôn Ngộ Không năm xưa nhảy từ lò Bát Quái ra, đạp đổ lò luyện đan, những mảnh vỡ vẫn còn dư hỏa rơi xuống hạ giới biến thành Hỏa Diệm Sơn.
Thầy trò Đường Tăng gặp trở ngại ở nước Ô Kê, vua nước Ô Kê nhờ làm việc thiện bố thí đồ ăn chay cho tăng nhân nên Phật tổ Như Lai phái Văn Thù Bồ Tát độ ông về Tây. Bồ Tát liền biến thành một tăng nhân, nói vài câu để khảo nghiêm ông, nhưng lại bị ông trói lại, bị ngâm ba ngày ba đêm trong sông Ngự Thủy. Cho nên mới có nạn quốc vương nước Ô Kê ở dưới nước ba năm. Quận Phượng Tiên nước Thiên Trúc, ba năm không có mưa, người dân phải bán cả con cái đi, cuộc sống cùng cực không biết nói sao. Nguyên nhân là do quận hầu của quận Phượng Tiên đem đồ chay cúng Trời đổ cho chó ăn, bị Ngọc Đế nhìn thấy, Ngài lập ra một ngọn núi gạo cao 10 trượng, để cho một con gà mổ từng hạt; một núi bột cao 20 trượng, để cho một con chó nhỏ liếm từng chút một; treo một cái khóa vàng, dùng một ngọn lửa đốt cái chốt khóa. Đợi đến khi gà nhặt hết gạo, chó liếm hết bột, đèn đốt đứt chốt khóa, mới cho phép có mưa. Sau này, Thiên Sư nói với Ngộ Không cách thiện giải, vị quận hầu kia một mặt quy y Phật môn; một mặt mời các thầy tu bản xứ lập đàn làm chay đốt hương kính Phật, tạ ơn trời đất, tự mình chịu trách nhiệm vì đã gây ra tội; mặt khác lại bảo người dân đốt hương niệm phật. Chỉ một niệm như thế, mà làm cho núi gạo núi bột đều biến mất và chốt khóa cũng đứt, và quận Phượng Tiên đã có mưa lớn.
5. Tu luyện và bệnh tật
Tôn giáo hiện đại đã sớm loạn từ lâu rồi, dùng nhận thức của bản thân mà giải thích loạn kinh Phật. Có những người sống ở thế gian nhất tâm hướng Đạo, từ lâu cũng không biết không cảm thấy rằng đã tự trộn lẫn bản thân mình vào trong người thường rồi. Ví như nói về cứu độ chúng sinh, vốn là để cho người ta tu luyện, từ đó mà đạt được sự giải thoát của sinh mệnh. Nhưng có nhiều người lại coi việc trị bệnh cho người khác là cứu độ chúng sinh. Một ví dụ nữa đó là thái độ đối với bệnh tật, người thường có bệnh đương nhiên cần phải uống thuốc, nhưng là một người tu luyện, chính là người vượt khỏi người thường rồi. Về việc người tu luyện đối đãi như thế nào với bệnh tật, trong “Tây Du Ký” đã nói rất rõ ràng.
Hồi thứ 21 “Hộ Pháp thiết trang lưu Đại Thánh, Tu Di linh cát định phong ma”, Tôn Ngộ Không bị chuột lông vàng Hoàng Phong thổi gió làm cho đau mắt, nước mắt cứ chảy ra; khi nhìn thấy người do Già Lam hộ Pháp hóa thành, lúc xin thuốc trị mắt Ngộ Không còn nói: “Không giấu chi ngài, thầy tôi bảo rằng, người xuất gia chúng ta trước giờ không có bệnh, không biết sao lại đau mắt.
Hồi thứ 55 “Sắc tà dâm hí Đường Tam Tạng, Tính chính tu trì bất hoại thân”, Bát Giới bị con bọ cạp chích độc, Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến hàng yêu. Trư Bát Giới nói với Tinh Quân: “Thứ lỗi thứ lỗi! Thân tôi mắc bệnh, không thể hành lễ.” Tinh Quân nói: “Ngài là người tu hành, mắc bệnh gì chứ?”
Hồi thứ 81 “Trấn Hải tự tâm viên tri quái, Hắc Tùng lâm tam chúng tầm sư”, Đường Tăng cảm thấy “hoa mắt đầu choáng váng, xương cốt toàn thân đau nhức”. Ngộ Không hỏi Đường Tăng bị sao, ông nói: “Lúc nửa đêm, ta dậy đi tiểu quên không đội mũ, chắc là bị trúng gió.” Trong ba ngày đó, Đường Tăng cảm thấy bệnh tình càng ngày càng nặng, muốn viết “di thư” cho vua Đường. Tôn Ngộ Không nói ra căn nguyên của bệnh: “Chỉ vì sư phụ khinh mạn Phật Pháp, nên mới có đại nạn này.” Ba ngày sau, Đường Tăng không còn chứng bệnh gì nữa.
Ba ví dụ kể trên đã nói rõ một vấn đề, đó chính là người chân chính tu luyện thì không có bệnh. Dẫu có xuất hiện những cái gọi là “chứng bệnh” gì đi nữa, đối với người tu luyện mà nói, thì hoặc là để hoàn trả tội nghiệp, hoặc là do sư phụ an bài để khảo nghiệm sự kiên định đối với tu luyện. Nhưng một số người thường không tu luyện lại không hiểu được việc người tu luyện có biểu hiện của bệnh mà không uống thuốc. Thực ra đây chẳng phải cũng là một khảo nghiệm hay sao? Người cổ đại có một kiểu nhận thức tương đối chính diện đối với việc tu luyện, nhưng ngày nay trong môi trường như thế này, người ta không cách nào lý giải được người tu luyện không uống thuốc. Thậm chí một số phương tiện truyền thông bị chính phủ thao túng lại càng tuyên truyền vu cáo một cách không có trách nhiệm. Cho nên với con người ngày nay, đặc biệt là người tu luyện trong thế tục, những khảo nghiệm gặp phải lại càng nhiều càng khó.
6. Thiện ác nhất niệm, Phật ở trong tâm
Khi Tôn Ngộ Không nhảy ra từ lò Bát Quái và xảy ra cuộc đại chiến với chúng thần, trong “Tây Du Ký” miêu tả Ngộ Không như thế này: “Có thể thiện, cũng có thể ác, thiện ác trước mắt do mình gây ra. Khi thiện thành Phật thành Tiên, chỗ ác không lông cũng cắm sừng”. Khi Ngộ Không hướng thiện, tiêu dao tự tại ở Thiên Cung, được các thần xưng huynh gọi đệ, chính là một tản tiên; khi làm việc ác, thú tính bộc lộ ra hết, rất ngông cuồng ngạo mạn, chính là một con khỉ hung ác.
Trước khi Quan Âm Bồ Tát phụng pháp chỉ của Phật Như Lai tìm người đi thỉnh kinh, Phật Như Lai đưa cho Bồ Tát ba cái vòng và nói: “Bảo vật này gọi là “Khẩn cô nhi” (vòng dùng lúc khẩn cấp), mặc dù là ba cái giống nhau, nhưng cách dùng khác nhau. Ta có ba bài chú ngữ của “Kim, khẩn, cấm”. Nếu như trên đường gặp phải yêu ma thần thông quảng đại, con phải khuyên nó học hỏi điều tốt, làm đệ tử người đi thỉnh kinh. Nếu nó không nghe, có thể đeo cái vòng này lên đầu nó. Vòng này tự sẽ bám chặt vào đầu. Kẻ bị niệm chú ngữ, mắt sưng, đầu đau như muốn nứt ra. Để quản giáo nó bước vào Phật môn.” Trong ba chiếc vòng này thì một cái ở trên đầu Tôn Ngộ Không, nhìn thấy rất rõ, chính là để Tôn Ngộ Không nghe lời Đường Tăng. Bởi vì Ngộ Không tượng trưng cho tâm của Đường Tăng, nên phải quản chắc cái tâm của mình mới được, do đó Ngộ Không đeo một cái “Khẩn cô nhi”. Khi Bồ Tát thu phục Hắc Hùng Tinh (gấu tinh màu đen), Ngài đeo lên đầu nó lại là một cái “Cấm cô nhi”. Câu chuyện thu phục gấu tinh được ví như người tu luyện cần phải giữ gìn ‘chân tinh nguyên khí’ của chính mình. Trong ngũ hành, màu sắc mà thận tạng đối ứng là màu đen, tinh dịch tồn tại ở thận của con người, dùng Hắc Hùng Tinh để chỉ tinh dịch của người tu luyện, cho nên cần phải “cấm”. Trước khi thu phục Hắc Hùng Tinh, Bồ Tát đã biến thành một yêu quái, Ngộ Không nhìn thấy liền nói: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Là yêu tinh Bồ Tát hay Bồ Tát yêu tinh đây?” Bồ Tát cười nói: “Ngộ Không, Bồ Tát hay yêu tinh, âu chỉ là một niệm. Nếu luận về nguồn gốc, thì đều thuộc về không có.”
Bồ Tát nói rõ rằng, Bồ Tát và yêu tinh chỉ sai biệt ở một niệm. Đối với người tu luyện mà nói, chính là khiến những tà niệm vọng niệm bất chính, bất hảo từ bản chất mà biến thành thiện niệm, chính là tu bỏ từng niệm từng niệm, thì người tu luyện tự nhiên sẽ tu thành chính quả. Như vậy, từ khía cạnh này mà nói, Bồ Tát cũng chính là thể hiện của tiên thiên chính giác khi Ngộ Không hướng tâm tu. Do đó, Hắc Hùng Tinh bị Bồ Tát thu phục mang đi, đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật tượng trưng của tác giả, thực ra là chỉ rằng Đường Tăng đã đạt đến cảnh giới “cấm dục”. Khi Bồ Tát thu phục Hồng Hài Nhi, chiếc vòng cuối cùng Ngài dùng là “Kim cô nhi”. Hồng Hài Nhi được ví von là hình tượng hóa cho tâm hỏa quá vượng của Tôn Ngộ Không. Thầy trò Đường Tăng muốn qua được quan này, đương nhiên cần phải dập tắt tâm hỏa. Trong truyện khi nói về Tôn Ngộ Không có dùng từ “kim công”, cũng là dùng để chỉ cái tâm, bởi vì tâm thuộc tính hỏa, hỏa khắc kim, Hồng Hài Nhi cũng nhiều lần dùng lửa thiêu Tôn Ngộ Không. Từ góc độ khác mà nói, Hồng Hài Nhi cũng lại là thể hiện của “xích tử chi tâm”, tu luyện Đạo gia giảng rằng tu luyện “phục quy vu anh nhi” (quay trở về hình hài trẻ sơ sinh), một khi anh nhi bị thu phục, cũng chính là chỉ tâm hư hỏa (lửa giả) đã tu bỏ đi rồi, mà một bộ phần tâm tu thành cũng đã là “kim thân bất hoại” rồi, cho nên “Kim cô nhi” mới được đeo trên đầu của Hồng Hài Nhi. Rõ ràng Hắc Hùng Tinh, Hồng Hài Nhi đều đi theo Bồ Tát, thực ra đều ở trên thân của Đường Tăng. Hắc Hùng Tinh ở sau núi Lạc Già, chỗ này là chỉ mặt lưng thận tạng của thân thể người, Hồng Hài Nhi theo gót Bồ Tát, chính là chỉ trong tâm của Đường Tăng.
Chương nói về Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không ra khỏi núi Ngũ Hành Sơn, phần mở đầu viết rằng “Phật tức tâm hề tâm tức Phật”; trong hồi thứ 85 “Tâm viên đố mộc mẫu, Ma chủ kế thôn thiền”, Ngộ Không nói với Đường Tăng: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.” (Phật tại Linh Sơn không cầu đâu xa, Linh Sơn chính ở trong tâm của thầy. Mỗi người đều có một tháp Linh Sơn, Hướng vào tháp Linh Sơn ấy mà tu). Đường Tăng nói: “Đệ tử, sao ta không biết? Nếu dựa vào bốn câu này, thiên kinh vạn điển, cũng chỉ là tu tâm.” Cho nên từ góc độ này mà nói, Linh Sơn và Linh Đài Phương Thốn sơn có gì khác biệt? Phật Như Lai ở Linh Sơn xa xôi, lại nằm ngay tại trong tâm của chính bản thân mình. Đường Tăng trải qua mười vạn tám ngàn dặm, một cân đẩu vân của Ngộ Không cũng là mười vạn tám ngàn dặm. Với Tôn Ngộ Không mà nói việc đến Linh Sơn cũng chỉ là một niệm. Trong truyện cũng có câu: “Nếu có thể một niệm hợp với chân tu, diệt tận biết bao tội nghiệp dơ bẩn; còn có một niệm thiện từ, làm chấn động trời cao; trở về trời chỉ giống như một niệm.”
Là một tác phẩm văn học mà nói, chỉ có viết dài dòng như thế này thì mới có thể triển hiện ra quá trình cùng sự tuyệt vời sinh động của tu luyện. Tôn Ngộ Không tranh đấu với Lục Nhĩ Mi Hầu (khỉ sáu tai), thực ra chính là chân ngã và giả ngã đấu tranh với nhau. Bản tính tiên thiên đó là tự kỷ thuần chính, nhưng con người nơi trần thế hình thành các loại quan niệm và cảm thụ, nó cấu thành tự kỷ, nhưng được gọi là tự kỷ hậu thiên. Đối với một việc tốt và xấu, người ta thường cân nhắc đắn đo, đây cũng là quá trình tự kỷ tiên thiên và tự kỷ hậu thiên đang thuyết phục nhau. Với người mà quan niệm hậu thiên quá mạnh, người đó đã hoàn toàn bị quan niệm hậu thiên che đậy rồi, cũng chính là đã đánh mất tự kỷ hậu thiên rồi, loại người này về cơ bản không tin vào tu luyện. Người ta trong quá trình tu luyện chính là phải trừ bỏ tất cả những quan niêm hậu thiên hình thành. Nhưng có khi quan niêm hậu thiên lại ngoan cố chiếm cứ tư tưởng của người đó. Chỉ khi nào bản thân hoàn toàn tĩnh lặng lại, bản tính tiên thiên mới có thể trừ bỏ quan niệm hậu thiên. Cho nên Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không đại chiến tới mức không phân được thật giả, chỉ có thể dưới sự giám chiếu của bản tính đại giác mới có thể phân biệt ra được. Lúc này Phật Như Lai xuất hiện, cũng có thể coi là sự thể hiện chân thực Phật tính của Tôn Ngộ Không.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128190
Ngày đăng: 10-04-2014
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (4)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
7. Sự an bài các ma nạn và nguyên do

Thầy trò Đường Tăng trải qua 81 nạn mới đến được Tây Thiên. Sự an bài những ma nạn này nhìn bề ngoài là đi qua những nơi nào đó, gặp phải những ma nạn như thế nào đó, nhưng các an bài này lại đều không phải là không có căn cứ, mà là căn cứ vào sự tu luyện của con người và việc tu luyện tâm tính mà an bài. Những nơi đi qua và các ma nạn gặp phải đều có liên quan đến tâm tính của bản thân và nội tạng hoặc huyệt vị của thân thể. Lấy một vài ví dụ từ khi Tôn Ngộ Không quy thuận Đường Tăng trở về sau thì có thể thấy được rất rõ ràng.
Ngộ Không thuộc tâm, một khi tâm quy chính, tự nhiên sẽ cần phải thanh trừ lục căn, cho nên mới gọi là “lục căn thanh tịnh”. Lục căn trong Phật giáo là chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong truyện lần lượt dùng tên của sáu tên cướp (lục tặc) để hình dung lục căn, đó là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn). Ngộ Không đánh chết sáu tên cướp này, thực ra là miêu tả hình tượng hóa về cách làm cho lục căn được thanh tịnh.
Ngộ Không làm “tâm viên” đương nhiên phải chịu sự quản thúc của chủ nguyên thần là Đường Tăng, cho nên Đường Tăng mới được Bồ Tát truyền thụ cho “Khẩn cô nhi chú” (thần chú xiết chặt), “Khẩn cô nhi chú” này cũng được gọi là “Định tâm chân ngôn”, hiển nhiên là nhắm vào Tôn Ngộ Không. Khóa chắc được tâm viên rồi, tiếp theo là thu phục Bạch Long Mã. Đề mục của hồi này có câu “Ý mã thu cương”. Khóa chắc được tâm thì cũng là nắm được ý rồi, chính là “tỏa tâm viên thuyên ý mã” (khóa tâm vượn, buộc ý ngựa). Ý chịu sự quản thúc của tâm, Tôn Ngộ Không trước kia xuất thân là chức quản mã (Bật Mã Ôn), tâm ý tương hợp, tự nhiên như một.
Sau khi tâm ý tương hợp, cả Tôn Ngộ Không và Bạch Long Mã cùng chủ nhân (Đường Tăng) đi Tây Thiên thỉnh kinh, cũng là bắt đầu chân chính tu luyện. Vậy thì lúc này điều phải làm được là cấm dục, đây cũng là dụng ý của việc đeo “Cấm cô chú” (thần chú vòng cấm) cho Hắc Hùng Tinh. Cấm được dục rồi, đương nhiên phải thu phục việc tham luyến mỹ sắc của Trư Bát Giới. Người ta khi chiểu theo giới luật mà tu luyện, thì tâm tính tự nhiên sẽ được nâng cao, khi này Đường Tăng cũng đã đến lúc chiểu theo điều cốt lõi trong kinh điển Phật giáo, tức “Tâm Kinh” mà tu trì bản thân rồi.
Phần trước đã nói, tu luyện trên đường đi thỉnh kinh, rất nhiều đều là dựa vào lý luận tu luyện của Đạo gia. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đại biểu cho sự hòa hợp của âm dương trong cơ thể, là không rời khỏi tác dụng của tì tạng, Sa Hòa Thượng chính là khởi tác dụng của tì tạng. Bởi vì tì (lá lách) trong ngũ hành thuộc về thổ, màu sắc là màu vàng, thêm nữa Sa Hòa Thượng về thuộc tính lại là nhân hậu và hài hòa, ông còn được gọi là ‘hoàng bà’, tức có ý là ‘người mai mối’. Trước khi thu phục Sa Hòa Thượng, Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới hợp tác cùng đại chiến với Hoàng Phong quái, bởi vì ‘kim công’ và ‘mộc mẫu’ thiếu mất sự điều hòa của ‘hoàng bà’, nên mới có trận đại chiến với Hoàng Phong quái. Yêu quái Hoàng Phong bị thu phục rồi, cũng là đến lúc thu phục Sa Hòa Thượng.
Thầy trò Đường Tăng và Bạch Long Mã, năm vị tập hợp đầy đủ rồi, thì bắt đầu quan khảo nghiệm đầu tiên của việc chân chính tu luyện, cũng là khảo nghiệm về tâm sắc dục, đây chính là nguồn gốc của “Tứ thánh thí thiện tâm” (thử thiện tâm của bốn vị thánh tăng). Quan ải này qua rồi, ngũ tạng của thân thể cũng tự nhiên an định yên ổn; đối với người tu luyện mà nói, tại tầng thứ này đã bắt đầu xuất nguyên anh. “Ngũ Trang” trong “Ngũ Trang quán” thực chất là chỉ ngũ tạng trong thân thể người. Quả nhân sâm có hình dáng giống như đứa trẻ, chính là nói về nguyên anh. Bởi vì nguyên anh được sinh ra ở bộ vị đan điền khi người ta tu luyện đến một tầng thứ nhất định, là thứ thuộc về tiên thiên, cho nên nói rằng thuộc tính của nguyên anh và ngũ hành là thuộc tính tương úy (thuật ngữ trong Trung y, chỉ độc tố hoặc tác dụng phụ của một vị thuốc có thể hạ thấp hoặc loại bỏ bởi một vị thuốc khác).
Trong Phật gia nguyên anh được gọi là Phật thể, cũng được gọi là thân kim cương bất hoại. Sau khi nguyên anh được sinh ra, tự nhiên cần phải thanh trừ thây ma trên người, đó chính là chương tiết nói về ba lần đánh chết Bạch Cốt Tinh.
Ở trên nói về những lý luận trong tu luyện của Phật gia, những lý luận của Đạo gia còn có nhiều hơn. Đạo gia tu luyện giảng về thông chu thiên, chu thiên của Đạo gia cũng được gọi là “hà xa chu thiên” (chạy xe vòng quanh sông), trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện (chẳng hạn đoạn nói về đấu phép tại Xa Trì quốc). Khi Ngộ Không đến Nam Hải mời Bồ Tát đi hàng phục Hồng Hài Nhi, Ô Quy hành lễ với Bồ Tát, Bồ Tát nói không cho Thiện Tài Long Nữ và Ngộ Không cầm bình tịnh thủy đi cùng nhau, bởi vì Long Nữ tướng mạo xinh đẹp, Bồ Tát sợ Ngộ Không khởi tà niệm, Ngộ Không nói: “Từ trước đến nay không làm việc như vậy”. Sau đó Bồ Tát cho Ngộ Không đi trước, Ngộ Không nói: “Đệ tử không dám trổ tài trước mặt Bồ Tát. Nếu lộn cân đầu vân, lộ ra thân thể, sợ Bồ Tát mắng con bất kính.” Những lời này làm cho người đọc không nhịn được cười, nhưng lại ẩn chứa thời gian thông chu thiên, hiện tượng dương khởi khi chân khí đi qua âm bộ. Đồng thời cũng thuyết minh rằng, chỗ Bồ Tát ở chỉ có Thiện Tài Long Nữ, để lại “phục bút” cho việc thu Hồng Hài Nhi làm Thiện Tài Đồng Tử sau này.
Tiếp theo là bắt Đà Long tại sông Hắc Thủy, chính là nói về quá trình nguyên khí đi qua mệnh môn. Bởi vì màu sắc đối ứng với thận tạng trong ngũ hành là màu đen, mệnh môn ở giữa hai thận, thầy trò Đường Tăng đi qua sông Hắc Thủy cũng chính là đi qua huyệt mệnh môn. Do mạch đốc thuộc dương, khí hậu được miêu tả trong truyện cũng là “tam dương chuyển vận, mãn thiên minh mị khai đồ họa”(ba mạch dương vận chuyển, khắp trời mở ra đẹp đẽ như tranh vẽ). Tiếp theo là qua quan giáp tích. Vị trí của giáp tích là ở phía lưng hai bên cột sống, từ mỏm gai đốt sống cổ thứ nhất đến mỏm gai đốt sống lưng thứ năm, mỗi mỏm gai đều sang hai bên khoảng một đốt ngón tay. Trong truyện dùng ‘tiểu lộ’ (con đường nhỏ) để ví về huyệt giáp tích, nói rằng tiểu lộ nằm ở giữa hai cửa ải lớn, đường ở dưới ải đều là dốc thẳng đứng, 500 vị hòa thượng không kéo được chiếc xe chở đầy ngói qua. Tôn Ngộ Không dùng thần thông, kéo chiếc xe qua hai cửa ải, xuyên qua huyệt giáp tích.
Khi qua quan này, ba con yêu quái Hổ Lực Đại Vương, Lộc Lực Đại Vương và Dương Lực Đại Vương đấu phép thuật cùng Tôn Ngô Không và bị diệt trừ, điều này nói lên ý nghĩa thực sự, đó là: khi chu thiên vận hành qua huyệt giáp tích, không thể dùng ngoại lực, dùng ý quá nhanh, quá mạnh, quá yếu đều không được, mà chỉ căn cứ một niệm của bản tính, tự nhiên sẽ qua. Nếu không sẽ nhập sang bàng môn.
Qua được huyệt giáp tích, theo đường đi của chu thiên thì sẽ tiếp tục đi lên, trong truyện miêu tả là đến sông Thông Thiên. Sông Thông Thiên ý nói là huyệt bách hội trên đỉnh đầu, tả về sông Thông Thiên trong truyện có câu thơ “Trường lưu quán bách xuyên” (dòng chảy dài thông suốt trăm con sông), mà huyệt bách hội trên thân thể chính là nơi kinh mạch giao hội, huyệt vị này lại nằm ở ngay trên đỉnh đầu, có thể nói đây là nơi tương thông với trời. Nê Hoàn Cung lại là nơi đối ứng với huyêt bách hội trong đại não, cũng chính là nơi chủ nguyên thần trú ngụ, tên của yêu quái kia là “Linh Cảm Đại Vương” cũng đã nói rõ hơn về điểm này. Đến sông Thông Thiên, thì con đường thỉnh kinh đi được một nửa rồi, tức là đã đi được năm vạn bốn nghìn dặm. Nơi này lại chính là đỉnh đầu của con người, cũng chính là điểm giao hội của hai mạch nhâm và đốc. Bên bờ sông Thông Thiên có Trần Gia trang, có anh em Trần Trừng và Trần Thanh; Trần Trừng có một cô con gái tám tuổi tên Nhất Xứng Kim; Trần Thanh có một cậu con trai bảy tuổi tên là Trần Quan Bảo. Thầy trò Đường Tăng cứu được cũng chính là đôi trai gái này. Đương nhiên, đây cũng là một cách ví von, một nam một nữ này chính là chỉ “anh nhi sá nữ phối âm dương”. Trương Tam Phong từng có câu: “Hoàng bà dẫn khứ anh nhi, thượng nê hoàn, thấu huyền quan, anh nhi sá nữ lưỡng đoàn viên”. Còn có người nói: “Huyệt giáp tích trên thân người, ví như sông Ngân trên trời. Sông Ngân ngăn cách nhưng lại có Linh Thước làm cầu, còn có cách nói là bắc cầu Hỉ Thước. Lưỡi của người cũng gọi là cầu Hỉ Thước. Phàm khi tạo đan, thì lấy hoàng bà dẫn nguyên anh lên nê hoàn, cùng sá nữ giao hội, nên cũng nói là lên cầu Hỉ Thước.”
Khi qua quan này, có chương tiết nói về Linh Cảm Đại Vương dùng thần thông làm tuyết rơi đông cứng sông Thông Thiên. Trong “Cửu chuyển kim đan tu luyện pháp”, khi tu luyện đến bước xuất nguyên anh này, trong định sẽ phát hiện vùng nê hoàn cho đến bách hội giống như là khoảng trống hư không, nhưng lại có cảnh tượng nhiều hoa tuyết bay. Trong “Tây Du Ký” nhiều lần nhắc đến tu luyện “Cửu chuyển kim đan thuật”, ví dụ, sau khi Tôn Ngộ Không lấy trộm kim đan của Thái Thượng Lão Quân, Lão Quân nói với Ngọc Đế: “Trong Đạo cung của Thần, luyện được một ít ‘cửu chuyển kim đan’, để Bệ Hạ làm ‘Đan nguyên đại hội’, không ngờ bị kẻ trộm lấy mất.” Ngay cả Trư Bát Giới tự kể lại với Tôn Ngộ Không về kiếp trước của mình cũng nói: “Đắc truyền cửu chuyển đại hoàn đan, Công phu trú dạ vô thời khuyết”; Tôn Ngộ Không còn nói khoác về Kim Cô bổng của mình: “Bổng thị cửu chuyển tấn thiết luyện, Lão Quân thân thủ lư trung đoàn” (gậy sắt là thép tinh luyện qua chín lần, do đích thân Lão Quân luyện trong lò). Cuối cùng một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng cũng là tại sông Thông Thiên, có câu thơ như sau: “Bỉnh chứng tam thừa túy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhâm chu toàn”.
Qua được sông Thông Thiên rồi, Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng vì tâm trộm cắp nên mới dẫn đến tai họa. Yêu quái là con trâu xanh của Lão Quân đã trộm Kim Cương trác của ông rồi xuống nhân gian tác quái. Kim Cương trác này cũng là vật Thiên Linh Cái năm xưa Lão Quân dùng để đánh Ngộ Không; vật này xuất hiện ở đây, chính là ý nói chu thiên cần phải thông qua đỉnh đầu rồi.
Độc giả khi đọc đến đoạn Tôn Ngộ Không đại náo Thiên Cung đều biết, Thần tướng khắp trời nhưng không làm gì được Ngộ Không, đó là biểu hiện hình tượng hóa một người khi tu luyện đến bộ phận đầu, tại vị trí này cần thông khiếu quá quan (thông huyệt vị). Ví dụ “Minh Thiên cổ” (đánh trống trời) trong tu luyện truyền thống, chính là dùng hai tay bịt kín hai tai lại, ngón tay đặt tại huyệt ngọc chẩm gõ nhẹ; mà Lôi phủ trong Thiên Cung chính là chỉ mũi người. Nơi ở “cung Đâu Suất” của Thái Thượng Lão Quân là ở bên trên ba mươi ba tầng trời. Khi xưa Tôn Ngộ Không tại nơi đây đã bị đẩy vào lò Bát Quái, về bản chất là chỉ đỉnh đầu của con người. Tê Giác Đại Vương cản trở thầy trò Đường Tăng là do con Thanh Ngưu (trâu xanh) của Thái Thượng Lão Quân biến hóa thành, nơi ở của nó là động Kim Đâu thuộc núi Kim Đâu, có thể coi là tên gọi khác của cung Đâu Suất. Tôn Ngộ Không mời Thiên Vương, Lôi Công, Hỏa Đức, Thủy Bá, gặp Phật Như Lai, mời thập bát La Hán, giống như năm xưa Ngộ Không đại náo Thiên Cung, thực chất là miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành quá quan thông khiếu. Cuối cùng Lão Quân dùng Kim Cương trác xỏ mũi trâu xanh và chế phục được nó, việc này được ví von như khi chu thiên vận hành đến mũi vậy.
Trên đường thỉnh kinh đi qua Tây Lương nữ quốc, bởi vì Đường Tăng và Bát Giới đã uống nước sông Tử Mẫu mà có thai khí, đây là chỉ trong tu luyện đã nhập bàng môn. Đường Tăng và Bát Giới trong ngũ hành đều thuộc tính thủy, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘hống’ (thủy ngân), Tôn Ngộ Không là “kim công”, thuật ngữ trong tu luyện cũng gọi là ‘diên’ (chì). “Chân diên hợp chân hống” (chì tinh khiết kết hợp với thủy ngân tinh khiết), tự nhiên sẽ sinh ra tiên đan. Nhưng Đường Tăng và Bát Giới lại uống nước, cho nên mới có tà thai. Có tà thai rồi thì làm thế nào? Chính là dùng nước suối Lạc Thai ở động Phá Nhi núi Giải Dương để phá giải. Nước suối này chính là chỉ nước bọt của người, thuật ngữ trong tu luyện gọi là ‘kim tân ngọc dịch’. Động Phá Nhi bị Như Ý chân tiên đổi tên thành Tụ Tiên am. Am là nơi cư trú của ni cô, Như Ý chân tiên là thân nam, cớ sao lại đổi tên như vậy? Bởi vì thủy trong Bát Quái có quẻ tượng đối ứng là Khảm (☵) với một hào dương ở giữa hai hào âm, chính là ý nói trong am có một thân thể nam cư trú. Tôn Ngộ Không vì sao không dùng phân thân để chống lại Như Ý chân tiên, để chân thân đi lấy nước? Bởi vì ‘chân diên chân hống’ bắt buộc phải qua sự điều hòa của thổ mẫu, do đó ắt phải là Sa Hòa Thượng đi lấy nước mới giải được tà thai. Trong “Tây Du Ký” có câu thơ viết: “Chân diên nhược luyện tu chân thủy, Chân thủy điều hòa chân hống can. Chân hống chân diên vô mẫu khí, Linh sa linh dược thị tiên đan. Anh nhi uổng kết thành thai tượng, Thổ mẫu thi công bất phí nan. Thôi đảo bàng môn tông chính giáo, Tâm quân đắc ý tiếu dung hoàn.”
Hai nạn theo sau của thầy trò Đường Tăng ở Nữ Nhi quốc xem ra có liên quan đến việc vượt qua quan sắc, đương nhiên đây cũng chỉ là một phương diện, thực chất lại là sự miêu tả hình tượng hóa khi chu thiên vận hành đến bộ vị tâm tạng.
Tình tiết câu chuyện Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu rất hấp dẫn người đọc, nếu đặt trong kết cấu chỉnh thể của “Tây Du Ký” và sự sự an bài việc tu luyện thân thể người, thì đó chẳng qua chỉ là thông qua điều tức để đạt được sự điều chỉnh của các tạng trong thân thể. Uy lực của quạt Ba Tiêu lớn như thế, miêu tả như vậy kỳ thực cũng là chỉ bộ phận lưỡi của người. Trong tu luyện truyền thống, có một cách hô hấp nạp thải khí gọi là “lục tự ca quyết”, sáu chữ này lần lượt là “hư, ha, hô, xi, suy, hi”, ứng với tạng phủ kinh lạc lần lượt là ‘can, tâm, tì, phế, thận, tam tiêu’. Khi tu luyện yêu cầu mũi hít vào mồm thở ra. Sáu chữ này dường như hoàn toàn tương đồng với khẩu quyết của bà La Sát dùng để biến lớn quạt Ba Tiêu là “xi, hư, a, hấp, hi, suy, hô”. Trong tu luyện đều cần phải “đáp Thước Kiều” (nối cầu Hỉ Thước), chính là lưỡi đặt hàm trên. Lúc thổ nạp hô hấp, khi hít khí vào lưỡi chạm hàm trên, khi thở khí ra bởi vì phải làm khẩu hình tương ứng với âm thanh phát ra, nên đầu lưỡi tự nhiên cũng rời khỏi vị trí hàm trên. Đây cũng là nguyên do dẫn đến việc Tôn Ngộ Không ba lần mượn quạt Ba Tiêu. Mà lưỡi lại là ‘tâm chi miêu’ (gốc của tâm), trong ngũ hành thuộc tâm, thuộc tính hỏa, do đó nói dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa Hỏa Diệm Sơn chính là mượn điều tức để đạt đến ‘bình tức tâm hỏa’ (khiến lửa giận lắng lại).
Ngộ Không nói “Ngưu Vương bản thị tâm viên biến” (Ngưu Ma Vương vốn do tâm viên biến thành); con trai Ngưu Ma Vương là Hồng Hài Nhi cũng tượng trưng cho tâm hỏa; vợ của Ngưu Ma Vương là La Sát phu nhân giữ Hỏa Diệm Sơn cũng là chỉ về tâm hỏa. Có thể thấy gia đình nhà Ngưu Ma Vương đều có liên qua đến tâm. Dùng quạt Ba Tiêu để quạt nước mưa dập tắt lửa Hỏa Diêm Sơn, điều này lại vừa phù hợp với câu nói trong tu luyện của Đạo gia là “thủy hỏa ký tế” (nước lửa đã xong). Cho nên khi câu chuyện này kết thúc, trong “Tây Du Ký” có viết rằng: “Bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi riêng một con đường, nước lửa đã cứu xong, tiết trời trở nên mát lạnh, mượn được quạt quý thuần âm, quạt hơi lửa nóng để qua núi.
Câu chuyện này còn có ngụ ý khác nữa, đó chính là chu thiên trong khi vận hành đi qua “tam tiêu”. Tam tiêu phân chia thành thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu, dường như bao gồm tất cả lục phủ ngũ tạng của thân thể người. Tam tiêu là một phủ đặc thù, nó là con đường thủy cốc trong thân thể, có đường nước khai thông, có tác dụng vận hành thủy dịch. Tam tiêu trong ngũ hành thuộc về hỏa. Nhưng đối ứng với mật quyết điều tức của bà La Sát cũng không chỉ để chỉ tâm. Trong truyện cũng nhiều lần nhắc đến, nói rằng chỉ có dùng quạt Ba Tiêu quạt tắt ngọn lửa, quạt đến khi có mưa, mới có thể trồng trọt có thu hoạch, từ đó mới có được ngũ cốc để dưỡng sinh.
Tác giả rất chú ý đến việc sắp xếp tình tiết câu chuyện, phần trước có nói đến người tu luyện tu đến tầng thứ nhất định sẽ xuất nguyên anh, sau đó mấy phần tiếp đều viết về những gì có liên quan tới nguyên anh hoặc liên quan đến tâm, cho đến khi viết về thông chu thiên. Tiếp về sau, phần cuối lại viết về thất tình. Bởi vì không thỏa mãn được tình, liền sinh ra hận. Rồi lại viết về lục dục. Những điều này đều là có quy luật tuần hoàn.
Khi chu thiên vận hành, lúc thầy trò Đường Tăng lần đầu tiên vượt quan về tâm, chính là dùng Hồng Hài Nhi; lần thứ hai là mẹ của Hồng Hài Nhi – Thiết Phiến công chúa; từ đó về sau, khi vượt qua mỗi quan thì trong tiêu đề đều dùng “sá nữ cầu dương”. Từ nam đến nữ, từ già đến trẻ, trong tu luyện thì càng ngày càng trở nên thuần tịnh.
Có thể thấy sự sắp xếp tình tiết trong “Tây Du Ký” là vô cùng độc đáo, không chỉ là chu thiên vận hành, mà một số bộ phận đặc thù của thân thể cũng cần phải luyện, ngay cả thân thể cũng cần phải thanh lý. Ví dụ hồi 65 và hồi 66 viết về Hoàng Mi quái, chính là chỉ hệ sinh sản của con người. ‘Đoản nhuyễn lang nha bổng’ (gậy răng sói mềm ngắn) mà Hoàng Mi quái sử dụng chính là chỉ dương vật của nam giới, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà hắn sử dụng rõ ràng chính là âm nang người. Phật Di Lặc nói đây là “Hậu thiên đại tử, tục danh hoán tố nhân chủng đại” (cái túi của sau này, tục danh gọi là túi đựng giống người). Phật Di Lặc bảo Tôn Ngộ Không dụ Hoàng Mi quái ra, “Ngài viết lên lòng bàn tay của Hành Giả một chữ ‘cấm’, bảo Hành Giả nắm tay lại, nhìn thấy yêu tinh hãy giơ tay trước mặt nó, nó liền đi theo.” Ý nghĩa của chữ ‘cấm’ này, với chữ ‘cấm’ ở phần trước nói về việc đeo ‘Cấm cô chú’ cho Hắc Hùng Tinh là giống nhau.
Hồi thứ 67, trong truyện viết về hẻm Hi Thị (con đường nhỏ có nhiều hồng rụng bị thối nát) ở Đà La trang (thôn Đà La), thực ra chính là chỉ ruột người, gọi là ‘Hi Thị’ chẳng qua là đồng âm với ‘hi thỉ’ (phân lỏng). Trong hẻm Hi Thị có Hồng Lân Đại Mãng (con mãng xà lớn có vảy màu đỏ), chính là nói về hồi trùng (giun sán trong ruột người). Đương nhiên cần phải giết chết nó. Qua quan này may là nhờ Bát Giới biến thành cái đầu lợn lớn đi trước ủi để mở đường mới qua được.
Đến cuối cùng, tới được Linh Sơn rồi, còn phải qua bến đò Lăng Vân. Khi Ngộ Không đẩy Đường Tăng lên thuyền không đáy, thân thể nơi trần thế (nhục thân) của đường Tăng liền tự nhiên thoát rơi ra, chính là ứng với ý “Kim Thiền thoát xác”.
8. Những câu thơ, hồi mục và ẩn dụ hình tượng hóa tiết lộ nội hàm tu luyện
Nhiều người đọc “Tây Du Ký” chỉ chú trọng tình tiết, gặp thơ từ liền bỏ qua, gặp tiêu đề mỗi hồi cũng bỏ qua không chú ý. Thực ra trong đó thật sự tiết lộ mối liên hệ giữa câu chuyện và đạo lý tu luyện. Hồi thứ 14 “Tâm viên quy chính, Lục tặc vô tung” (Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi), chỉ Tôn Ngộ Không là tâm đã quay trở về trong tâm của chủ nhân, “lục tặc” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đã bị đoạn đứt gốc rễ. Hồi thứ 72 “Bàn Tơ động thất tình mê bản, Trạc Cấu tuyền Bát Giới vong hình” (Động Bàn Tơ bảy tình mê gốc, Suối Trạc Cấu Bát Giới mất hình). Trong hồi này viết về bảy con nhện tinh, tác giả dùng bảy con nhện tinh (thất tinh) để ví thất tình của của con người. Câu kết hồi thứ 40 “Vị luyện anh nhi tà hỏa thắng, Tâm viên mộc mẫu cộng phù trì”, ở đây dùng ‘tâm viên’ mà lại không dùng ‘kim công’ để đối ứng với ‘mộc mẫu’, bởi vì mộc khắc kim, Hồng Hài Nhi đại biểu cho tâm hỏa (lửa giận, tâm oán hận), tâm hỏa đang vượng, cho nên không dùng ‘kim công’ mà dùng ‘tâm viên’ để chỉ Tôn Ngộ Không. Câu “cộng phù trì” nói rất hay, nhưng không phải là trừ dứt Hồng Hài Nhi không cần nữa, mà là cần phải giúp đỡ Hồng Hài Nhi quy chính, bởi vì Hồng Hài Nhi cũng là một phần tâm của người tu luyện.
Hồi thứ 55 viết về một con bọ cạp độc trêu đùa dâm dục Đường Tăng, bị Tôn Ngộ Không mời Mão Nhật Tinh Quân đến tiêu diệt. Tiếp theo, hồi thứ 56 có bài thơ mở đầu, “Linh Đài vô vật vị chi thanh, Tịch mịch toàn vô nhất niệm sinh. Viên mã lao thu viên phóng đãng, Tinh thần cẩn thận mạc tranh vinh. Trừ lục tặc, ngộ tam thừa, Vạn duyên đô bãi tự phân minh. Sắc tà vĩnh diệt siêu chân giới, Tọa hưởng Tây phương Cực Lạc thành.” Sau khi thầy trò nhận sắc phong của Phật Như Lai có câu thơ thế này: “Nhất thể chân như chuyển lạc trần, Hợp hòa tứ tướng phục tu thân. Ngũ hành luận sắc không hoàn tịch, Bách quái hư danh tổng mạc luận. Chính quả chiên đàn quy Đại Giác, Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân. Kinh truyền thiên hạ ân quang khoát, Ngũ thánh cao cư bất nhị môn.”
Tôn Ngộ Không đánh chết mấy tên cướp, Đường Tăng liền đuổi Ngộ Không đi. Dẫn đến cuộc tranh đấu giữa Lục Nhĩ Mi Hầu và Tôn Ngộ Không, thực chất là cuộc tranh đấu giữa chân ngã và giả ngã. Sau khi Lục Nhĩ Mi Hầu bị đánh chết, có câu thơ như thế này: “Trung đạo phân ly loạn ngũ hành, Hàng yêu tụ hội hợp nguyên minh. Thần quy tâm xá thiền phương định, Lục thức khư hàng đan tự thành”. Lời mở đầu hồi tiếp theo là một bài tụng, viết rằng: “Tam Tạng vâng lệnh Bồ Tát, thu nhận Hành Giả, cùng Bát Giới Sa Tăng cắt đứt ‘nhị tâm’, khóa chặt viên mã, đồng tâm hiệp lực, nhanh bước đến Tây Thiên.” Chỗ này người đọc có thể hiểu được, hơn nữa cách nói ‘nhị tâm’ trong câu đề mục ở hồi này “Nhị tâm giảo loạn đại càn khôn, Nhất thể nan tu chân tịch diệt” đã nói rất rõ ràng ‘nhị tâm’ là thế nào.
Những điều được ví von trong “Tây Du Ký” có rất nhiều, từ đầu truyện đến cuối truyện đều có. Viết về yêu quái, có rất nhiều là dùng để ví tâm chấp trước của con người, chẳng hạn dùng sợi tơ nhện để ví về sợi tơ tình của con người, dùng Lục Nhĩ Mi Hầu để ví về các quan niệm hậu thiên hình thành nên nhân tâm của con người. Ngay cả nơi ở của yêu tinh phần lớn cũng được dùng để ví von, ví như động Bàn Tơ, thôn Đà La, động Ba Tiêu ở Hỏa Diệm Sơn, động Không Đáy ở núi Hãm Không, động Ba Nguyệt ở núi Uyển Tử, v.v.
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128191
Ngày đăng: 17-04-2014
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (5)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
III. Hiểu “Tây Du Ký” từ nhiều góc độ khác nhau

Bài trước phân tích về “Tây Du Ký” là dựa trên cơ sở người tu luyện thuần túy mà tiến hành phá giải. Cũng chính là nói, bề ngoài viết về cuộc chiến giữa thầy trò Đường Tăng và yêu ma quỷ quái, nhưng thực chất lại là đang thanh trừ ma tính của chính bản thân mình. Đây là giải ở góc độ tu nội thuần túy. Phân tích như vậy cũng đủ để vén bức màn bí ẩn về nội hàm của “Tây Du Ký”, đằng sau sự ly kỳ hấp dẫn này chính là quá trình một người tu tâm đoạn dục.
Nhưng người tu luyện chân chính vẫn có một góc độ quan sát nữa. Người chân tu biết rằng, nếu muốn chân chính tu luyện mà không có sư phụ chỉ dạy, không có sư phụ dẫn dắt, thì về cơ bản là không tu thành được. Mà vị sư phụ này ắt phải là một Giác Giả có trí huệ và thần thông to lớn. Đương nhiên người tu luyện thông thường, căn cơ không đủ, tâm cầu Đạo không kiên trì, trong khi đọc kinh sách mà tu luyện, thì có hay không có sư phụ cũng không sao cả. Bởi vì tu luyện môn nào thì sư phụ của môn đó liền biết ngay, ông thấy người này cần đề cao tầng thứ rồi, liền ở phía sau giúp đỡ một chút. Người này thật sự có thể tu luyện được, thì ông liền giúp đỡ. Bởi vì Giác Giả độ nhân không nói điều kiện. Nhưng những người như thế này thật sự quá ít, quan niệm của người thường lại quá nhiều quá phức tạp, khi tu luyện hễ gặp khó khăn ma nạn liền dùng nhân tâm mà đối đãi, họ cũng sẽ bị đình trệ ngay ở ma nạn đó. Do đó từ góc độ này mà xét, người chân tu hướng nội tu là một phương diện, cũng là một phương diện chủ yếu, nhưng không tách rời khỏi sự bảo hộ của sư phụ, khi cần thiết thật sự phải có sư phụ đến giúp đỡ.
Chân tu ắt phải có sư phụ, đường đời của người chân tu đã được sư phụ an bài và thay đổi rồi, từng nạn đều là nhắm vào chấp trước của người tu luyện mà an bài. Điều này cũng được thể hiện ngay trong “Tây Du Ký”. Ví dụ khi Tôn Ngộ Không thu phục Kim Giác Đại Vương và Ngân Giác Đại Vương, Thái Thượng Lão Quân nói: “Vật này Hải Thượng Bồ Tát đã hỏi mượn ta ba lần, lần này đưa cho ngài ấy hóa thành yêu ma, để thử xem thầy trò ngươi có thật sự muốn đi Tây Thiên thỉnh kinh hay không.”
Chúng ta nói các nạn mà Đường Tăng trải qua là nạn của bản thân ông, điều này đương nhiên là đúng. Tuy nhiên an bài có thứ tự, từng bước từng bước lại không phải là ông tự an bài cho mình. Trong truyện nói rõ rằng có những ma nạn là do Phật Thích Ca Mâu Ni an bài; vị Phật Thích Ca Mâu Ni này lại không phải giống như phân tích ở phần trước là chỉ ở trong tâm người ta, mà Ngài ở tại thế giới của Ngài; chỉ cần có người thật sự tu luyện theo kinh mà Ngài truyền, Ngài đương nhiên sẽ biết, và đương nhiên sẽ quản người đó; cách giúp đỡ của Ngài là an bài sẵn con đường để người đó tu luyện. Trên con đường Ngài đã an bài, vào mọi thời khắc Ngài đều đang chăm nom bảo hộ người đó. Đương nhiên người ta trong tu luyện, khi đối chiếu với kinh Phật để hướng nội mà tu, mặt bản tính của chính mình, cũng chính là phía mặt tu thành kia đã biết phải làm thế nào rồi. Nhưng chỉ biết được làm thế nào thì vẫn chưa đủ, đó là quan niệm hậu thiên hình thành, ở không gian khác mà nhìn, đó là những vật chất vô cùng ngoan cố, không có sự giúp đỡ của sư phụ thì về cơ bản không thể nào trừ bỏ đi được. Chúng ta hãy lấy một ví dụ, tại sao một số người xấu muốn học điều tốt lại khó như vậy? Đó là vì họ không vứt bỏ được quan niệm mà họ đã hình thành, quan niệm đó là tự kỷ hậu thiên, nó ngăn cản con đường người ta phản bổn quy chân. Đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu mà người hiện đại ngày nay khó có thể tu luyện. Đương nhiên, nếu xét từ góc độ này, kết hợp thêm tại góc độ người tu luyện thuần túy để hiểu “Tây Du Ký”, thì sẽ toàn diện hơn.
Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, từ trong Pháp Sư phụ Lý Hồng Chí giảng rằng con người có chủ nguyên thần, phó nguyên thần, trong khi đọc “Tây Du Ký”, tôi phát hiện rằng từ góc độ này mà hiểu về thầy trò Đường Tăng thì vô cùng hợp lý. Đường Tăng đương nhiên là chủ nguyên thần; Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng, Bạch Long Mã chính là các phó nguyên thần. Tu luyện là lấy chủ nguyên thần làm chủ, chủ nguyên thần mê trong nhân thế, nếu muốn tu luyện vượt ra khỏi chốn hồng trần, thì đương nhiên sẽ có nhiều nạn, sẽ có nhiều khổ, nhưng càng như vậy, sẽ tu luyện được càng cao. Phó nguyên thần điều gì cũng biết, đương nhiên sẽ dễ tu hơn một chút. Cho nên, năm vị tuy cùng một thể, nhưng lại đều có thể tu đến quả vị tương ứng của bản thân.
Có một vị tu luyện khai mở thiên mục ở tầng thứ rất cao khi chia sẻ đã nói: “Câu chuyện Đường Tăng thỉnh kinh là có thật, hình tượng thầy trò Đường Tăng cũng là sự thật, chẳng qua là ở tại không gian khác mà thôi.” Như vậy từ góc độ này mà nói, “Tây Du Ký” là một câu chuyện tu luyện phát sinh tại không gian khác, trải qua gia công chỉnh lý đã trở thành bộ tác phẩm mà chúng ta thấy như hiện nay.
Đương nhiên dùng tư tưởng của người thường thì không lý giải nổi sự an bài của các sinh mệnh cao tầng đối với sự việc này. Đối với những sinh mệnh cao tầng tham dự trong đó mà nói, không phải là họ muốn diễn giải câu chuyện như thế nào thì liền có thể làm như thế. Lấy Trư Bát Giới làm ví dụ, xét từ góc độ người thường, có ai muốn làm Trư Bát Giới? Nhưng nếu từ góc độ lưu lại văn hóa Thần truyền chính thống cho nhân loại và trải thảm cho tu luyện chính Pháp của đời sau mà nói, đó là công lao và thành tích vĩnh viễn bất diệt trong vũ trụ, là điều mà bao vị Thần ngày nay đều ngưỡng mộ. Nói thẳng ra, không phải sinh mệnh nào muốn diễn vai diễn này thì liền được phép diễn.
Từ truyện mà xét, các ma nạn thầy trò Đường Tăng trải qua, những người tham dự trong các ma nạn đó rất nhiều đều là có lai lịch, có những nạn là do Phật Như Lai và Bồ Tát trực tiếp an bài. Người tu luyện thông thường cũng không xứng có những ma nạn như thế này. Theo cách nói của Phật Di Lặc thì: “Là do thầy trò ngươi chưa hết nạn, cho nên nhiều loài hạ thế đón đường, khiến các ngươi chịu ma nạn.”
(còn tiếp…)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128192
Ngày đăng: 23-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Thử giải “Tây Du Ký” (6)


Facebook
Tác giả: Đàn Trần

[Chanhkien.org]
IV. Ngụ ý và ý nghĩa của “Tây Du Ký”

Kết cấu và bố cục của “Tây Du Ký” đồ sộ mà lại nghiêm ngặt. Mở đầu là Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế trị thế. Được phân làm hai phần: phần đầu là bảy chương tiết đầu lấy Tôn Ngộ Không làm chủ thể; phần hai là lấy thỉnh kinh làm chủ thể. Cuối cùng là năm thầy trò mỗi người đều đắc quả vị, được sự kính trọng và ca tụng của chư Phật và Bồ Tát.
Trong “Tây Du Ký” một số từ ngữ có ẩn ý tương đối sâu xa, nhưng chỉ cần đứng tại góc độ người tu luyện mà xét, thì có thể thấy được đầu mối, chỉ là có những điều ẩn giấu quá sâu mà thôi. Ví dụ: Bồ Đề Tổ Sư dạy Ngộ Không phép biến hóa tránh tam tai, trong đó nhắc tới ba lần 500 năm, cũng chính là 1.500 năm, nếu nhân với 72 phép biến hóa của Tôn Ngộ Không, thì chính là 10.800, đó chính là quãng đường mười vạn tám nghìn dặm mà Đường Tăng đi thỉnh kinh. Nếu nhân với số dương lớn nhất là 9, bởi vì vật cực tắc phản, cho nên 9 là con số lớn nhất, thì được 13.500, vừa khớp với trọng lượng Kim cô bổng của Tôn Ngộ Không. Mà con số này lại ngầm hợp với điều nói trong “Hoàng Đế bát thập nhất nạn kinh” là “nhân trú dạ hô hấp nhất vạn tam thiên ngũ bách tức” (trong một ngày đêm người ta hô hấp 13.500 lần).
Đường Tăng thỉnh kinh trải qua 80 nạn, đến được Linh Sơn rồi, bởi vì còn thiếu một nạn nữa, nên phải bổ sung thêm. Tổng cộng trải qua 14 năm, theo lịch cũ thì một năm có 360 ngày mà tính, tổng cộng mất 5.040 ngày. Nhưng còn thiếu 8 ngày nữa so với ẩn số, lại vừa khớp với một nạn bổ sung 8 ngày, hợp thành con số 5.048 bí ẩn, con số bí ẩn này lại là con số giống với trọng lượng binh khí của Bát Giới và Sa Tăng.
Nói về một nạn bổ sung thêm cho Đường Tăng, trong truyện tác giả đã sớm để lại “phục bút” rồi. Bề ngoài là lão rùa trắng Bạch Ngoan hỏi Đường Tăng là khi nào lão mới thoát xác để đắc được thân người, thực chất biểu hiện ra là Đường Tăng đã thoát khỏi thân người đắc được Phật thể rồi. Ngoài ra, nạn này chính là khi Đường Tăng đã trải qua hơn một nửa con đường mười vạn tám nghìn dặm, cũng chính là tại vị trí huyệt bách hội của con người, mà nơi đây lại chính là nơi sở tại của Nê Hoàn Cung, trong giới tu luyện Nê Hoàn Cung cũng được coi là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần. Tại nơi đây họ đã cứu được Trần Quan Bảo và Nhất Xứng Kim. Thực ra ngụ ý trong đó chúng ta cũng dễ dàng có thể thấy được: người trong thôn có cùng họ Trần với Đường Tăng, có thể coi là phản bổn quy chân; năm đó bởi vì đi được nửa đoạn đường, sá nữ và anh nhi đại biểu cho âm dương lúc hòa hợp. Trần Quan Bảo 7 tuổi và Nhất Kim Bình 8 tuổi cộng lại là 15, chính là một nửa của ba mươi cân. Cái tên “Quan Bảo” được đóng lại và được bảo vệ ở bên trong Nê Hoàn. Ai là người bảo vệ đây? Đương nhiên chính là Nhất Xứng Kim. Trong Phật giáo coi ‘Trượng lục kim thân’ là một trong ba thân thể của Phật, là thân thể nhỏ trong thân thể biến hóa của Phật. Trong tu luyện Toàn Chân Đạo có khẩu quyết kim đan như thế này: “Nội hữu kim đan thập lục lưỡng, Tống tại tây nam khôn địa thượng. Thùy tri thử vật thị hoàn đan, Chỉ tại Nê Hoàn Cung lý dưỡng.” Lưỡng và xích ở đây nếu tính là ngang nhau, thì kim đan chính là chỉ kim thân. Nhất Xứng Kim ở đây chính là chỉ kim thân của Đường Tăng sau khi ông tu thành.
Lúc trước khi Đường Tăng thỉnh kinh đến sông Thông Thiên, bị yêu ma đóng băng sông Thông Thiên, sau đó Đường Tăng bị bắt đi. Bát Giới nói Đường Tăng, “Đừng gọi là Tam Tạng nữa, mà nên đổi thành Trần Đáo Để” (lối chơi chữ, nghĩa là “Trầm Đáo Để”, chìm đến đáy). Đường Tăng rốt cuộc chìm đến nơi nào? Trong truyện nói là chìm đến “Thủy ngoan chi đệ” (phủ đệ của lão rùa), thực ra đây là Nê Hoàn của con người. Từ huyệt bách hội hướng xuống vào trong đại não, là vị trí sở tại của Nê Hoàn, Nê Hoàn cũng được gọi là ‘Tổ khiếu’, cũng là thể tùng quả mà y học hiện đại nhận thức được. Nó cũng là nơi trú ngụ của chủ nguyên thần của con người. Mà lần này, Bạch Ngoan (lão rùa trắng) muốn hất Đường Tăng xuống nước, thân thể của Đường Tăng đã là thân thể đắc Đạo, cho nên có thể ở trong chân không được và ở dưới nước được.
Ngoài ra, từ thọ mệnh của Bạch Ngoan cũng có thể thấy được mối quan hệ giữa Bạch Ngoan và Đường Tăng. Bạch Ngoan nhờ Đường Tăng hỏi Phật Như Lai xem khi nào ông mới thoát xác, ông nói rằng bản thân ông “đã tu hành hơn một ngàn ba trăm năm”. Hơn một ngàn ba trăm năm này, nếu tính theo thời gian trước khi Đường Tăng đi thỉnh kinh, thì chính là thời đại mà Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp, đương nhiên cũng là thời đại Tu Bồ Đề hay Kim Thiền Tử còn tại thế.
Vậy thì Lão Ngoan này là ai? Đó chẳng qua chỉ là một bộ phận của nhục thân, là vật chất cấu thành từ ngũ hành mà thôi, có thể nói là một tải thể của Kim Thiền Tử tại nhân gian. Trong truyện dùng Lão Ngoan thực chất là nói về bản lai diện mục của Đường Tăng, cũng tức là ý nói “hoàn nguyên” (“ngoan” [鼋] với “nguyên” [元] là đồng âm), đây cũng chính là câu thơ trong truyện: “Bất nhị môn trung Pháp áo huyền, Chư ma chiến thoái thức nhân Thiên. Bản lai diện mục kim phương kiến, Nhất thể nguyên nhân thủy đắc toàn. Bỉnh chứng tam thừa tùy xuất nhập, Đan thành cửu chuyển nhậm chu toàn. Khiêu bao phi trượng thông hưu giảng, Hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan.”
“Ma ha bàn nhược ba la mật đa tâm kinh” gọi tắt là “Tâm kinh”, là kinh sách kinh điển trong Phật giáo. Năm xưa khi Ô Sào Thiền Sư truyền thụ cho Đường Tăng, lại nói là “Đa tâm kinh”, về sau khi Đường Tăng gặp ma nạn hay có chấp trước trong tâm của bản thân, mặc dù nói là niệm “Tâm kinh”, nhưng tác giả lại viết thành “Đa tâm kinh”. Ví dụ trong hồi thứ 20 “Hoàng Phong lĩnh Đường Tăng hữu nạn, Bán sơn trung Bát Giới tranh tiên”, khi Bát Giới và Ngộ Không đại chiến với hổ quái, trong truyện có viết: “Tam Tạng ngồi xuống, sợ đến rét run lập cập, miệng niệm‘Đa tâm kinh’ mà không lên tiếng.” Trong tâm nếu sợ hãi như thế này, đương nhiên là tâm sợ hãi rồi, Đương Tăng niệm cũng chỉ có thể là “Đa tâm kinh” thôi. Mãi đến lúc sau khi đến nước Thiên Trúc, tâm chấp trước của Đường Tăng về cơ bản đã trừ sạch rồi, lúc này tác giả mới viết rằng Đường Tăng niệm chính là “Tâm kinh” .
Từ đây có thể thấy, khi sáng tác “Tây Du Ký” là tương đối khắt khe, tuyệt không phải là nghĩ lung tung từ không thành có mà viết ra. Trong việc bố trí tình tiết và dùng từ dùng câu, miêu tả hình tượng nhân vật cũng là như vậy. Hình tượng thầy trò Đường Tăng ai ai cũng thích, và đã đi sâu vào lòng người. Thực ra tác giả đã viết ra tính chất chung của của con người, cũng chính là tâm lý và tính tình thuần khiết của con người; từ hình tượng Tôn Ngộ Không, người ta có thể nhìn thấy được sự thông minh, hoạt bát, cơ trí, tinh nghịch, tâm lý không bị gò bó cho đến sự hướng về của chính mình. Từ hình tượng Trư Bát Giới người ta có thể nhìn ra mặt lười biếng, đố kỵ, tham lam, vụng về mà lại đáng yêu của bản thân; từ hình tượng của Sa Hòa Thượng có thể nhìn thấy mặt nội tâm an định, không oán hận, nhẫn nhượng, sạch sẽ của bản thân; từ hình tượng của Đường Tăng, chúng ta nhìn thấy được sự kiên định vì đi tìm chân lý mà không bao giờ bỏ cuộc của bản thân.
Là một bộ trường thiên tiểu thuyết, tuy tác giả miêu tả nhân vật chính không nhiều, nhưng điều viết ra lại là tính chất chung của con người, đạt được sự đồng cảm về tâm lý của mọi người. Đương nhiên, tác giả miêu tả về đặc trưng của các vị thần tiên, cho đến việc miêu tả hình thể dung mạo khác thường của yêu ma quỷ quái cũng đều có những nét độc đáo; miêu tả về sự mỹ hảo, thù thắng tráng lệ của Thiên Cung, cho đến địa phủ và động phủ của yêu ma làm cho độc giả cảm thấy chân thực đáng tin. Những điều này rất khó để miêu tả được, nó mở ra cho con người sự tưởng tượng vô hạn về không gian và cảm thụ, làm cho người ta có sự tưởng tượng thiết thực mà có thể cảm nhận được về không gian và trải nghiệm bản thân đối với thế giới thiên quốc. Đương nhiên, đây cũng là tác giả viết về những thể hiện chân thực tại không gian khác, thì mới có tác dụng như thế.
Mỗi một hình tượng trong “Tây Du Ký” đều được đưa vào đó nội hàm tu luyện, cho dù là một tiểu yêu, cũng là thể hiện suy nghĩ của người tu luyện. Khi người ta xem “Tây Du Ký”, bao gồm tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình, kịch, sách bình luận văn học, các cố sự, đều không tránh được việc hòa những nhân tố tu luyện vào nơi sâu thẳm trong tư tưởng của bản thân. Cho nên, đối với người Trung Quốc mà nói, nhắc tới tu luyện, Thần Phật, thần thông, Pháp thân, Pháp khí, thiên quốc, long cung, địa phủ, yêu ma, v.v. trong đầu họ đều có những nội hàm tương ứng, mà những điều này đều là chính diện. Không giống như câu chuyện về Pháp Hải hòa thượng trấn áp Bạch Xà, vốn là truyền thuyết mang theo nội hàm tu luyện chính diện, nhưng lại bị người ta diễn dịch thành câu chuyện tình đúng-sai lẫn lộn. Người đời khi hứng thú và chú tâm xem, hoặc nghe, hoặc kể về “Tây Du Ký”, thì nhân tố tu luyện đã dần dần đi vào và thay đổi một cách vô tri vô giác tư tưởng cùng nhận thức của họ. Do đó từ góc độ nhận thức, về phương diện phổ cập văn hóa tu luyện thì “Tây Du Ký” có tác dụng không gì sánh bằng!
Vậy điều này có chỗ tốt nào? Người tu luyện chân chính đều biết rằng, con người đến thế gian, không phải vì để làm người, mà là vì để phản bổn quy chân. Đây là điều các tôn giáo trên thế giới đều giảng. Đặc biệt là trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nhân tố tu luyện có thể nói là không nơi nào không có. Ngôi nhà thật sự của con người không phải là nơi thế gian, mà là ở các thiên quốc khác nhau. Con người đến thế gian này là vì để đắc được Chính Pháp để tu luyện quay trở về, từ đó thoát khỏi sự đau khổ trong luân hồi sinh tử. Về điểm này, trong “Tây Du Ký” cũng có thể hiện. Ví dụ như hồi thứ 64 “Kinh Cức lĩnh Ngộ Năng nỗ lực, Mộc Tiên am Tam Tạng đàm thơ” Đường Tăng nói: “Phu nhân thân nan đắc, Trung Thổ nan sinh, chính Pháp nan ngộ; toàn thử tam giả, hạnh mạc đại yên” (Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!)Hồi thứ 91 “Kim Bình phủ nguyên dạ quan đăng, Huyền Anh động Đường Tăng cung trạng”, một vị hòa thượng nghe thấy Đường Tăng đến từ Trung Hoa, liền cúi người xuống bái, chắp tay mà nói: “Tôi đây là người hướng thiện, đọc kinh niệm Phật, cũng chỉ mong tu luyện để được thác sinh đến đất Trung Hoa của ngài.”
Trong truyền thuyết lịch sử xa xưa, Đông Thổ là nơi mà thế nhân hướng về, không chỉ là văn minh Trung Hoa cổ xưa thu hút con người trên khắp thế giới, mà có dự ngôn thế này: “Nhân loại thời kỳ mạt kiếp sẽ có Chuyển Luân Thánh Vương lấy hình tượng Phật Di Lặc tại Đông Thổ truyền chính Pháp mà cứu độ thế nhân”. Trong “Tây Du Ký” cũng có ẩn dụ về điều này. Trong truyện, Phật Di Lặc được gọi là “Đông Lai Phật Tổ” (Phật Tổ đến từ phương Đông). Mà khi Phật Di Lặc thu phục Hoàng Mi quái đã nói với Tôn Ngộ Không, bảo bối ‘đáp bao’ (túi đắp) mà yêu tinh sử dụng chính là “nhân chủng đại” (túi đựng giống người). Điểm này ở bài viết trước đã nói rồi. Vậy thì túi “nhân chủng đại” này nói lên điều gì? Bởi vì Phật Di Lặc cần đến nhân gian để độ nhân, nên phải có mối quan hệ thế nào đó với nhân loại. Trong Phật gia mối quan hệ này được gọi là “duyên phận”. Nếu không có duyên phận, đến thời kỳ mạt pháp mạt kiếp thì những người không có duyên sẽ không thể được cứu độ. Người trong giới tu luyện giảng, trong lịch sử Phật Di Lặc tại thế gian, từ mấy lần lịch sử văn minh nhân loại xa xôi lần trước rồi Ngài đã đến rồi. Thời kỳ mới bắt đầu nền văn minh nhân loại lần này, Ngài đã từng đến nhân gian rồi. Sau đó Ngài dùng các phân thân khác nhau chuyển sinh đến các nơi khác nhau tại các thời kỳ khác nhau, cùng người thế gian tạo nên các loại duyên phận. Mục đích chính là đợi đến khi chính Pháp khai truyền, người có duyên phận sẽ đắc được chính Pháp. Ở Trung Quốc, Phật Di Lặc được gọi là “Vị lai Phật” (vị Phật tương lai), chính là vị Phật Tổ trong tương lai sẽ cứu độ nhân loại. Thậm chí trên tượng Phật Di Lặc người ta còn khắc lên đó 18 tiểu hài tử (gọi là “Di Lặc thập bát tử”), dùng để ẩn dụ rằng tương lai Phật Di Lặc đến nhân gian truyền Pháp sẽ lấy họ là họ “Lý” (“thập bát tử” [十八子] ghép lại thành chữ “Lý” [李]).
Thực ra rất nhiều người trong các tôn giáo cũng như nhiều người trong giới tu luyện đều biết rằng xã hội nhân loại hiện nay chính là đang trong thời kỳ mạt pháp mạt kiếp. Đạo đức nhân loại hiện nay đã bại hoại đến mức độ xưa nay chưa từng có, nhân tâm đã hoàn toàn bại hoại rồi, hơn nữa ở Trung Quốc lại là đang trong thời kỳ một đảng chính trị theo thuyết vô thần cai trị. Cái đảng này tàn hại thế nhân, bức hại người tu luyện đến mức cực kỳ nghiêm trọng. Cho nên sau khi chính Pháp được truyền xuất, cũng gặp phải sự bức hại của ác đảng này. Đương nhiên, đây đều là sự an bài của lịch sử. Nếu ai đắc được chính Pháp trong thời kỳ lịch sử này, hơn nữa lại bước qua được giai đoạn này, thì người đó thật vô cùng may mắn. Mặc dù điều này không được tiết lộ trong “Tây Du Ký”, nhưng trong ý nghĩa hàm ẩn của nó lại có điều này.
Kỳ thực, trong “Tây Du Ký” vẫn còn ẩn chứa một thiên cơ nữa chưa được người ta tiết lộ ra. Khi Tôn Ngộ Không học Đạo, Bồ Đề Tổ Sư vừa giảng về Đạo lại vừa giảng về Thiền, Phật và Đạo này vốn không thể trộn lẫn mà cùng tu luyện. Chính là nói một người, nếu người đó tu Phật thì là tu Phật, tu Đạo thì chính là tu Đạo, tuyệt đối không thể trộn lẫn vào mà tu. Bởi vì tu luyện Phật gia và Đạo gia thì công trên thân thể đều có hình thức tu luyện diễn hóa của bản thân, mà điều này lại đều là do sư phụ giúp đỡ diễn hóa cho. Ví dụ, Đạo gia tu luyện giảng tiểu chu thiên đại chu thiên, là chỉ việc đả thông hai mạch nhâm đốc, ba mạch âm ba mạch dương nơi tay, ba mạch âm ba mạch dương nơi chân. Nhưng mạch trong Phật gia lại chạy theo cách khác. Lấy mạch trong Mật tông mà nói, trong Đạo gia cơ bản không có cách nói này, cũng không tìm được căn cứ về phương diện này, vậy họ luyện như thế nào? Hơn nữa Phật Thích Ca Mâu Ni cơ bản không hề giảng về bộ phận công, mà bảo người tu luyện ngay cả thân thể cũng đều vứt bỏ.
Trong lịch sử Trung Quốc quả thực có một số người muốn kết hợp tu luyện Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo; có một số người còn làm cái gì là đội mũ của Đạo sỹ, mặc áo cà sa của Phật giáo, chân đi giầy của Nho sinh, nhưng không đạt được thành tựu gì, cũng không hình thành nổi, càng không cần nói đến có những người như thế này có thể tu thành Phật hoặc thành Đạo. Đây chỉ là biểu hiện của tâm công danh lợi lộc mà thôi. Văn hóa của Nho gia, Phật gia, Đạo gia trong lịch sử phát triển không thể tránh khỏi có một số điều bị dung hợp, nhưng người tu luyện chân chính lại không thể trộn lẫn vào để cùng tu luyện. Vậy làm sao trong “Tây Du Ký” lại có thể dung hợp cả ba nhà lại, đặc biệt là dung hợp Phật và Đạo lại để sáng tác? Đây không chỉ là yêu cầu suy xét đến tình tiết để sắp xếp kết cấu theo trình tự, mà là dự ngôn ở mức độ tương đối lớn, về việc Đại Pháp của vũ trụ truyền ra trong tương lai bao hàm cả Phật gia và Đạo gia. Sau khi tôi tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, mới nhận thức được một cách chân chính rằng những câu chuyện tu luyện được kể đến trong “Tây Du Ký” là vì để trải thảm sẵn cho Pháp Luân Đại Pháp.
Trong phần đầu của loạt bài viết này chúng ta đã nói về Tu Bồ Đề, Tôn Ngộ Không, Đường Tăng; đó chỉ là cách nói về cùng một người. Bây giờ chúng ta thảo luận về nội dung được ẩn giấu trong truyện, khi Tôn Ngộ Không ‘minh tâm kiến tính’, Tu Bồ Đề (Bồ Đề Tổ Sư) dạy Tôn Ngộ Không là nội dung tu luyện của Đạo gia. Điều này thuyết minh rằng, sau khi Tu Bồ Đề tu luyện Phật Pháp nhưng rốt cuộc lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, cho nên mới có sự ngạo mạn khi Phật Thích Ca Mâu Ni giảng Pháp, cũng từ đó mà bị đọa xuống hạ giới, tu luyện lại từ đầu. Vì sao Tu Bồ Đề không cho Ngộ Không nhắc đến ông? Bởi bản thân ông là đệ tử của Phật, nhưng trong tâm lại không vứt bỏ được những thứ của Đạo gia, do đó ông cố hết sức giấu kín việc này.
Ở đây lại có một vấn đề đưa ra là, Phật Thích Ca Mâu Ni quản chính là đệ tử chân tu trong Pháp môn của Ngài, người tu Đạo về cơ bản là không thể quản được. Vậy tại sao trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường Tăng lại tu thành? Đạo gia giảng âm dương ngũ hành; coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là yếu tố cơ bản cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vụ trụ; Phật giáo giảng tứ đại: đất, nước, lửa, gió cấu thành nên vạn sự vạn vật. Lý luận tu luyện về cơ bản là khác nhau. Điều này chỉ có thể nói rõ một vấn đề, việc an bài quá trình tu luyện của thầy trò Đường Tăng là do một vị Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni an bài tất cả. Chỉ là trong lịch sử Ngài không tạo ra ảnh hưởng gì, nói ra thì tư tưởng của người ta cũng không tiếp thu được, cho nên mới mượn danh nghĩa là Phật Thích Ca Mâu Ni an bài cho thầy trò Đường Tăng tu luyện.
Do đó từ góc độ này mà nói, Bồ Đề Tổ Sư che giấu thân phận tu Đạo của bản thân mình không chỉ là vấn đề ông kiêng kỵ. Ông đang chờ đợi, chờ đợi khi Đại Pháp chân chính của vũ trụ khai truyền sẽ có thể làm cho người ta hiểu được nỗi khổ tâm của ông. Ông biết rằng, Đại Pháp chân chính của vũ trụ sẽ bao hàm cả Phật gia và Đạo gia mà tu luyện. Con đường tu luyện nơi trần thế của ông là để làm bằng chứng cho việc đắc chính Pháp trong tương lai. Đó chính là, tu Đạo cũng vậy mà tu Phật cũng vậy, nếu tu luyện trong Đại Pháp của vũ trụ thì đều có thể giữ lại những thứ vốn có của chính mình, từ đó tiến tới tu luyện trở về bản chất tiên thiên của sinh mệnh bản thân, và có thể đạt được đến tầng thứ cao hơn.
Một nạn được bổ sung thêm cho Đường Tăng, có thể nói là Đường Tăng “hạnh hỉ hoàn nguyên ngộ Lão Ngoan” (may mắn trở lại gặp lão rùa), ý nghĩa trong đó là nói Đường Tăng trải qua tu luyện thì vẫn là trở về bản nguyên của chính mình, nhưng “nguyên” trong hoàn nguyên lại là cùng tuổi với Lão Ngoan, chỉ là mới có lịch sử hơn 1.200 năm, cũng chính là bản nguyên của Kim Thiền Tử hạ xuống phàm gian. Bởi vì Đường Tăng đã trở về trạng thái bản tính lúc mới đến nhân gian, đương nhiên cũng là tu luyện viên mãn rồi, cũng là điều mà Phật giáo giảng “kiến tính thành Phật”.
Sư phụ Lý Hồng Chí trong “Giảng Pháp tại Pháp hội New York 2007” đã giảng:“Miễn là chư vị đến nơi người đây, ai cũng không lên được thiên thượng; đó là tuyệt đối, chưa có ai từng có thể lên thiên thượng.” “Nói cách khác, ai tiến nhập vào tam giới, ai đã đến [cõi] người nơi đây rồi, thì là đã rớt xuống rồi, chính là không thể lại quay trở về trên nữa, vì nhân loại quá khứ không có chân Pháp có thể khiến con người quay về thiên thượng.” Vậy thì những sinh mênh tầng thứ cao như vậy vì sao lại đến nhân gian? Là họ đang chờ đợi, chờ đợi đến khi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền, thì họ sẽ lại đến nhân gian để tu luyện theo Đại Pháp của vũ trụ. Chỉ có như thế này thì họ mới có thể thật sự vượt khỏi tam giới để trở về nơi thế giới của chính mình. Điều này cũng phù hợp với điều Đường Tăng nói: “Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp; nếu được cả ba điều, thì may mắn lắm thay!” Đường Tăng đắc được thân người, lại là người Trung Thổ, vậy tại sao ông còn đi Tây Thiên thỉnh kinh? Hiển nhiên là vì chính Pháp của vũ trụ vẫn chưa được truyền xuất. Thế thì thầy trò Đường Tăng giờ ở nơi đâu. Có vị tu luyện có thiên mục khai mở ở tầng thứ rất cao nói rằng, họ hiện giờ đều đang tu luyện Pháp Luân Đại Pháp.
Người ta nhất thời không thể nào tiếp thu được cách nói này. Thực ra chỉ cần chúng ta thay đổi góc nhìn thì sẽ minh bạch ngay thôi, Phật Thích Ca Mâu Ni giảng, tu luyện có tám vạn bốn nghìn pháp môn. Ở Trung Quốc có rất nhiều pháp lớn của Phật gia lưu truyền trong dân gian, đơn truyền qua các thời đại khác nhau, Phật cao hơn Phật Thích Ca Mâu Ni đương nhiên cũng đếm không xuể. Đây là điều ẩn chứa trong “Tây Du Ký” nhưng lại có thể tiết lộ một bí mật khác.
“Tây Du Ký” có kết cấu vô cùng đồ sộ, mở đầu là nói về nguồn gốc của trời, đất, con người. Nói “Số của trời đất, là 12 vạn 9 nghìn 6 trăm tuổi làm một nguyên” (một nguyên là 129.600 năm). Sự hình thành và xuất hiện của trời, đất, con người cũng chỉ là theo chu kỳ mấy vạn năm lịch sử. Nhưng trong truyện nói rằng Ngọc Hoàng Đại Đế đã trải qua 1.750 kiếp, mỗi kiếp là 129.600 năm. Hiển nhiên là Ngọc Hoàng Đại Đế tồn tại trước cả trời đất. Trong “Tây Du Ký” nói rằng Bồ Đề Tổ Sư cũng là “Lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư”. Nhưng không nói ông đã trải qua bao nhiêu kiếp, cũng là trải qua bao lần thành-trụ-hoại-diệt của trời đất và con người, cũng giống như Bồ Đề Tổ Sư đã tồn tại trước cả trời đất. Thực ra nhiều chính giáo trên thế giới đều giảng về lịch sử của Thần Sáng Thế, con người là do Thần tạo ra. Mục đích tạo ra con người là để Thần nơi thượng giới xuống đến phàm gian mà hoàn trả tội nghiệp của họ, đồng thời chờ đợi Đại Pháp của vũ trụ khai truyền ở tầng thấp nhất trong vũ trụ – nhân gian, để có cơ duyên đồng hóa với Chính Pháp, từ đó làm cho chúng sinh nơi thiên thể mà họ đại biểu có thể được đắc cứu trong Chính Pháp của vũ trụ. Con người sinh ra là nhờ cha mẹ, cũng chỉ là một phương thức tồn tại và sinh sôi mà Thần thiết đặt ra cho con người mà thôi. Thần đến thế gian thì cũng chỉ có thể lấy phương thức sinh tồn thế này mà thôi. Tôn Ngộ Không lấy hình thức con khỉ sinh ra từ tảng đá là muốn nói với thế nhân rằng, con người có tiên thiên, có thông linh, bản tính tiên thiên của con người cùng với vũ trụ không có sự khác biệt. Thế còn tiên thiên của con người là gì? Có miêu tả thế nào cũng không thể miêu tả được rõ ràng. Lấy Tu Bồ Đề mà nói, ông là vị Đại Pháp Sư trải qua bao nhiêu kiếp, trước khi đến nhân gian ông đã tồn tại rồi. Nhưng một sinh mệnh cao cấp thế này, khi đến nhân gian cũng phải lấy hình tượng của con người để xuất hiện. Mà khi sáng tác “Tây Du Ký” yêu cầu bản tính tiên thiên của con người phải có hình thức sinh mệnh tồn tại để con người có thể tiếp thu được, lại lấy hình thức sinh ra đến thế gian này mà con người có thể tiếp thu thì mới được, đây chính là nguyên do Tôn Ngộ Không sinh ra từ tảng đá.
Nói về con người trên thế giới ngày nay, rất nhiều người họ không biết được rằng đã luân hồi chuyển sinh tại thế gian bao nhiêu lần rồi. Có lẽ nguồn gốc sinh mệnh của người đó đến từ tầng thứ rất cao, ban đầu chỉ có một mục đích duy nhất khi xuống nhân gian này, đó chính là để đắc được Đại Pháp của vũ trụ. Nhưng trải qua sự luân hồi dài đằng đẵng, họ đã bị mê mờ nơi nhân gian rồi. Không để cho nhân loại bị mê mờ đi chính là mục đích mà “Tây Du Ký” được truyền ra cho thế nhân, đó là vì để lưu lại cho con người thế gian một cơ hội khai mở bản tính khi Đại Pháp vũ trụ khai truyền, vì sự hồng truyền của Đại Pháp vụ trụ nơi thế gian mà đặt định nền móng. Trong “Chuyển Pháp Luân” bài giảng thứ chín có giảng: “Người ta nói: ‘Ta đến xã hội người thường, giống như đến khách sạn, tá túc vài ngày, rồi vội rời đi’. Một số người cứ lưu luyến nơi này mãi, quên cả nhà của bản thân mình.”
Miêu tả về Bồ Đề Tổ Sư trong “Tây Du Ký” thực ra chính là sự tái hiện bản tính của con người: “Không tịch tự nhiên tùy biến hóa, chân như bản tính nhậm vi chi; Dữ thiên đồng thọ trang nghiêm thể, lịch kiếp minh tâm Đại Pháp Sư.” Người đắc đạo chân chính thì bản tính và thân thể hoàn toàn hợp nhất.
Nói đến đây, còn có một vấn đề nữa đã vô cùng rõ ràng, đó chính là mối quan hệ giữa Ngọc Hoàng Đại Đế cùng Tôn Ngộ Không, Bồ Đề Tổ Sư, và Đường Tăng. Từ góc độ tự thân tu luyện mà nói, họ là cùng một thân thể, bởi vì Ngọc Hoàng Đại Đế là chủ tể của thân thể, thì có chỗ nào khác với Đường Tăng? Như vậy thì số kiếp mà Bồ Đề Tổ Sư trải qua cũng chính là 1.750 kiếp mà Ngọc Hoàng Đại Đế trải qua.
Đây là chúng ta đứng từ góc độ tu luyện cá nhân mà nói. Đứng ở góc độ toàn nhân loại mà nói, tam giới là có tồn tại, Thiên Cung cũng là có tồn tại, Ngọc Đế tồn tại trong tam giới và Ngọc Đế trong tu luyện của Tôn Ngộ Không là không thể xem như tương đồng. Sự tu luyện cá nhân của Ngọc Đế nói là thật cũng được mà nói là hư cấu cũng được, rất nhiều là hình tượng hóa một cách ví von, trong “Tây Du Ký” có cách xử lý thế này, đó là từ góc độ truyền tải một tư tưởng đạo lý nhất định và sự giáo hóa của tác phẩm nghệ thuật mà suy xét cân nhắc. Tuy nhiên Thiên Cung và Ngọc Hoàng cùng chư Thần trong tam giới nữa, họ lại tồn tại thật sự, trong “Tây Du Ký” là mượn dùng từ góc độ tu luyện cá nhân để miêu tả. Cho nên nếu không nhìn từ góc độ tu luyện cá nhân, thì thắng cảnh nơi thiên quốc, chư Thần, Phật, Bồ Tát, cũng là độc lập không liên quan.
Văn hóa Trung Quốc là văn hóa Thần truyền, dường như những an bài trong lịch sử có biết bao ‘Thiên ý’ ở trong đó! Trung Quốc thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, mà hướng Nam đối ứng trong ngũ hành thuộc về hỏa. Theo quan hệ tương sinh tương khắc trong ngũ hành, mộc sinh hỏa, gọi là ‘mộc chi tử’, mộc (木) và tử (子) hợp lại chính là một chữ Lý (李), điều này cùng với điều tiết lộ ở phần đầu bài về danh tính của Phật Di Lặc đến thế thế gian truyền chính Pháp vào thời mạt pháp mạt kiếp là hoàn toàn giống nhau. Vào thời Đường, kinh mà Đường Tăng thỉnh là cho người dân triều Đường, danh tính của Đường Thái Tông là Lý Thế Dân đã bao hàm yếu tố này rồi.
Con người thế gian tiếp thu “Tây Du Ký” mà không có trở ngại nào. Điều này làm cho tôi nghĩ đến những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp, bề ngoài thì người ở tất cả các tầng lớp đều có, từ những giáo sư đại học, quan viên chính phủ, người giàu có, cho đến công nhân, nông dân, trẻ nhỏ, rồi có những người lớn tuổi không biết chữ, đều có thể tiếp thu những Pháp lý mà Sư phụ Lý Hồng Chí giảng mà không có chút trở ngại nào. Trong Pháp Luân Đại Pháp xác thực là có những điều của Đạo gia như kinh mạch, âm dương, ngũ hành. Pháp Luân Đại Pháp là công pháp lấy Phật gia là chủ đạo, nhưng bề ngoài cơ bản không có liên quan đến ‘tứ đại’ giảng trong Phật giáo, điều này là nhất trí với “Tây Du Ký”. Đoàn Nghệ thuật Thần Vận (Shen Yun Performing Arts) do những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp thành lập, được mệnh danh là “chương trình đệ nhất thế giới”, liên tiếp mấy năm liền đều lấy những nội dung trong “Tây Du Ký” để diễn. Trong vở múa “Kim Hầu xuất thế” năm 2012, hình tượng vị Phật nắm Tôn Ngộ Không trong lòng bàn tay chính là hình tượng người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp – Ngài Lý Hồng Chí. Hàm ý trong đó làm cho người ta phải nghĩ sâu xa hơn.
Mở màn chương trình dạ hội Thần Vận năm 2014 càng làm chấn động người ta hơn, tiết lộ một cách sâu xa hơn về bản tính của sinh mệnh. Nơi thiên quốc, Sáng Thế Chủ mở lời ở trên đỉnh của đại khung vũ trụ: “Ai nguyện theo ta hạ thế Chính Pháp?” Mà trải khắp khung thể vũ trụ từ nơi cao nhất cho đến nơi thấp nhất lại là từng tầng từng tầng thiên thê (thang lên trời), tầng tiếp cận gần với thế gian nhất là bốn chữ vàng: ‘địa, thủy, hỏa, phong’. Điều này thuyết minh rằng, Sáng Thế Chủ khi đến nhân gian đã sớm đặt định cơ sở để con người trong tương lai có thể đắc Pháp, tất cả lịch sử đều là vì Sáng Thế Chủ xuống nhân gian và sự trở về của nhân loại tương lai mà làm những chuẩn bị.
‘Đất, nước, lửa, gió’ là những vật chất cơ bản cấu tạo nên thế giới được giảng trong Phật giáo. Phật giáo truyền vào Trung Quốc trong những năm đầu thời Đông Hán. Trên vũ đài của Thần Vận, Thần Phật hạ xuống thế gian chuyển sinh thành người, người ta vừa hát vừa nhảy múa, trên các ngọn cờ tung bay trong gió có một chữ “Hán”, điều này nói rõ chính là triều Hán. Sau khi bài hát “Giá thị chân âm” (Đây là lời chân thật) kết thúc, tiếp theo là vở múa “Hán phong khởi lệ” (Cảnh sắc tươi đẹp triều Hán). Đối chiếu với việc chúng ta giải “Tây Du Ký”, kết hợp với lịch sử Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc, thì có thể nhìn ra, trong mười đời chuyển sinh của Kim Thiền Tử, lần chuyển sinh đầu tiên cũng chính là thời kỳ Phật giáo bắt đầu truyền nhập vào Trung Quốc. Nét đẹp của “Tây Du Ký” không thể diễn tả bằng lời. Chúng sinh của biết bao thế giới thiên quốc đã vì sự hồng truyền của Đại Pháp ngày hôm nay mà đặt định cơ sở từ rất lâu rồi!
Chúng ta cùng xem lại ca từ của bài hát “Đây là lời chân thật”: “Tôi không biết bạn là ai, cho dù bạn ở nơi góc phố nào, tôi biết rằng con người thế gian phần lớn là đến từ Thiên thượng, vì để chờ đợi Sáng Thế Chủ, Ngài giúp bạn trừ bỏ tội nghiệp thì bạn mới có thể trở về nơi Thiên Đường. Thần Phật đến thế gian ma quỷ tất sẽ trở nên điên cuồng, chớ có tin những lời dối trá của con ma đỏ, vì nó không cho bạn nối lại Thánh duyên, mau tìm đệ tử Đại Pháp để hiểu rõ sự thật, đó là điều mà bạn chờ đợi hàng nghìn vạn năm, đó là hy vọng cuối cùng của bạn.” Những lời ca của bài hát này chính là đang khai mở Phật tính bị chôn giấu sâu thẳm trong tâm hồn con người.
Cuối cùng, tôi tin rằng đoạn Pháp sau đây trong cuốn “Chuyển Pháp Luân” của Sư phụ Lý Hồng Chí có thể giúp bạn phá mê: “Bởi vì công của chúng ta luyện được rất lớn; [điều] luyện được tương đương với cả vũ trụ. Như vậy mọi người thử nghĩ xem, trong vũ trụ này có hai ‘gia’ lớn là Phật gia và Đạo gia, loại trừ đi bất kỳ ‘gia’ nào cũng không cấu thành nên vũ trụ hoàn chỉnh được, không thể nói là vũ trụ hoàn chỉnh được; do đó chúng ta ở đây cũng có những điều trong Đạo gia.”
(Hết)
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/node/128193
Ngày đăng: 29-04-2014

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Ngẫu cảm khi đọc «Tây Du Ký»: Suy ngẫm về tên của bầy tiểu yêu


Facebook
Tác giả: Một học viên Đại Pháp

[Chanhkien.org] Gần đây, lại mơ hồ đọc qua một lần «Tây Du Ký» có hơi hiểu được đôi điều, ở đây muốn cùng chia sẻ với mọi người một chút, nếu có chỗ nào không thích đáng kính xin mọi người từ bi phê bình và chỉ ra cho. Đó là tôi hiểu được trong «Tây Du Ký» có một số tên họ của tiểu yêu có hàm chứa thâm ý bên trong.
Ở hồi thứ 33 “Ngoại đạo mê chân tính, Nguyên thần trợ bản tâm“, Kim giác Đại vương và Ngân giác Đại vương có 2 tên thuộc hạ tiểu yêu tên là “Quỷ Tinh Tế” và “Trùng Lanh Lợi”.
Ngày nay có người khi đối diện với lợi ích trước mắt thì tính toán chi li, chỉ sợ bản thân bị tổn thất, chung sống với người ta mà luôn chỉ nghĩ tới danh lợi, luôn sợ bản thân có đôi chút thiệt thòi. Song người thường trong xã hội ngày nay lại cho rằng làm người thì cần phải như thế, cần phải tinh tế, lanh lợi, cần phải không chịu lép vế, nhưng trong tiểu thuyết thì “tinh tế” với “lanh lợi” lại trở thành tên của bầy tiểu yêu. Tôi ngộ thấy tác giả ở đây có ý nói rõ rằng, người tu luyện nếu như có loại tâm chấp trước này thì có lẽ thực sự chính là đang bị ma chướng cản trở và mê hoặc.
Tiếp theo, tại hồi thứ 41 “Tâm viên tao hỏa bại, Mộc mẫu bị ma cầm“, Hồng Hài Nhi có 6 tiểu yêu thân tín, chúng đều có tên: một con tên là Vân Lý Vụ, một con tên là Vụ Lý Vân, một con là Cấp Như Hỏa, một con là Khoái Như Phong, một con là Hưng Hồng Hiên, một con là Hiên Hồng Hưng”. Trong đó Vân Lý Vụ và Vụ Lý Vân có nghĩa là không lý trí, Cấp Như Hỏa nghĩa là vội vàng hấp tấp, Khoái Như Phong nghĩa là tính tình bột phát, Hưng Hồng Hiên với Hiên Hồng Hưng nghĩa là tính nóng nảy. Nói tới đây ta lại nhìn lại bản thân, kỳ thật rất nhiều lúc cũng là rất hấp tấp, bột phát. Tôi xem ra nhất định chỉ có tu luyện mới dần bỏ được tâm chấp trước này thôi.
Khi xem hồi thứ 62 “Địch cấu tẩy tâm duy tảo tháp, Phược ma quy chính nãi tu thân“, ta thấy trong số tiểu yêu có một tên là “Bôn Ba Nhi Bá” và một tên là “Bá Ba Nhi Bôn”. Chẳng phải đó là khôi hài chỉ ra rằng con người trong xã hội bôn ba phấn đấu cả đời, cuối cùng thăng quan phát tài và xưng hùng xưng bá trong một lĩnh vực nhất định nào đó sao? Tôi ngộ thấy rằng: thực ra đó cũng chính là một thứ tâm chấp trước mà đệ tử Phật gia nhất định cần phải trừ bỏ.
Rồi ở hồi thứ 89 “Hoàng Sư Tử tinh hư thiết đinh ba yến, Kim Mộc Thổ kế náo báo đầu sơn” lại có 2 con yêu tinh đầu sói tên là “Điêu Toản Cổ Quái” và “Cổ Quái Điêu Toản”, có nghĩa là xảo trá tai quái. Hiện nay một số thanh niên được cưng chiều hư hỏng thường tùy hứng mà phát tiết cơn nóng nảy, còn hành vi thì tai quái vô chừng. Đó chẳng đúng là một loại trạng thái tâm lý không bình thường ư?
Tóm lại, lần này tôi đọc «Tây Du Ký» đã hiểu được ra: người tu luyện gặp phải ma nạn đều là tâm chấp trước trong nội tâm của mình gây ra cả, chỉ có loại bỏ tâm chấp trước mới có thể thoát khỏi ma nạn được. «Tây Du Ký» thật sự là một bộ tiểu thuyết vĩ đại.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2009/1/4/57020.html
Ngày đăng: 25-11-2010
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Vài ý tưởng sau khi đọc ‘Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch cốt tinh’


Facebook
Tác giả: Một học viên tại Đại Lục

[Chanhkien.org] Trong cuốn sách ‘Tây Du Ký’, Đường Tăng cùng ba đồ đệ du hành tới Tây Trúc thỉnh Kinh. Đường Tăng đại diện cho những người đạt viên mãn thông qua giác ngộ. Mặc dù tâm sợ hãi liên tục khởi lên trong ông ở suốt cuộc hành trình, trái tim trong sáng muốn lấy Kinh của ông cộng thêm sự trợ giúp của những thiên tướng như Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng khi tiêu diệt tà ác cản đường, ông và các đồ đệ đã vượt qua được 81 khổ ải, xả bỏ mạng sống khi đối mặt với khổ nạn, và cuối cùng là lấy được Chân Kinh và đạt Chính Quả.
Mặc dù trên bề mặt họ là thầy trò, trên thực tế họ là đại diện cho một chỉnh thể tu luyện và là những người tìm kiếm Kinh Phật. Kinh không thể lấy được nếu không có sự tu Phật kiên định của Đường Tăng. Cùng lúc đó, Đường Tăng đóng vai trò hoằng dương Phật Pháp và bắt quen với những cá nhân có tiền duyên. Tôn Ngộ Không (Hầu Vương) đại diện cho những người tu luyện với công năng đặc dị. Anh có thể thấy được nhiều không gian khác nhau và công năng của anh mạnh hơn bất cứ ai khác. Phương pháp tu luyện của anh là phân biệt thiện và ác, tiêu diệt ma quỷ và tiêu hủy tà ác ở không gian khác mà cố gắng hủy hoại chuyến hành trình đi lấy Kinh của họ.Những trận chiến đấu với tà ác của anh không bắt nguồn từ tâm tranh đấu, mà bắt nguồn từ bản tính tiêu diệt tà ác tại không gian khác mà làm bại hoại thế giới con người và hủy hoại người tu luyện. Nếu không có sự trợ giúp của Tôn Ngộ Không, chuyến hành trình đi lấy Kinh là không khả thi. Trư Bát Giới cũng tu luyện với công năng đặc dị. Ban đầu anh là một vị thần bại hoại, người mà không phù hợp với cảnh giới ở trên thiên thượng và bị giáng xuống hạ giới. Nhưng Bồ Tát Quán Âm (Quan Thế Âm Bồ Tát) đã thấy Bát Giới vẫn còn duy trì được một phần bản tính, và đã dẫn dắt anh trên con đường tu luyện để trở về bản ngã thật sự. Bát Giới chỉ có thể thấy được một phần không gian khác, và việc tu luyện dường như là điều quan trọng thứ hai đối với anh. Anh đã bị mê ở thế giới con người và thật khó cho anh để buông bỏ được các ham muốn cá nhân. Anh cũng đã tạo ra nhiều khó khăn cho cả chỉnh thể, nhưng anh lại biết rất rõ cần phải làm gì trong những tình huống quan trọng. Sa Tăng cũng có thể thấy được một chút không gian khác, nhưng anh thậm chí còn hạn chế hơn cả Trư Bát Giới. Nhưng anh lại kiên định hơn Trư Bát Giới. Mặc dù anh không có nhiều ham muốn của con người, căn cơ của anh lại kém hơn Trư Bát Giới, vì vậy phương pháp tu luyện chính của anh là thông qua chịu khổ.
Từ câu chuyện Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch cốt tinh, chúng ta có thể thấy được các nhân tố tà ác mà Bạch cốt tinh đại diện đang khai thác lòng tốt của Đường Tăng. Chúng cố gắng đánh lừa Đường Tăng trong nhiều sự cố khác nhau, cố gắng để giết ông, ăn thịt của ông (người ta nói rằng những ai ăn thịt Đường Tăng sẽ trường sinh bất tử) và hủy hoại sự tu luyện của ông. Chế độ của Giang đã bí mật tuyên bố rằng: “Bởi vì Pháp Luân Công tu luyện Chân, Thiện và Nhẫn, họ sẽ không đánh lại nếu chúng ta đánh hay nhục mạ họ. Chúng ta nên lợi dụng điều này và bức hại họ một cách tàn bạo.” Các nhân tố tà ác mà được đại diện bởi chế độ của Giang và Bạch cốt tinh là giống nhau. Bạch cốt tinh biết Tôn Ngộ Không có thể thấy được những âm mưu tà độc của ả ở nhiều không gian khác, vì vậy ả đã tạo ra sự ngờ vực, khổ đau và chia rẽ trong chỉnh thể tu luyện [Đường Tăng và ba đồ đệ] bằng cách lợi dụng tầng thứ tu luyện hạn chế của Trư Bát Giới, sự hạn chế trong việc thấy được chân tướng và sự yếu đuối trong cách suy nghĩ theo kiểu người đời của Đường Tăng.
Cụ thể là, ả đã khai thác việc không thấy được chân tướng của Đường Tăng và trái tim từ bi đối với các sinh mệnh tà ác của ông. Mục đích của Bạch cốt tinh là ngăn cản họ đạt Chính Quả. Điều này rất tương đồng với các chúng tà ác phá hoại Đại Pháp bằng cách lợi dụng sự yếu kém của một số học viên trong việc buông bỏ các chấp trước khi đối diện với khổ nạn và không nhìn nhận vấn đề từ quan điểm của Chính Pháp và Đại Pháp. Về mặt khổ nạn và chân tướng, Đường Tăng và Trư Bát Giới đã từ bỏ sự nghi kỵ, tìm thấy thiếu sót bằng cách nhìn vào trong, giúp đỡ lẫn nhau và lại trở thành một thể thống nhất. Vì vậy họ đã tiêu hủy được các ảo ảnh của Bạch cốt tinh nhằm hủy hoại sự tu luyện của họ và cuối cùng đã vượt qua được tà linh. Trư Bát Giới, người đã bị rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, đã nhìn nhận tình huống từ một khía cạnh rộng lớn hơn, buông bỏ sự ích kỷ và các chấp trước của mình và tới tìm Tôn Ngộ Không (Tôn Ngộ Không đã bị đuổi về do âm mưu thâm độc của Bạch cốt tinh), và rồi cuối cùng họ lại cùng nhau chiến đấu với tà ác. Điều này vô cùng quan trọng và quý giá. Và từ bài học đáng nhớ này, Đường Tăng và các đồ đệ đã trở thành một chỉnh thể đoàn kết hơn, điều cuối cùng dẫn họ tới việc hoàn thành quá trình tu luyện và đạt viên mãn.
Trong chuyến du hành về phương Tây của họ, các vị thần trên thiên thượng luôn luôn dõi theo quá trình tu luyện của họ. Khi Tôn Ngộ Không gặp phải ma quỷ mà vượt quá năng lực của anh, các thần hộ Pháp từ nhiều không gian khác nhau sẽ tới và tiêu diệt ma quỷ giùm anh. Những vị thần này làm điều đó với một tấm lòng vô ngã. Khi Tôn Ngộ Không gặp phải con khỉ sáu tai mà không ai có thể phân biệt được, thậm chí Phật A Di Đà đã đích thân tới trợ giúp anh. Đây thực sự là quá trình tu luyện trong Chính Pháp. Tất cả các chính Thần sẽ giúp đỡ và bảo vệ người tu luyện một cách vô điều kiện. Đường Tăng luôn rất tỉnh táo trong các tình huống quan trọng, mặc dù ông không thể biết hay nghe được điều gì [từ các không gian khác]. Nhưng đây thực sự là tiêu hủy các nhân tố tà ác. Những sinh mệnh tà ác bao gồm nhiều loại khác nhau như linh thể động vật tại nhiều tầng thứ, các sinh mệnh bại hoại từ các không gian cao hơn, cũng như là những vị thần bại hoại tại các tầng thứ khác nhau. Chúng ta thấy rằng là học viên, nếu chúng ta giữ tâm cho chính, và khi tâm tính chúng ta đạt tiêu chuẩn tại mỗi tầng thứ, thì khổ nạn sẽ được vượt qua. Trong ‘Tây Du Ký’, mỗi khi họ đạt được tiêu chuẩn, các chính thần sẽ đi xuống và loại bỏ các trở ngại cho họ. Trong khổ nạn cuối cùng, Đường Tăng gặp phải một chiếc thuyền không đáy. Tôn Ngộ Không đã thấy được sự thật và nói với Đường Tăng để giúp ông vượt qua được sự sợ hãi, và cuối cùng Đường Tăng đã bước lên chiếc thuyền không đáy một cách tự tin. Ông đã bỏ sang một bên chấp trước vào sinh tử của mình. Đường Tăng đã từ bỏ chấp trước vào sợ hãi của ông từng chút một trong suốt chuyến hành trình, và ông đã bị khảo nghiệm sự kiên định vào tu luyện trong các khổ nạn mà đe dọa mạng sống của ông. Các khảo nghiệm này kéo dài cho tới tận giây phút cuối cùng trong sự tu luyện của ông. Trong khổ nạn cuối cùng phải bồi thường (Phật thấy rằng Đường Tăng vẫn còn một nạn sau khi ông đã nhận được Kinh, cho nên Ông tạo ra thêm một khổ ải nữa), Đường Tăng, một người đã tu đến tầng xuất thế gian pháp, vẫn phải trả nốt nợ của ông bởi vì ông đã quên làm một việc mà ông đã hứa. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng tu luyện là việc nghiêm túc đến dường nào. Trong cuốn sách ‘Tây Du Ký’, họ thường xuyên bị khảo nghiệm trong suốt chuyến hành trình liên quan đến mong ước muốn viên mãn của họ. Đây cũng là để kiểm nghiệm xem liệu họ có kiên định trong tu luyện hay không. Từ một cái nhìn rộng lớn hơn, họ hoàn toàn bước đi trên con đường mà Thần đã an bài cho họ cho tới khi họ kết thúc việc tu luyện.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2002/6/20/10280.html
http://www.pureinsight.org/node/884
Ngày đăng: 01-07-2009

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Dưới góc nhìn «Tây Du Ký»: Vạn sự muôn đời là vì Pháp mà đến


Facebook
Tác giả: Linh Thiên

[Chanhkien.org] «Tây Du Ký» là một trong “tứ đại danh tác” thời cổ, trong đó có những nhân vật và câu chuyện mà tất cả mọi người ai ai cũng đều nhớ biết. Song “Vạn cổ sự, vi Pháp lai” («Hí nhất đài»), như vậy một tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng đến như thế, hiển nhiên cũng là vì sự kiện hồng truyền của Đại Pháp mà tới để làm nền. Rõ ràng kiệt tác này đã có tác dụng rất lớn về phương diện đặt định văn hóa tu luyện cho nhân loại.
Nếu như chuyện xưa trong sách là vì Pháp mà đến, thì tất nhiên sự việc đã được an bài toàn diện từ trước rồi. Từ trong sách chúng ta dễ dàng nhận ra điều đó.
Theo Tổ sư Bồ Đề tu luyện được mấy năm, có một ngày trước mặt các sư huynh đệ, Tôn Ngộ Không khoe khoang bản lĩnh biến thành một cây tùng. Tổ sư nhân việc này bèn trục xuất Ngộ Không khỏi sư môn. Ngài nói với Ngộ Không: “Ngươi rời đi lần này, nhất định sẽ gây ra chuyện không hay, nhưng dù ngươi hành hung gây họa ra sao, cũng không được nói là đồ đệ của ta”.
Đạo gia quản giáo đồ đệ rất nghiêm khắc. Tại sao Tổ sư biết rõ Ngộ Không đi rồi sẽ gây đại họa, vậy mà vẫn cần phải trục xuất khỏi sư môn? Hơn nữa dù chỉ một câu khuyến thiện cũng không nói? Bởi vì Tổ sư biết rõ ngày sau việc Ngộ Không gây họa là chuyện tất nhiên, hoặc là Ngộ Không về sau cần phải trải qua những việc ấy, tất cả đều là sự an bài toàn diện từ trước rồi. Thế là Tổ sư bèn nói: “Dù cho ngươi hành hung gây họa cũng không được nói là đồ đệ của ta”. Ý chẳng ở trong lời, là rằng “con mặc dù gây họa, nhưng ta không quản con”. Tổ sư biết về sau Ngộ Không gây họa, hộ tống Đường Tăng đi lấy kinh đều chỉ là một màn diễn kịch được sớm an bài từ lâu mà thôi. Mục đích của màn kịch ấy chính là để khai sáng văn hóa cho nhân loại. Để đạt được mục đích ấy tất nhiên cần diễn sao cho càng sinh động càng tốt, càng ngoạn mục càng tốt, làm cho nhân loại càng kinh ngạc càng tốt. Đồng thời qua quá trình này Ngộ Không còn có thể kết duyên được với rất nhiều sinh mệnh. Thiện duyên hay ác duyên đều được cả, chính hay phản về sau đều hữu dụng. Mặt khác, Tổ sư tràn đầy tin tưởng ở Ngộ Không: Cho dù con có gây họa tày trời, phạm phải tội lỗi kinh thiên động địa, nhưng một khi cơ duyên đến thì tất cả đều có thể thiện giải được. Thử nghĩ nếu Ngộ Không cứ mãi ở bên Tổ sư, từ đầu tới cuối là một người tu hành giữ nghiêm giới luật thanh quy, thì làm sao có thể đạt được mục đích khai sáng văn hóa cho nhân loại? Đó chính là nguyên nhân tại sao Tổ sư Bồ Đề để cho Ngộ Không ra khỏi sư môn.
Ngoài ra, khi Tổ sư truyền Pháp cho Ngộ Không thì vẫn không truyền binh khí gì cho hầu vương cả, đó cũng hoàn toàn không hợp với lẽ thường của Đạo gia. Chắc hẳn Tổ sư đã sớm biết rằng khi Ngộ Không rời đi rồi sau này sẽ tới Long Cung tìm lấy món bảo bối là thiết bảng (gậy Như Ý) vốn có duyên nợ với hầu vương. Thế là một vở kịch lớn cũng kể từ đó mà chuẩn bị mở màn.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2008/7/15/53832.html
Ngày đăng: 24-11-2010
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Giải mã “Tây Du Ký” (5): Câu chuyện tu luyện kinh thiên động địa của Tôn Ngộ Không


Facebook
Tác giả: Thu Cứu Tàn Duyên
[ChanhKien.org] Tiếp theo Phần 4
Trong truyện Tây Du Ký, “Một hôm lúc ở cùng bầy khỉ, Ngộ Không bỗng sầu não không vui, mắt rơi lệ”, anh ta sầu não vì điều gì? “Sau này tuổi già sức yếu, phải đến cõi âm bị Diêm vương quản thúc, một khi chết đi, dù không uổng công sinh ra trên đời này thì cũng không được ở mãi trong cõi tiên”. Ngộ Không có thể được xem là một Hầu Vương biết nhìn xa trông rộng, anh ta không cầu cuộc sống sung sướng trước mắt, điều anh ta lo lắng là làm sao để trường sinh bất lão, thọ ngang trời đất. Đây chính là thể hiện Phật tính của anh ta, trong sách gọi là “Tâm cầu Đạo khởi lên”.
“Ôi! Tìm phương pháp nhiệm màu giúp nhảy thoát khỏi vòng luân hồi, câu nói này đã khiến cho anh ta trở thành Tề Thiên Đại Thánh”.
Về sau Ngộ Không cuối cũng đã vượt qua trăm nghìn cay đắng gian khổ, vượt trùng dương đến được Nam Thiệm Bộ Châu, xin làm môn đồ của Bồ Đề Tổ sư, chính thức bước trên đường tu luyện, học được 72 phép biến hóa, cân đẩu vân, trở thành Mỹ Hầu Vương thần thông quảng đại.
Sự việc này trong Tây Du Ký gọi là “Ngộ triệt Bồ Đề chân diệu lý – Đoạn ma quy bản hợp nguyên thần” (ngộ thấu chân lý mỹ diệu cõi bồ đề, đoạn dứt ma tính trở về bản ngã hợp nhất với nguyên thần)
Sau đó xảy ra rất nhiều sự kiện kinh thiên động địa.
Sự kiện đầu tiên: “Tứ hải thiên sơn giai cung phụng (Thiên động ngàn non đều sợ phép)”. Vì đã tu luyện đắc đạo, vị thế của Tôn Ngộ Không được nâng cao, trở thành thủ lĩnh của 72 động và 7 ma vương, xưng là Tề Thiên Đại Thánh.
Sự kiện thứ hai: “Cửu u thập loại tận trừ danh (Diêm quang mười cửa thảy kiêng oai)”. “Xuống Sum la điện giết quỉ vô thường, mắng vua Thập điện, lại xóa bôi sổ bộ Viên hầu, làm tuyệt đường sinh tử”.
Sự kiện thứ ba: Đại náo Long cung. “Một cây Thiết bảng Thần trâm, đội mũ Cánh phượng, mặc giáp Tỏa tử, làm tổn hại thủy tộc, dọa làm tướng quân Ô Quy chạy”.
Sự kiện thứ tư: Đại náo Thiên cung. Đại náo Thiên cung là tội lớn nhất mà Tôn Ngộ Không phạm phải từ sau khi đắc Đạo. Lúc mới ban đầu, Thiên Cung phong cho Tôn Ngộ Không chức quan Bật Mã Ôn (đồng âm với Tịch Mã Ôn có nghĩa là trừ bệnh dịch của ngựa) nhưng ông ta không thỏa mãn, tự xưng hiệu là “Tề Thiên Đại Thánh” cũng không thỏa mãn, phái đi coi vườn đào thì Ngộ Không lại làm loạn hội bàn đào, lén ăn trộm đào tiên và kim đan, chống lại Thiên cung. Ngọc Đế phái 10 vạn thiên binh thiên tướng đi bắt Ngộ Không, về sau được Quan Âm Bồ Tát hiến kế cử Nhị Lang Thần lại thêm sự trợ giúp của Thái Thượng Lão Quân, mới có thể bắt được Ngộ Không. Không ngờ qua bảy bảy bốn mươi chín ngày, khi mở lò lấy đan, Ngộ Không đã đạp đổ lò luyện đan và lại tiếp tục làm náo loạn Thiên Cung. Cuối cùng Ngọc Đế cũng đã bó tay không bắt được Ngộ Không, mới thỉnh mời Phật Tổ Như Lai hàng phục Ngộ Không, hóa ngón tay thành núi, đè Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành Sơn.
Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:
Kim mộc thuỷ hoả thổ, ngũ hành ấy cấu thành nên mọi sự vật trong vũ trụ; điều ấy là đúng.
Tôn Ngộ Không lúc đó, dù đã thoát khỏi sinh tử nhưng vẫn chưa tu đắc viên mãn, vẫn chưa ra khỏi Ngũ Hành, cho nên bị Phật Như Lai đè dưới núi Ngũ Hành Sơn, vẫn còn bị gọi là yêu hầu, muốn đắc chính quả thì vẫn còn phải tiếp tục tu luyện, cho nên về sau mới có việc đi Tây Thiên thỉnh kinh. Đây là đoạn đường cuối cùng trên con đường tu luyện của Tôn Ngộ Không.
Điều này làm tôi liên tưởng đến việc tu luyện của các đệ tử Đại Pháp hôm nay. Đọc những bài viết của các đồng tu trên Minh Huệ Net, rất nhiều đệ tử Đại Pháp đã viết lại quá trình tu hành của bản thân trong các đời trước, và quá trình lịch sử kết duyên với Sư phụ. Chúng ta biết rằng, Đường Tăng phải trải qua 10 đời tu hành mới có cơ hội đi Tây Thiên thỉnh kinh đắc chính quả, chúng ta sở dĩ có thể đắc Pháp tu luyện trong đời này, cũng không biết là đã phải nếm trải bao nhiêu đau khổ trong bao nhiêu đời kiếp luân hồi mới đổi được cơ duyên tu luyện đắc Pháp ngày nay, cơ duyên tu luyện vạn cổ này thật đáng để chúng ta trân quý.
Giống như Sư phụ giảng trong Chuyển Pháp Luân:
Phật gia có giảng duyên phận; mọi người đều là [nhờ] duyên phận mà đến; đắc được [nó] rồi có thể là vì chư vị [đáng] nên được [nó]; do vậy chư vị phải biết quý tiếc.
… Sau này chư vị sẽ hiểu ra; chư vị sẽ thấy rằng khoảng thời gian này thật đáng mừng phi thường.
Sự kiện thứ năm: Cuối cùng quy y Phật Pháp, bảo hộ Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, chứng đắc Phật quả.
Xem ra việc tu luyện quả là một việc lớn kinh thiên động địa. Một cá nhân muốn bước trên con đường tu luyện, cần phải liên quan đến nhiều sự việc trên trời dưới đất như vậy, đều kinh động đến cả Thần Tiên, Phật Tổ, quả đúng như Sư phụ giảng:
Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới. (Chuyển Pháp Luân)
Trong xã hội ngày nay, có hàng nghìn, hàng vạn đệ tử Đại Pháp, nhiều người như vậy đều đang tu luyện, thiết nghĩ sẽ là sự kiện kinh thiên động địa lớn như thế nào, cho nên Sư phụ Đại Pháp giảng thời đại hiện nay là “thời kỳ chính Pháp” của vũ trụ, toàn thể vũ trụ đều đang chính Pháp, tất cả các sinh mệnh đều được quy vị lại.
Ở đây không thể không khiến cho người ta suy nghĩ lại về nguồn gốc sinh mệnh của Tôn Ngộ Không. Tây Du Ký là cuốn sách viết về quá trình bốn thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, nhưng mở đầu lại mô tả rất nhiều về Tôn Ngộ Không, trong quá trình đi thỉnh kinh Tôn Ngộ Không đóng vai chính hàng yêu diệt quái, dẫn dắt hai sư đệ bảo hộ Đường Tăng và cũng là Tôn Ngộ Không lên trời, xuống đất thỉnh cầu viện binh hàng yêu diệt quái. Vì sao như vậy?
Hóa ra trong Tây Du Ký còn có một tầng ý nghĩa khác về bốn thầy trò Đường Tăng: Đường Tăng đại biểu cho những người tu luyện Đại Pháp hôm nay, còn các đồ đệ mà đứng đầu là Tôn Ngộ Không là đại biểu cho những Thần hộ pháp của đệ tử Đại Pháp, ví dụ như phó nguyên thần v.v.
Chính tín kiên định đối với chân lý Phật Pháp của đệ tử Đại Pháp là điều mà bất cứ tà ác và sự bức hại nào cũng không thể thay đổi được. Mà những Thần hộ pháp trên con đường tu luyện của đệ tử Đại Pháp đã không tiếc sức lực dốc sức bảo hộ chúng ta, tận cho đến ngày chúng ta viên mãn, khi đệ tử Đại Pháp tu luyện viên mãn, họ cũng sẽ đắc chính quả, đây là tầng nghĩa thứ hai về thân phận của bốn thầy trò Đường Tăng (tầng nghĩa đầu tiên xin xem phần 4 loạt bài Giải mã Tây Du Ký).
Qua những miêu tả về Tôn Ngộ Không trong toàn bộ cuốn sách có thể thấy việc tu luyện của một Thần hộ pháp cũng vĩ đại như thế, đều kinh thiên động địa, huống chi là sự thành tựu tu luyện của đệ tử Đại Pháp? Sự thần thông quảng đại của Tôn Ngộ Không làm nền cho sự tu luyện của các đệ tử Đại Pháp hôm nay quả là điều vô cùng vĩ đại.
Từ đó có thể thấy hàm nghĩa phổ độ “chúng sinh” mà Sư phụ giảng, trong tu luyện của chúng ta, những Thần hộ pháp này đồng thời cũng đang tu luyện, tương lai họ cũng viên mãn giống như chúng ta. Nhưng nếu chúng ta không thể tu luyện đến cuối cùng, thì họ cũng chỉ có thể giống như Trư Bát Giới phân chia hành lý trở về tiếp tục làm yêu quái. Đệ tử Đại Pháp là chủ thể tu luyện, nhưng trách nhiệm của đệ tử Đại Pháp cũng to lớn vô cùng.

Xem tiếp phần 6.
Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/72983
Ngày đăng: 24-06-2020

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Giải mã “Tây Du Ký” (6): Chín chín tám mươi mốt nạn của Đường Tăng


Facebook
Tác giả: Thu Cứu Tàn Duyên

[ChanhKien.org] Tiếp theo phần 5
Chúng ta hãy nhìn lại một chút một số nạn đầu tiên trong 81 nạn của Đường Tăng:
Nạn thứ nhất: Phải đọa đầu thai
Nạn thứ hai: Mới lọt lòng, gần bị giết
Nạn thứ ba: Bị thả trôi sông
Nạn thứ tư: Tìm mẹ trả thù cha
Nạn thứ năm: Mới ra khỏi thành gặp cọp
Nạn thứ sáu: Sa hầm, chết kẻ theo
Nạn thứ bảy: Qua núi Song Xa
Nạn thứ tám: Tại núi Lưỡng Giới
Chúng ta ngạc nhiên phát hiện ra rằng, từ trước khi được Vua Đường phái đi Tây Thiên thỉnh kinh, cuộc đời của Đường Tăng sớm đã được định ra là một đời tu luyện!
Nạn đầu tiên lại là Kim Thiền Tử năm đó bị đọa hạ thế, cũng chính là rời xa thiên quốc, chính là bắt đầu tu luyện, thì đã xác định rằng sau này ông phải đi con đường quay trở lại thiên giới.
Nạn thứ hai là khi vừa mới ra đời thì đã suýt bị kẻ thù giết cha làm chết chìm.
Nạn thứ ba là mẫu thân bị kẻ thù ép buộc phải bỏ Đường Tăng vào giỏ gỗ thả trôi sông, cuối cùng trôi đến dưới chân núi Kim Sơn, được cứu vào chùa, từ nhỏ đã trở thành tăng.
Hóa ra tất cả mọi thứ đều đã được định trong mệnh rồi!
Đọc đến đây, nước mắt của tôi không ngừng tuôn rơi. Sư phụ vì để chúng ta tương lai có thể quay về nhà ở trên thiên thượng, khi từ trên thiên thượng hạ xuống đã bắt đầu từng chút từng chút coi sóc chúng ta.
Nhìn lại cuộc đời của bản thân tôi cũng đã từng xảy ra rất nhiều sự việc khó lý giải.
Khi tôi ra đời, mẹ tôi khi ấy đã bốn mươi mấy tuổi, anh trai của tôi vừa mới cưới vợ, tại thời điểm đó mẹ đã sinh ra tôi. Mẹ cảm thấy có chút xấu hổ, nên định mang tôi đến bồn nước tiểu trong thôn để dìm chết đi. Do chị hai của tôi cảm thấy tôi rất đáng thương nên đã ngăn cản mẹ tôi, chị đổ nước ấm vào nắp bình nước bón cho tôi uống, tôi mới sống lại. Sau này tôi nghe chị hai và người trong gia đình kể lại như vậy. Trước đây tôi vẫn tự cảm thấy uất ức, mình vừa sinh ra đã bị mẹ đẻ vứt bỏ, rất nhiều năm về sau tôi vẫn luôn có cảm giác mình là trẻ mồ côi. Bây giờ tôi mới hiểu ra, mọi thứ đều là số kiếp trong nạn.
Lúc còn nhỏ, tôi đã mơ một giấc mơ rất nhiều lần, tôi thường mơ thấy tôi từ một nơi rất cao rơi xuống, rơi mãi, rơi mãi, cứ rơi mà không đến đáy, cảm giác rơi xuống rất khó chịu, rồi giật mình tỉnh dậy. Sau khi tỉnh lại tôi cũng chưa từng kể chuyện này với người nhà, chỉ là có cảm giác hơi sợ hãi. Lúc nhỏ tôi đã rất nhiều lần mơ giấc mơ này, đây là giấc mộng ảnh hưởng đến cả cuộc đời tôi. Dạo gần đây tôi đã kể việc này cho cháu trai của mình, nó cũng nói lúc nhỏ cũng mơ giấc mơ giống tôi. Bây giờ tôi mới hiểu ra, đó là một chút ký ức còn sót lại khi xuyên qua tầng tầng thương khung vũ trụ từ thiên thượng đến đây. Khi tôi còn nhỏ, Sư phụ đã khai mở chút ký ức này cho tôi, để tôi không được quên mình đã từ nơi thiên thượng rất cao tới đây, nơi đó mới là quê nhà thực sự của bản thân mình.
Nghĩ đến những việc này, quyết tâm tu luyện của tôi dường như càng thêm kiên định. Khổng Tử nói “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh (Nghĩa là khi người ta 50 tuổi mới hiểu được mệnh của trời)”, mỗi đệ tử Đại Pháp hôm nay đều biết vận mệnh của mình, đó chính là chúng ta cũng giống như Đường Tăng trong Tây Du Ký, trời sinh ra đã là cuộc đời tu luyện. Tất cả những điều này chính là số mệnh của bản thân, cũng là sứ mệnh cuộc đời của bản thân, đồ đệ Đại Pháp phải đi hết con đường tu luyện chín chín tám mươi mốt nạn của mình, trợ sư chính Pháp, cứu độ chúng sinh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đến ngày đó mây mờ sẽ tan đi, tự nhiên viên mãn theo Sư phụ trở về.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/72953
Ngày đăng: 28-06-2020

(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Trong mê đọc “Tây Du Ký”: Lò Bát Quái dung luyện Ngộ Không, trong nạn Pháp đồ đắc kim thể


Facebook
Tác giả: Thạch Không

[ChanhKien.org]
Chúng ta đều biết trong lịch sử các triều đại Trung Quốc đều có người tu Đạo, Phật gia là tu Phật. Kỳ thực họ đều được gọi chung là người tu luyện. Danh từ “luyện” này có ý nghĩa rất sâu sắc, ý nói người tu luyện cần phải dung luyện trong lửa mới có thể viên mãn. Thái Thượng Lão Quân từng ném Ngộ Không vào luyện trong lò Bát Quái, mục đích chính là muốn dung luyện Ngộ Không, chứ không phải muốn giết Ngộ Không.
1. Lão Quân muốn dung luyện thân thể kim cương của Ngộ Không
Thái Thượng Lão Quân bẩm tấu:
“Con khỉ đó đã ăn đào tiên, uống rượu ngự rồi, lại còn trộm cả linh đan. Năm bình hồ lô đan đó của thần, gồm cả đan chưa luyện và đã luyện xong, đều bị nó nuốt cả vào bụng rồi, nó lại luyện thân thể bằng thứ lửa tam muội nữa, nên người tựa như một khối kim cương rắn chắc, không vật gì hại được. Chi bằng để thần mang nó về bỏ vào lò Bát Quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường dùng để luyện linh đan, thì người nó nhất định sẽ biến thành tro”.
Ngọc Hoàng nghe vậy lập tức sai thần tướng Lục Đinh, Lục Giáp áp tải Ngộ Không xuống giao cho Lão Quân.
2. Ngộ Không chịu nạn trong lò Bát Quái
Lão Quân về tới cung Đâu Xuất, cởi trói dây thừng cho Đại Thánh, rút móc xương tì bà, rồi ném Ngộ Không vào trong lò Bát Quái, sai Đạo nhân trông coi lò và tiểu đồng tử châm lửa quạt lò bắt đầu luyện. Nguyên lò này gồm tám cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài thuộc Bát Quái, thân thể Ngộ Không nằm ở cung Tốn. Tốn tức là gió, có gió mà không có lửa, chỉ có gió thổi khói tới, làm cho hai mắt của Ngộ Không bị lửa thiêu đỏ rực, cho nên gọi là “hỏa nhãn kim tinh”.
Thời gian thấm thoắt, chẳng mấy chốc đã được 49 ngày, lửa của Lão Quân đã tắt. Một hôm, Thái Thượng Lão Quân mở lò lấy linh đan. Đại Thánh đang lấy hai tay dụi mắt, lau nước mắt thì nghe thấy có âm thanh ở nắp lò, mở to mắt nhìn thấy có ánh sáng, không chịu được liền tung người nhảy ra khỏi lò luyện đan, hét lên một tiếng, đạp đổ lò Bát Quái rồi bỏ chạy. Những người trông giữ lò hoảng sợ cùng các thần tướng Đinh Giáp xông ra chặn nhưng đều lần lượt bị Ngộ Không đánh gục, hắn giống như con mãnh hổ điên loạn hay con rồng một sừng điên cuồng. Lão Quân đuổi theo định bắt, bị Ngộ Không đẩy ngã lộn nhào rồi bỏ chạy thoát thân.
3. Ma nạn vốn để luyện thân thể kim cương, hà tất phải oán trời trách người
Chúng ta ai đã từng xem Phong Thần Diễn Nghĩa đều biết năng lực của Thái Thượng Lão Quân (cũng chính là Lão Tử) còn lợi hại hơn cả Nguyên Thủy Thiên Tôn, sao có thể để cho Ngộ Không chạy thoát được? Vả lại, Thái Thượng Lão Quân còn có thiên nhãn thần thông, Ngộ Không thế nào sao Thái Thượng Lão Quân lại không biết? Rõ ràng Thái Thượng Lão Quân đang dung luyện Ngộ Không, chứ không phải muốn hại Ngộ Không.
Rất nhiều người nhìn thấy đệ tử Đại Pháp hiện đang chịu nạn, sợ bị liên lụy nên không dám đồng tình với họ, không dám giúp đỡ họ. Họ không hiểu rằng thực ra đệ tử Đại Pháp đang tu luyện, đang dung luyện trong ma nạn. Cuộc bức hại đã thành tựu các đệ tử Đại Pháp. Người thực sự đáng thương chính là những kẻ tham gia bức hại, kết cục của bọn họ chính là bị lịch sử đào thải. Đương nhiên, Đại Pháp từ bi, đệ tử Đại Pháp còn mang theo trách nhiệm cứu độ chúng sinh. Kỳ thực họ đang chịu khổ cực vì chúng sinh, vì thế nhân.
Chúng ta hãy nhìn lại trong lịch sử cuộc bức hại Chúa Jesus và các môn đồ của ông, và cuộc bức hại các đệ tử Phật gia, có lẽ qua đó chúng ta sẽ có sự lựa chọn chính xác.
Ghi chú: Nội dung trích từ Tây Du Ký – “Chương 7: Ðại Thánh trốn khỏi lò Bát Quái, Thích Ca nhốt yêu núi Ngũ Hành”.

Dịch từ: http://big5.zhengjian.org/node/254380
Ngày đăng: 04-11-2019
(sưu tầm)
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
Đại lão Hòa thượng
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6 Thg 2 2007
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
* Trước khi thỉnh được chân kinh, thầy trò Đường Tăng đã suýt ‘tan đàn xẻ nghé’ bao nhiêu lần?

Có thể sát cánh bên nhau đi đến đích cuối cùng, đó cũng là thử thách nối liền thử thách, đó cũng là tu luyện.
Đứng đầu trong Tứ đại danh tác, Tây du ký* kể về hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng với nội hàm bác đại tinh thâm, thế giới mỹ diệu của Thần Phật cũng như sự thiên biến vạn hoá của yêu ma đều là những ẩn dụ sâu xa thâm thuý. Năm thầy trò Đường Tăng, “ngũ vị nhất thể” là hình tượng hoá của thân, tâm, tình, tính, ý của người tu luyện, một lòng bái yết Như Lai. Thế nhưng trên bề mặt, Tây du ký cũng là câu chuyện về một tập thể những con người vì duyên phận mà gắn bó với nhau, những hỷ nộ ai lạc, mâu thuẫn phát sinh trên hành trình thỉnh kinh có thể cho chúng ta sự tham chiếu trong quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…
Thầy trò Đường Tăng cùng chung sứ mệnh mà gắn bó với nhau, nhưng mỗi người một tính cách, năng lực chẳng giống nhau, đối mặt với bất trắc và hiểm nguy đã nhiều phen suýt “tan đàn xẻ nghé”. Có thể sát cánh bên nhau đi đến đích cuối cùng, đó cũng là thử thách nối liền thử thách. Vậy trước khi thỉnh được chân kinh, thầy trò Đường Tăng đã suýt phân ly bao nhiêu lần?

Lần 1: Sức cùng lực kiệt
Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, nhưng Đường Tăng mắt thịt mê lầm, lại nghe Bát Giới xúc xiểm, cho rằng Ngộ Không giết ba mạng người nên một mực đuổi đi. Chỉ còn Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã hộ giá, đến nước Bảo Tượng, Đường Tăng bị yêu quái Hoàng Bào hãm hại, nhốt trong hình hài con hổ. Tây du ký, hồi thứ 30
“Tà ma phạm chính đạo, Tiểu Long nhớ Ngộ Không” thuật lại câu chuyện giữa Tiểu Long và Bát Giới như sau:
“Tiểu Long nói:
– Anh thì biết gì! Anh và Sa Tăng khoe tài khoe giỏi trước mặt nhà vua, chắc mẩm bắt được yêu quái, lập công lĩnh thưởng. Ai ngờ yêu quái tài nghệ hơn, các anh kém cỏi đánh nó không lại. Lẽ ra các anh phải cử một người về báo tin mới phải. Đằng này lại chẳng hề có tin tức gì. Còn yêu quái thì biến thành một văn nhân tuấn tú mò vào trong triều nhận bố vợ là nhà vua, và biến sư phụ thành một con hổ vằn, bị các quan bắt nhốt trong cũi sắt đặt trong hoàng cung. Em biết tin buồn não ấy, lòng như dao cắt. Còn hai anh thì cả ngày chẳng biết ở đâu, chỉ e rằng có khi mất mạng rồi. Thế là em đành hóa thành con rồng bay đi cứu. Không ngờ khi vào triều, chẳng thấy sư phụ đâu cả. Khi đến ngoài điện Ngân An, biết có yêu quái ở đấy, em lại biến thành một nàng cung nga để lừa hắn. Yêu quái bắt em múa kiếm cho hắn xem, em liền rắp tâm chém hắn một phát, hắn né tránh kịp, vác ngay cây nến mãn đường hồng đánh em thua. Em lại phóng một ngọn phi đao, hắn lại bắt được đao, rồi cầm cây nến mãn đường hồng ném vào đùi em. Em phải lủi xuống sông Ngự Thủy trốn thoát. Vết thương tím bầm ở đùi là do cây nến mãn đường hồng ném trúng đấy.
Bát Giới nghe xong, nói:
– Thật có chuyện ấy sao?

Tiểu Long nói:
– Em nói dối anh làm gì?
Bát Giới nói:
– Biết làm sao bây giờ? Chú còn dò đi được không?
Tiểu Long nói:

– Em đi được thì làm sao?
Bát Giới nói:
– Chú còn đi được thì xéo về biển cho rảnh, còn tôi gánh hành lý trở về Cao Lão trang làm rể như trước.
Tiểu Long nghe nói, bèn cắn chặt lấy vai áo Bát Giới, không buông tha, nước mắt giàn giụa nói:
– Sư huynh ơi, muôn ngàn lần mong anh đừng chán nản!

Bát Giới nói:
– Không chán nản thì biết làm gì bây giờ? Chú Sa Tăng cũng bị nó bắt rồi, tôi thì đánh không nổi nó, không nhân dịp này mà bỏ đi, còn chờ gì nữa!”.
Lúc bấy giờ, sư phụ gặp nạn mà không đồ đệ nào đủ sức đương đầu với yêu ma, người thì bị bắt, kẻ thì bị thương, quả là đã sức cùng lực kiệt. Bát Giới nản lòng âu cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, Bạch Long Mã đã lặng lẽ hồi lâu, ứa nước mắt khuyên Bát Giới đi mời Tôn Ngộ Không quay lại cứu thầy. Đối với Bát Giới, đây chính là quan sinh tử. Bởi vì trước đây Bát Giới xúc xiểm sư phụ rằng Ngộ Không giết oan người tốt, niệm chú khẩn cô nhi, Bát Giới lo lắng Ngộ Không vẫn oán mình, đến Hoa Quả Sơn ngộ nhỡ nói năng có gì sơ suất, bị một gậy Như Ý thì tiêu đời nhà ma. Còn với Ngộ Không, đó cũng là khảo nghiệm giữa một bên là nỗi oán hận, lòng tự tôn tự trọng bị tổn thương, với một bên là chính nghĩa, lòng vị tha vô tư vô ngã. Cuối cùng, Bát Giới đã quyết định đi mời đại sư huynh, còn Ngộ Không cũng quyết định trở về bên sư phụ, ấy chính là hai người đã buông bỏ cái tôi vì đại cục, vượt qua một quan sinh tử vậy.

Lần 2: Can gián không nghe
Lần thứ 2 thầy trò Đường Tăng suýt ‘tan đàn xẻ nghé’ là khi đi qua núi Hiệu, chạm trán Hồng Hài Nhi. Yêu quái biến thành đứa trẻ bảy tuổi, mình trần trùng trục, chân tay bị trói chặt, treo lủng lẳng trên ngọn tùng cao, miệng khóc than rên rỉ cầu cứu mạng. Hành Giả tinh tường biết rõ yêu tinh giở trò lừa dối, mà Đường Tăng cứ một mực cho là con nhà lành, còn bảo Ngộ Không cõng ‘cháu bé’ về nhà. Tôn Đại Thánh phải cõng yêu ma, trong lòng oán trách Đường Tăng, đập chết yêu quái thành đống thịt nát nhũn. Chẳng ngờ Hồng Hài Nhi biết trước, dùng phép giải thây, xuất thần ra nên thoát chết. Yêu quái tức giận, biến thành một cơn lốc cát bay đá lở vô cùng dữ dội, lướt theo đầu gió cuốn đường Tăng đi, mất tăm mất dạng, chẳng biết phương nào.
Tây du ký, hồi thứ 40
“Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối, Vượn cắp đao về, mộc mẫu trơ” có viết:
“Một lát sau gió lặng dần, mặt trời lại chiếu sáng rực rỡ. Hành Giả bước lên xem xét, chỉ thấy mỗi mình con ngựa bạch đang run sợ hí vang, gánh hành lý vứt lăn lóc vệ đường. Bát Giới gục mặt bên sườn núi rên rỉ, Sa Tăng ngồi bệt cạnh đầu dốc kêu gào. Hành Giả quát:
– Bát Giới!
Chú ngốc nhận ra tiếng Hành Giả, bèn ngẩng đầu nhìn. Lúc ấy, trận cuồng phong đã tắt. Bát Giới bò dậy, níu lấy Hành Giả nói:
– Anh ơi, gió to quá!
Sa Tăng cũng bước lại gần, nói:
– Anh ạ, gió lốc đấy. Lại hỏi tiếp:
– Sư phụ đâu nhỉ?
Bát Giới nói:
– Gió thổi rát quá, bọn em phải cúi đầu che mắt, chỉ lo tránh gió. Lúc ấy thấy sư phụ cũng nép mình trên ngựa mà.
Hành Giả nói:
– Không biết bây giờ sư phụ đi đằng nào rồi?
Sa Tăng nói:
– Sư phụ nhẹ như bấc, hay là bị gió cuốn đi mất chăng?
Hành Giả nói:
– Các chú ạ, chúng ta nên chia tay ở đây thôi.
Bát Giới nói:
– Đúng đấy. Nên chia tay sớm, mỗi người tìm một ngả lại hóa hay. Đường sang phương Tây xa lắc xa lơ, biết đến bao giờ mới tới!
Sa Tăng nghe nói giật thót mình, tê tái cả người nói:
– Sư huynh ơi, anh nói chi mà lạ thế? Chúng ta kiếp trước mắc lỗi, nay nhờ Quan Thế Âm Bồ Tát khuyến hóa, chúng ta được xoa dầu thụ giới, thay đổi pháp danh, quy y Phật quả, tình nguyện bảo vệ Đường Tăng sang phương Tây bái Phật cầu kinh, lập công chuộc tội. Hôm nay tới đây, phút chốc chán nản, thốt ra lời mỗi người một ngả, chẳng phải là trái với thiện quả của Bồ Tát sao? Hơn nữa, còn bại hoại cả đức hạnh mình, khiến người chê cười, cho chúng ta là hạng hữu thủy vô chung nữa.
Hành Giả nói:
– Chú nói cũng đúng đấy. Khốn nỗi sư phụ chẳng chịu nghe lời. Lão Tôn mắt lửa ngươi vàng biết rõ hay dở. Trận gió vừa rồi chính là thằng nhóc bị treo trên cành cây gây ra. Tôi nhận ra hắn là yêu tinh, các chú không nhận ra, sư phụ cũng mù tịt, bảo hắn là con nhà tử tế, bắt tôi phải cõng hắn. Lão Tôn định trừ khử hắn. Hắn biết, bèn dùng phép nặng người đè tôi. Tôi liền đập hắn nát bét như cám. Ai ngờ hắn dùng phép giải thây, hóa ra cơn gió lốc cuốn sư phụ đi mất. Chỉ tại sư phụ chẳng bao giờ chịu nghe lời tôi cho nên tôi đâm ra chán nản nhụt chí, nói anh em chia tay mỗi người một ngả. Bây giờ nghe hiền đệ nói ra những lời thành tâm như thế, khiến tôi tiến thoái lưỡng nan, còn Bát Giới, ý chú thế nào?
Bát Giới nói:
– Em lỡ lời, nói lăng nhăng mấy câu. Thực lòng, em cũng không muốn chia tay, anh chấp làm gì. Lời chú Sa nói đúng đấy, phải đi tìm yêu quái, cứu lấy sư phụ chứ!
Hành Giả đổi giận làm lành nói:
– Các chú ạ, lúc này phải gắng sức đồng lòng, thu xếp hành lý và ngựa, lên núi tìm yêu quái, cứu bằng được sư phụ”.

Có thể nói, để một Đường Tăng u mê và yếu đuối làm người dẫn đầu đoàn thỉnh kinh chính là một an bài tuyệt diệu của Bồ Tát. Giả sử Tôn Ngộ Không được ở vị trí của Đường Tăng, thì hành trình thỉnh kinh này quá dễ dàng rồi: “Sư phụ” mắt Thần nhìn rõ mọi yêu quái, “sư phụ” quyết định vô cùng sáng suốt, các đồ đệ cứ thế làm theo thôi chẳng phải tranh cãi thuyết phục làm gì. Vậy thì chẳng có hiểu lầm và oán trách, cũng chẳng có khổ nạn và khó khăn. Nhưng nếu vậy, kết thúc hành trình thỉnh kinh, tâm tính của mỗi người cũng chẳng được đề cao lên, tín tâm của mỗi người cũng không được đem ra khảo nghiệm, thế thì uy đức đến được từ đâu? Chính là vì có một vị sư phụ người trần mắt thịt, rất nhân từ mà cũng rất cố chấp kia, nên các đồ đệ mới bao phen dằn lòng khuất nhục, can gián không thành, vất vả chiến đấu với yêu ma, vào sinh ra tử để cứu thầy. Nhờ đó, ta mới có một Mỹ hầu vương nóng nảy kiêu ngạo trở thành một Tôn Hành Giả bình hoà và lễ độ, hay một Trư Bát Giới háu ăn trở nên lãnh đạm với đồ ngon… Bản thân Đường Tăng cũng thu được những bài học khắc cốt ghi tâm, buông bỏ những chấp trước thâm căn cố đế. Đường Tăng dẫu sao cũng chỉ là một người tu luyện, sinh mệnh là bình đẳng với Ngộ Không, Bát Giới và Sa Tăng, còn người thực sự dẫn dắt đoàn thỉnh kinh chính là Phật Tổ và Bồ Tát.
Lần 3: Tin đồn thất thiệt
Lần thứ 3 thầy trò Đường Tăng suýt đứt gánh giữa đường là ở thành Sư Đà, gặp phải ba yêu tinh thần thông quảng đại, gian trá mưu mô. Tôn Đại Thánh mấy phen hàng phục được ma vương thứ nhất và thứ hai, nhưng ma vương thứ ba đặc biệt cứng đầu và không phục. Hắn vốn là con đại bàng một lần vỗ cánh bay xa được chín vạn dặm, bày quỷ kế trá hàng, bắt được Đường Tăng, Bát Giới và Sa Tăng, chỉ có Ngộ Không trốn thoát. Lão ma vương còn nghĩ ra cách làm nhụt chí Tôn Hành Giả, cho lan truyền tin tức khắp trong thành rằng Đường Tăng đã bị ăn thịt rồi.
Tây du ký, hồi thứ 77
“Yêu ma lừa bản tính, Nhất thể bái chân như” có viết:
“Lại nói chuyện từ lúc nửa đêm, Hành Giả bỏ cả Đường Tăng, nhảy lên mây chạy thoát, về thẳng động Sư Đà, lia mấy gậy chết hàng vạn tiểu yêu ở đó. Khi quay về, phương đông trời đã sáng. Hành Giả bước tới bên thành, chẳng dám thách đánh. Thực là “một sợi khó bện thành thừng, một bàn tay vỗ khó lừng tiếng vang”. Hành Giả bèn hạ mây, lắc mình một cái, biến thành một tiểu yêu, đi thẳng vào cổng thành, qua các phố to ngõ nhỏ, dò la tin tức. Khắp thành ai cũng nói:
– Đường Tăng bị mấy đại vương ăn thịt ngay đêm qua rồi. Đằng trước đằng sau ai cũng nói như vậy cả. Hành Giả lo lắng, đi vội tới điện Kim Loan xem xét. Ở đây yêu tinh rất nhiều. Bọn chúng đều đội mũ da nạm vàng, mặc áo dài bằng vải vàng, tay cầm gậy sơn son, lưng đeo bài ngà, đi đi lại lại rất nhộn nhịp. Hành Giả nghĩ thầm:
– Đây hẳn là bọn yêu tinh canh giữ trong cung. Phải biến giống hệt bọn chúng mới lọt vào dò la được.
Đại Thánh bèn biến giống hệt yêu tinh không khác một ly, trà trộn vào trong cung. Đang đi, chợt nhìn thấy Bát Giới bị trói ở cột hiên trước điện rên hừ hừ. Hành Giả bước tới gần gọi:
– Ngộ Năng!
Chú ngốc nhận ra tiếng Hành Giả, vội nói:
– Sư huynh tới đấy à? Cứu em với!
Hành Giả nói:
– Được, tôi sẽ cứu. Nhưng chú có biết sư phụ bị nhốt ở đâu không?
Bát Giới nói:
– Sư phụ mất rồi. Bị yêu tinh ăn thịt ngay từ đêm qua.
Hành Giả nghe vậy, bỗng khóc nức nở.
Bát Giới nói:
– Anh đừng khóc. Em cũng mới nghe bọn tiểu yêu kháo nhau như thế, chứ mắt cũng chưa được thấy. Anh đừng khóc, cứ đi lùng hỏi xem sao đã.
Hành Giả bèn gạt nước mắt, vào thẳng bên trong tìm kiếm, chợt thấy Sa Tăng bị trói ở cột hiên đằng sau, bèn đến gần xoa tay lên ngực Sa Tăng gọi:
– Ngộ Tĩnh!
Sa Tăng nhận ra tiếng Hành Giả, bèn nói:
– Sư huynh biến hóa lọt vào được đấy ư? Cứu em với! Cứu em với!
Hành Giả nói:
– Cứu chú dễ thôi, nhưng chú có biết sư phụ ở đâu không?
Sa Tăng rớt nước mắt nói:
– Anh ơi, sư phụ sau lần bị bọn yêu tinh hấp chín chẳng được, lần này bọn chúng ăn sống luôn rồi!
Đại Thánh thấy hai người nói giống nhau, thì lòng như dao cứa, vội vàng nhảy vút lên không, tạm chưa cứu Bát Giới vội, mà đến thẳng ngọn núi phía đông tòa thành, hạ mây bước xuống, khóc rống lên:
Sư phụ ơi!
Con xưa quấy đảo bị giam,
May nhờ sư phụ thoát nàn tai ương.
Thỉnh kinh quyết chí lên đường,
Tu thân gắng sức diệt phường quái ma.
Nào hay giờ mắc nạn to,
Sư phụ bị bọn quái ma ăn rồi.
Tây phương mù mịt phương trời.
Đau thương khốn khổ ai thời thấu cho!

Hành Giả rầu rĩ thê thảm, suy nghĩ trước sau, lòng tự hỏi lòng:
– Việc này là đức Phật Như Lai ở cõi cực lạc, do nhàn rỗi chẳng có việc gì mà làm, mới viết ra bộ kinh Tam Tạng đây mà! Nếu đức Phật có lòng khuyến thiện, thì lẽ ra phải đưa sang phương Đông, lại không lưu truyền muôn thuở sao? Đằng này không chịu đưa sang, lại bắt bọn ta phải đến lấy, có biết đâu phải vất vả gian nan trèo đèo lội suối để rồi tới đây bỏ mạng! Thôi! Thôi! Lão Tôn phải dùng phép cân đẩu vân tới gặp Như Lai nói rõ đầu đuôi. Ngài mà chịu đưa kinh cho ta mang về phương Đông thì một là thiện quả được ghi công, hai là bọn mình cũng thỏa lòng. Nếu ngài không đưa cho mình, thì mình bảo ngài niệm “túng cô nhi chú”, cởi chiếc vòng ra, mình trả lại cho ngài rồi trở về bản động xưng vương xưng bá, ăn chơi thỏa thích”.
Phen này, chỉ vì tin đồn thất thiệt mà Ngộ Không, Bát Giới cùng Sa Tăng đã suýt buông bỏ sứ mệnh thỉnh kinh. Tin đồn vốn chẳng là gì, nhưng một người nói, hai người nói, nhiều người nói… thì dần dần sẽ khiến người ta nghi hoặc, lo lắng tin theo, cuối cùng chán nản buông xuôi mà suýt đánh mất điều trân quý nhất. Điều đáng quý là trong đại nạn này, Tôn Ngộ Không đã chẳng vội vàng bay về Hoa Quả Sơn, mà quyết định đến gặp Phật Tổ để làm rõ đầu đuôi, vẫn còn nghĩ đến việc lấy kinh mang về phương Đông hồng dương chính Pháp. Trong can nhiễu của những lời đồn thất thiệt, trong vô minh và bất minh, nếu một người có thể tự cho mình một khoảng hoà hoãn để suy xét thêm, thì rất có thể sẽ tránh được quyết định nóng vội sai lầm đáng tiếc. Như Lai trong câu chuyện này còn là ẩn dụ cho cái bản tâm, chân tâm, tâm giác ngộ của con người. Chính là để nói, trong khó khăn kiếp nạn, nếu có thể tĩnh lại, buông bỏ chấp trước và các loại tình cảm dục vọng, tìm về cái tâm giác ngộ trong sáng nhất, thế thì tự bản thân có thể phá trừ mọi mê hoặc của lừa dối, tự biết phải làm thế nào.
Kinh qua trùng trùng khổ nạn, vượt qua bao mâu thuẫn và cọ xát tâm tính, cuối cùng năm thầy trò Đường Tăng cũng trở nên hòa hợp, tới được Linh Sơn, tu thành chính quả. Là một đoàn thể bất kỳ mà nói, mỗi một người có căn cơ, ngộ tính khác nhau, năng lực khác nhau, cảnh giới tinh thần khác nhau, có thể hoá giải mâu thuẫn để hoà hợp với nhau chính là tu luyện vậy. Có thể quên đi cái riêng vì cái chung, có thể bỏ qua cái nhỏ mà nghĩ cái lớn, có thể kiên trì làm việc có thuỷ có chung, có thể đặt công phu vào tu tâm của chính mình, thì sẽ công thành viên mãn. Quả đúng là:
Tám mươi mốt nạn tai ương trọn,
Dựng cơ huyền, chí hướng sắt son.
Ma lui là bởi lòng bền,
Muốn thành chính pháp phải nên tu trì.
Chớ bảo lấy kinh kia là dễ,
Công thánh tăng chịu khổ xiết bao.
Xưa nay hòa hợp tuyệt sao!
Một ly sai biệt kết nào nổi đan!


*Bài viết có tham khảo bản dịch Tây Du Ký của Như Sơn, Mai Xuân Hải, Phương Oanh, Nhà xuất bản Văn học
.
(sưu tầm)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên